07/10/2018
Chúa Nhật tuần 27 Thường Niên năm B
Kính trọng thể ĐỨC MẸ MÂN CÔI
(phần I)
Chúa
Nhật Tuần XXVII Mùa Thường Niên Năm B
BÀI ĐỌC
I: St 2, 18-24
“Cả hai nên một thân thể”.
Trích
sách Sáng Thế.
Chúa
là Thiên Chúa phán: “Đàn ông ở một mình không tốt. Ta hãy tạo dựng cho nó một nội
trợ giống như nó”. Sau khi lấy bùn đất dựng nên mọi thú vật dưới đất và toàn thể
chim chóc trên trời, Thiên Chúa dẫn đến trước mặt Ađam để coi ông gọi chúng thế
nào, và sinh vật nào Ađam gọi, thì chính đó là tên nó. Ađam liền đặt tên cho mọi
súc vật, chim trời và muông thú. Nhưng Ađam không gặp một người nội trợ giống
như mình.
Thiên
Chúa khiến cho Ađam ngủ say, và khi ông đang ngủ, Người lấy một xương sườn của
ông, và đắp thịt lại. Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ Ađam trở
thành người đàn bà, rồi dẫn đến Ađam. Ađam liền nói: “Bây giờ đây xương bởi
xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người
nam mà ra”. Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả
hai nên một thân thể. Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 127, 1-2. 3. 4-5. 6
Đáp:
Nguyện Chúa chúc phúc cho chúng con hết mọi ngày trong đời sống chúng con! (x.
c. 5).
Xướng:
1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của
Người! Công quả tay bạn làm ra bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp
may. – Đáp.
2) Hiền
thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn
như chồi non của khóm ô-liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. – Đáp.
3) Đó
là phúc lộc dành để cho người biết kính sợ Chúa. Nguyện Chúa từ Sion chúc phúc
cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời
sống của bạn. – Đáp.
4) Và
để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con. Nguyện xin bình an đến trên đất Israel. –
Đáp.
BÀI ĐỌC
II: Dt 2, 9-11
“Đấng thánh
hoá và những người được thánh hoá, tất cả đều do một nguồn gốc”.
Trích
thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh
em thân mến, Đấng trong một thời gian bị hạ xuống kém các Thiên Thần, là Đức
Giêsu, chúng ta thấy Người được triều thiên vinh quang và danh dự vì cuộc tử nạn
của Người, để nhờ ơn Thiên Chúa, Người chịu chết thay cho mọi người. Quả vậy,
thật là thích hợp việc Chúa là nguyên nhân và cùng đích mọi vật, đã dẫn đưa nhiều
con cái đến vinh quang và đã lấy cuộc khổ nạn mà làm cho Đấng đem lại ơn cứu rỗi
được hoàn hảo. Vì chưng, Đấng thánh hoá và những người được thánh hoá, tất cả đều
do một nguồn gốc. Vì thế, Người không hổ thẹn gọi họ là anh em. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA:
Ga 17, 17b và a
Alleluia,
alleluia! – Chúa phán: “Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật”.
– Alleluia.
PHÚC
ÂM: Mc 10, 2-12 hoặc 2-16
“Sự gì Thiên
Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ”.
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy,
những người biệt phái đến gần và hỏi thử Chúa Giêsu rằng: “Người ta có được
phép ly dị vợ mình chăng?” Người đáp: “Môsê đã truyền cho các ông thế nào?” Họ
thưa: “Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị”. Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại:
“Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc
khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi
đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết
nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa
đã kết hợp, loài người không được phân rẽ”.
Về đến
nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: “Ai bỏ vợ mình
và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ
chồng và lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình”.
Bấy
giờ người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng,
nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng:
“Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của
những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước
Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó”. Rồi Người ôm chúng, đặt tay
ban phép lành cho chúng. Đó là lời Chúa.
Suy
Niệm: Hãy Sống Khắng Khít
Trong
các Chúa nhật thường niên, phụng vụ thường đọc cho chúng ta nghe một cách liên
tiếp các đoạn chính yếu trong một sách Tin Mừng. Năm nay, chúng ta đọc sách Tin
Mừng theo thánh Marcô, và lần trước chúng ta đã đọc xong chương 9 thì hôm nay
chúng ta bắt đầu nghe sang chương 10, mà chúng ta sẽ đọc tiếp trong các Chúa nhật
sau.
Rồi để
làm sáng tỏ bài Tin Mừng, phụng vụ chọn một đoạn Cựu Ước có khả năng hướng lòng
chúng ta về mạc khải của Ðức Yêsu để chúng ta thấy chính Người đã đến không phải
để xóa bỏ nhưng để kiện toàn và hoàn tất luật cũ hay đạo cũ và mọi lời tiên tri
trong Cựu Ước. Chẳng hạn hôm nay bài sách Khởi nguyên đã được chọn vì bài Tin Mừng.
Ðức Yêsu đã gợi lại một câu trong sách Khởi nguyên, thì phụng vụ đọc cho chúng
ta nghe chính đoạn sách ấy để giúp chúng ta dễ hiểu lời Tin Mừng hơn. Ðồng thời
chúng ta cũng sẽ thấy chính Ðức Yêsu sẽ làm cho bài sách Khởi nguyên thêm giá
trị.
Cuối
cùng bài Thánh Thư được chọn để dạy chúng ta biết sống đạo một cách cụ thể,
theo như các tông đồ đã chỉ bảo cho giáo dân của các ngài. Không tất nhiên tư
tưởng bài Thánh Thư phải ăn khớp với bài Tin Mừng. Phụng vụ thường chỉ muốn đọc
cho chúng ta nghe hết thư này sang thư khác. Chẳng hạn lần trước chúng ta đã đọc
hết thư Yacôbê, thì kể từ Chúa nhật này và liên tiếp trong nhiều Chúa nhật thường
niên sau này chúng ta được nghe đọc thư Hipri, nói rằng của thánh Phaolô nhưng
có lẽ chỉ là của một tác giả hoặc môn đệ thân cận của ngài và thấm nhiễm tinh
thần của ngài. Ðoạn thư trích hôm nay không liên ý trực tiếp với giáo huấn của
bài Tin Mừng và bài sách Khởi nguyên. Nhưng tuy nói về những vấn đề khác nhau,
cả ba bài Kinh Thánh vẫn bổ túc làm cho huấn giáo của Chúa nhật này thêm phong
phú.
Chúng
ta sẽ thấy bài Tin Mừng và bài sách Khởi nguyên nói đến nỗi an ủi mật thiết
trong tương quan giữa người nam và người nữ. Nhưng sánh sao được với niềm an ủi
và thắm thiết giữa Ðức Kitô và môn đệ Người, mà bài thư Hipri hôm nay gợi lên?
Chúng ta hãy lần lượt đọc lại những bài Thánh Kinh ấy.
1.
Nam Nữ Là Một
Bài
sách Khởi nguyên hôm nay là một trong những bản văn rất quý hóa trong kho tàng
tư tưởng của loài người. Người ta chỉ có thể chê khi đọc hời hợt và tưởng rằng
bản văn đó mới được viết ngày hôm qua, ở giữa thời đại khoa học này. Ngược lại,
nếu nhớ rằng nó đã khai sinh cách đây vào khoảng ba nghìn năm và do một ngọn
bút ở một dân tộc ít văn hóa, người ta sẽ phải kinh ngạc và tự hỏi làm sao tác
giả có thể viết ra những tư tưởng thâm thúy như vậy. Có cả một kho tàng khôn
ngoan, tâm lý và sáng suốt trong những lời văn này.
Con
người được mô tả như là một hữu thể cần hiệp thông và thông cảm. Nó không thể sống
cô đơn cho dù đang ở giữa một cảnh bồng lai tiên cảnh như nơi địa đàng. Nó cũng
không thể thỏa mãn với sự bầu bạn của mọi thứ động vật. Tác giả thật khéo ám chỉ
loài người và loài vật cũng chỉ là một giống động vật khi ông nói Adong nhìn
các giống vật và thấy chúng đều là "sinh vật", nghĩa là cũng giống
như ông là loài có sinh khí. Tuy nhiên lập tức ông cũng nhận ngay ra địa vị
"linh ư vạn vật của mình" khi tác giả viết: Adong đặt tên cho từng
loài, để tỏ ra địa vị ưu việt của ông... "Nhưng con người vẫn không gặp được
sự trợ giúp nào tương đối". Adong chưa tìm được vật nào giống như mình để
cảm thông và làm đầy đời sống cho mình. Nói cách khác, ông cảm thấy chưa đầy đủ
dù có cả vũ trụ và vạn vật ở dưới quyền. Ông muốn và cần có một ai như mình
nhưng lại khác mình và bổ khuyết cho mình.
Thượng đế đã can thiệp. Thiên Chúa không
để con người cô đơn. Tác giả sách Thánh dùng hình ảnh bình dân để diễn tả sự
can thiệp này. Yavê đưa Adong vào một giấc hôn mê, Người rút một xương sườn của
ông, lắp thịt vào, làm ra người nữ và đem giới thiệu với ông. Vừa nhìn thấy,
Adong đã kêu lên: phen này, nàng là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi, nàng
là Ishsha: (đàn bà) vì đã được rút ra từ Ish: (đàn ông).
Rõ ràng tác giả đã xây dựng hình ảnh từ
"nguyên tự" và từ quan niệm bình dân lấy sự giống nhau về xương thịt
để nói lên sự giống nhau về bản chất. Tức là tác giả muốn khẳng định đàn bà
cũng là "người" như đàn ông và giữa nam nữ có một sự mật thiết bù đắp
cho nhau. Tư tưởng của ông tiến bộ hơn người đồng thời rất xa, vì sau ông nhiều
thế kỷ, ở nhiều nơi người ta vẫn chưa nhìn nhận sự bình đẳng và đồng loại giữa
nam và nữ. Và với câu sau, "người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắng khít với vợ
mình và chúng sẽ nên một thân xác", ông làm cho độc giả thấy tình gia đình
phu phụ keo sơn đến mức nào.
Dù sao cách nói của ông vẫn có nhiều
hình ảnh và có thể làm người ít học lấy hình ảnh làm thực tại. Họ đâu có biết
sách Khởi nguyên ở đoạn trước đã viết về nam nữ như sau: "Thiên Chúa đã dựng
nên loài người theo hình ảnh mình. Là nam là nữ, Người đã dựng nên chúng".
Vậy, điều mà ở đây tác giả nói một cách đơn sơ, tổng hợp nhưng vẫn đề cao sự
bình đẳng và đồng loại giữa nam và nữ, thì ở chương sau ông đã dùng hình ảnh để
nói lên một cách dễ hiểu hơn. Chúng ta quý cả hai lối trình bày và sung sướng
được nghe nói đến những nét thâm thúy nơi con người.
Tuy nhiên ở đây phụng vụ không muốn lưu
ý chúng ta về việc nam nữ đồng loại và bình đẳng cho bằng việc họ thu hút nhau,
bù đắp cho nhau và khắng khít với nhau, để dẫn chúng ta sang bài Tin Mừng.
2. Không Ðược Ly Dị
Chúng ta không hiểu rõ hoàn cảnh vì sao
các Biệt phái lại chọn vấn đề rẫy vợ để thử Ðức Yêsu. Họ muốn thử gì? Ðể xem ý
kiến của Người về vấn đề ly dị ư? Không chắc ở thời đó vấn đề có sôi bỏng như ở
thời ta không, cho dù luật Rôma bấy giờ cũng cho ly dị và tâm tư đạo đức của
người Dothái có vẻ không rõ ràng. Ðúng hơn, họ muốn gài bẫy Người, để xem Người
có kính trọng luật Môsê không? Nhưng luật này nói thế nào? Họ chỉ có thể trích
được một câu trong sách Thứ luật (24,1) cấm lấy lại một người đàn bà đã bị rẫy
và nói đến việc viết ly thư, chớ không có chỗ luật nào nói rõ về việc được phép
ly dị... Chính các Biệt phái cũng phải nhận rằng Môsê chỉ cho phép viết ly thư
chứ không ra lệnh phải làm việc này. Dựa vào chỗ đó, Ðức Yêsu làm cho họ hiểu rằng:
vì lòng dạ lì lợm của họ mà Môsê đã phải cho phép như vậy. Ðó là một nhượng bộ
bất đắc dĩ, không thể kéo dài mãi mãi. Nước Thiên Chúa đã đến rồi; con người phải
dùng sức mạnh mà vào; người ta phải trở về với Thiên Chúa và lệnh truyền của
Người. Thế mà từ nguyên thủy nam nữ đã khắng khít với nhau và đàn ông đã bỏ cả
cha mẹ mình để nên một thân thịt với bạn mình. Ðức Yêsu giải thích việc đó là ý
của Thiên Chúa muốn phối hợp hai người lại với nhau, và không ai được phép phân
ly nữa. Về nhà, Người còn dạy rõ: không ai được rẫy vợ mình để cưới vợ khác. Ai
làm như vậy sẽ phạm tội ngoại tình.
Thánh Marcô không nói đến phản ứng của
Biệt phái khi nghe Ðức Yêsu trả lời, vì đứng về quan điểm luật họ còn biết nói
gì nữa? Nhưng đối với con người thời nay, có lẽ phán quyết của Người còn cần được
tìm hiểu thêm. Người ta có thể đưa ra ý kiến này, ý kiến khác về vấn đề ly dị.
Phụng vụ hôm nay chỉ xin chúng ta suy nghĩ về bài sách Khởi nguyên và đoạn Phúc
Âm hôm nay để thấy việc vợ chồng khắng khít với nhau là một cái gì nằm sâu
trong bản chất nam nữ mà Thiên Chúa đã dựng nên từ nguyên thủy. Ðó là ý muốn của
tạo hóa và của bản tính con người. Nếu điều này có lúc khó chấp nhận, thì chúng
ta hãy đọc tiếp đoạn Phúc Âm trên.
Thánh Marcô nói đến việc Ðức Yêsu yêu
quý trẻ nhỏ và dạy chúng ta phải đón lấy Nước Trời như một trẻ nhỏ. Câu nói này
có thể có hai nghĩa. Hoặc là người ta phải đơn sơ như trẻ nhỏ khi đón nhận Nước
Trời, không xét nét, không do dự vì trẻ nhỏ cho gì chúng cũng lấy. Hoặc là người
ta phải coi Nước Trời như hồng ân tốt đẹp, tinh sạch mà người ta phải đón lấy
như đón một trẻ nhỏ. Bất cứ hiểu theo nghĩa nào, người ta cũng có thể dùng Lời
Chúa nói đây để giúp mình chấp nhận luật không ly dị nói trên, vì rõ ràng đấy
là ý Chúa, là Nước Trời đến với chúng ta mà chúng ta phải đón lấy như trẻ nhỏ.
Chúng ta cũng có thể dùng bài Thánh Thư để khuyến khích mình thêm vì tác giả
thư Hipri, tuy nói đến một vấn đề khác, nhưng cũng sẽ chỉ muốn chúng ta bắt chước
Chúa mà có tinh thần hòa hợp.
3. Hãy Sống Khắng Khít
Tác giả nhắc lại việc Ðức Yêsu đã ngang
qua thống khổ tử nạn mà được vinh quang huy hoàng. Trong chốc lát và theo một
diện nào đó Người đã tỏ ra như thua các Thiên Thần vì hình dạng khổ nạn của Người.
Nhưng đó là ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Người muốn Ðức Kitô phải chịu khổ đau
như vậy để kiện toàn bản chất con người chúng ta. Người muốn hướng dẫn số đông
nhân loại lên phúc vinh quang nên đã dùng thống khổ hạ Ðức Kitô xuống thân phận
tôi đòi tội lỗi như mọi người để khi Người được triều thiên ban tặng thì cả
nhân loại được chia phần vinh quang của Người.
Như vậy, ở đây tác giả thư Hipri đã nhấn
mạnh đến sự khắng khít giữa Ðức Kitô và loài người trong mầu nhiệm tử nạn phục
sinh. Có thể nói vì muốn được loan báo Danh Chúa cho anh em và ngợi khen Thiên
Chúa giữa cộng thể loài người mà Ðức Kitô đã phải đồng hóa và nên một với loài
người trong đau khổ. Người không để lại cho chúng ta một tấm gương khắng khít
hòa hợp và hiệp nhất sao? Người đang kêu gọi chúng ta không những kết hiệp bất
khả phân ly với Người mà còn với nhau nữa. Người đang khuyến khích riêng các
gia đình đang gặp khó khăn đó.
Mầu nhiệm Thánh Thể của Người mà chúng
ta cử hành bây giờ thật sự nói lên điều này. Ðức Kitô chấp nhận sự chết là hình
phạt của mọi người để đưa mọi người lên phúc vinh quang. Người kêu gọi chúng ta
mật thiết kết hợp với Người. Và đồng thời Người sẽ thêm cho chúng ta sức mạnh kết
hợp với nhau như các chi thể trong một thân thể. Với ơn của Người, chúng ta sẽ
lướt thắng mọi khó khăn trong tương giao xã hội và đặc biệt trong quan hệ gia
đình, để khi mến Chúa nhiều, chúng ta cũng đoàn kết yêu thương nhau nhiều,
không phải chỉ bằng cảm tình và lời nói hoặc lời cầu nguyện, mà bằng việc làm,
hy sinh, cố gắng; như vậy đạo tốt sẽ làm đẹp đời. Và chúng ta sẽ thấy đời người
thật đáng sống khi có ơn Chúa.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời
Chúa
của Ðức cố Giám
Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỄ ĐỨC MẸ
MÂN CÔI
Bài đọc
I: Cv 1,12-14:
“Họ kiên trì cầu
nguyện cùng Bà Maria, Mẹ Chúa Giêsu”.
Sau khi Chúa Giêsu lên trời, các Tông đồ xuống khỏi núi gọi là Núi Cây Dầu mà trở về Giêrusalem, núi này ở gần Giêrusalem, bằng quãng đường được đi trong này sabát. Và khi đã trở vào thành, các ông lên lầu gác, nơi Phêrô và Gioan, Giacôbê và Anrê, Philípphê và Tôma, Batôlômêô và Mátthêu, Giacôbê con ông Anphê và Simon Giêlôtê, và Giuđa con ông Giacôbê, trú ngụ. Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria Mẹ Chúa Giêsu với các anh em Người.
Đáp ca: 1 Sm 2,1.4-5.6-7.8
Đáp: Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, Đấng Cứu độ tôi (c. 1a).
1) Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, và sức mạnh tôi được gia tăng trong Thiên Chúa tôi; miệng tôi mở rộng ra trước quân thù, vì tôi reo mừng việc Chúa cứu độ tôi.
2)
Chiếc cung những người chiến sĩ đã bị bẻ gãy, và người yếu đuối được mạnh khoẻ
thêm. Những kẻ no nê phải làm thuê độ nhật, và những người đói khát khỏi phải
làm thuê; người son sẻ thì sinh năm đẻ bảy, còn kẻ đông con nay phải héo tàn.
3)
Chúa làm cho chết và Chúa làm cho sống, Chúa đày xuống Âm phủ và Chúa dẫn ra.
Chúa làm cho nghèo và làm cho giàu có, Chúa hạ xuống thấp và Chúa nâng lên cao.
4) Từ
nơi cát bụi, Chúa nâng người yếu đuối; từ chỗ phân nhơ, Chúa nhắc kẻ khó nghèo,
để cho họ ngồi chung với các vương giả, và cho họ dự phần ngôi báu vinh quang.
Bài đọc II: Gl 4,4-7:
“Thiên Chúa đã
sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ”
Anh em thân mến,
Khi
đã tới lúc thời gian đầy đủ, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ,
sinh dưới chế độ Lề Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Lề Luật, hầu
cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử. Sở dĩ vì anh em được làm con, Thiên Chúa
đã sai Thần Trí của Con Ngài vào tâm hồn chúng ta, kêu lên rằng: “Abba”, nghĩa
là Lạy Cha. Thế nên, bạn không còn phải là tôi tớ, nhưng là con, mà nếu là con,
tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa
Alleluia: Lc 1,28
All. All. - Kính chào Trinh Nữ Maria đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ, Trinh Nữ được chúc phúc giữa các người phụ nữ. - All.
Bài Tin Mừng: Lc 1,26-38:
“Này Trinh nữ sẽ thụ thai
và sinh một Con trai”.
Khi ấy, Thiên thần Gapriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nazareth, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ”. Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Người sẽ vô tận”. Nhưng Maria thưa với Thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”. Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Đấng Bà sinh ra, sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Eliasabeth chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”. Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và Thiên thần cáo biệt Bà.
Suy
Niệm: Chuỗi Tràng Hạt Mân Côi
Cử
hành lễ Ðức Maria Trinh Nữ Mân Côi hôm nay, Giáo hội Mẹ chúng ta muốn nhắc nhở
con cái mình quý chuộng tràng hạt Mân Côi nhiều hơn và sốt sắng cầu nguyện với
chuỗi hạt quý hóa này không những trong tháng Mân côi, nhưng suốt cả đời sống.
Và cho được như vậy Giáo hội khuyên chúng ta hãy suy nghĩ về những bài học hôm
nay để thấy rõ vai trò của Ðức Trinh Nữ Maria trong lịch sử cứu độ hầu thích kết
hiệp với Người hơn trong đời sống đạo đức.
A.
Chúa Dùng Ðức Maria Trong Mầu Nhiệm Cứu Thế
Mọi
người đều biết bài sách Khởi nguyên, nhưng không ai nghĩ đã hiểu được hết các ý
mầu nhiệm. Nguyên tổ loài người bấy giờ vừa phạm tội vì bị Satan lấy hình con rắn
quỷ quyệt lừa gạt. Tác giả sách Thánh có nhiều dụng ý khi viết như vậy. Ðối với
ông, Satan là kẻ dối trá phỉnh phờ. Ông nhìn thấy nó nơi hình thù các con rắn
mà dân ngoại thời ông tôn thờ. Người ta thờ rắn vì tưởng nó tinh khôn hơn hết
thảy, và nghĩ nó có sự sống rất phong phú. Người làm chính trị thờ nó; thường
dân lại còn kính nó hơn nữa vì thời ấy người ta muốn được trường thọ và con đàn
cháu đống. Tác giả Thánh Kinh ghét thứ ngẫu tượng ấy, ông phải dạy Dân Chúa
tránh né hết sức quyến rũ của tà giáo đang thịnh hành nơi các lân quốc. Ông khẳng
định nguồn gốc mọi sự dữ ở đời là do Satan, do tà giáo mà tượng trưng là thần rắn.
Bản chất của nó là quỷ quyệt. Và ai mắc mưu nó sẽ thấy mình trơ trẽn (hay trần
truồng) bởi vì trong tiếng Dothái quỷ quyệt và trần truồng cũng cùng một vần và
một gốc. Cái này đẻ ra cái kia. Kẻ ăn phải cái quỷ quyệt của con rắn sẽ thấy
mình trần truồng, tức là bẽ bàng vì bị lừa gạt và thấy rõ sức yếu đuối của
mình.
Vậy
nguyên tổ loài người đã ăn phải đũa của Satan, và thấy trớ trêu, không dám chường
mặt ra nữa. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi công trình do tay Người làm
ra. Người đã đến gọi loài người sa ngã và quả quyết: Người sẽ đặt hiềm thù giữa
con rắn, tức là tà thần và người nữ; giữa dòng dõi bà với dòng dõi nó. Dòng dõi
bà sẽ nghiền nát đầu rắn; mà rắn thì chỉ cắn được đến gót chân dòng dõi người
đàn bà.
Thật
ra Lời Chúa phán trên chỉ báo trước sẽ ban Ðấng Cứu thế sinh ra bởi người trinh
nữ. Chính Người sẽ nghiền nát đầu Satan và giải cứu chúng ta... Nhưng truyền thống
đã dựa vào Lời hứa trên để chờ mong người Nữ diễm phúc nào sẽ sinh ra Ðấng Cứu
thế. Và vì vậy Ðấng là Mẹ Chúa Cứu thế đã được Dân Chúa mường tượng ngay từ buổi
đầu. Ðức Maria, Mẹ của Chúa Yêsu, đã hiện diện thật sự trong Lời hứa ban ơn cứu
thế. Tất cả Lịch sử cứu độ từ nay diễn ra trên nền trời mang hình ảnh Mẹ và
Con. Cho đến ngày mà sứ thần Gabriel được Chúa sai đến cùng người trinh nữ
thành Nazarét, như chúng ta đọc thấy trong bài Tin Mừng. Từ nay, khỏi nói, vai
trò của Ðức Maria trong mầu nhiệm cứu thế thật là quan trọng.
Chúng
ta không cần phải nói thêm về vấn đề này; nhưng để chúng ta đừng quên địa vị chủ
yếu của Ðức Mẹ trong lịch sử Giáo Hội hiện nay, Phụng vụ đã dùng bài đọc Công vụ
các Tông đồ để gợi lên hình ảnh Ðức Mẹ ở giữa Hội Thánh.
Bỏ
núi Cây Dầu mà trở về Yêrusalem, sau khi đã chứng kiến mầu nhiệm Chúa Yêsu lên
trời, các Tông đồ khởi sự cuộc đời vắng sự hiện diện hữu hình của Chúa Cứu thế.
Nhưng họ được an ủi tràn trề khi thấy Mẹ Chúa đang ở giữa mình. Và lập tức họ
đã sinh hoạt vây quanh Người, với công việc đầu tiên là cầu nguyện chờ đợi
Thánh Linh đến để cùng hoạt động với mình.
Bức họa
trên rất tiêu biểu. Nó phác họa lại buổi đầu của Hội Thánh. Lịch sử sau này
luôn luôn muốn trở về nguồn, đặc biệt sau Công Ðồng Vatican II vừa qua. Luôn
luôn Hội Thánh nhìn thấy sự sống và sức mạnh của mình khi được ở chung quanh Ðức
Mẹ để được thêm Thánh Thần đến sinh hoạt. Và đó là điều Hội Thánh khuyên nhủ
con cái mình một cách đặc biệt trong tháng này với chuỗi hạt Mân Côi.
B.
Nhưng, Tại Sao Dùng Chuỗi Hạt Này?
Chúng
ta có thể để ý và thấy rằng anh em lương dân cũng có một chuỗi hạt tương tự. Chắc
chắn có nhiều điểm khác nhau: nhưng yếu tố tương tự cũng không nên khinh thường.
Bất cứ
tôn giáo nào cũng cần cầu nguyện, mà mục đích tiên khởi không phải là để xin ơn
nọ ơn kia, nhất là những ơn phần xác; nhưng là để mon men tới gần Thượng đế để
kết hiệp với Người và múc lấy sự sống tốt đẹp, thánh thiện, cao siêu, bình an
và mạnh mẽ ở nơi Người. Cầu nguyện đích thực là gặp gỡ trao đổi với nguồn mạch
sự sống chân thật, mà sự sống trần gian chỉ là một hình ảnh non yếu và mong
manh. Người cầu nguyện cần có phương thế và cách thức để làm công việc tinh tế
và khó khăn này. Nhờ điêu luyện, một số ít người và trong một số thời gian ngắn
ngủi nào đó, có thể như không còn cần đến bất cứ một phương tiện hữu hình nào
cũng có thể đi sâu vào thế giới mầu nhiệm của thần linh. Nhưng với đại đa số quần
chúng và trong hầu hết mọi lúc khác cần phải có phương tiện giúp đỡ việc cầu
nguyện của con người. Các kinh đọc và các cử chỉ quỳ gối, bái lạy... là những
phương tiện như thế. Và chuỗi hạt Mân Côi cũng vậy; nhưng với những tác động rất
đặc biệt.
Ðây
là những hạt đều đặn y hệt như nhau; ngón tay chúng ta có thể trườn lên một
cách dễ chịu và êm ái. Sau 10 hạt lại có một khúc rộng hơn để ý thức của chúng
ta nhận thêm đà cho giòng kết hiệp đi sâu thêm vào biển mầu nhiệm mênh mông.
Trong khi ấy, một kinh Lạy Cha được tiếp nối bằng 10 kinh Kính Mừng và một kinh
Sáng Danh, là những kinh cũng trơn tru êm ái như những hạt mân côi. Ðọc những
kinh ấy không đòi hỏi một cố gắng nào. Hơn nữa tiết điệu âm thanh còn làm phẳng
lặng tâm hồn và duy trì sự sống tâm linh dào dạt trong mầu nhiệm. Ðàng khác đó
lại là những kinh đẹp nhất trong Ðạo, phát xuất từ miệng Chúa hay từ Lời Chúa,
bao hàm những chân lý sâu xa và êm đềm. Nếu biết đọc những kinh ấy cách khoan
thai nhẹ nhàng, chắc chắn con người sẽ tìm thấy bình an để đi vào mầu nhiệm và
kết hiệp với Ðấng Linh thiêng.
Nói
như vậy đã là phủ nhận cách đọc cào cấu; đọc lấy được, lấy nhiều; đọc trong bối
cảnh thiếu thư thái và bình an. Tốt hơn nữa có thể không nên dùng động từ
"đọc" ở đây. Lần chuỗi Mân Côi là nghiền ngẫm, là suy niệm, là thả hồn
vào mầu nhiệm kết hiệp với Thiên Chúa, Ðấng yêu thương và cứu độ trần gian. Các
hạt, các kinh là những phương tiện tối thiểu cần cho con người tựa vào để lên với
Ðấng Tạo Hóa và ở lại với Người. Vì bao lầu còn sống trong xác thịt, con người
vẫn cần những phương thế hữu hình để kết hiệp với Ðấng Vô Hình.
Như vậy
có thể nói các mầu nhiệm nhắc lên ở đầu mỗi chuỗi kinh còn cần thiết hơn. Và
tràng hạt Mân côi rất quý hóa ở điểm này. 20 mầu nhiệm vui, sáng, thương, mừng
bao quát một cách tốt đẹp tất cả Lịch sử cứu độ. Suy niệm những điều ấy là gieo
mình vào giòng thác ân sủng đã phát xuất từ lòng Thiên Chúa tình yêu và đang trở
về nguồn suối phong phú ấy. Con người tìm thấy mình ở giữa giòng lịch sử. Họ ý
thức hơn về địa vị và vai trò của mình ở trong tất cả trời đất và thế giới loài
người. Họ biết mình đang sống bám vào đâu và đang đi về phương hướng nào. Lần
chuỗi Mân côi như vậy là đi vào lịch sử, lịch sử đang tiếp diễn, lịch sử có
mình ở trong và phải đóng vai trò của mình. Ðó là lúc người ta sống chân thực
mãnh liệt và là dịp để người ta dấn thân trọn vẹn và tốt đẹp hơn.
Hội
Thánh khuyến khích chuỗi Mân côi vì những lý do đó. Các Ðức Giáo Hoàng kêu gọi
tín hữu yêu chuộng chuỗi này vì các hiệu quả tốt lành đã được lịch sử làm chứng.
Một phương thức thật đơn sơ nhưng lại thật phong phú! Ðó là hiện tượng thông
thường ở trong tôn giáo, vì ở đây sự nhỏ bé, yếu đuối và tầm thường lại dễ để
cho quyền năng của Chúa thi hành những việc kỳ diệu. Và như vậy tất cả chúng ta
đều muốn quý chuộng tràng hạt và việc lần hạt Mân côi nhiều hơn:
C.
Lần Hạt Thế Nào?
Dĩ
nhiên như đã nói, không phải vấn đề đọc nhiều đọc to là đáng kể. Trái lại trước
hết phải có bầu khí cầu nguyện và chiêm niệm. Phải ở trong một môi sinh thư
thái, cần "nghỉ ngơi" bồi dưỡng như Lời Chúa nói. Vì thế không được
coi việc lần chuỗi như là một việc phải làm cho xong và nếu không làm thì áy
náy sợ tội.
Không!
Chúng ta cầm lấy chuỗi hạt là như muốn diễn lại cho mình câu truyện của bài
sách Công vụ hôm nay. Chúng ta cùng với Giáo Hội đến bên Ðức Mẹ để được thấy tỏa
sang mình những mầu nhiệm của Chúa Cứu thế, là những mầu nhiệm tình yêu của
Thiên Chúa muốn cứu độ và giúp chúng ta hoàn thành tốt đẹp cuộc sống ở trần
gian. Các Tông đồ ngày trước ngồi bên Ðức Mẹ để rồi lãnh nhận được Thánh Thần dồi
dào mạnh mẽ như thế nào, thì khi lần hạt Mân côi với Ðức Mẹ và bên Ðức Mẹ,
chúng ta cũng muốn được thêm thần lực và sự sống thần linh chảy sang như thế để
đổi mới, bồi dưỡng cuộc sống trần gian của mình.
Thế
nên trọng tâm của việc lần chuỗi không phải là đọc các kinh. Cũng không phải là
việc suy tư các mầu nhiệm vui, sáng, thương, mừng. Các mầu nhiệm gợi lên ở đầu
mỗi chục hạt không phải để chúng ta chúi mũi nhọn tư tưởng vào các biến cố của
Lịch sử cứu độ. Làm như vậy sẽ là suy tư. Mà suy tư thì khác với suy niệm. Các
mầu nhiệm tốt đẹp kia cũng chỉ là phương tiện giúp chúng ta nhảy vào việc yêu mến
kết hiệp với Thiên Chúa, Ðấng đang muốn cứu độ chúng ta. Ðể cho tư tưởng dừng lại
nơi các mầu nhiệm gợi lên hầu khám phá ra những chi tiết mới mà xưa nay chưa biết,
sẽ là nghiên cứu và suy nghĩ về phương tiện chứ chưa phải là dùng phương tiện để
bay lên với Chúa. Loài người chúng ta yếu đuối, không ý tứ và không có phương
tiện nào giúp đỡ thì cầu nguyện sẽ dễ trở thành mơ mộng làm mệt sức. Trái lại
được các mầu nhiệm nói lên và nhắc lại các hành vi cứu độ của Thiên Chúa, chúng
ta như được khuyến khích và được đẩy đi để bay vào lòng Thiên Chúa đang yêu
thương và muốn bồi dưỡng chúng ta. Chúng ta sẽ ra khỏi giờ suy niệm và lần chuỗi
khoan khoái khỏe khoắn hơn để dấn thân tích cực và hân hoan hơn. Giống như các
Tông đồ khi cầu nguyện vây quanh Ðức Mẹ đã nhận được Thánh Thần tràn trề để ra
đi xây dựng thế giới mới.
Chúng
ta có thể được bổ dưỡng như thế mỗi khi lần chuỗi Mân côi. Nhưng chắc chắn đó
không phải là việc dễ. Chúng ta luôn luôn phải tập. Và cứ làm, cứ làm tốt hơn sẽ
có công hiệu. Cũng như đối với thánh lễ. Ðó là cả một mầu nhiệm phong phú.
Nhưng phải cố gắng tham dự và biết tham dự mới được ơn ích. Và chính mỗi lần cố
gắng là một bước tiến và hứa hẹn dào dạt. Hôm nay chúng ta cố gắng tham dự
thánh lễ. Chúng ta cũng sẽ cố gắng lần chuỗi Mân côi hôm nay, trong tháng này
và trong suốt đời. Nếu có chán, nếu có thấy không đi đến đâu, chúng ta vẫn
không nản nhưng vẫn tin tưởng, cầu xin và cố gắng làm đi làm lại cho tốt. Chúa
và Ðức Mẹ sẽ không bỏ rơi những người con thiện chí như vậy. Tương lai của họ
nhất định sẽ đẹp đẽ vì như trên đã nói, lần chuỗi Mân côi là tìm thấy chỗ đứng
của mình trong Lịch sử cứu độ và tìm thấy sức mạnh mới để thi hành vai trò của
mình ở trong lịch sử ấy. Hiểu như vậy thì lần chuỗi cũng là một thứ dâng lễ và
dâng lễ tốt sẽ giúp lần chuỗi thành công.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn
Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Chủ Nhật 27 Thường
Niên, Năm B
Bài đọc: Gen
2:18-24; Heb 2:9-11; Mk 10:2-16.
GIỚI THIỆU
CHỦ ĐỀ: Lý tưởng của Thiên Chúa và khuyết điểm của con người.
Khi Thiên Chúa truyền cho
con người làm điều gì, con người có thể hay có khả năng làm điều đó; vì Ngài
không thể truyền cho con người làm điều gì họ không thể làm. Có nhiều lý do khiến
con người không làm điều Thiên Chúa truyền: (1) Con người không muốn làm điều
Thiên Chúa truyền, mà chỉ muốn làm điều con người muốn, vì nó phù hợp với con
người hơn. (2) Con người có khả năng làm; nhưng không chịu cố gắng làm vì lười
biếng, sợ khó khăn, sợ gian khổ, hay sợ chết. (3) Có những điều con người chỉ
có thể làm được với ân sủng Thiên Chúa ban qua các Bí-tích.
Các Bài Đọc hôm nay đặt
trọng tâm trong sự trung thành của ơn gọi gia đình, điều mà nhiều người cho là
không thể thực hiện được. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế xác nhận ơn gọi
hôn nhân nằm trong kế-hoạch của Thiên Chúa cho con người ngay từ đầu. Thiên
Chúa không muốn cho con người sống đơn độc một mình; nhưng muốn con người có một
người bạn đồng hành. Ngài đã dùng một xương lấy ra từ cạnh sườn con người, và lấp
đầy thịt vào để tạo nên người đàn bà. Ngài dẫn người đàn bà đến trước mặt người
đàn ông, và người đàn ông đã nói: "Này đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi
thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra." Họ là
cặp vợ chồng đầu tiên; và từ đó đến nay, các đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ
mình, và cả hai thành một thịt. Trong Bài Đọc II, sức mạnh và ơn thánh giúp con
người có thể làm điều Thiên Chúa truyền đến từ Đức Kitô. Qua Cuộc Thương Khó và
cái chết của Ngài, con người được tha tội và thánh hóa nhờ các Bí-tích Đức Kitô
đã thiết lập. Con người phải xử dụng nguồn năng lực này, để có thể sống theo Lề
Luật của Thiên Chúa và những lời dạy dỗ của Đức Kitô. Trong Phúc Âm Marcô, khi
mấy Biệt-phái đến hỏi thử Chúa Giêsu về việc có được ly dị vợ không; dù Chúa
Giêsu biết Moses cho phép ly dị vì sự cứng lòng của dân chúng, Ngài vẫn xác quyết
ý định của Thiên Chúa khi dựng nên con người ngay từ thuở ban đầu là không được.
Lý do: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly."
KHAI TRIỂN
BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Giao ước hôn
nhân nằm trong ý định của Thiên Chúa ngay từ đầu.
1.1/ Ý định của Thiên
Chúa cho con người: Đây là trình thuật thứ
hai về việc tạo dựng; tác giả chú trọng đặc biệt đến sự kết hiệp giữa người nam
và người nữ trong ơn gọi gia đình.
+ Thiên Chúa không muốn
con người ở một mình: Trước tiên chúng ta cần chú ý: đây là thánh ý của Thiên
Chúa, chứ không phải do ý con người muốn. Con người đầu tiên không than phiền
Thiên Chúa vì không có đàn bà; nhưng chính Thiên Chúa nhận ra con người ở một
mình là không tốt. Thiên Chúa muốn tìm cho con người một "trợ giúp tương xứng
với nó."
+ Chữ người trợ giúp (bôêthos trong
LXX, và hêzer trong MT) cũng gây ra nhiều bàn cãi. Có người
cho đàn bà chỉ là người trợ giúp của đàn ông; vì thế, các bà không bao giờ được
coi là ngang hàng với các ông. Cách cắt nghĩa này không có cơ sở, vì Chúa Giêsu
và Chúa Thánh Thần cũng được gọi là Đấng Trợ Giúp con người. Các Ngài phải có
uy quyền hơn thì mới trợ giúp con người được.
+ Khó khăn không ở chỗ
dùng danh từ người "trợ tá, bạn đồng hành;" nhưng ở chỗ cắt nghĩa cho
đúng giới từ trong tiếng Do-thái (kenegdô) và Hy-lạp (kat' auton).
Bản Việt-nam của Nhóm PVCGK dịch tương đối sát nghĩa là "tương xứng hay
thích hợp;" nhưng tương xứng theo ý nghĩa nào: cách thể lý, trí tuệ, luân
lý, hay tinh thần.
1.2/ Tìm một "trợ tá
tương xứng" cho con người:
(1) Thiên Chúa thử các
thú vật trước: ''Đức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời,
và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi
sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi
chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá
tương xứng.'' Loài vật cho dù có nhiều điểm thích hợp với con người như đẹp đẽ,
hiền lành, dễ thương, trung thành; nhưng không thể nào so sánh với con người.
Việc đặt tên theo truyền thống Do-thái có nghĩa người đặt tên có quyền trên người
bị đặt tên.
(2) Thiên Chúa tạo dựng
đàn bà: ''Đức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người,
và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp
thịt thế vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra,
làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.''
(3) Phản ứng của người
đàn ông: Con người nói: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt
tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra." Ông nhận
ra ngay nàng là một phần của thân thể mình. Ông muốn sống gắn bó với nàng hơn bất
kỳ ai khác. Trình thuật kết thúc với kết luận: ''Bởi thế, đàn ông sẽ lìa cha mẹ
mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một thịt.''
2/ Bài đọc II: Đức
Giêsu trải qua gian khổ để dẫn đưa con người tới nguồn ơn cứu độ.
2.1/ Đức Kitô trải qua Cuộc
Thương Khó để đền tội cho con người: Bản dịch của
PVGK có thể gây hiểu lầm khi dùng chữ "con người;" bản Hy-lạp nói rõ
là Chúa Giêsu: ''Nhưng Chúa Giêsu đã bị hạ thấp hơn các thiên thần trong một thời
gian ngắn, thì chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ
triều thiên, bởi vì Ngài đã cam chịu tử hình: Con Người đó, chính là Đức Giêsu.
Thật vậy, Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ
ơn Thiên Chúa.''
Để con người đạt được ơn
cứu độ, trước tiên, Chúa Giêsu phải gánh tội và hình phạt cho con người, bằng
cách chấp nhận đau khổ qua Cuộc Thương Khó của Ngài. Một khi đã được tha tội,
con người được hòa giải với Thiên Chúa.
2.2/ Đức Kitô không chỉ
tha tội; nhưng còn thánh hóa con người: Tác giả Thư
Do-thái xác quyết điều này: ''Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những
ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ
là anh em.'' Mặc dù Chúa Giêsu đã gánh tội và ơn cứu độ giờ đây là của con người;
nhưng họ vẫn phải chứng minh cho Thiên Chúa niềm tin vào Đức Kitô bằng cuộc sống
chứng nhân; chẳng hạn, trung thành trong ơn gọi gia đình, tu sĩ, hay linh mục.
Để có sức mạnh làm những điều này, Đức Kitô thiết lập các Bí-tích.
Nhiều người ngày nay đã
quên hay không biết sự cần thiết của các Bí-tích trong cuộc đời; nhất là hai
Bí-tích: (1) Thánh Thể: Đây là Bí-tích ban sức mạnh để con người có thể đương đầu
với các cám dỗ, khó khăn, và thử thách trong cuộc đời. (2) Hòa Giải: giúp con
người nhận ra các tội lỗi mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa và đến tha nhân; đồng
thời nó cũng giúp con người dễ thông cảm, tha thứ, và giải quyết các xung đột
trong đời sống gia đình.
3/ Phúc Âm: Vấn đề ly dị
và có con.
3.1/ Yếu đuối của con người:
Có mấy người Pharisees đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng:
"Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?" Họ hỏi thế là để thử
Người.
(1) Luật của Moses: Chúa
Giêsu hỏi: "Thế ông Moses đã truyền dạy các ông điều gì?" Họ trả lời:
"Ông Moses đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ." Đức Giêsu nói rõ
lý do có luật này của Moses:: "Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông
Moses mới viết điều răn đó cho các ông.''
(2) Tại sao Giáo Hội cho
phép ly dị, nếu đó là Luật Thiên Chúa? Chúng ta cần phân biệt hai điều: Thứ nhất,
lý tưởng mà Thiên Chúa muốn con người đạt tới. Lý tưởng này không bao giờ thay
đổi; và thực tế cũng chứng minh nhiều người đã đạt tới lý tưởng này. Nhiều cặp
vợ chồng đã trung thành với nhau đến khi chết, dù phải trải qua bao gian khổ.
Thứ hai, yếu đuối và tội lỗi làm con người không đạt tới lý tưởng của Thiên
Chúa. Khi con người không đạt được lý tưởng, không có nghĩa là lý tưởng của
Thiên Chúa muốn không thể thực hiện được, hay Lề Luật của Thiên Chúa sai; nhưng
con người phải khiêm nhường thống hối vì yếu đuối tội lỗi của mình. Hội Thánh gỡ
dây hôn phối là vì những tội lỗi, yếu đuối, và cứng lòng của con người. Có nhiều
lý do để gỡ; một cách tổng quát là không chịu học hỏi hay coi thường Bí-tích
Hôn Phối như:
- Cha mẹ ép buộc con cái
phải lấy người chúng không muốn, vì cha mẹ tham quyền cao, chức trọng, hay lợi
nhuận vật chất. Trường hợp này, con cái thiếu tự do để kết hôn.
- Con người kết hôn bừa
bãi: Đa số trường hợp Giáo Hội giải quyết là trường hợp "lack of
form," có nghĩa: không theo Lề Luật của Giáo Hội, không thành Bí-tích. Chẳng
hạn, làm hôn thú giả vì muốn xuất ngoại, vì tham tiền, hay vì bất cứ lý do nào
khác.
- Vợ chồng không chịu tìm
hiểu nhau kỹ lưỡng trước khi kết hôn: lấy người đã có gia đình, lấy người bị
ngăn trở không được kết hôn, lấy người không cùng tôn giáo.
- Vợ chồng không sống đức
tin và không chịu lãnh nhận ơn thánh từ các Bí-tích: Làm sao có khôn ngoan, sức
mạnh để vượt qua khó khăn trong cuộc sống?
- Con người không có sức
chịu đau khổ: Trường hợp của những người bị người phối ngẫu ly dị. Với ơn
thánh, con người có thể vượt qua sự cô đơn và những đòi hỏi của thân xác.
3.2/ Vấn đề với con trẻ: Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng.
Nhưng các môn đệ la rầy chúng. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông:
"Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của
những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên
Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào." Rồi Người ôm lấy các
trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng.
Một vấn đề khó khăn nữa
mà các vợ chồng ngày nay hay than phiền là không muốn có con, hay chỉ muốn có
2, 3 con; một số lý do họ nêu ra:
(1) Sợ con trẻ gây phiền
hà: Đây là lý do các môn đệ sợ ngăn cản chúng đến với Chúa Giêsu. Người lớn hôm
nay sợ trẻ con hàn nhà làm họ phải thu dọn tối ngày, sợ con trẻ ồn ào làm mất sự
yên tĩnh, sợ chúng khóc đêm làm mất giấc ngủ, sợ chúng phá phách làm hư hại đồ
dùng trong nhà.
(2) Sợ phải săn sóc con
trẻ: Con trẻ không tự săn sóc chúng, mà chỉ trông cậy hoàn toàn vào người lớn.
Nhiều cặp vợ chồng sợ phải tốn thời gian để chăm sóc trẻ em sẽ không còn giờ lo
cho bản thân họ.
(3) Những ngụy biện của con
người ngày nay để không có nhiều con trẻ: Sinh nhiều quá lấy chỗ đâu mà sống;
khả năng tài chánh không có để lo cho con; sợ con trẻ hư, nên thà đừng có tốt
cho chúng hơn.
Đàng sau những lý do này
là chủ nghĩa cá nhân và tính ích kỷ. Con người hôm nay sợ phải tốn thời gian
săn sóc và dạy dỗ con trẻ, sẽ không còn giờ để săn sóc mình và đi đây đó. Họ sợ
sinh con vóc dáng sẽ xấu đi. Họ sợ tốn tiền cho con sẽ không còn thời giờ lo
cho mình.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi Thiên Chúa truyền
chúng ta làm điều gì, chúng ta có khả năng làm chuyện đó. Chúng ta cần phải tin
tưởng và làm theo những gì Chúa dạy, tập luyện để sống nhân đức, và tận dụng
các ơn thánh Thiên Chúa ban qua các Bí-tích.
- Chúng ta cần học hỏi để
biết cách lãnh nhận và hiệu quả của các Bí-tích mang lại; nhất là phải biết thường
xuyên lãnh nhận các Bí-tích mỗi khi có thể.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
07/10/2018 – CHÚA NHẬT TUẦN 27 TN – B
Lễ Mân Côi
Lc 1,26-38
XIN VÂNG
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin
Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1,38)
Suy niệm: Mẫu gương tuyệt
vời trong việc đáp tiếng “xin vâng,” đó chính là Mẹ Ma-ri-a. Cả cuộc đời Mẹ gói
trọn trong hai tiếng “xin vâng.” Mẹ xin vâng theo lời sứ thần truyền tin:
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
Trung thành với lời “xin vâng” tiên khởi đó, Mẹ ghi nhớ và “suy đi nghĩ lại”
trong lòng mọi việc xảy đến trong cuộc đời Mẹ để khám phá thánh ý Chúa ẩn chứa
trong đó. Có thể nói, từ ngày đón nhận lời thiên sứ truyền tin cho đến lúc nhận
lời trăng trối của Đức Giê-su từ trên thập tự và trọn cả cuộc đời Mẹ, là một
chuỗi dài của tiếng “xin vâng” để cho ý muốn của Chúa được thể hiện. “Xin
vâng”, hai tiếng thật nhẹ nhàng và đơn giản, nhưng lại chứa đựng một sức mạnh
phi thường xuất phát từ Đức Ki-tô “vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết”
(Pl 2,8) nhờ đó muôn loài được cứu độ; sự vâng phục ấy được phản ảnh trọn vẹn
nơi lời “xin vâng” của Đức Ma-ri-a.
Mời Bạn: Thế giới hôm nay
đang lâm vào cơn khủng hoảng “quyền bính-vâng phục”: con cái cãi lệnh cha mẹ;
không còn chuyện “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” nữa; bề dưới chống đối, bất tuân
mệnh lệnh bề trên. Ngược lại vẫn còn nhiều bậc bề trên, những bậc làm cha mẹ cư
xử cứng cỏi, độc đoán, muốn bề dưới phục tùng kiểu vâng lời “tối mặt”. Mời bạn
noi gương Đức Ma-ri-a: vâng phục ý Chúa tỏ hiện qua lời sứ thần, qua những biến
cố xảy ra trong cuộc sống.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày dành những
phút tĩnh lặng, suy đi nghĩ lại những việc xảy ra trong ngày sống để khám phá
thánh ý Chúa.
Cầu
nguyện: Đọc kinh Truyền Tin.
(5
Phút Lời Chúa)
Tôi Là Nữ Tỳ Của Chúa (7.10.2018 – Chúa nhật – Lễ Ðức Mẹ Mân Côi)
Suy
Niệm
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày
trong bài Tin Mừng trên đây là chính Ðức Giêsu.
Ngài là Con Ðấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33).
Ngài là Ðấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35).
Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người,
nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo.
Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương.
Thiên thần gọi cô là Ðấng đầy ân sủng,
là người được Ðức Chúa ở cùng (c.28),
là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30).
Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời
ngay từ trước khi làm mẹ Ðức Giêsu.
trong bài Tin Mừng trên đây là chính Ðức Giêsu.
Ngài là Con Ðấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33).
Ngài là Ðấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35).
Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người,
nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo.
Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương.
Thiên thần gọi cô là Ðấng đầy ân sủng,
là người được Ðức Chúa ở cùng (c.28),
là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30).
Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời
ngay từ trước khi làm mẹ Ðức Giêsu.
Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria.
Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé
trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Ðấng Cứu Thế.
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô
và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô” (c.35).
Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ
theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé
trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Ðấng Cứu Thế.
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô
và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô” (c.35).
Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ
theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn
những dự định và tính toán riêng tư.
Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh,
thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con.
Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân
một cách bình thường với ông Giuse,
thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con,
không phải với Giuse,
và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi.
Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối.
Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi.
Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa,
vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được.
những dự định và tính toán riêng tư.
Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh,
thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con.
Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân
một cách bình thường với ông Giuse,
thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con,
không phải với Giuse,
và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi.
Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối.
Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi.
Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa,
vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được.
Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác.
Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng
làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Ðức Maria quá cao xa
vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có.
Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu
bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời.
Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ,
chuyện đó cần đến lòng tin.
“Phúc cho em là kẻ đã tin…” (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng
làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Ðức Maria quá cao xa
vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có.
Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu
bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời.
Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ,
chuyện đó cần đến lòng tin.
“Phúc cho em là kẻ đã tin…” (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria
là tiếng xin vâng dưới chân thập giá.
Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không?
Chỉ khi Ðức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ
tất cả những tiếng xin vâng trong đời
mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
là tiếng xin vâng dưới chân thập giá.
Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không?
Chỉ khi Ðức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ
tất cả những tiếng xin vâng trong đời
mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
Cầu
Nguyện
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Ðức Giêsu.
Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Ðức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Ðức Giêsu.
Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Ðức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Ðức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Ðức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Ðường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
7
THÁNG MƯỜI
Kiên
Vững Trong Niềm Tin Của Chúng Ta
Tất cả
chúng ta phải xác tín rằng trong hiện tình của đời sống Giáo Hội, chúng ta phải
tin tưởng vào Thiên Chúa và không thối chí nản lòng trước bao khó khăn mà mình
phải đương đầu. Rất dễ có nguy cơ chúng ta đâm bối rối, ngay cả tuyệt vọng và
cay đắng. Chúa vẫn luôn dẫn dắt Giáo Hội của Người. Người dùng Giáo Hội để hoàn
tất các mục đích của Người, nhưng Người không hề chước miễn cho Giáo Hội khỏi
những khó khăn, nghịch cảnh và lo âu trong cuộc đời này.
Để
đương đầu với những thách đố ấy, chúng ta cần phải gặp gỡ, thảo luận và lập
chương trình cho tương lai. Chúng ta phải nghĩ ra những ý tưởng mới và tìm kiếm
những phương thế mới, hầu có thể củng cố Giáo Hội và đẩy mạnh việc thánh hóa
các linh hồn, không ngừng rao giảng cho mọi người Tin Mừng của Đức Kitô. Tiềm ẩn
bên trong các khó khăn của chúng ta là sứ điệp đầy năng lực đổi mới của Đức
Kitô.
Đám
đông dân chúng hỏi Đức Giêsu: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện việc Thiên
Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn các ông làm, đó là tin vào
Đấng Người sai đến” (Ga 6,28-29). Đây là mệnh lệnh nền tảng cho chúng ta, một mệnh
lệnh vẫn còn hiệu lực cho mọi người mọi nơi mọi lúc.
Những
lời tâm huyết mà Thánh Phaolô viết cho môn đệ Timôthê của Ngài cũng thật ý
nghĩa cho chúng ta: “Hãy công bố Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng
như lúc không thuận tiện ; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng
nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2).
–
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
07/10
Chúa
Nhật XXVII thường niên
Kính
trọng thể Đức Mẹ Mân Côi
Cv
1, 12-14; Gl 4, 4-7; Lc 1, 26-38.
LỜI
SUY NIỆM: “Sứ thần vào nhà Trinh Nữ và nói: Mừng vui
lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”
Trong ngày Kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi, nhắc nhở người Công Giáo bày tỏ lòng
yêu mến Đức Mẹ bằng cách cùng với Đức Mẹ ôn lại những sự kiện quan trọng trong
cuộc đời của Mẹ và cuộc Đời của Chúa Giêsu, Con của Mẹ: Năm mầu nhiệm Vui, năm
sự Sáng, năm sự Thương và năm sự Mừng. Đang khi suy tưởng những sự kiện ấy, miệng
họ lập đi lập lai kinh Lay Cha, mười kinh Kính Mầng, kinh Sáng Danh với lời cầu
nguyện cho người sống cũng như người đã qua đời.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn vui sống với tràng hạt
mân côi trên tay của mình, giúp chúng con xa lánh các dịp tội trong ngày sống của
mình.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
07-10
THÁNH
MẪU MÂN CÔI
Chuỗi
Mân Côi là quà tặng quí báu, Thiên Chúa và Đức Mẹ trao cho chúng ta. Người ta gọi
chuỗi Mân Côi là kinh nguyện của người bình dân. Thực vậy, cho tới thế kỷ XII,
Hội Thánh chỉ dùng 150 thánh vịnh làm kinh nguyện chính thức. Tới khi bà thánh
Birgitta được ơn Chúa soi sáng mới đặt ra chuỗi 150 Kinh Kính Mừng để thay thế
cho 150 Thánh vịnh.
Các mầu
nhiệm Mân Côi còn được gọi là cuốn sách Phúc âm rút gọn của người bình dân, bởi
vì sau này người ta thêm 15 mầu nhiệm vào kinh Mân côi. Cứ 10 kinh Kính mừng lại
suy gẫm vê một mầu nhiệm mùa Vui, Thương hoặc Mừng.
Chuỗi
Mân Côi rất cao quí vì chính nội dung của nó như chúng ta vừa đề cập tới. Người
biết xử dụng sẽ gặp được hiệu quả phi thường. Ngay trong sự tích việc thành lập
lòng sùng kính này đã đã ghi dấu bằng một phép lạ đặc biệt. Ngày kia trên đường
đi Tây Ban Nha, hai thánh Đôminicô và Bernađo chẳng may bị sa vào tay quân cướp.
Sau khi bóc lột tất cả, chúng bắt các Ngài phải làm nô lệ chèo thuyền. Một lần
con thuyền bị bão đánh giữa khơi. Trong cơn nguy nan, thánh Đôminicô đã cầu xin
Đức Mẹ và được Ngài hiện ra dạy phải lần chuỗi Mân Côi. Mọi người trong thuyền
đều hứa sẽ thực hiện theo lời chỉ dạy của Mẹ. Bão tố liền tan biến.
Cũng
chính thánh Đôminico, trong cuộc tranh đấu chống lại bè rối Albigeois năm126, một
lần nữa được Đức Mẹ dạy cho biết phải dùng chuỗi Mân Côi làm khí giới. Thánh
nhân đã dốc toàn lực phổ biến thực hành đạo đức này và được gặt hái được thành
quả mĩ mãn. Bè rối Albigeois hoàn toàn bị tiêu diệt.
Năm
1571, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân Côi mang lại.
Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi, Khi ấy quân Hồi
Xâm lăng Au Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân công giáo. Cùng với
việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng
Piô V kêu gọi mọi người chạy đến với Kinh Mân côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã
diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người
công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị
hùng hậu, từ Roma, Đức Giáo hoàng đã thấy được cuộc chiến thắng này và nói với
các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức giáo
hoàng đã thiết lập một lễ để ghi nhớ chiến thắng này.
Lịch
sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân côi. Chẳng hạn
Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã
chấm dứt bệnh dịch tại Milan… Chuỗi Mân côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu
hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi
chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân côi.
Vậy
khi mừng lễ Thánh mẫu Mân Côi, Giáo hội muốn chắc lại sức mạnh cứu rỗi vô song
của Kinh mân côi và kêu gọi mọi người hãy năng lần chuỗi Mân Côi như phương thế
hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời.
(daminhvn.net)
07
Tháng Mười
Chờ Ðợi
Theo
tâm lý thông thường, ai cũng sợ phải chờ đợi, ai cũng sợ phải xếp hàng cả ngày.
Ít hay nhiều, sự chờ đợi nào cũng là một cực hình. Nhưng mâu thuẫn thay, chúng
ta lại thường biến cuộc đời thành một thứ đợi chờ, thành những phòng đợi triền
miên…
Cả
tuần lễ, ai cũng mong được đến ngày thứ Bảy, Chúa Nhật để được nghỉ ngơi. Chúa
Nhật này đến, chúng ta lại chờ đợi Chúa Nhật khác đến. Tháng này đến, chúng ta
lại chờ tháng sau. Năm này đến, chúng ta lại chờ năm sau…
Lên
xe, chúng ta mong đến đích điểm. Khi đến nơi, chúng ta lại thấp thỏm mong ra về.
Vào rạp chiếu bóng, nhiều người thường vội vàng đứng dậy trước khi cuốn phim chấm
dứt: họ làm như thể vào rạp chiếu bóng là chỉ để mau đến giây phút ra về. Ði dự
thánh lễ, dù lễ chưa xong, đã có kẻ muốn vội vàng đứng lên ra về: họ làm như thể
chỉ đến nhà thờ để mong cho đến giây phút tan lễ. Vừa ra khỏi nhà, đã chờ mong
để quay trở lại, nhưng khi vào nhà thì lại đợi đến lúc đi ra.
Với
sự nóng lòng chờ đợi giây phút sẽ tới này, chúng ta sống như thể cuộc đời không
có sự liên hệ với những giây phút hiện tại. Chúng ta biến cuộc đời thành một thứ
phòng đợi, đợi hết cái này đến điều kia, đợi cả những điều sẽ không bao giờ xảy
đến.
Tháng
Mười là tháng dành riêng để tôn kính Mẹ Maria với tràng chuỗi Mân Côi và cùng với
Mẹ, sống mầu nhiệm cứu rỗi trong từng phút giây của cuộc sống.
Ơn cứu
rỗi không là một biến cố của quá khứ hoặc là một biến cố sẽ đến mà là một sự kiện
đang diễn ra trong từng phút giây của cuộc sống. Mẹ Maria quả thực là mẫu gương
cho chúng ta trong thái độ tiếp nhận ơn cứu rỗi. Thời gian đối với Mẹ không là
những tháng ngày chờ đợi, mà là những tích tắc của từng khoảnh khắc đang đến với
Mẹ. Với hai tiếng “Thưa, xin vâng!”, Mẹ đón nhận giây phút hiện tại như một món
quà cao quý nhất Thiên Chúa trao ban.
Cùng
với Mẹ sống lại mầu nhiệm của ơn cứu rỗi, chúng ta hãy đón nhận Ðấng đang đến,
Ðấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một. Chúng ta hãy đón Ngài trong phút
giây hiện tại này đây với tất cả tin tưởng phó thác.Chúa trao ban với chúng ta
nhiệm vụ để thi hành trong phút giây này đây. Chúng ta hãy hoàn tất với tất cả
cố gắng của chúng ta. Chúa trao ban cho chúng ta niềm vui của phút giây này
đây, hãy tận hưởng như thể sẽ không còn một niềm vui nào khác.
(Lẽ
Sống)








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét