08/10/2018
Thứ Hai tuần 27 thường niên
BÀI ĐỌC I: Gl 1, 6-12
“Tin Mừng do tôi rao giảng
không phải thuộc về loài người, nhưng là do Đức Giêsu Kitô mạc khải”.
Trích thư Thánh
Phalô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, tôi
ngạc nhiên thấy anh em thay lòng đổi dạ chóng như thế đối với Đấng đã kêu gọi
anh em thông phần vào ân sủng của Đức Kitô, để anh em quay sang một tin mừng
khác: Tin mừng khác làm gì có, chỉ có những kẻ phá rối anh em và muốn anh em đảo
lộn Tin Mừng của Đức Kitô. Nhưng cho dù chúng tôi, hay một thiên thần nào từ trời
đến giảng tin mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã rao giảng cho anh em, thì người
đó bị chúc dữ. Như chúng tôi đã nói trước, và giờ đây tôi xin nói lại rằng: Nếu
ai trong anh em rao giảng cho anh em Tin Mừng khác hơn điều anh em đã lãnh nhận,
thì người đó bị chúc dữ.
Giờ đây, tôi phải làm
vừa lòng người ta hay là Thiên Chúa? Nào có phải tôi tìm cách làm vừa lòng người
ta sao? Nếu tôi còn làm vừa lòng thiên hạ, thì tôi không phải là đầy tớ của Đức
Kitô.
Anh em thân mến, tôi
cho anh em biết rằng Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người,
vì tôi không nhận cũng không học với loài người, nhưng là do Đức Giêsu Kitô mạc
khải. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 110, 1-2.
7-8. 9 và 10c
Đáp: Cho tới muôn đời
Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng
Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của
Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi. – Đáp.
2) Công cuộc tay Chúa
làm ra đều chân thật và công chính, mọi giới răn của Người đều đáng cậy tin. Những
giới răn đó được lập ra cho đến muôn ngàn đời, được ban hành một cách chân
thành và đoan chính. – Đáp.
3) Chúa đã gửi tặng ơn
giải phóng cho dân Người, để thiết lập lời minh ước tới muôn đời. Danh Người thực
là thánh thiện và khả úy. Lời khen ngợi Chúa còn tồn tại tới muôn đời. – Đáp.
ALLELUIA: 1 Sm 3, 9; Ga
6, 69
Alleluia, alleluia!
– Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự
sống đời đời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 10, 25-37
“Ai là anh em của tôi?”
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có một người
thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được
sự sống đời đời?” Người nói với ông: “Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc
thấy gì trong đó?” Ông trả lời: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết
lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như
chính mình”. Chúa Giêsu nói: “Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được
sống”. Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Nhưng
ai là anh em của tôi?”
Chúa Giêsu nói tiếp:
“Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột
người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư
tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ
tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria
đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần,
băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình,
đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ
quán mà bảo rằng: ‘Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao
nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông’.
“Theo ông nghĩ, ai
trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?” Người thông luật
trả lời: “Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy”. Và Chúa Giêsu bảo ông: “Ông
cũng hãy đi và làm như vậy”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Biến Ðổi Tâm
Hồn
Chủ đề chính của đoạn
Phúc Âm trên đây là tình yêu thương đối với người lân cận và chủ đề được nhắc đến
do bởi hai câu hỏi của luật sĩ: "Tôi phải làm sao để được sống đời đời?"
và "Ai là người anh em tôi?"
Chúa Giêsu đã để cho
chính luật sĩ phải trả lời cho câu hỏi thứ nhất: "Tôi phải làm gì để được
sống đời đời?", và vị luật sĩ đã trả lời đúng trăm phần trăm, dựa trên
chính lời Kinh Thánh mà ông đã biết nằm lòng. Và nếu đã biết rõ như vậy rồi thì
đâu còn lý do gì để hỏi Chúa Giêsu nữa. Không cần phải luật sĩ mới trả lời cho
câu hỏi này, mọi thành phần dân Chúa đều có thể trả lời. Vấn đề là nơi câu hỏi
thứ hai: "Ai là người anh em tôi?" Sự hiểu biết thông thái của luật
sĩ làm ông ta lúng túng vì hẳn thật vào thời Chúa Giêsu có nhiều trường phái luật
sĩ khác nhau đã cố gắng trả lời cho câu hỏi này, nhưng chưa có câu trả lời nào
thỏa đáng cả. Có trường phái cho rằng người lân cận mà luật Môisen buộc phải
yêu thương là cha mẹ, bạn bè, người đồng hương. Như thế, nhà luật sĩ có lý do để
hỏi Chúa Giêsu: "Ai là anh em tôi?", ông muốn biết những giới hạn của
tình thương đối với anh chị em để rồi từ đó xác định những bổn phận cần phải
tuân giữ. Chúa Giêsu trả lời bằng dụ ngôn người Samari nhân hậu để giúp cho luật
sĩ biết là không có giới hạn nào cho tình thương đối với anh chị em và bất cứ
ai cần trợ giúp thì người đó là anh chị em của mình. Kết thúc dụ ngôn, Chúa
Giêsu đã đặt lại vấn đề như sau: "Ai trong số những kẻ qua đường là người
anh em của kẻ bị cướp?", và dĩ nhiên luật sĩ cũng đã trả lời đúng:
"Thưa là kẻ có lòng thương xót người ấy".
Giải quyết vấn đề trên
bình diện tri thức hiểu biết xem ra rất dễ, chỉ cần một chút hướng dẫn như Chúa
Giêsu đã làm trong dụ ngôn thì ta có thể biết được câu trả lời cho vấn đề,
nhưng để vào nước Chúa không phải chỉ có biết mà thôi, cũng không phải chỉ nói
Lạy Chúa, Lạy Chúa mà thôi, nhưng còn phải thực hành, phải làm nữa, phải thực
hiện lời dạy của Chúa và phải làm ngay không được chần chờ.
"Hãy đi và làm
như vậy!" xem ra Chúa Giêsu không muốn vị luật sĩ ở lại để tranh luận lý
thuyết với Chúa mãi mãi mà hãy dấn thân hành động, vì thế liền sau câu trả lời
thứ hai của vị luật sĩ, Chúa Giêsu khuyến khích ngay: "Hãy đi và làm như vậy!"
Khi phải hành động
giúp đỡ anh chị em, chúng ta thường hay có thái độ chần chờ, tìm sự chân thành
lý do để tránh né để khỏi phải cho đi, để khỏi phải làm ngay công việc bác ái
phải làm. Vì thế, vấn đề là luôn luôn phải sẵn sàng phục vụ, vấn đề bắt đầu từ
tâm hồn của chúng ta trước, vì phải có tâm hồn yêu thương, cần canh tân chính
mình trước. Chúng ta đã thấy Chúa Giêsu đã đổi lại viễn tượng, đã đổi lại câu hỏi
của luật sĩ, câu hỏi không còn là: "Ai là anh em ta?" nhưng là:
"Ai là anh em của người bị nạn?"
Khi tâm hồn chúng ta
đã được biến đổi rồi, đã có đầy tình yêu Chúa rồi thì chúng ta sẽ dễ dàng chu
toàn mệnh lệnh yêu thương của Chúa hơn, sẽ yêu thương như Chúa, yêu thương
không giới hạn, không tính toán, yêu thương cả đến hy sinh mạng sống mình.
Không có tình yêu này to lớn hơn tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình cho người
mình thương. Vấn đề không phải là biết: "Ai là anh em của tôi?" nhưng
vấn đề là biến đổi tâm hồn chúng ta để chúng ta trở thành người lân cận, người
anh em của tất cả những anh chị em chung quanh chúng ta.
Lạy Chúa, xin giúp con
canh tân chính tâm hồn mình trước và giúp con trở thành người lân cận của tất cả
mọi người, mọi nơi và mọi lúc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 27 TN2, Năm Chẵn.
Bài đọc: Gal 1:6-12; Lk 10:25-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Mừng đích
thực
Con người thường hay lầm
lẫn giữa cái đích thực với cái giả mạo và ngược lại. Để khỏi bị lầm lẫn, con
người cần phải học hỏi và nhiều khi phải trả giá đắt qua kinh nghiệm mới có thể
phân biệt giữa thực và giả. Trong Bài đọc I, cộng đòan tín hữu ở Galat lầm lẫn
vì họ tin có nhiều Tin Mừng khác nhau; thánh Phaolô chỉ cho họ thấy đâu là Tin
Mừng đích thực. Trong Phúc Âm, thầy thông luật tuy có biết phải làm gì để được
sự sống đời đời nhưng không biết ai là người thân cận để giúp họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chỉ có một Tin Mừng đích thực.
Điểm căn bản trong Thư
gởi tín hữu Galat là Thiên Chúa trao ban ân sủng cách nhưng không cho con người.
Thánh Phaolô xác tín rằng con người không thể làm bất cứ việc gì để xứng đáng
được hưởng tình yêu Thiên Chúa. Chỉ có một điều con người có thể làm là đặt
mình hòan tòan dưới lòng thương xót Chúa qua sự biểu tỏ của niềm tin. Điều quan
trọng không phải ở chỗ con người đã làm gì nhưng ở chỗ Thiên Chúa đã làm cho
con người.
1.1/ Chỉ có một Tin Mừng
đích thực được mặc khải qua Đức Kitô. Sau
khi thánh Phaolô đã rao giảng Tin Mừng và thành lập cộng đòan Galat, có những
người đến sau ngài đã rao truyền một thứ Tin Mừng theo kiểu của Do-Thái. Họ rao
truyền: Nếu con người muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa, con người phải chịu cắt bì
và giữ tất cả các luật lệ như người Do-Thái. Theo họ, con người có thể kiếm điểm
với Thiên Chúa qua việc giữ cẩn thận các luật lệ. Thánh Phaolô sững sờ khi thấy
niềm tin như thế nơi cộng đòan của ngài. Ngài viết cho họ: “Tôi lấy làm ngạc
nhiên, khi thấy anh em trở mặt mau lẹ như thế với Đấng đã kêu gọi anh em nhờ ân
sủng của Đức Kitô, để theo một Tin Mừng khác. Không có Tin Mừng nào khác đâu,
mà chỉ có một vài kẻ phá rối anh em, và muốn làm xáo trộn Tin Mừng của Đức Kitô
đó thôi.”
1.2/ Sự kiêu ngạo và ghen
tị làm con người phát minh ra một Tin Mừng khác: Những đối thủ của thánh Phaolô tố cáo: sở dĩ ngài đã loan báo một Tin
Mừng không cần giữ luật là để làm đẹp lòng các tín hữu vì họ không thích bị
ràng buộc bởi luật lệ. Ngài phản đối : Nếu việc giữ luật đủ để con người được
hưởng ơn cứu độ thì việc giáng trần và chịu chết của Chúa Kitô là điều không cần
thiết; và Tin Mừng ngài rao giảng không có lý do để tồn tại. Nhưng Đức Kitô thực
sự đã chết cho con người; điều này chứng minh Lề Luật không đủ để mang lại ơn cứu
độ. Thánh Phaolô cũng phản đối lời tố cáo ngài muốn làm đẹp lòng các tín hữu:
“Vậy, giờ đây tôi tìm cách lấy lòng người đời, hay lấy lòng Thiên Chúa? Phải
chăng tôi tìm cách làm đẹp lòng người đời? Nếu tôi còn muốn làm đẹp lòng người
đời, thì tôi không phải là tôi tớ của Đức Kitô.” Ngài đã mang những vết thương
của Chúa Kitô trên thân thể như người nô lệ mang tên của chủ; và ngài chỉ trung
thành và làm đẹp lòng Đức Kitô mà thôi.
1.3/ Tin Mừng đích thực
là do Chúa Kitô mặc khải: Thánh Phaolô nhắc
đi nhắc lại cho mọi người biết: tuy ngài không thuộc về Nhóm Mười Hai, nhưng
ngài được sai đi trực tiếp từ Chúa Kitô Phục Sinh đến các Dân Ngọai, và Tin Mừng
ngài rao giảng không do lòai người truyền lại cho ngài, nhưng được chính Chúa
Kitô Phục Sinh mặc khải.
2/ Phúc Âm: Ai là người thân cận của tôi?
2.1/ Phải làm gì để được
sự sống đời đời? Đây là câu hỏi rất quan trọng
và thực tế của cuộc đời, nhưng người hỏi là thầy thông luật: tuy ông đã biết
câu trả lời nhưng vẫn hỏi để thử Chúa Giêsu. Thay vì cho ông câu trả lời, Chúa
Giêsu hỏi lại ông: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” Ông ấy thưa:
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết
sức lực, và hết trí khôn ngươi (Dt 6:5), và yêu mến người thân cận như chính
mình (Lev 19:18).” Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy
là sẽ được sống.”
2.2/ Ai là người thân cận
của tôi? Tuy Jericho cách Jerusalem khỏang
20 dặm nhưng độ cao khác biệt là 3,600 ft. Đây là đọan đường rất nguy hiểm vì lối
đi hẹp và có rất nhiều hang động, chỗ ẩn của trộm cướp. Rất ít ai dám đi một
mình trên quãng đường này. Người bị đánh trọng thương rất có thể là người
Do-Thái vì đi từ Jerusalem xuống. Chúa Giêsu liệt kê ra 3 lọai người và phản ứng
của họ khi nhìn thấy người bị thương:
(1) Thầy tư tế: là người
Do-Thái. Lý do tại sao ông tránh có thể vì sợ sẽ bị không sạch trong 7 ngày
(Num 19:11) nếu động tay vào xác chết, và sẽ không được phục vụ trong Đền Thờ.
Ông đặt việc tế tự trên lòng thương xót khi ông tránh qua bên kia mà đi.
(2) Thầy Lêvi: cũng là
người Do-Thái. Nhiệm vụ của Levites là phục vụ cung điện nơi Hòm Bia của Thiên
Chúa ngự. Giống như thầy tư tế, ông có lẽ cũng sợ bị không sạch, nên tuy cũng
thấy người bị trọng thương, nhưng rồi cũng tránh qua bên kia mà đi.
(3) Người Samaria xem
người Do-Thái như thù địch và không muốn chung chạ gì với họ. Nhưng khi thấy
người bị trọng thương, người Samaria không để ý đến nạn nhân là người Do-Thái
hay không, ông chạnh lòng thương nạn nhân đau khổ: một niềm thương xót giữa người
với người.
Ông ta lại gần, lấy dầu
lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên
lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền,
trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao
nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.”
2.3/ Chúa Giêsu hỏi thầy
thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người
đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? ” Người
thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.”
Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta cần phải học
hỏi thì mới có thể biết cái chân chính và cái giả tạo; nếu không sẽ lầm lẫn đi
trong bóng tối và dễ bị đánh lừa.
– Mến Chúa yêu người
là phương thức để đạt được sự sống đời đời.
– Chúng ta không chỉ mến
Chúa yêu người bằng miệng, nhưng phải thể hiện bằng cuộc sống thờ phượng Thiên
Chúa và thực hành các việc bác ái.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
08/10/2018 – THỨ HAI TUẦN 27 TN
Lc 10,25-37
“HÃY ĐI VÀ LÀM NHƯ VẬY”
“Một người Sa-ma-ri kia…cũng thấy và chạnh lòng thương. Ông
ta lại gần, lấy dầu và rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi
lại đặt người ấy lên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc.” (Lc
10,33-34)
Suy niệm: Có người nói tình yêu đích
thực được thể hiện qua bốn phương diện: (1) sẵn lòng giúp đỡ; (2) biết xót xa
trước đau khổ và (3) biết vui mừng trước hạnh phúc của người khác; cuối cùng
(4) biết tha thứ. Chúa Giê-su đưa ra nhân vật người Sa-ma-ri như một điển hình
về tình yêu đích thực đó. “Chạnh lòng thương” trước tình cảnh khốn khổ cấp bách
của một người không quen biết, thay vì bỏ đi như thầy Lê-vi và thầy tư tế với
những bận rộn của mình – mà ai lại không có những việc bận rộn cơ chứ? – ông
Sa-ma-ri này sẵn lòng gác lại công việc của mình, và dốc toàn lực cứu chữa người
bị nạn cách tận tình. Với nghệ thuật kể chuyện tài tình, Chúa mô tả tỉ mỉ những
việc làm bác ái của người Sa-ma-ri; Ngài dạy chúng ta yêu thương đích thực phải
thể hiện bằng việc làm cụ thể và Ngài kết luận cũng rất cụ thể: “Hãy đi và làm
như vậy.”
Mời Bạn: Phải chăng bạn hay đưa ra
những lời chống chế “tại, vì, nhưng, nếu…” để không làm những việc bác ái cho
anh em?
Chia sẻ: trong nhóm của bạn: ai là người thân cận đang bị quên
lãng, bỏ rơi, cùng khổ đang cần trợ giúp, bênh vực, và tìm cách cụ thể để giúp
họ.
Sống Lời Chúa: Sống giản dị, đạm bạc để sẵn
sàng chia sẻ với người khác khi cần thiết.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin
cho con tâm hồn quảng đại và nhạy bén biết chạnh thương trước những đau khổ của
tha nhân để con sẵn sàng chia sẻ với họ bằng một tình yêu đích thực.
(5 Phút Lời Chúa)
Hãy đi và làm như vậy (8.10.2018 – Thứ hai Tuần 27
Thường niên)
Suy niệm:
Trong Tin Mừng Mátthêu và Máccô (Mt 22, 36; Mc 12, 28)
vị luật sĩ đặt câu hỏi về điều răn nào là điều răn lớn nhất.
Còn theo Tin Mừng Luca, vị này lại hỏi Đức Giêsu
về việc phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (c. 25).
Đức Giêsu nghĩ rằng câu trả lời đã có trong sách Luật, nên Ngài hỏi lại ông.
Ông này đã trích sách Đệ Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18 để trả lời.
Động từ yêu mến diễn tả thái độ đối với Thiên Chúa và người thân cận :
“Hãy yêu mến Thiên Chúa với tất cả trái tim con, với tất cả linh hồn con,
với tất cả sức lực con và với tất cả trí khôn con,
và người thân cận như chính mình” (c. 27).
Đức Giêsu khen ông trả lời đúng và khích lệ ông (c. 28).
Như thế giữa Ngài và vị thầy Do thái giáo đã có sự nhất trí nào đó.
Tình yêu không phải là một đòi hỏi mới của Kitô giáo,
nhưng tình yêu đã là điều cốt yếu của Do thái giáo từ xưa.
Vấn đề là phải yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim, linh hồn, sức lực và trí khôn.
Từ tất cả được lặp lại bốn lần để nói lên một đòi hỏi tận căn, trọn vẹn.
vị luật sĩ đặt câu hỏi về điều răn nào là điều răn lớn nhất.
Còn theo Tin Mừng Luca, vị này lại hỏi Đức Giêsu
về việc phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (c. 25).
Đức Giêsu nghĩ rằng câu trả lời đã có trong sách Luật, nên Ngài hỏi lại ông.
Ông này đã trích sách Đệ Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18 để trả lời.
Động từ yêu mến diễn tả thái độ đối với Thiên Chúa và người thân cận :
“Hãy yêu mến Thiên Chúa với tất cả trái tim con, với tất cả linh hồn con,
với tất cả sức lực con và với tất cả trí khôn con,
và người thân cận như chính mình” (c. 27).
Đức Giêsu khen ông trả lời đúng và khích lệ ông (c. 28).
Như thế giữa Ngài và vị thầy Do thái giáo đã có sự nhất trí nào đó.
Tình yêu không phải là một đòi hỏi mới của Kitô giáo,
nhưng tình yêu đã là điều cốt yếu của Do thái giáo từ xưa.
Vấn đề là phải yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim, linh hồn, sức lực và trí khôn.
Từ tất cả được lặp lại bốn lần để nói lên một đòi hỏi tận căn, trọn vẹn.
Nhưng Đức Giêsu còn phải trả lời cho vị luật sĩ câu hỏi: Ai là người thân
cận của tôi ?
Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi này bằng một dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó ngài đã mở rộng quan niệm truyền thống về người thân cận.
Một người từ Giêrusalem xuống Giêrikhô.
Anh phải vượt qua đoạn đường dài gần 25 cây số.
Đoạn đường này thời bấy giờ có nhiều trộm cướp.
Anh đã bị bọn cướp trấn lột, đánh nhừ tử và đặt nằm đó nửa sống nửa chết.
Anh bị cướp này là ai, chúng ta không rõ.
Chỉ biết anh đang rất cần sự trợ giúp của người khác.
Nhìn vào tình cảnh bi đát của anh, có ai muốn thương giúp anh không?
Có ba người đi qua chỗ anh nằm, một là thầy tư tế, hai là thầy Lêvi,
Cả hai đều có phản ứng giống nhau: thấy và tránh qua bên kia mà đi.
Chúng ta không rõ tại sao họ làm thế.
Có thể vị tư tế sợ mình bị ô nhơ qua việc đụng chạm đến xác chết,
vì sách Lêvi 21, 1-3 cấm không được làm thế, trừ phi là xác bà con gần.
Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi này bằng một dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó ngài đã mở rộng quan niệm truyền thống về người thân cận.
Một người từ Giêrusalem xuống Giêrikhô.
Anh phải vượt qua đoạn đường dài gần 25 cây số.
Đoạn đường này thời bấy giờ có nhiều trộm cướp.
Anh đã bị bọn cướp trấn lột, đánh nhừ tử và đặt nằm đó nửa sống nửa chết.
Anh bị cướp này là ai, chúng ta không rõ.
Chỉ biết anh đang rất cần sự trợ giúp của người khác.
Nhìn vào tình cảnh bi đát của anh, có ai muốn thương giúp anh không?
Có ba người đi qua chỗ anh nằm, một là thầy tư tế, hai là thầy Lêvi,
Cả hai đều có phản ứng giống nhau: thấy và tránh qua bên kia mà đi.
Chúng ta không rõ tại sao họ làm thế.
Có thể vị tư tế sợ mình bị ô nhơ qua việc đụng chạm đến xác chết,
vì sách Lêvi 21, 1-3 cấm không được làm thế, trừ phi là xác bà con gần.
Nhân vật thứ ba đi ngang qua nạn nhân là một người Samari.
Hầu chắc nạn nhân là một người Do Thái,
vì không có chi tiết nào cho thấy anh ấy là dân ngoại cả.
Giữa người Do Thái và người Samari vốn có mối hiềm thù lâu đời.
Người Samari cũng thấy như hai người trước,
nhưng đó không phải là cái nhìn lạnh lùng, vô cảm.
Anh thấy bằng trái tim của mình, chính vì thế anh chạnh lòng thương,
điều mà hai người trước không có.
Mọi sự phải bắt đầu từ trái tim, không có sức thúc đẩy của tim thì tay bất động.
Người Samari đã làm một loạt hành động cụ thể :
lấy dầu và rượu đổ lên vết thương, băng bó, đặt nạn nhân trên lưng lừa,
đưa về quán trọ săn sóc, ở lại quán trọ nguyên ngày hôm ấy,
trả tiền cho chủ quán và hứa sẽ trở lại trả thêm nếu cần.
Tất cả những hành động này khởi đi từ lòng thương xót (Lc 10,33).
Lòng thương xót thật sự khiến ta chấp nhận mất công, mất của, mất giờ,
và có thể mất mạng nữa, vì có thể tên cướp vẫn còn núp đâu đây.
Hầu chắc nạn nhân là một người Do Thái,
vì không có chi tiết nào cho thấy anh ấy là dân ngoại cả.
Giữa người Do Thái và người Samari vốn có mối hiềm thù lâu đời.
Người Samari cũng thấy như hai người trước,
nhưng đó không phải là cái nhìn lạnh lùng, vô cảm.
Anh thấy bằng trái tim của mình, chính vì thế anh chạnh lòng thương,
điều mà hai người trước không có.
Mọi sự phải bắt đầu từ trái tim, không có sức thúc đẩy của tim thì tay bất động.
Người Samari đã làm một loạt hành động cụ thể :
lấy dầu và rượu đổ lên vết thương, băng bó, đặt nạn nhân trên lưng lừa,
đưa về quán trọ săn sóc, ở lại quán trọ nguyên ngày hôm ấy,
trả tiền cho chủ quán và hứa sẽ trở lại trả thêm nếu cần.
Tất cả những hành động này khởi đi từ lòng thương xót (Lc 10,33).
Lòng thương xót thật sự khiến ta chấp nhận mất công, mất của, mất giờ,
và có thể mất mạng nữa, vì có thể tên cướp vẫn còn núp đâu đây.
Khi giúp cho kẻ lâm nạn, dù đó là một người Do Thái kẻ thù của
mình,
người Samari đã làm một phép lạ lớn,
đó là biến mình trở thành người thân cận với anh ấy,
và biến anh ấy trở thành người thân cận của mình.
Đây là phép lạ của tình thương phá vỡ và vượt qua mọi biên giới
của chủng tộc, tôn giáo và nhất là vượt qua những thù oán lâu đời.
Để trả lời câu hỏi của vị luật sĩ: ai là người thân cận của tôi ?
Đức Giêsu đặt câu hỏi ngược lại cho vị luật sĩ:
“Theo ông, trong ba người, ai đã trở thành người thân cận với kẻ bị nạn ?”
Câu hỏi quá dễ, nhưng hàm chứa một điều mới mẻ sâu xa.
Trước khi giúp một người, không nên tự hỏi người này có thân cận với tôi không.
Chúng ta không chỉ giúp những người thân cận và loại trừ người khác.
Chúng ta giúp một người chỉ vì người đó cần chúng ta.
Khi giúp, chúng ta trở thành người thân cận với người ấy, và ngược lại.
Ai được ta giúp đỡ thì người ấy trở nên thân cận với ta.
Càng giúp nhiều ta càng có nhiều người thân cận.
Đức Giêsu kết luận: Hãy đi và hãy làm như vậy.
người Samari đã làm một phép lạ lớn,
đó là biến mình trở thành người thân cận với anh ấy,
và biến anh ấy trở thành người thân cận của mình.
Đây là phép lạ của tình thương phá vỡ và vượt qua mọi biên giới
của chủng tộc, tôn giáo và nhất là vượt qua những thù oán lâu đời.
Để trả lời câu hỏi của vị luật sĩ: ai là người thân cận của tôi ?
Đức Giêsu đặt câu hỏi ngược lại cho vị luật sĩ:
“Theo ông, trong ba người, ai đã trở thành người thân cận với kẻ bị nạn ?”
Câu hỏi quá dễ, nhưng hàm chứa một điều mới mẻ sâu xa.
Trước khi giúp một người, không nên tự hỏi người này có thân cận với tôi không.
Chúng ta không chỉ giúp những người thân cận và loại trừ người khác.
Chúng ta giúp một người chỉ vì người đó cần chúng ta.
Khi giúp, chúng ta trở thành người thân cận với người ấy, và ngược lại.
Ai được ta giúp đỡ thì người ấy trở nên thân cận với ta.
Càng giúp nhiều ta càng có nhiều người thân cận.
Đức Giêsu kết luận: Hãy đi và hãy làm như vậy.
Đất nước chúng ta đã giàu lên đáng kể, nhưng vẫn không thiếu người
nghèo,
nghèo sức khỏe, nghèo tri thức, nghèo vật chất tối thiểu, nghèo nhân phẩm…
Chúng ta cũng bị cám dỗ “tránh sang bên kia đường”,
thấy mà làm như không thấy những Ladarô nằm trước cửa.
Yêu những người nghèo như chính mình, thương người như thể thương thân:
Đó là cách chúng ta rao giảng Tin Mừng cho quê hương Việt Nam hôm nay.
nghèo sức khỏe, nghèo tri thức, nghèo vật chất tối thiểu, nghèo nhân phẩm…
Chúng ta cũng bị cám dỗ “tránh sang bên kia đường”,
thấy mà làm như không thấy những Ladarô nằm trước cửa.
Yêu những người nghèo như chính mình, thương người như thể thương thân:
Đó là cách chúng ta rao giảng Tin Mừng cho quê hương Việt Nam hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng
cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn mới,
để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng
và trái tim được lớn lên mãi.
lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng
cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn mới,
để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng
và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng
cần phải nối vòng tay lớn
uyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hóa.
cần phải nối vòng tay lớn
uyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hóa.
Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con,
nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.
đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con,
nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá
giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em.
giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8 THÁNG MƯỜI
Về Lòng Đạo Đức
Bình Dân
Có một điểm đặc biệt
tôi muốn đề cập với anh chị em, đó là lòng đạo đức bình dân và mối quan hệ của
nó với đời sống phụng vụ trong Giáo Hội.
Hiến Chế về Phụng Vụ
Thánh của Công Đồng Vatican II có nhắc đến vấn đề này khi nói đến “việc thực
hành đạo đức của quần chúng Kitô hữu”. Những việc đạo đức bình dân được Công Đồng
khen ngợi và khuyến khích miễn là chúng “tuân theo những qui luật và những chuẩn
mực của Giáo Hội”. Vì thế chúng ta không nên thờ ơ hay coi thường những thực
hành đạo đức vẫn đang sống động giữa lòng đại chúng Kitôhữu. Tôi đang nghĩ tới
những lễ hội mừng các thánh bổn mạng, những cuộc hành hương đến các nơi thánh,
và vô số những hình thức sùng kính các thánh.
Quả thật, như Đức
Phaolô VI đã ghi nhận trong Tông Huấn Evangelii nuntiandi, lòng đạo đức hay
sùng kính bình dân có ý nghĩa rất phong phú. “Nó biểu lộ nỗi khát khao Thiên
Chúa mà chỉ những người đơn sơ nghèo khó mới hiểu được ; nó làm cho người ta biết
quảng đại và hy sinh – đến mức anh hùng – khi việc biểu lộ đức tin bị đe dọa;
nó cưu mang trong mình nó một cảm thức sâu sắc về những phẩm tính của Thiên
Chúa: Thiên Chúa là Cha, Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng, Thiên Chúa luôn luôn hiện
diện đầy yêu thương; nó làm nảy sinh những tâm tình bên trong không kém sâu đậm:
lòng kiên nhẫn, cảm thức về thập giá trong đời sống hàng ngày, sự gắn bó và cởi
mở với người khác, thái độ dấn thân…” (EN 48).
Chắc chắn không phải tất
cả những thực hành đạo đức này đều có giá trị cao ngang nhau. Vì chủ thể thực
hành chúng là những con người, nên các động lực thực hành của họ có thể bị pha
trộn với cảm tính và với hướng đích đơn thuần có tính cầu an hơn là để diễn tả
đức tin hay để bày tỏ lòng biết ơn và tôn thờ Thiên Chúa. Bên cạnh đó, những việc
đạo đức bình dân được phô bày qua những dấu hiệu, cử điệu và những nghi tiết
đôi khi xem ra quá quan trọng, thậm chí chỉ để tạo cảm xúc. Tuy nhiên, tự bản
chất chúng là những biểu hiện nội tâm sâu thẳm của con người. Chúng cho thấy rằng
con người – là một tạo vật – tự nền tảng phải lệ thuộc vào Đấng Tạo Hóa.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 08/10
Gl 1, 6-12; Lc 10,
25-37.
LỜI SUY NIỆM: “Nhưng ai là người
thân cận của tôi.”
Trước Giáo lý của Chúa
Giêsu, người thông luật muốn thử Chúa Giêsu, về những điều cần thiết để được hưởng
sự sống đời đời, Chúa Giêsu đã hỏi lại ông: “trong luật nói gì?” và ông đã
trình bày đúng những gì trong Luật đã dạy, nhưng ông muốn làm rõ vấn đề
hơn, nên đã hỏi lại Chúa Giêsu: “người thân cận là những ai.” Chúa Giêsu đã đưa
dụ ngôn ngưới Samari tốt lành. Đây cũng là điều Chúa Giêsu đang giúp cho
mỗi người trong chúng ta ngày hôm nay hiểu và nhận ra ai là người thân cận của
mình.
Lạy Chúa Giêsu. Xin
cho những điều chúng con đã học, được ghi sâu vào trí óc, được thấm nhập vào
con tim, biến chuyền ra nơi đôi bàn tay, và dùng đôi chân đi đến mọi nơi, để phục
vụ người anh em với một tình yêu thương.
Mạnh Phương
08 Tháng Mười
Bức Tượng Người Mù
Cũng như tại bất cứ
một trung tâm hành hương nào, tại Lộ Ðức, du khách và khách hành hương có thể đọc
được không biết bao nhiêu lời cảm tạ dâng lên Ðức Mẹ cũng như không biết bao
nhiêu kỷ vật khác mà những người thọ ơn muốn cho thiết lập để ghi nhớ ơn Mẹ…
Trong muôn nghìn kỷ vật tạ ơn ấy, người ta thấy có một bức tượng diễn tả một
người mù vừa được chữa lành. Dĩ nhiên, được sáng mắt là một trong những phép lạ
đầu tiên được ghi trong sách những phép lạ tại Lộ Ðức. Nhưng bức tượng người mù
sáng mắt ở đây lại tượng trưng cho một biến cố khác, một phép lạ theo đúng
nghĩa bởi vì đó là phép lạ của một người tìm lại được ánh sáng Ðức Tin.
Bức tượng này được
một người đàn bà quý phái cho dựng lên để ghi nhớ ánh sáng Ðức Tin mà bà đã tìm
lại được tại Lộ Ðức. Tuy là người Công Giáo, nhưng kể từ khi chồng qua đời, người
đàn bà không còn một chút tin tưởng gì nơi Chúa Mẹ nữa. Và dĩ nhiên, cũng giống
như những người khô đạo khác, người đàn bà chỉ tìm kiếm có mỗi một điều: đó là
thú vui trong cuộc sống.
Một mùa hè nọ, trên
đường đi đến một trung tâm nghỉ mát nổi tiếng ở phía Nam nước Pháp, người đàn
bà phải đi qua Lộ Ðức. Thấy đám đông tấp nập tại trung tâm Thánh Mẫu, bà ta tò
mò dừng lại xem. Bà không ngờ rằng chính Chúa đang tìm kiếm và đeo đuổi bà. Từ
thái độ bàng quang của một người hiếu kỳ, người đàn bà đã tìm lại ánh sáng Ðức
Tin. Ðể tạ ơn Chúa và Ðức Mẹ, bà đã cho dựng lên bức tượng của người mù với
hàng chữ như sau: “Tìm lại Ðức Tin là một phép lạ vĩ đại hơn là được sáng mắt”.
Trên vạn nẻo đường của
chúng ta, lúc nào Thiên Chúa cũng có mặt. Thật ra, không phải con người đi tìm
kiếm Thiên Chúa cho bằng chính Thiên Chúa đeo đuổi kiếm tìm con người.
Trong mọi biến cố của
cuộc sống, lúc nào Thiên Chúa cũng có mặt. Trong an vui hạnh phúc, hay trong thất
bại khổ đau, Ngài luôn ở bên cạnh ta để mời gọi ta tin tưởng ở Tình Yêu của
Ngài. Ngay cả khi con người muốn khước từ và gạt bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống,
Thiên Chúa vẫn tiếp tục đeo đuổi con người.
Thánh Kinh đã ví Thiên
Chúa như một người tình chung thủy, lúc nào cũng chờ đợi, lúc nào cũng nài nỉ,
lúc nào cũg vỗ về, lúc nào cũng tha thứ.
Tin ở một sự hiện diện
trung thành như thế của Thiên Chúa, thái độ của chúng ta phải là thức tỉnh, chờ
đợi và tin tưởng không ngừng. Trong an vui thịnh đạt, chúng ta dâng lời cảm tạ
Chúa. Trong thất bại khổ đau, chúng ta cũng hãy tin tưởng phó thác. Và ngay cả
những lúc vấp ngã vì yếu đuối, chúng ta cũng hãy tin tưởng ở lòng tha thứ vô bờ
của Ngài. Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ mặc con người.
(Lẽ Sống)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét