19/10/2018
Thứ Sáu tuần 28 thường niên
BÀI ĐỌC I: Ep 1, 11-14
“Chúng tôi trước kia đã trông cậy
vào Đức Kitô, và anh em được ghi dấu Thánh Thần”.
Trích thư Thánh
Phaolô tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, trong
Đức Kitô, chúng tôi được kêu gọi làm thừa tự, và anh em (là con cái Israel)
cũng được tiền định theo ý định của Ngài là Đấng tác thành mọi sự theo thánh ý
Ngài, để chúng tôi trở thành lời ca vinh quang của Ngài, chúng tôi là những kẻ
trước kia đã trông cậy vào Đức Kitô. Trong Người, cả anh em nữa, sau khi anh em
đã nghe lời chân thật là Tin Mừng cứu rỗi anh em, anh em đã tin và được ghi dấu
Thánh Thần, như đã hứa. Người là bảo chứng phần gia nghiệp chúng ta, để chúng
ta được ơn cứu chuộc, được ca ngợi vinh quang Ngài. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 32, 1-2.
4-5. 12-13
A+B=Phúc thay dân tộc
mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình! (c. 12b).
A=Người hiền đức, hãy
hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa
với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. .
B=Vì lời Chúa là lời chân
chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính
trực; địa cầu đầy ân sủng của Chúa.
A=Phúc thay quốc gia
mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Từ trời cao
Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta.
A+B=Phúc thay dân tộc
mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình! (c. 12b).
ALLELUIA: Dt 4, 12
-Lời Thiên Chúa là
lời hằng sống, linh nghiệm, phân rẽ tư tưởng và ý muốn của tâm hồn. –
Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 12, 1-7
“Mọi sợi tóc trên đều các con
cũng đã được đếm cả rồi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có nhiều đám
đông dân chúng đứng chung quanh, đến nỗi chen đạp lẫn nhau, nên Chúa Giêsu bắt
đầu dạy các môn đệ trước tiên rằng: “Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái,
nghĩa là sự giả hình. Không có gì che đậy mà không bị tiết lộ ra, và không có
gì giấu kín mà chẳng biết được. Vì vậy, những điều các con nói trong nơi tối
tăm, sẽ được nói ra nơi sáng sủa, và điều các con nói rỉ tai trong buồng kín, sẽ
được rao giảng trên mái nhà.
“Thầy bảo các con là
những bạn hữu của Thầy rằng: Các con đừng sợ chi những kẻ giết được thân xác, rồi
sau đó không thể làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho các con biết phải sợ ai:
Hãy sợ Đấng, sau khi đã giết chết, còn có quyền ném vào địa ngục. Phải, Thầy bảo
các con hãy sợ Đấng ấy.
“Chớ thì năm con chim
sẻ không bán được hai đồng tiền sao? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước
mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, mọi sợi tóc trên đầu các con cũng đã được đếm cả rồi.
Vậy các con đừng sợ: các con còn trọng hơn nhiều con chim sẻ”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Các Con Ðừng
Sợ
Thánh Justinô là một
triết gia nổi tiếng của Kitô giáo vào thế kỷ thứ 2; ngài đã bị bắt giam tại
Rôma cùng với một số Kitô hữu khác, vì tội tuyên truyền tôn giáo trong trường học
do ngài điều khiển. Ra trước tòa, khi được hỏi về hành động của mình, thánh
nhân dõng dạc tuyên bố:
- Suốt đời tôi, tôi
đã đi tìm kiếm chân lý; tôi đã nghiên cứu sâu xa các triết lý Ðông Phương, Hy Lạp
và Rôma; thế nhưng cuối cùng tôi đã tìm được giáo thuyết chân thật.
Quan tòa liền hỏi
giáo thuyết chân thật đó là gì? Thánh nhân giải thích:
- Thưa là giáo thuyết
của Chúa Giêsu Nazaret, giáo thuyết này nhằm giải phóng chúng ta khỏi các ngẫu
tượng và dạy chúng ta thờ phượng một Thiên Chúa độc nhất, hằng sống và chân thật,
là Ðấng tạo thành trời đất, là Ðấng cứu rỗi nhân loại.
Quan tòa lại hỏi:
- Vậy ông là một
Kitô hữu ư?
Thánh nhân liền
tuyên xưng:
- Phải, tôi là một
Kitô hữu và tôi lấy làm vinh dự được làm Kitô hữu cùng với các bạn tôi đây.
Quan tòa ra lệnh
cho thánh nhân và các bạn của ngài phải tế thần, thánh nhân trả lời một cách
cương quyết:
- Chúng tôi không
tôn thờ ngẫu tượng, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi là những người vô
thần. Chúng tôi thờ lạy một Thiên Chúa thiêng liêng, Cha của Chúa Giêsu. Một
người có đầu óc lành mạnh không thể từ bỏ tôn giáo chân thật để chạy theo một
tôn giáo giả.
Thấy không thể thuyết
phục được thánh nhân bỏ đạo, quan tòa ra lệnh đánh đòn rồi xử trảm thánh nhân
và các bạn.
Ðứng trước cái chết,
ai cũng run sợ. Chúa Giêsu đã không thoát khỏi tâm trạng ấy: Ngài run sợ đến
toát mồ hôi máu. Vậy đâu là sức mạnh giúp Chúa Giêsu thắng vượt sự sợ hãi ấy?
Thưa, chính là sự kết hiệp với Chúa Cha. Niềm tín thác vào sự hiện diện và tình
yêu của Chúa Cha đã giúp Chúa Giêsu thắng vượt mọi thử thách và yếu hèn trong
thân phận làm người.
Ðó cũng là bí quyết của
tất cả các thánh tử đạo. Sách Công vụ Tông Ðồ kể lại đầy đủ chi tiết cái chết của
vị tử đạo tiên khởi là thánh Stêphanô. Thánh nhân cũng phải trải qua những giây
phút kinh hãi như chính Chúa Giêsu; nhưng sách Công vụ Tông đồ mô tả thái độ của
ngài như sau: "Ngài được đầy Thánh Thần, đăm đăm nhìn trời cao thấy vinh
quang của Thiên Chúa và thấy Chúa Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa". Chỉ bằng
một ánh mắt luôn hướng về trời cao như thế, con người mới có thể lướt qua thử
thách và sợ hãi. Thánh Justinô đã có được sự bình thản trước cái chết, bởi vì ngài
luôn tin tưởng vào Thiên Chúa hằng sống và chân thật.
Nhìn lại cung cách của
một số vị tử đạo, chúng ta có được sức mạnh của Lời Chúa trong đời sống con người.
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay tập trung vào hai chữ: "Ðừng sợ" được Chúa
Giêsu lặp lại nhiều lần. Ðây chính là một mệnh lệnh của Chúa Giêsu chạy xuyên
suốt toàn bộ Tin Mừng. Trong biến cố Truyền tin, thiên sứ đã nói với Ðức Maria:
"Ðừng sợ". Khi Chúa Giêsu sinh ra, các thiên sứ đã loan báo tin vui bằng
lời trấn an các mục đồng: "Ðừng sợ". Ðây là công thức sẽ được Chúa
Giêsu lặp lại nhiều lần với các môn đệ, và cao điểm là lúc Ngài tuyên bố:
"Các con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian".
Khi được bầu làm
Giáo Hoàng, trong diễn văn đầu tiên tại quảng trường thánh Phêrô, Ðức Gioan
Phaolô II đã dõng dạc tuyên bố: "Ðừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Chúa
Kitô". Thật thế, khi con người
mở rộng cửa cho Chúa Kitô, khi con người để Chúa Kitô sinh động trong tâm hồn,
khi con người chỉ sống bằng sự sống của Chúa Kitô, thì lúc đó con người sẽ lướt
thắng được mọi sợ hãi, và chỉ lúc đó, con người mới có thể lên tiếng công bố Lời
Chúa cho mọi người.
Nguyện xin sức sống của
Chúa Kitô tràn ngập tâm hồn chúng ta, để cả cuộc đời chúng ta trở thành lời ca
tụng Chúa trước mặt mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 28 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Eph
1:11-14; Lk 12:1-7.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin vào sự
Quan Phòng của Thiên Chúa
Trong cuộc sống, chúng
ta rất hoang mang sợ hãi và không dám hành động nếu chúng ta không biết những
gì sẽ xảy đến trong tương lai. Nhưng nếu biết trước những gì sẽ xảy ra, chúng
ta sẽ không sợ hãi và tự tin hơn để tiến tới. Ví dụ: nền kinh tế của thế giới
ngày nay. Trong cuộc đời của con người cũng vậy, nếu không biết đích điểm cuộc
đời và những gì sẽ xảy ra sau khi chết, con người sẽ dễ dàng hoang mang và sợ đủ
mọi thứ; nhưng nếu biết đích điểm cuộc đời và những gì xảy ra sau khi chết, con
người sẽ không còn hoang mang sợ hãi và sẵn sàng chấp nhận những gì xảy đến
trong cuộc đời ngay cả chấp nhận cái chết. Các Bài đọc hôm nay chỉ cho chúng ta
thấy sự Quan Phòng và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, để giúp chúng ta luôn tin
tưởng nơi Thiên Chúa và biết cách hành động khi phải đương đầu với những thử
thách của cuộc đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tin vào Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa
Đọan văn chúng ta đang
nghiên cứu vẫn thuộc Bài Thánh Ca chúng ta đã phân tích hôm qua (Eph 1:1-14).
Vài điểm cần lưu ý khi chúng ta đọc đọan văn này: khi dùng chủ từ “chúng tôi,”
Thánh Phaolô có ý ám chỉ người Do-Thái; khi dùng chủ từ “anh em,” thánh nhân muốn
ám chỉ các tín hữu Dân Ngọai. Điểm chính trong đọan văn hôm nay là thánh Phaolô
muốn chỉ cho mọi người thấy: trong Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài không
chọn tất cả mọi người một lúc, nhưng chọn người Do-Thái trước. Sau đó, Thiên
Chúa mở rộng Kế Họach Cứu Độ đến tất cả mọi dân mọi nước.
1.1/ Thiên Chúa chọn người
Do-Thái đầu tiên: Kinh nghiệm cho thấy hầu hết
mọi kế họach, nếu muốn thành công, phải bắt đầu từ một số nhỏ, rồi mới lan rộng
từ từ đến số lớn hơn. Lý do là vì huấn luyện số nhỏ dễ dàng hơn là huấn luyện
đám đông; và số nhỏ này, sau khi được huấn luyện, sẽ trở thành những cán bộ
nòng cốt giúp cho việc phát triển được dễ dàng hơn. Thiên Chúa cũng thế, Ngài
đã chọn người Do-Thái làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người. Ngài đã huấn
luyện và chuẩn bị cho họ là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô. Tất
cả các Tông Đồ và môn đệ của Chúa Giêsu đều là người Do-Thái.
1.2/ Thiên Chúa mở rộng sự
lựa chọn đến các Dân Ngọai: Sau khi Chúa
Giêsu đã chọn và huấn luyện họ, Ngài sai họ đi đến với các người Do-Thái khác
và với các Dân Ngọai. Bổn phận của các Tông Đồ và các môn đệ là làm cho muôn
dân nhận biết Thiên Chúa và Kế Họach Cứu Độ của Ngài qua 2 việc:
(1) Qua việc rao giảng
Tin Mừng: Đây là cách duy nhất giúp cho muôn dân nhận biết Chúa. Tất cả những
gì Thiên Chúa muốn nói với con người đã được Đức Kitô mặc khải cho các môn đệ của
Ngài. Giờ đây họ truyền lại cho Dân Ngọai tất cả những gì họ đã học được nơi Đức
Kitô như lời Thánh Phaolô loan báo: “Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa, anh em đã
được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em.”
(2) Qua việc đóng ấn
Thánh Thần: Sau khi đã nghe và học biết về Thiên Chúa và về Kế Họach Cứu Độ của
Ngài, Dân Ngọai có tự do chọn lựa để tin hay không tin. Nếu họ tuyên xưng niềm
tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô, họ được đóng ấn Thánh Thần qua Phép Rửa Tội
và chính thức trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa. Ấn tín Thánh Thần chứng minh 2
điều: Chúa muốn con người tin nơi Ngài và con người có thể làm được với sự trợ
giúp của Thánh Thần (Không ai có thể tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa mà không
do Thánh Thần thúc đẩy).
Một khi đã tuyên xưng
đức tin vào Đức Kitô và được đóng Ấn Tín Thánh Thần, con người được bảo đảm để
hưởng mọi đặc ân và gia nghiệp của Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: “Thánh Thần
như bảo chứng (arrabon) phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của
Thiên Chúa được cứu chuộc.” Bảo chứng này giống như món tiền cọc đặt khi đi mua
nhà; một khi đã đặt tiền cọc, căn nhà đó thuộc quyền sở hữu của người mua dù
chưa trả hết tiền.
2/ Phúc Âm: Tin vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa
2.1/ Tránh cuộc sống gỉa
hình như các Kinh-sư: Mặc dù các Kinh-sư là
những người hiểu biết và tuyên xưng đức tin của họ nơi Thiên Chúa, nhưng cuộc sống
giả hình của họ đã không chứng minh sự hiểu biết và niềm tin của họ vào Ngài. Nếu
họ hiểu biết Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự thì làm sao họ có thể giấu
Ngài lối sống gỉa hình của họ. Vì thế, Chúa Giêsu dặn các môn đệ phải đề phòng:
“Anh em phải coi chừng men Pharisêu, tức là thói đạo đức giả. Không có gì che
giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. Vì thế,
tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày; và điều anh
em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà.”
2.2/ Đừng sợ những kẻ chỉ
giết được thân xác: Khuynh hướng của con người
là ham sống và sợ chết; nhưng nếu con người hiểu những gì sẽ xảy ra sau khi chết,
con người sẽ dễ dàng chấp nhận cái chết hơn. Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ biết
những điều này: “Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng
sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho
anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục.
Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy.” Vì thế, nếu phải chấp
nhận cái chết để làm chứng cho Chúa, thì con người cũng phải làm vì biết họ sẽ
nhận lại cuộc sống trong Vương Quốc đời sau.
2.3/ Tin vào sự Quan
Phòng của Thiên Chúa: Ngòai cái chết, con
người còn lo sợ về những nhu cầu sinh sống hay bệnh tật. Chúa Giêsu dạy các môn
đệ cũng phải vứt đi những lo sợ này và tin tưởng hòan tòan nơi tình yêu và sự
quan phòng của Thiên Chúa. Ngài bảo các ông: “Năm con chim sẻ chỉ bán được hai
hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Ngay
đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý
giá hơn muôn vàn chim sẻ.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Không hiểu biết, thiếu
hiểu biết, hay hiểu biết sai là những nguyên nhân làm cho đức tin con người
lung lạc và hay lo sợ viển vông. Chúng ta cần học hỏi để hiểu biết sự Quan
Phòng và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa.
– Có những điều xảy ra
trong cuộc đời trong sự Quan Phòng của Thiên Chúa, nhưng ngòai sự kiểm sóat của
con người: bệnh tật, già yếu, sự chết… Con người có lo sợ cũng chẳng thóat khỏi,
chi bằng phó thác hòan tòan vào tình yêu Thiên Chúa và Kế Họach Cứu Độ của
Ngài.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
19/10/2018 – THỨ SÁU TUẦN 28 TN
Th. Gio-an Brê-bớp, I-sa-ác Giô-gơ, linh mục, tử đạo
Lc 12,1-7
COI CHỪNG VI-RÚT “ĐẠO ĐỨC GIẢ”
“Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức
giả. Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta
sẽ không biết.” (Lc 12,1-2)
Suy niệm: Chúa dạy ta phải coi chừng
men Pha-ri-sêu, nghĩa là men đạo đức giả. Thứ men này rất nhỏ bé, được ví như một
thứ vi-rút cực hiếm và cực lạ, khó có thuốc chữa trị. Vì sao? Vì những thứ giả
khác như bằng cấp giả, thuốc giả, hàng hóa giả là sự vật có thể bị soi xét nhận
diện, còn đạo đức giả ở trong tâm hồn và được ngụy trang khéo léo bằng những
hình thức bên ngoài che giấu nhữngï bất chính bên trong tâm hồn rất khó phát hiện,
nhằm đánh lừa người khác. ĐTC Phanxicô cho rằng, thứ vi-rút đạo đức giả này tựa
như con rắn, cứ trườn bò luồn lách, không rõ ràng minh bạch, từ lừa dối này
sang lừa dối khác qua lời đường mật và dáng mạo bên ngoài. Thứ vi-rút đạo đức
giả này vừa tàn phá nhân cách của mọi người, kể cả Ki-tô hữu, vừa lây nhiễm rất
nhanh sang nhiều người. Tuy nhiên, như vị lương y thần linh, Chúa Giê-su khuyên
nhủ ta tránh xa thứ “men pha-ri-sêu” đó, ngăn ngừa lây nhiễm thứ vi-rút đạo đức
giả đó, bằng cách tin tưởng và đối diện với Chúa hằng ngày.
Mời Bạn: đối diện với
Chúa hằng ngày trong buổi xét mình mỗi khi đêm về để nhìn thấy tình trạng tâm hồn
của mình; tin tưởng vào Chúa để Chúa chữa trị thứ vi-rút cực hiếm đó bằng lòng
thương xót của Ngài. Việc xét mình hằng ngày còn quen thuộc với bạn không? Thiếu
xét mình hằng ngày e rằng ta đang bị nhiễm nặng vi-rút đạo đức giả rồi đó, vì cứ
ngỡ mình thập toàn.
Sống Lời Chúa: Từ tháng Mân Côi này, quyết
tâm xét mình vào mỗi tối trong buổi cầu nguyện chung hoặc riêng
Cầu nguyện: Đọc kinh Ăn Năn
Tội.
(5 Phút Lời Chúa)
Tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi (19.10.2018 Thứ Sáu tuần 28 TN)
Suy niệm:
Trước một đám đông kinh khủng chen lấn để đến gần Ngài,
Thầy Giêsu vẫn muốn ngỏ lời trước hết với các môn đệ dấu yêu.
Lần duy nhất trong Tin Mừng Nhất lãm, Thầy gọi họ là bạn hữu (c. 4).
Thầy dặn dò họ cảnh giác kẻo lây nhiễm men của người Pharisêu,
đó là thái độ đạo đức giả (c. 1).
Thái độ này luôn bao hàm một che giấu nào đó về sự thật,
khiến người nhìn bên ngoài dễ bị đánh lừa bởi những mặt nạ đạo đức.
Việc che giấu khéo léo này có thể xuôi chèo mát mái một thời gian.
Nhưng đối với Thầy Giêsu, nó không thể kéo dài mãi.
Sớm muộn gì sự thật cũng sẽ lộ diện, như chiếc kim trong bọc thò ra.
“Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra,
không có gì bí mật mà sẽ không bị người ta biết” (c. 2).
Nếu con người mãi mãi không biết, thì Thiên Chúa vẫn biết.
Chúng ta có thể tránh được máy kiểm tra nói dối của người đời,
nhưng không tránh được cái nhìn xuyên thấu tâm can của Thiên Chúa.
“Tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày;
điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà” (c. 3).
Như thế điều tưởng như không thể lọt ra ngoài, điều kín như bưng,
vẫn có thể bị đưa ra ánh sáng,
mặt nạ bị rơi xuống, và bản chất thật của con người được vén mở.
Đây là một lời đe dọa, hay đúng hơn, một lời khuyên hãy sống thực lòng.
Thầy Giêsu còn khuyên các môn đệ đừng sợ.
Chuyện bị bách hại và sát hại là chuyện có thể xảy ra.
Chuyện ấy sẽ xảy ra với Thầy và với các môn đệ nữa.
Điều quan trọng là đừng sợ kẻ sát nhân lấy đi mạng sống thân xác (c. 4).
Dù mạng sống thân xác thật đáng quý, đáng trọng,
nhưng con người không phải chỉ có thân xác hay chỉ là thân xác.
Thầy dạy cho các môn đệ biết phải sợ ai (c. 5).
Phải sợ chính Thiên Chúa, Đấng có quyền ném anh em vào hỏa ngục.
Các vị tử đạo đều tin, hiểu và sống các câu Tin Mừng này.
Họ đã chịu bao đớn đau nhục hình và cái chết thân xác,
nhưng họ đã tránh được hỏa ngục, và được đón vào lòng Thiên Chúa.
Kitô hữu phải đối diện với những thách đố cam go.
Lúc chịu bách hại lại tưởng mình bị Thiên Chúa bỏ rơi, ruồng rẫy.
Chim sẻ là thức ăn rẻ tiền cho người nghèo,
tiền lương một ngày mua được những 40 con chim sẻ.
Nếu Thiên Chúa không quên một con sẻ nào,
thì Ngài lại càng không thể quên được những người bạn của Con Ngài.
Nếu từng sợi tóc của chúng ta đã được Thiên Chúa biết,
thì chuyện mạng sống của ta hẳn được Ngài quan tâm hơn nhiều.
Hãy để lòng mình bình an vì sống không gian dối, nên không sợ bị lộ.
Hãy để lòng mình bình an vì cái chết chẳng phải là dấu chấm hết.
Hãy hạnh phúc vì biết mình là môn đệ và là bạn hữu của Thầy Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được ơn khôn ngoan
để con biết sợ điều phải sợ.
Cho con đừng sợ những đe dọa đến thân xác, tiếng tăm,
nhưng biết sợ mất đi vĩnh viễn toàn bộ con người mình.
Cho con đừng sợ những kẻ làm hại con ở đời này,
nhưng biết sợ phải xa Đấng yêu con và muốn con hạnh phúc mãi.
Xin giải phóng con khỏi những nỗi sợ đã ăn sâu vào cuộc sống,
những nỗi sợ ngấm ngầm mà chính con không dám thú nhận,
những nỗi sợ làm con chẳng bao giờ được tự do và an vui.
Nhờ đó con dám sống thật sự là mình,
tươi tắn và hồn nhiên, nhẹ nhàng và không lo lắng.
Xin dạy con ngắm những bông hoa dại vệ đường
để thấy chúng được điểm trang lộng lẫy,
và ngắm chính mình mỗi ngày,
để thấy vẻ đẹp nơi mình như một quà tặng của tình yêu.
Xin dạy con ngắm đàn chim sẻ ríu rít buổi sáng,
để biết mình chẳng nên quá lo về chuyện cơm áo gạo tiền,
nhưng nên phó thác như em thơ ngồi trong lòng mẹ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đặt đời mình trong tay Cha.
Xin cho con cũng đặt đời con trong tay Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
19 THÁNG MƯỜI
Chứng Từ Của Tình
Yêu Huynh Đệ
Sau khi ghi nhận những
công việc xuất phát từ tình yêu lớn lao dành cho Chúa Kitô trong trái tim của
người phụ nữ này – một tôi tớ nhỏ bé của Thiên Chúa – tôi liên tưởng đến giáo
huấn mà Tông Đồ Phao-lô đã viết cho các tín hữu Philipphê: “Nếu quả thật sự liên
kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ
chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân
tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được
trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn,
cùng một ý hướng như nhau” (Pl 2,1-2).
Phải chăng những lời
này của vị Tông Đồ Dân Ngoại chỉ dành cho giáo đoàn ở Philipphê? Hay chỉ gởi
cho giáo hội ở Calcutta? Không! Đó là những lời được gởi cho toàn thể Giáo Hội ở
mọi nơi trên thế giới, gởi cho mọi người Kitô hữu! Có thể nói, đó là những lời
được gởi cho mọi tín đồ thuộc mọi niềm tin tôn giáo, cho tất cả những con người
thiện chí. Đó là một chứng từ của tình yêu huynh đệ: “Xin anh em hãy làm cho niềm
vui của tôi được nên trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến,
cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm gì vì ganh tị hay vì hư
danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Pl 2,2-3).
Đừng! Chúng ta đừng
bao giờ hành động theo hướng nuôi dưỡng hận thù, bất công, hoặc gây ra đau khổ!
Đừng bao giờ hành động để chạy đua vũ trang! Đừng bao giờ hành động theo hướng
áp bức các dân tộc yếu kém! Đừng bao giờ hành động theo những dạng trá hình của
chủ nghĩa đế quốc và những ý thức hệ bất nhân chà đạp tinh thần người ta.
Cuối cùng, hãy cho
phép những người thấp cổ bé miệng được lên tiếng nói! Hãy cho phép những người
nghèo của Mẹ Têrêsa – cũng như mọi người nghèo trên thế giới – được lên tiếng
nói! Bởi tiếng nói của họ chính là tiếng nói của Đức Kitô! Amen.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 19/10
Thánh Gioan Brêbeuf,
linh mục
Thánh Isaac Jogues,
linh mục và các bạn tử đạo
Ep 1, 11-14; Lc 12,
1-7.
LỜI SUY NIỆM: “Ngay đến tóc
trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn
muôn vàn chim sẻ.”
Chúa Giêsu đang giới thiệu chúng ta về vị Thiên Chúa với tình yêu của Người. Một
tình yêu bao trùm trên cuộc sống của mỗi con người trong nhân loại, cả khi con
người không ý thức về sự hiện diện của Ngài, vì Ngài luôn hiện hữu giữa giữa những
tạo vật mà Ngài đã tạo nên, đặc biệt với con người, vì đây là tạo vật mà Mgài
ưng ý nhất, mang lấy hình ảnh của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người trong chúng con luôn ý thức sự hiện hữu của
Chúa trong đời sống của chúng con với tình yêu thương của Chúa như Thánh Vịnh
139; để chúng con luôn phó thác đời sống của mình trong bàn tay quan phòng của
Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 19-10
Thánh PHAOLÔ THÁNH
GIÁ
(1694 – 1775)
(1694 – 1775)
Ít có biến cố đẹp mắt
để ghi lại cuộc đời của Paul Prannes Daniel. Thường trọn đời Ngài dành cho cầu
nguyện, sám hối và tôn sùng cụôc tử nạn của Chúa. Ngài là dụng cụ phổ biến lòng
tôn sùng này với dòng tu Ngài thiết lập, dòng Thương khó. Ngài sinh tại miền Bắc
Ý năm 1694 từ một gia đình trung lưu đạo đức. Dầu cuộc sống Ngài cho tới tuổi15
đã diễn ra như cuộc sống bình thường của người Kitô hữu, nhưng vào thời này,
người đã trải qua một loạt trở lại khiến Ngài dâng trọn đời cho việc cầu nguyện
hãm mình: Ngài quỳ gối lâu giờ, thực hành những việc phạt xác như ngủ trên đất
và ăn chay liên tục, nhờ đó ảnh hưởng đối với những người đương thời, khiến nhiều
người đi tu dòng hay là một linh mục triều.
Vào tuổi 20, việc gia
nhập đạo quân Venise để bảo vệ Kitô giáo chống lại người Hồi cho thấy sau một
thời lý tưởng Ngài đã khác. Nhưng Ngài đã trở lại đời sống cầu nguyện hãm mình.
Sáu năm qua đi và chỉ
đến lúc 26 tuổi, Ngài mới thấy rõ hơn chuỗi ngày tương lai của mình trong một
loạt các thị kiến. Ngài hiểu rằng: mình phải lập một dòng tu đặc biệt tôn sùng
cuộc khổ nạn. Trước hết Ngài bắt đầu nếp sống mà tu sĩ dòng Thương khó sẽ phải
sống, trong khi phát ra một qui luật gửi về Roma xin phê chuẩn. Sau một ít khó
khăn, luật này đã được chuẩn nhận. Ngài và em mình là Gioan Tẩy giả đã lập dòng
ở Mote Argentaro và nhận những tập sinh đầu tiên. Đức Bênêdictô XIV đã buộc giảm
nhẹ đôi chút sự khắc khổ trong đời sống tu trì và đi rao giảng trong các miền
lân cận.
Phaolô là một nhà truyền
giáo nhiệt thành rao giảng cuộc Thương Khó khắp nơi và gây được nhiều cuộc trở
lại. Những năm cuối đời, Ngài đã lập dòng các nữ tu thương khó. Bây giờ Ngài được
dân chúng coi như một vị thánh và mỗi khi đi qua đâu, Ngài phải chịu đựng đám
đông những người lo kiếm miếng vải áo Ngài làm thánh tích, họ chạm tới Ngài hay
xin Ngài chữa bệnh hoặc một ân huệ nào khác. Ngài qua đời ngày 18 tháng 10 năm
1775 vào tuổi 80 và được tuyên thánh khoảng gần thế kỷ sau năm 1865.
Điều lạ lùng là vị
thánh người Ý không hề rời xa quê hương mình sinh trưởng lại rất quan tâm tới
việc trở lại của nước Anh mà Ngài biết đến rất ít. Ngài nói: “Nước Anh luôn ở
trứơc mặt tôi và nếu nước Anh trở lại công giáo thì ích lợi cho Giáo hội vô kể”.
Dầu bản thân Ngài đã không thể đi bước tích cực nào để cải tiến vấn đề, cũng cần
ghi lại rằng 65 năm sau khi Ngài qua đời,một tu sĩ, dòng Thương Khó, anh
Dominicô Barbeni đã tới nước Anh và trở thành dụng cụ đưa về hiệp thông với
Giáo hội Jolm Hery Newman và nhiều người khác nữa, như thế là góp phần vào việc
phục hồi đạo công giáo tại xứ sở này.
Ngày 19-10
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO MIỀN
BẮC MỸ
(Thế kỷ XVII)
(Thế kỷ XVII)
Rênê (+1642) Jean
Lalande Và Isaac Jogues (+1644) Antoine Daniel (+1648) Jean De Brébeuf Và
Gabriel Lalemant (+1649) Charles Garnier Và Noel Chabanel (+1649)
Ngay từ năm 1608, hai
tu sĩ dòng Tên đã được gởi tới miền Nova Scotia, nhưng công cuộc sớm bị ảnh hưởng
những cuộc chiến tranh với nước Anh và mãi tới năm 1632 khi Canada đi về với
Pháp, trung tâm truyền giáo mới được các tu sĩ dòn Tên thiết lập thường xuyên ở
Rucbee.
Năm 1633, bề trên Paul
le Jeune kết hợp với Jean de Brébeuf, một nhà quí phái sinh tại Normandie, và
Antoine Daniel với Ennemond Massé. Những khó khăn của các nhà thám hiểm này được
biểu trưng bằng những kinh nghiệm của Le Jeune khi Ngài theo nhóm Algonquin đi
săn bắn: những cố gắng rao giảng của Ngài bị phá hoại bởi những tiếng reo hò,
chế giễu, bởi vì người da đỏ dạy người nói thổ ngữ để châm chọc đã dùng những
chữ độc ác nhất đặt ngang với từ ngữ chỉ đức tin Kitô giáo. Le Jeune cũng bắt dầu
cảm thấy bốn khía cạnh tệ hại nhất trong đời sống dân da đỏ là: lạnh, nóng,
khói và chó. Trong căn lều chất đầy đàn ông, đàn bà và chó ngủ chung quanh đống
lửa đến khi thường bị mù lòa. Một sự kiện khiến Le Jeune nhận định: “Những
lương dân bất hạnh này trải qua cuộc sống đời tạm trong khói mờ và chôn vùi cuộc
sống đời đời trong lửa cháy”.
Le Jeune quyết định rằng
không có cuộc truyền giáo nào hy vọng thành công được nếu không hướng về những
bộ lạc đã định cư. Dân Huron sống ở miền phía đông bờ biển Huron đã được chọn
làm trung tâm truyền giáo. Năm 1634, Brébeuf Daniel và Davort đã thành công
trong việc hoà đồng với dân tộc gồm hai chục ngàn dân sống trong ba mươi làng,
mỗi làng có khoảng bảy trăm dân này.
Các nhà truyền giáo gặp
được những người da đỏ lịch sự nhưng xa cách trẻ em và những người hấp hối hầu
như không thể trở lại đạo được, vì họ chỉ coi đó là tôn giáo của người da trắng.
Họ hỏi: “Các ông có săn bắn trên thiên đàng, đánh nhau hay mừng lễ không ?”. Được
trả lời là không. Họ liền đáp lời: “Vậy chúng tôi không tới đó đâu. Nhàn cư vi
bất thiện. Các nhà truyền giáo nhận thấy điều chống lại mình chính là cả nếp sống
với những cưới hỏi phải tranh hùng, những hành hạ và những cuộc ăn thịt người.
Các Ngài quyết định chính mình tập trung dân lại, không coi họ là đồng minh.
Nhưng khích lệ và còn hy vọng những cuộc hôn nhân với dân cư gốc Pháp nưã.
Sự sáng suốt của quyết
định này đã được củng cố với những kinh nghiệm thu lượm được trong cuộc thí
nghiệm năm 1638, trùng hợp với việc đến góp mặt của năm nhà truyền giáo khác nữa
trong đó có: Isaac-Joques, một học giả và nhà lực sĩ có thể qua mặt cả người da
đỏ và Charles Garnier. Dân da đỏ bắt đầu thù nghịch với các tu sĩ dòng Tên như
là những phù thủy nguyền rủa dân tộc họ, khi ấy bóng áo dài của các Ngài in
trên nền tuyết trắng trên đường đi tới làng nào, trẻ con khóc thét tìm mẹ như
là cơn đói và dịch tễ đã đến. Đó là lúc Jean de Brebeuf thấy thánh giá vĩ đại của
mình tiến đến từ vùng đất dân Iroquois cư ngụ, kẻ thù của dân Huron. Khi được hỏi
thánh giá ấy giống cái gì, Ngài trả lời: “Nó lớn đủ để đóng đinh tất cả chúng
ta”.
Dân Iroquois nuôi dưỡng
sự tức giận từ khi bị người Pháp đánh bại 30 năm về trước và mức độ tấn công của
họ ngày càng lớn thêm. Vào tháng tám năm 1624 Jognes, Goupil (một giáo dân cộng
tác vào việc truyền giáo) và một nhóm người da đỏ từ Quebu trở về với thực phẩm
cần thiết cho nhóm truyền giáo và những người dân da đỏ đói khổ. Họ bị dân
Iroquois tấn công và bắt giữ. Dân này gặm tay họ như chó dại, rút móng tay và bắt
họ chạy giữa hai hàng người cho người ta đánh đập mỗi khi qua làng nào. Sự tinh
chế hay là “Mơn trớn” (như người da đỏ nói) của cực hình họ chịu còn nhiều hơn
nữa: than nóng, dao mác, cắt xẻo để diễu cợt và vui chơi. Cái chết trong bầu
khí quỉ quái hơn là chỉ để vui chơi, thường bằng cách thiêu sống và rồi sau đó
thân thể được phân phát làm của ăn.
Goupil tồi tệ nhất.
Ngài bị giết ngày 29 tháng 9 năm 1642 bằng một nhát búa vì dám rửa tội một em
bé nhưng Jognes bị giam giữ nhiều tuần với bản án tử hình vĩnh viễn. Cuối năm
1643, với sự trợ giúp của vài nhà buôn Hòa Lan, Ngài đã trốn thoát được về Pháp
bằng tàu, nhưng lại trở lại truyền giáo năm 1644 và được chính quyền miền tân
Pháp gửi tới dân Iroquois như một sứ giả trong một thời gian hưu chiến ngắn.
Được khích lệ bởi những
kết quả của cuộc viếng thăm này, Jognes đã trở lại với một giáo hữu trợ tá khác
là Jean Lalande. Nhưng thành công của họ không sống lâu: một vụ mất mùa, một
cái hộp khả nghi của Jognes mà người da đỏ tin là có chứa một tai họa và cả hai
bị bắt, bị hành hạ, bị giết ngày 18 tháng 10 năm 1644.
Hầu hết dân Huron đã bắt
đầu đón nhận đức tin Kitô giáo, tinh thần của họ như một dân bị khổ cực với những
cuộc tấn công liên lỉ của dân Iroquois. Cuộc tử đạo kế tiếp xảy ra vào ngày 4
tháng 7 năm 1648 khi pháo đài chính xứ thánh Giuse, một làng 26 ngàn người bị
dân Iroquois phá hủy. Antoin Daniel thành công trong 4 năm liên tiếp vừa mới cử
hành thánh lễ xong, khi thấy nhóm người bảo vệ bị vây khốn, Ngài giục họ trốn
đi và nói: “Tôi sẽ ở lại đây, chúng ta sẽ gặp lại nhau trên thiên đàng”. Mặc
nguyên áo, Ngài tiến ra gặp người Iroquois. Họ ngỡ ngàng nhìn lại một chút, rồi
bắn một loạt tên. Sau đó bắt nạn nhân của mình, tắm mặt họ vào máu Ngài và ném
xác Ngài vào ngôi nhà thờ đang bốc cháy.
Mùa Xuân tiếp sau, người
Iroquois tăng gấp đôi nỗ lực nhằm hại người Huron và trong một cuộc tấn công của
1000 người vào làng thánh Lu-y, họ bắt thánh Jean de Brébeuf và Gabriel Lement,
thánh Jean de Brebeuf bị hành hạ nghiêm khắc đến nỗi đã chết sau 4 tiếng đồng hồ.
Một chiếc vòng bằng vàng những cái rìu nóng đỏ quấn quanh cổ Ngài và Ngài đã được
một người Huron phản đạo rửa tội trong nước sôi. Nằm chết, đám đông uống máu
Ngài và thủ lãnh họ được đặc ân ăn trái tim Ngài.
Lelemant ốm yếu đã sống
sót được 17 giờ bị hành hạ trước khi tắt hơi ngày 17 tháng 3 năm 1649.
Hai vị tử đạo khác bị
những người Thổ của Giáo hội người da đỏ kêu gào đòi mạng khi sự khủng khiếp trải
rộng tới dân tộc Tobacco sống ở những thung lũng núi Blue. Trong cuộc tấn công
vào xứ thánh Gioan tháng 12 năm 1644, Charles Garnier đã bị giết khi Ngài cố gắng
giải tội cho một người da đỏ, đang hấp hối. Là con của một người dân thành
Paris, Ngài đã sống bằng rễ cây và trái sồi và đi bộ 30 hay 40 dặm dứơi sức
nóng của mùa hạ qua miền đất thủ hần để rửa tội một người da dỏ đang hấp hối. Bạn
Ngài, Noel Chabanel ngán các điều kiện của việc truyền giáo đến nỗi tự buộc
mình bằng lời khấn sẽ ở lại đó cho tới chết, đã bị giết chết bởi một người
Huron phản đạo vì tin rằng: tôn giáo mới chịu trách nhiệm về số phận đau khổ của
quê hương anh ta.
Cuộc truyền giáo cho
người Huron như thế thật gian khổ chỉ thấy chán nản thất vọng và phân tán. Tuy
vậy ảnh hưởng của cuộc truyền giáo đã thay đổi nếp sống những người da đỏ, dầu
họ còn hoang dại nhưng hết độc ác.
(daminhvn.net)
19 Tháng Mười
Ôi Giêsu, Ôi Giêsu!
Jeanne D’Arc, một
cô gái quê, đã nghe theo tiếng gọi từ trời cao để cầm quân đánh đuổi người Anh
ra khỏi đất Pháp. Nhờ chiến thắng này, hoàng tử Charles đã được đăng quang làm
vua nước Pháp.
Nhưng sau đó trong
một trận chiến khác, Jeanne D’Arc bị bại trận, cô bị người Anh bắt giữ và kết
án hỏa thiêu. Trong những giờ phút cuối cùng cô chỉ còn trơ trọi một mình: người
mẹ thân yêu ở cách xa ngàn dặm, vua Charles không muốn bỏ tiền ra để chuộc cô,
các tướng lãnh và binh lính đã từng sát cánh bên cô cũng đã bỏ chạy trốn hết.
Chỉ còn lại âm thanh lúc nào cũng trung thành với cô: đó chính là tiếng kêu của
cô.
Trong cơn đau đớn
cùng cực, người thiếu nữ đã kêu lớn: “Ôi Giêsu, ôi Giêsu!”. Quả thật, dù lòng
người có bội bạc phôi pha, Chúa Giêsu vẫn luôn ở với cô và luôn an ủi đỡ nâng
cô.
Tin tưởng là tiếp tục
yêu mến cho dù trong từng phút giây ta có bị người đời bỏ rơi, phản bội. Yêu là
tin rằng ta có thể trung thành trước những bất trung của người khác và những
thăng trầm của cuộc sống. Chúng ta đứng vững trong niềm tin vì cho dù xung
quanh ta không còn một bóng người, Thiên Chúa vẫn luôn ở đó.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét