Ngày 7 tháng Giêng
hay thứ Hai sau Lễ Hiển Linh
Bài Ðọc I: 1 Ga 3, 22 - 4,
6
"Hãy nghiệm xét các
thần trí, coi có phải bởi Thiên Chúa hay không".
Trích thư thứ nhất của Thánh
Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, bất cứ điều
gì chúng ta xin, thì chúng ta cũng lãnh nhận được nơi Chúa, vì chúng ta giữ các
giới răn Người và làm điều đẹp lòng Người. Và đây là giới răn của Người: chúng
ta phải tin vào thánh danh Con của Người, là Chúa Giêsu Kitô, và phải thương
yêu nhau, như Người đã ban giới răn cho chúng ta. Ai giữ các giới răn của
Người, thì ở trong Người và Người ở trong họ. Do điều này mà chúng ta biết
Người ở trong chúng ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta.
Các con thân mến, chớ tin bất
cứ thần trí nào, nhưng hãy nghiệm xét các thần trí, coi có phải bởi Thiên Chúa
hay không, vì có nhiều tiên tri giả đã xuất hiện trong thế gian. Do điều này mà
các con biết là thần trí của Thiên Chúa: Thần trí nào tuyên xưng Chúa Giêsu
Kitô đã đến trong xác phàm thì là bởi Thiên Chúa; còn thần trí nào phủ nhận Chúa
Giêsu, thì không bởi Thiên Chúa mà ra, đó là thần trí của Phản-Kitô; các con
nghe nói rằng nó đến, và hiện giờ nó đã ở trong thế gian rồi.
Các con thân mến, các con bởi
Thiên Chúa mà ra và đã thắng nó, vì Ðấng ở trong các con thì cao trọng hơn kẻ ở
trong thế gian. Chúng thuộc về thế gian, nên nói chuyện thế gian, và thế gian
nghe theo chúng. Chúng ta bởi Thiên Chúa mà ra. Ai biết Thiên Chúa, thì nghe
chúng ta; còn ai không bởi Thiên Chúa, thì không nghe chúng ta. Do đó mà chúng
ta biết được thần trí chân thật và thần trí dối trá.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 2, 7-8. 10-11
Ðáp: Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp (c. 8a).
Xướng: 1) Ta sẽ tuyên rao
thánh chỉ của Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta: "Con là thái tử của Cha, hôm
nay Cha đã sinh thành ra Con. Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được chư dân làm
phần sản nghiệp, và cùng kiệt cõi đất làm gia tài". - Ðáp.
2) Giờ đây, hỡi các vua, hãy
nên hiểu biết; quân vương mặt đất nên giác ngộ. Hãy kính sợ làm tôi Chúa và hân
hoan mừng Ngài; hãy khiếp run tỏ bày sự vâng phục Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Mt 4,17
Alleluia, alleluia! - Dân
ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người
ngồi trong bóng sự chết. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 4, 12-17. 23-25
"Nước trời đã đến
gần".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, nghe tin Gioan bị
nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ Nadarét, đến ở miền duyên hải
thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nephtali, để ứng nghiệm lời đã phán
bởi miệng tiên tri Isaia rằng:
"Hỡi đất Giabulon và đất
Nephtali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân
ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người
ngồi trong bóng sự chết". Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói:
"Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến".
Và Chúa Giêsu đi rảo quanh
khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước
trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Tiếng tăm Người đồn ra khắp
xứ Syria. Người ta đã đem đến cho Người đủ thứ bệnh nhân, những người mắc phải
tật nguyền đau đớn, quỷ ám, kinh phong, bất toại. Người đã chữa họ lành. Dân
chúng đông đảo theo Người, họ đến từ xứ Galilêa, miền Thập Tỉnh, Giêsrusalem,
Giuđêa và vùng bên kia sông Giođan.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Dân Do thái đang trong tâm
trạng sầu khổ dưới ách gông cùm đô hộ của ngoại bang. Họ như đoàn người đang
phải lầm lũi trong bóng tối tăm, bị tử thần vây bủa. Họ khát khao được nguồn
ánh sáng chiếu tỏa giải cứu. Ðức Giêsu là vị Cứu Tinh đích thực được Thiên Chúa
sai đến để đưa họ vào miền tự do, miền ánh sáng của Thiên Chúa. Sung sướng biết
bao! Họ được loan báo một tin trọng đại: Nước Trời. Nước Hạnh Phúc đã gần.
Cầu Nguyện:
Lạy Cha, chúng con cũng đang
trong tâm trạng sầu khổ như dân Do Thái xưa. Chúng con cũng bị gông cùm của sa
tan, bị ách tội lỗi đè nặng trên chúng con. Chúng con thấy khổ tâm, nhưng không
sao thoát ra được. Quả thật, chúng con không thể tự cứu mình; và cũng không ai
có thể cứu được chúng con.
Tuy nhiên, chúng con không
thất vọng, vì Cha đã ban Ðức Giêsu cho chúng con. Ngài là vị Cứu Tin đến đem
bình an và ơn Cứu Ðộ cho chúng con. Có Ðức Giêsu, chúng con bảo đảm được hạnh
phúc. Trong niềm hân hoan, chúng con muốn reo lên lời tạ ơn: Xin tạ ơn Cha cùng
với Ðức Giêsu Kitô Con Cha, Chúa chúng con. Amen.
Chúng
ta được mời gọi trở thành sự hiển linh của Chúa
trong môi trường chúng ta sinh sống
Hôm nay, mỗi người chúng ta
được mời gọi trở thành sự hiển linh của Chúa trong môi trường chúng ta sinh
sống. Nghĩa là mỗi người chúng ta phải càng ngày càng trở nên giống như Chúa
Giêsu Kitô hơn, để anh chị em xung quanh nhìn thấy việc tốt chúng ta làm mà
ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời.
Chuyện cổ của người Ả Rập có
kể một câu chuyện như sau:
Một vị vua trẻ vừa mới lên
ngôi kế nghiệp cha, ông rất yêu thương thần dân của mình, vị vua trẻ này rất
cảm thông những nỗi khổ đau của các thần dân trong nước và hằng ngày chỉ mong
sao cho mọi người có được cơm ăn, áo mặc, nhà ở, sống hạnh phúc. Thế nhưng, xem
ra như dân chúng không màng chi đến tình thương và sự săn sóc này, họ không tỏ
vẻ quí trọng, không có mối liên lạc thân tình nào đối với nhà vua.
Buồn lòng vì thái độ lãnh đạm
của dân chúng. Nhà vua triệu tập các quan cận thần đến hỏi ý kiến: làm sao để
được dân chúng đáp lại tình thương của mình, biết lắng nghe những lời khuyên
của mình để được sống an vui hạnh phúc hơn, để họ nhìn nhận tình thương của
mình đối với họ. Bấy giờ một viên quan cận thần trả lời:
- Thưa Ngài, dân chúng không
lắng nghe Ngài, không nhận tình thương của Ngài, vì thấy Ngài sống khác xa với
họ. Xin nhà vua hãy đến sống giữa họ, không phải như một nhà vua sang trọng,
nhưng như một người như họ và giữa họ.
Nghe lời khuyên, nhà vua thay
đổi y phục, trở thành như một người dân tầm thường, rời bỏ cung điện ra đi tìm
mướn một căn nhà nghèo, sống giữa những thần dân của mình. Nhà vua trở thành
người dân, hằng ngày làm việc cực nhọc như bao người khác, ngoài ra còn đi thăm
những người nghèo xung quanh, giúp đỡ những kẻ đau yếu, khuyên lơn những ai gặp
khó khăn, và tiếng đồn về một người nghèo phúc hậu, thương người đang sống giữa
xóm nghèo càng ngày càng thêm, và mọi người trong nước tìm đến, muốn được nghe,
được cùng sống và cùng làm việc với người nghèo nổi tiếng thương người này. Bất
cứ chương trình gì mà người nghèo nổi tiếng này đề ra thì được mọi người chấp
nhận.
Sau thời gian sống như vậy.
Một hôm người nghèo biến mất, và nhà vua xuất hiện trở lại như một vị vua đi
thăm dân chúng. Lúc đó, dân chúng mới vỡ lẽ nhận ra người nghèo phúc hậu kia
chính là nhà vua. Và kể từ đó, họ sống chung với nhau, cùng quan tâm đến những
dự án mà nhà vua muốn thực hiện để nâng cao cuộc sống của họ.
*
*
*
Quí vị và các bạn thân mến,
Câu chuyện vui trên giúp
chúng ta thêm phấn khởi để hiểu về Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể làm Người
mà chúng ta mừng kính trong mùa Giáng Sinh sắp kết thúc với Chúa Nhật lễ Hiển
Linh.
Con Thiên Chúa đã trở thành
con người thật, chấp nhận mọi thân phận của con người ngoại trừ tội lỗi để
chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa Cha đối với loài người. Trong câu chuyện vui trên,
dân chúng trong vương quốc nhìn ra nhà vua của họ qua dung mạo người nghèo sống
giữa họ, và kể từ đó có liên lạc thân tình hơn với nhà vua của mình.
Phần chúng ta, lễ Hiển Linh
là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người. Lễ Giáng Sinh nhấn mạnh đến khía
cạnh nhập thể, Con Thiên Chúa làm Người. Lễ Hiển Linh bổ túc cho lễ Giáng Sinh,
nhắc cho con người chiều kích hiển linh của mầu nhiệm nhập thể. Nhắc cho con
người nhớ rằng: Con trẻ, con người đặc biệt đây là Con Thiên Chúa là vua vũ trụ
đã xuống thế làm người cho tất cả mọi người.
Bài Phúc Âm hôm nay vừa nhắc
chúng ta về thái độ khác nhau của con người đối với Con Thiên Chúa nơi trẻ
Giêsu sinh ra làm con Mẹ Maria. Tựu trung có hai thái độ: chối từ và chấp nhận:
vua Hêrôđê, các Thầy Thượng Tế của Do Thái giáo, các vị tiến sĩ thông thái luật
của Chúa và lời giảng dạy của các Tiên Tri. Những người này đã chối từ, và tệ
hại hơn, vua Hêrôđê còn có thái độ giả nhân, giả nghĩa, đóng kịch với ba đạo sĩ
từ Ðông Phương tìm đến và đang đi tìm Chúa để tôn thờ. Vua Hêrôđê xem Chúa như là
kẻ thù, như người sẽ chiếm lấy địa vị xã hội và vinh quang quyền hành trần gian
của mình. Vua Hêrôđê không thoát ra được khỏi cảnh sống tốt đẹp của mình, để
lắng nghe ơn Chúa soi sáng, để nhìn thấy dấu chỉ ơn Chúa thực hiện trong lịch
sử, trong thiên nhiên, để đi tìm và nhìn nhận Chúa. Còn các vị vua phương đông
thì dám liều, dám đi tìm, bỏ cảnh sống của mình, từ bỏ những tiện nghi mình
đang hưởng, để nghe theo sự soi sáng của ân sủng Chúa, để biết nhìn thấy sự lạ,
và qua sự lạ đó như là lời mời gọi của Thiên Chúa và đã gặp Chúa, và khi gặp
được Ngài, họ không thắc mắc, nhưng khiêm tốn tôn thờ vua vũ trụ nơi dung mạo
một con trẻ yếu đuối nghèo hèn, con của Mẹ Maria. Với chúng ta, bao lễ Hiển
Linh đã qua rồi trong cuộc đời chúng ta mà chúng ta có gặp được Chúa hay chưa?
Xin Chúa hướng dẫn và soi
sáng giúp mỗi người chúng ta trở về gặp lại Chúa và tôn thờ Ngài.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày Thứ Hai sau Lễ Hiển Linh
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải học Lời Chúa để
nhận ra sự thật!
Chúng ta đang sống trong thế giới vàng
thau lẫn lộn: sự thiện và sự ác, sự thật và sự giả trá điêu ngoa. Một người
bình thường rất khó nhận ra sự thật từ biết bao nhiêu sự gian dối, người thành
thật từ những người giả trá điêu ngoa. Làm sao để nhận ra sự thật và người
thành thật?
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những tiêu
chuẩn để nhận ra sự thật. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan cho chúng ta 2 tiêu
chuẩn để nhận ra sự thật: (1) Người nói sự thật là những người tin vào Đức
Kitô; và (2), người nói sự thật sẽ bị thế gian ghét bỏ. Trong Phúc Âm, Thánh
Matthêu tường thuật bước đường đầu trong sứ vụ rao giảng của Đức Kitô: Ngài
không những mang ánh sáng xua tan những vùng tăm tối sự chết của Dân Ngọai, mà
còn cả cho những người Do-Thái đang mong chờ Đấng Cứu Thế ra đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Phải ở lại trong Thiên Chúa để nhận ra sự thật.
1.1/ Làm thế nào để ở lại trong Thiên Chúa? Theo
Gioan, để ở lại trong Thiên Chúa, các tín hữu phải giữ các giới răn: “Ai tuân giữ các điều
răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người
ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó
là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta.” Theo truyền thống
Do-Thái, biết Thiên Chúa không phải chỉ là họat động của tri thức, nhưng phải
ảnh hưởng đến đời sống của người tin; nói cách khác, biết Thiên Chúa là phải
giữ các giới răn của Ngài. Theo Gioan, hai giới răn quan trọng nhất là:
(1) Phải tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của
Người: Theo
Gioan, đây là điều kiện để trở thành tín hữu, thành con Thiên Chúa. Sở dĩ Gioan
nhắc lại điều này, là có những bè rối xuất thân từ cộng đòan tín hữu, từ chối
nhân tính hay thiên tính của Đức Kitô.
(2) Phải yêu thương nhau: Thiên Chúa là tình yêu,
ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Khi một người có Thiên Chúa, là có
cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Ngược lại, ai ghét anh em mình, kẻ ấy sẽ không có Thiên
Chúa.
1.2/ Làm thế nào để nhận ra sự thật? Phải cân
nhắc để nhận ra sự thật: “Anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các
thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan
tràn khắp thế gian.” Hai tiêu chuẩn cần dựa vào để nhận ra sự thật:
(1) Người nói sự thật là người nhìn nhận Đức
Kitô đến từ Thiên Chúa: “Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần
khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì
thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giêsu, thì
không bởi Thiên Chúa; đó là thần khí của tên Phản-Kitô.” Anh em đã nghe nói là
nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi. Thời Thánh Gioan, có ít nhất
2 bè rối chống nhân tính của Đức Kitô là Phái Thuần Tri Thức và Bè rối
Docetism; trong khi Nhóm Do-Thái bảo thủ từ chối không tiếp nhận thiên tính của
Chúa Giêsu.
(2) Người nói sự thật không được thế gian chấp
nhận: Đối
với Gioan, chỉ có trắng hay đen, chứ không có vùng xám ở giữa; chỉ có sự thật
của những người tin theo Đức Kitô hay sự gian trá của những người không tin Đức
Kitô. Người Kitô hữu là những người tin Đức Kitô. Họ thuộc về Thiên Chúa. Họ nói
sự thật và thế gian không tin họ. Kẻ Phản-Kitô là những người từ chối không tin
Đức Kitô. Họ thuộc về thế gian. Họ nói những điều giả trá và thế gian tin họ.
Tuy nhiên, Gioan củng cố niềm tin của các tín hữu: “Hỡi anh em là những người
con bé nhỏ, anh em thuộc về Thiên Chúa, và anh em đã thắng được các ngôn sứ giả
đó, vì Đấng ở trong anh em mạnh hơn kẻ ở trong thế gian. Các ngôn sứ giả đó
thuộc về thế gian; vì thế, chúng nói theo thế gian, và thế gian nghe chúng. Còn
chúng ta, chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Ai biết Thiên Chúa thì nghe chúng ta.
Ai không thuộc về Thiên Chúa thì không nghe chúng ta. Chúng ta cứ dựa vào đó mà
nhận ra thần khí dẫn đến sự thật và thần khí làm cho sai lầm.”
2/ Phúc Âm: Chúa
Giêsu tỏ mình cho tất cả mọi người.
2.1/ Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ giảng dạy cho Dân
Ngọai tại miền Bắc của Galilee:
Galilee là vùng đất phì nhiêu, rất đông dân,
nhưng bao quanh bởi các Dân Ngọai: Phía Tây Bắc là người Phoenicia, phía Đông
Bắc là người Syria, và phía Nam là người Samaria; vì thế, Galilee chịu nhiều
ảnh hưởng của Dân Ngọai hơn bất cứ vùng nào của người Do-Thái. Hơn nữa, Galilee
còn là trục lộ giao thông của miền Trung Đông: Con Đường Ven Biển nối từ
Damascus, Syria, tới Ai-Cập, rồi qua Phi Châu phải băng ngang qua Galilee; Con
Đường tới phía Đông cũng phải qua Galilee. Vì thế, có thể nói: giao thông của
thế giới phải ngang qua Galilee. Trong khi đó, Judah ở một vị trí tách biệt,
không tiện lợi cho việc giao thông tới các nơi trên thế giới. Có người nhận xét
về sự khác biệt giữa hai miền như sau: “Galilee là đường dắt tới mọi nơi, trong
khi Judah không dắt tới đâu cả.” Điều này cho chúng ta thấy, Chúa Giêsu rất
tinh tế trong việc lựa chọn địa danh để rao giảng. Ngài chọn Galilee là chỗ
đông dân cư, và là chỗ qua lại của nhiều nền văn minh thế giới; để nhiều người
có cơ hội nghe Tin Mừng Ngài rao giảng.
Trình thuật hôm nay cũng đề cập tới việc
Chúa Giêsu làm ứng nghiệm lời Tiên-tri Isaiah khi Ngài bắt đầu sứ vụ rao giảng
tại vùng này: “Này đất Zebulun, và đất Naphtali, hỡi con đường ven biển, và vùng
tả ngạn sông Jordan, hỡi Galilee, miền đất của Dân Ngoại! Đoàn dân đang ngồi
trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong
vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.”
2.2/ Từ Zebulun và Naphtali, Tin Mừng của Chúa
Giêsu được lan rộng ra khắp nơi:
(1) Trước hết, Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng
trong khắp miền Galilee; sau đó đến các vùng: Thập Tỉnh, Thành Jerusalem, miền Judah, và
vùng bên kia sông Jordan. Dân chúng các nơi lũ lượt kéo đến đi theo Người.
(2) Họat động truyền gíao của Chúa Giêsu: Tin Mừng Chúa Giêsu rao
giảng là "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần." Ngài giảng
dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh
hoạn tật nguyền trong dân. Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ
bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã
chữa lành họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải nhận ra nhu cầu học hỏi Lời Chúa
để biết và sống theo sự thật.
- Chỉ có một cách duy nhất để nhận ra sự thật từ
bao nhiêu sự gian dối là dựa vào Lời của Thiên Chúa.
- Hai tiêu chuẩn căn bản để nhận ra sự thật:
chúng ta phải tin Đức Kitô đến từ Thiên Chúa và phải giữ các giới răn của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
Thứ Hai sau Hiển Linh
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã kêu gọi
hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần. Sám hối là điều kiện tiên quyết để được
đón nhận Chúa. Chúng ta cần sám hối không phải một lần hoặc vài lần, nhưng cần
sám hối mỗi ngày và trong từng phút giây của cuộc sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, lời
mời gọi của Chúa nhắc lại lời mời gọi sám hối của thánh Gioan Tẩy Giả: “Hãy ăn
năn sám hối”. Chúa đã nhập thể làm người và đã đích thân rảo qua các nẻo đường
để rao giảng Tin Mừng. Là ánh sáng, Chúa không thể giấu mình được, Chúa cần
chia sẻ chính mình. Chúa đã đến không như một ánh lửa leo lét, nhưng như ánh
sáng huy hoàng để soi lối cho những ai đang ngồi trong bóng tối tử thần biết
tìm về ơn cứu độ.
Lạy Chúa, để nhận ra ánh sáng đó, con cần có
lòng khao khát ước mong. Ánh sáng
của Chúa cũng vô ích nếu con không muốn thấy bởi vì đối với người mù, ngay cả
mặt trời chính ngọ cũng chẳng khác gì đêm tối. Ánh sáng chỉ thuận lợi cho con
nếu con muốn và có thể sử dụng. Chúa luôn tôn trọng sự tự do của con. Chúa đến
để giải thoát con khỏi đêm tối tội lỗi.
Xin ánh sáng của Chúa chiếu soi vào tâm hồn con,
để con nhận biết thân phận yếu đuối tội lỗi của mình. Bởi vì nhận biết mình tội
lỗi là bước đầu của lòng sám hối. Lòng sám hối đích thực của con là quyết tâm
sống tốt hơn với những việc làm cụ thể theo Lời Chúa dạy. Xin Chúa giúp con
luôn biết sám hối trong suốt cuộc đời.
Xin cho Lời Chúa hôm nay hoán cải tâm hồn con,
để ánh sáng của Chúa lan tỏa trong con, phá tan mọi ảnh hưởng tội lỗi, làm cho
nẻo đường con đi luôn trong sáng, thánh hóa đời sống con nên thánh thiện. Amen.
Ghi nhớ: "Nước trời đã đến
gần".
www.phatdiem.org
07/01/13 THỨ
HAI SAU LỄ HIỂN LINH
Th. Râymunđô Pênhapho, linh mục
Mt 4,12-17.23-25
Th. Râymunđô Pênhapho, linh mục
Mt 4,12-17.23-25
TIẾP NỐI SỨ VỤ CHÚA GIÊ-SU
Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội
đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền
trong dân.(Mt 4,23)
Suy niệm: Galilê nằm ở miền bắc
Palestine, từ bắc chí nam dài 80 cây số, thời Chúa Giêsu có 294 làng, mỗi làng
độ 15 ngàn dân. Khi mới vào đất hứa, miền này dành cho chi tộc Ase, Naptali và
Dơvulun nhưng luôn có người Canaan cư ngụ nên đây là vùng cư dân tạp chủng. Sứ
vụ của Chúa Giêsu diễn ra hầu hết tại lãnh thổ đông dân và nhiều dân ngoại này.
Chính tại đây Chúa đã chia sẻ cuộc sống và làm cho người ta nhận biết và đón
nhận tình yêu Thiên Chúa qua việc rao giảng Tin Mừng, chữa lành mọi bệnh hoạn
tật nguyền. Ngài đã mang ánh sáng cứu độ đến cho những người còn ngồi trong
bóng tối tội lỗi và tử thần.
Mời Bạn: Thế giới ngày nay tràn ngập
thông tin, kiến thức nhiều nhưng điều minh triết thực lại hiếm hoi. Chúng ta
được kêu mời để tiếp nối sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu. Đây không phải
thông truyền hiểu biết loài người nhưng là rao giảng sự khôn ngoan, chân lý
vĩnh cửu của Thiên Chúa trong niềm tin vào quyền năng và sức mạnh của Chúa
Thánh Thần. Khi đem Tin Mừng cho người khác, tôi đem cho họ điều cốt yếu nhất
cho sự sống của họ.
Chia sẻ: Trong Năm Đức Tin, chúng tôi có
việc gì cụ thể để loan báo Tin Mừng cho những người chưa biết Chúa?
Sống Lời Chúa: Sống bác ái là cách tích cực để
loan báo Tin Mừng.
Cầu nguyện: “Xin Cha thôi thúc nơi chúng
con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin, hạnh phúc, và bình
an của mình cho tha nhân, và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.”
(Thắp Sáng Niềm Tin, 71)
www.5phutloichua.neT
Ánh sáng và sự sống
Làm thầy dạy và làm lương y là hai nghề
đặc biệt tiếp nối công việc ngày xưa của Thầy Giêsu, để loan báo cho thế giới
hôm nay về sự sống, ánh sáng và hy vọng.
Suy niệm:
Từ sau lễ Hiển Linh đến lễ Chúa
Giêsu chịu phép Rửa, Giáo Hội cho
chúng ta đọc các bài Tin Mừng về việc Chúa tỏ mình. Mỗi bài là một dịp Chúa tỏ mình cho Dân của
Người.
Bài đọc hôm nay cho thấy Đức Giêsu
tỏ mình lần đầu tiên tại Galilê,
vùng đất có nhiều người ngoại giáo sinh sống. Ngài tỏ mình tại Caphácnaum, một tỉnh lớn
chuyên đánh cá gần hồ Galilê, tỉnh này nằm trong địa giới của chi tộc Naptali ngày xưa.
Thánh Mátthêu thấy việc tỏ mình này
làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh
sáng huy hoàng, những kẻ đang
ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1). Như thế Đức Giêsu
chính là ánh sáng rực rỡ xua tan bóng tối, Người nâng dậy những ai đang ngồi trong cảnh
chết chóc, tối tăm. Phần sau của
bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy điều đó (Mt 4, 23-25).
Đức Giêsu đã đi khắp vùng Galilê để
làm ba việc: dạy dỗ trong
các hội đường, rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh nhân. Thật ra việc dạy dỗ và việc rao giảng có thể
coi là một, nếu thế chương
trình hành động của Đức Giêsu sẽ gồm giảng dạy và chữa bệnh. Dù giảng dạy hay chữa
bệnh, Đức Giêsu chỉ muốn một điều đó là làm vơi nhẹ gánh nặng của những người đang đau khổ.
Đức
Giêsu loan báo Nước Trời đã đến gần (Mt 4, 17), và Người chứng tỏ cho thấy Nước ấy đã đến thật
rồi qua việc chữa
lành moi bệnh hoạn tật nguyền của dân. Cách đây hai ngàn năm, đã có những người bị quỷ ám, kinh
phong, bại liệt. Ngày nay, dù
khoa học tiến bộ, nhưng bệnh tật vẫn không tha con người. Y khoa vẫn phải đối mặt với những chứng bệnh
mới, chưa có thuốc chữa.
Con
người không bị ám bởi quỷ, nhưng bởi những sản phẩm do mình làm ra. Làm thầy dạy và làm
lương y là hai nghề đặc biệt tiếp nối công việc ngày xưa của Thầy Giêsu, để loan báo cho thế
giới hôm nay về sự sống, ánh sáng và hy vọng.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người
nghèo khổ được no đủ. Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ
đủ sức đối diện với
những khó khăn gay gắt của cuộc sống. Vì Chúa bị kết án
bất công, xin cho
chúng con can đảm bênh vực sự thật. Vì Chúa bị làm nhục
và nhạo báng, xin cho
phụ nữ và trẻ em được tôn trọng. Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người
bệnh tật được đỡ nâng. Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hòa
thắng được bạo lực. Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại
với trời, con
người nối lại mối dây liên đới với nhau. Vì Chúa đã phục
sinh trong niềm vui òa vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Nước trời đã đến gần".
Nhận biết mình tội lỗi
Có
hai người tìm đến một vị ẩn sĩ để xin chỉ giáo. Vị ẩn sĩ gọi từng người đến gặp
riêng. Người thứ nhất nói: “Thưa thầy, con đã phạm tội xấu xa vô cùng”. Người
thứ hai thưa: “Thưa thầy, con thấy không có gì cần thiết phải xưng thú cả, tất
cả những tội con đã phạm chỉ là những thiếu sót không đáng kể”.
Vị
ẩn sĩ thinh lặng trong giây lát như để suy nghĩ, rồi truyền cho hai người hãy
đi và mang về hòn đá lớn hay nhỏ tùy theo tội của mình. Người thứ nhất trở lại
với tảng đá lớn, vừa trút gánh nặng trước mặt vị ẩn sĩ, anh thở ra nhẹ nhõm.
Người thứ hai cũng trở về với những viên đá cuội, anh vừa trao cho vị ẩn sĩ vừa
ca hát như không có gì phải nhọc công.
Thế
nhưng, vị ẩn sĩ lại ra lệnh cho họ đem những hòn đá này đi và đặt lại đúng chỗ
đã tìm thấy. Người thứ nhất đã làm việc này một cách dễ dàng, còn người thứ hai
cảm thấy bối rối, vì không nhớ rõ mình đã nhặt những viên đá cuội ở đâu, anh
trở lại với túi đá cuội vẫn còn nguyên vẹn. Bấy giờ vị ẩn sĩ mới dẫn giải: Khi
ta phạm tội trọng, lương tâm ta luôn bị đè nặng, nhưng nếu ta thực sự thống
hối, thì sức nặng ấy được cất đi dễ dàng; trái lại, khi ta phạm tội nhẹ, ta cảm
thấy như không có gì đè nặng lương tâm, do đó ta không muốn ăn năn sám hối, ta
vẫn phạm tội mà không ý thức được mình là tội nhân.
Thiên
Chúa mặc khải cho con người về chính Ngài, đồng thời Ngài cũng nói cho con
người biết nó là ai. Và ý thức đầu tiên mà Thiên Chúa gợi lên cho con người
chính là thân phận tội lỗi của nó. Chỉ có một tôn giáo được mặc khải mới tỏ bày
bộ mặt ấy của con người.
Lời
đầu tiên của Chúa Giêsu khi khai mở sứ điệp của Ngài, đó là “Hãy sám hối vì
Nước Trời đã gần bên”. Hãy sám hối trước tiên là hãy nhận ra thân phận yếu hèn
tội lỗi của mình. Đó là ý thức cơ bản nhất của người có niềm tin. Chỉ khi nào ý
thức được sự yếu đuối mỏng giòn của mình, con người mới nhận ra sự cần thiết
của ơn cứu rỗi.
Cùng
với lòng ăn năn sám hối tội lỗi, xin Chúa cho chúng ta luôn cảm nhận được tình
yêu vô bờ của Chúa.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Hãy sám
hối.
Có một vị ẩn sĩ nổi tiếng là
thánh thiện, và được nhiều người đến xin ông cầu nguyện cho. Điều đó làm cho
ông rất hãnh diện.
Một buổi sáng nọ, trên đường đến
thăm một ngôi nhà thờ, ông thấy một người ngồi nức nở bên đường. Đến gần, ông
nhận ra đó là tên cướp mà mọi người trong vùng đều run sợ. Vị ẩn sĩ định bỏ đi,
nhưng anh ta tiến đến quỳ gối trước mặt ông và xưng thú tội lỗi. Nghe xong, vị
ẩn sĩ tự nhiên nổi giận, và nói lớn tiếng: “Một tên trộm cướp như ngươi mà hy vọng
được Chúa tha thứ sao? Ta nói thật với ngươi: cây gậy mà ta đang cầm trên tay
trổ bông còn dễ hơn việc Thiên Chúa tha thứ cho ngươi”. Nói như thế rồi, vị ẩn
sĩ tiếp tục cất bước, bỏ mặc tội nhân trong thất vọng.
Nhưng chưa đi quá mười bước, cây
gậy ông đang cầm trên tay bỗng bị cắm sâu xuống đất, ông dùng tất cả sức lực để
rút lên, nhưng cây vẫn không nhúc nhích. Lạ hơn nữa, từ thân cây gậy, cành lá
và hoa từ từ mọc ra. Rồi ông nghe có tiếng nói: “Sự tha thứ của Thiên Chúa dành
cho một tội nhân sám hối còn dễ hơn một cây gậy trổ bông, một người tỗi lỗi
biết hối cải được tha thứ dễ dàng hơn một hơn một kẻ kiêu hãnh”.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần
bên”. Đó là trọng tâm của bài Tin Mừng hôm nay. Ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu loan
báo chính là giải phóng con người khỏi tội lỗi và những hệ lụy của nó, như yếu
đau tật nguyền…
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần
bên”. Sám hối là điều kiện tiên quyết để được ơn cứu độ. Sám hối không phải là
tiếng khóc của thất vọng, mà là một sức lực mới giúp con người vươn lên.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần
bên”. Nước Trời chính là động lực của sám hối. Và do đó, sám hối đích thực cũng
chính là một quyết tâm hướng về những biểu hiện của Nước Trời như sống yêu
thương, quảng đại, tha thứ.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần
bên” hay nói đúng hơn hãy sám hối để cho Nước Trời được đến giữa mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin
Vui’)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
Tháng Giêng
7 THÁNG GIÊNG
Hành Trình Trực Chỉ
Giê-ru-sa-lem
Các nhà thông thái phương Đông là những người
ngoại giáo đầu tiên đón nhận mạc khải đức tin vào Chúa Kitô. Họ là những người
đầu tiên tiếp cận mầu nhiệm thừa tự mà Thiên Chúa đã mở ra cho mọi người nơi
Đức Giêsu Kitô: cuộc Nhập Thể của Con đời đời của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy, nhờ Chúa Thánh Thần vén mở, đã
được các nhà thông thái tiếp cận ngay cả trước khi nó được mạc khải cho các
tông đồ – và ngay cả trước khi Tin Mừng được nhận biết như là con đường dẫn tới
đức tin. Nơi các nhà thông thái này, chúng ta tìm thấy một hình mẫu của công
cuộc tiền-Phúc-Âm hóa. Chúng ta thấy rõ linh hồn họ đã được Thiên Chúa chuẩn bị
để đón nhận ơn cứu độ. Đây cũng là một công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng mạc
khải ý nghĩa của ánh sao mà các nhà thông thái đã dõi bước theo trên hành trình
trực chỉ Giê-ru-sa-lem. Aùnh sao ấy biểu trưng ý nghĩa rằng ơn cứu độ của họ
vẫn còn ở xa xa, réo gọi.
Trong ngày Lễ Hiển Linh, phụng vụ của Giáo Hội
cũng muốn dẫn dắt chúng ta trên hành trình của mình tiến về Giê-ru-sa-lem.
Chúng ta hướng lòng về thành Thánh, “thành đô của Đại Vương”. Cho dẫu cư dân
Giê-ru-sa-lem không hề hay biết rằng vị Vua Vinh Quang đã được sinh ra giữa họ,
thì phần mình, chúng ta vẫn vui mừng hoan hỉ hướng về thành Thánh. Bởi đó là
‘thành đô của Đại Vương’.
- suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope
John Paul II
do nhà Servant Pubns xuất bản, 1994.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Raimunđô
Penyafort, linh
mục; 1Ga 3, 22-4,6; Mt 4, 12-17.23-25.
LỜI SUY NIÊM: “Đức Giêsu nghe tin ông Gioan bị nộp, Người lánh qua miền
Galilê. Rồi Người bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum, một thành ven biển hồ Galilê,
thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali, để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói” (Mt
4,12-14).
Mỗi người đều có một sứ mạng truyền giáo, mỗi
người đều có những môi trường và hoàn cảnh thuận tiện và không thuận tiện.
Chúng ta đều phải cố gắng thực hiện cho được công tác mà mình đã nhận lãnh.
Nhưng không phải cứ liều mạng lao đầu vào chốn hiểm nguy, vì tự ái, vì anh hung
tính của mình. Việc truyền giáo phải biết đặt Thánh Ý của Thiên Chúa trên hết
mọi sự, tất cả vì Thiên Chúa, vì việc thờ phượng tôn vinh Ngài. Nên trong mọi
công tác và đời sống của chúng ta tiên vàng là phải cầu nguyện, xin cho được ơn
khôn ngoan và suy biết, hầu trong mọi sự chúng ta sẽ được Chúa hướng dẫn và ban
ơn để chúng ta hoàn thành công việc một cách tốt đẹp theo Thánh Ý của Chúa.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 07-01:
THÁNH RAYMUNDO PENYAFORT
Linh Mục (1175-1275)
Thánh Raymudô chào đời năm 1175 trong một gia
đình hiệp sĩ tại lâu đài Penyafort ở California. Không chiều theo cuộc sống dễ
dãi, Ngài đã dành trọn nỗ lực tuổi trẻ vào việc học hành và thực tập các nhân
đức. Mới 20 tuổi, Ngài đã giữ ghế triết tại đại học Barcelona. Nhưng vì tinh
thần hiếu học và muốn giúp ích cho Giáo hội đắc lực hơn, năm 30 tuổi, Ngài qua
Italia để tiếp tục học luật tại Bologna. Tại đây Ngài đã tốt nghiệp tiến sĩ và
thành công trong nghề luật sư, lại còn giảng dạy tại chính đại học Bologna
trong ba năm. Nhiều nhà quí phái và bậc thứ giả tìm đến với Ngài. Tận tụy hướng
dẫn họ, Ngài chỉ mong cho họ tiến bộ. Nếu có bị ép để nhận một ít thù lao nào,
Ngài cũng đem phân phát cho người nghèo.
Năm 1249, Đức giám mục địa phận Bacelona mời
Ngài về giúp việc địa phận. Nhưng lúc 48 tuổi, thánh nhân đã trốn mọi danh vọng
và xin gia nhập dòng Daminh, Ngài chỉ ao ước được trao phó cho những công việc
thấp hèn nhất. Nếu được tán thưởng, Ngài liền xin bề trên cho được làm việc đền
tội. Tuy nhiên việc đền tội Ngài không mong mỏi chút nào, là việc nhà dòng trao
cho Ngài trách nhiệm viết một tác phẩm về các vấn đề lương tâm để hướng dẫn các
cha giải tội. Tác phẩm này cho tới ngày nay vẫn còn danh tiếng.
Năm 1230, Đức giáo hoàng Gregoriô IX cảm kích
những thành quả do thánh Raymundô mang lại, đã mời làm cha giải tội cho mình,
đồng thời chọn Ngài làm tổng giám mục thành Tarragona. Nhưng danh dự này đã
khiến thánh nhân, khi nghe tin, lên cơn sốt liền trong vòng ba ngày, Ngài đã
xin các đức hồng y can thiệp cho mình khỏi lãnh nhận danh dự và gánh nặng này.
Cuối cùng Đức giáo hoàng đành chấp thuận. Năm năm làm việc tại giáo triều, đức
giáo hoàng đã ủy thác cho thánh nhân thu thập các sắc lệnh của các đức giáo
hoàng và các công đồng thánh nhân đã gom góp vào năm cuốn sách và được phê chuẩn
năm 1234. Ngoài việc chu toàn các nghĩa vụ được trao phó, Ngài còn theo đuổi
một nếp sống nhiệm nhặt, khiến Ngài lâm trọng bệnh. Thánh nhân liền khẩn nài
cho mình được trở về với nếp sống tu sĩ bình thường.
Từ khứơc mọi đặc ân thánh nhân rời khỏi Roma trở
về Barcelona. Trên chuyến tàu Ngài gặp một người lâm bệnh nặng không còn nói
năng gì được. Cầu nguyện và xin mọi người cầu nguyện cho ông, thánh nhân hỏi
ông có muốn xưng tội không ? Bệnh nhân bỗng nói được. Ông ta đã xưng tội rồi
tắt thở.
Tại Barcelon, thánh nhân trở lại đời sống sám
hối rất gương mẫu. Hàng ngày Ngài vẫn xưng tội rước khi dâng lễ. Ngài nói: -
"Những ngày bị ngăn trở không xưng tội được, đối với tôi là những tang chế
u sầu".
Năm 1238, Ngài được bầu làm bề trên tổng quyền
thứ ba của dòng Daminh. Suốt hai năm làm bề trên, Ngài đã đi bộ đến thăm viếng
mỗi tỉnh dòng để hun nóng lòng nhiêt thành của các tu sĩ. Hai năm sau Ngài xin
từ chức vì tuổi già sức yếu.
Tuy nhiên trong tuổi già yếu, Ngài vẫn góp phần
xây dựng cho tổ quốc. Ngài đã viết thư yêu cầu thánh Tôma viết một bộ sách để
chống lại bọn lạc giáo, như vua Giacôbê yêu cầu. Thánh Tôma đã nhận lời và viết
bộ sách "Summa Contra Ghentiles" Dù được nhà vua quí mến chiều
chuộng, nhưng thánh nhân không ngại cảnh cáo ông ta. Một lần kia, trong cuộc
chinh phục đảo Maiorqua. Vua mời thánh nhân cùng đi. Thánh nhân nhận lời với
ước vọng giảng thuyết để phá đổ những sai lầm tại đó. Nhưng tới nơi, Ngài khám
phá ra rằng nhà vua đang phá hoại tổ chức bằng cuộc sống tội lỗi của mình. Ngài
can ngăn nhưng nhà vua không giữ lời hứa.
Thánh nhân liền tuyên cáo: - Vì Ngài không bỏ
đường tội lỗi nên tôi sẽ bỏ đi.
Hoảng hốt, nhà vua cấm mọi tàu thuyền không được
phép chở Ngài. Tương truyên rằng: thánh nhân đã nói với một tu sĩ đi theo Ngài
rằng: - Một vua trần thế cản đường, thì vua trên trời sẽ mở lối cho chúng
ta đi.
Nói rồi, Ngài cởi áo ngoài trải ra trên mặt
biển, cắm cây gậy làm cột và cuốn một góc làm buồm. Ngài mời thầy dòng lên
"Tàu" nhưng ông không dám. Thế là một mình Ngài đáp "tàu"
hồi hương. Vài giờ sau thánh nhân tới bến và Ngài vội vàng cuốn áo thẳng về nhà
dòng để tránh tiếng hoan hô của dân chúng. Phép lạ này đã trở thành sức mạnh
cải hóa nhà vua, đưa ông trở lại với lương tâm và quê hương mình.
Về già, thánh Raymundô đã chịu nhiều cơn đau
yếu, nhưng lòng nhiệt thành của Ngài vẫn bốc cháy không ngừng. Ngày 6 tháng
giêng năm 1275 Ngài đã từ giã cõi thế là nơi mà Ngài đã hiến trọn đời phụng vụ
Chúa.
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
07 Tháng Giêng
33 Năm Sau
Với tựa đề "33 năm sau", đó là một
câu chuyện thuật lại như sau: "Những gì đã xảy ra cho đứa bé năm
nào?". Một trong ba vua đã đi triều bái vua Do Thái mới sinh tự hỏi. Suốt
cuộc đời mình, nhà vua không thể nào quên được cuộc hành trình cách đây khoảng
33 năm, một cuộc hành trình dõi theo ánh sáng sao lạ dẫn ông đến hang đá Bêlem.
Câu hỏi: "Liệu đứa bé ấy có trị vì dân
Israel được không?". Làm cho nhà vua bồn chồn đứng ngồi không yên. Rồi
chẳng dừng được, một lần nữa nhà Vua quyết định lên đường đi đến Palestine. Tại
Giêrusalem, những bậc bô lão còn nhớ đến những vì sao lạ, nhưng không ai biết
gì đến đứa bé được sinh ra dưới điềm lạ ấy. Còn tại Bêlem mọi người được hỏi
đều lắc đầu, ngoại trừ một cụ già cho nhà Vua biết: Làm gì có ông Giêsu Bêlem,
chỉ có ông Giêsu Nagiarét, một người nói phạm thượng tự xưng mình là Con Thiên
Chúa, nên cách đây mấy tuần đã bị xử "tử hình thập giá".
Thất vọng ê trề, nhà Vua thẫn thờ nhập vào
đoàn những người hành hương trở lại Giêrusalem, vào đúng ngày Lễ Ngũ Tuần. Chen
lấn vào đoàn lũ đang mừng lễ Tạ Ơn Sau Mùa Gặt, nhà Vua chú ý đến một đám đông
đang bu quanh một nhóm người. Tò mò ông lấn qua đám đông để đến gần và nghe có
kẻ nói: "Tưởng gì chứ lại gặp mấy tên say rượu nói tầm xàm".
Nhưng tai nhà Vua lại nghe một người trong nhóm nói tiếng nước mình và rõ ràng ông ta nói về ông Giêsu Nagiarét, người đã bị đóng đinh, nhưng đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết. Như bị một sức mạnh vô hình thúc đẩy, nhà Vua chen vào đám đông cất tiếng hỏi: "Vậy bây giờ ông Giêsu đó ở đâu?". Ðại diện nhóm người đứng ở giữa đám đông là Simon Phêrô trả lời: "Ngài đang ở giữa chúng tôi. Ngài đang ở trong chúng tôi. Chúng tôi là môi miệng, là tai mắt, là đôi tay, là đôi chân của Ngài".
Nhưng tai nhà Vua lại nghe một người trong nhóm nói tiếng nước mình và rõ ràng ông ta nói về ông Giêsu Nagiarét, người đã bị đóng đinh, nhưng đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết. Như bị một sức mạnh vô hình thúc đẩy, nhà Vua chen vào đám đông cất tiếng hỏi: "Vậy bây giờ ông Giêsu đó ở đâu?". Ðại diện nhóm người đứng ở giữa đám đông là Simon Phêrô trả lời: "Ngài đang ở giữa chúng tôi. Ngài đang ở trong chúng tôi. Chúng tôi là môi miệng, là tai mắt, là đôi tay, là đôi chân của Ngài".
Trong lúc Phêrô đang nói, bỗng có một luồng
gió thổi mạnh và hình lưỡi lửa một lần nữa thổi tràn xuống mọi người. Nhà Vua
bỗng lại thấy ánh sao Bêlem, nhưng lần này ánh sao ấy chia ra nhiều ánh sao
khác rơi xuống mọi người. Trong tâm hồn, nhà Vua chợt hiểu: Mỗi người phải trở
nên máng cỏ nơi Ðức Giêsu sinh ra và mỗi người phải mang Ngài đến cho mọi người
xung quanh.
Câu chuyện trên nối liền ý nghĩa của Lễ Giáng
Sinh, mừng biến cố Ngôi Lời nhập thể với Lễ Tưởng Niệm Biến Cố Chúa Thánh Thần
Hiện Xuống. Ðồng thời câu chuyện cũng nêu nổi bật bổn phận của mọi người Kitô,
là những kẻ phải trở nên tai mắt, trở nên môi miệng và chân tay của Ðức Kitô để
mang Tin Mừng của Ngài đến cho mọi người chúng ta gặp gỡ và cộng tác hằng ngày.
(Lẽ Sống)
Giuse Trần Văn Tuấn (1824-1862)
Giuse Trần Văn Tuấn, Sinh
năm 1824 tại Nam Ðiền, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị xử trảm ngày 7/01/1862 tại Nam
Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII,
lễ kính vào ngày 7/01.
Dấu hiệu Đức Cậy.
Sự lạc quan trước những
thử thách, đó là điều Thiên Chúa hằng mong đợi nơi mỗi người tín hữu. Chúng ta
có thể gọi sự lạc quan ấy là Đức Cậy, vì dựa vào sức mạnh của Chúa và vững tin
vào ngày mai tươi sáng. Nếu đã tin vào Đức Kitô, đấng đã chiến thắng các quyền
lực sự ác, chúng ta thấy rằng không có gì có thể làm lay chuyển công trình
Người thực hiện trên thế giới này. Đối với những thử thách lớn lao hơn như cuộc
tử đạo, như những hình khổ, mà chỉ cần một hành vi chối đạo cũng đủ để thoát
khỏ thì thái độ lạc quan kiên quyết của người tín hữu quả là một cuộc hiển
dương Đức Cậy, như trường hợp Thánh Giuse Tuấn.
Sau một năm rưỡi đày cực
khổ, các quan chỉ yêu cầu vị chứng nhân bước qua Thánh Giá để được tha về.
Nhưng chẳng những người tôi tớ Chúa không tuân lệnh quan, lại còn quì gối trước
Ảnh Chuộc Tội mắt hướng về trời cao mà cầu nguyện lớn tiếng rằng : "Lạy
Chúa, con hết lòng cảm tạ trước tình yêu bao la và lòng thương xót hải hà của
Chúa. Chúa là sức mạnh đỡ nâng con".
Người nông dân hiền
lành.
Giuse Trần Văn Tuấn chào
đời năm 1824 tại làng Nam Điền, một họ đạo xứ Phú Nhai, trong mái gia đình sinh
sống nghề ruộng nhiều đời trên vùng đồng bằng sông Hồng thuộc tỉnh Nam Định
(nay là Hà Nam Ninh). Cũng như hàng ngàn người nông dân Việt Nam, niềm vui của
anh là con trâu, luống cày, để thu hoạch những bông lúa nặng trĩu do những giọt
mồ hôi và công sức của mình.
Cùng với những giáo hữu
đồng cảnh ngộ, cuộc đời anh Giuse Tuấn bỗng nổi cơn sóng gió vì những chiếu chỉ
cấm đạo của nhà vua. Cuộc bách hại vào giai đoạn cao điểm này đã ảnh hưởng đến
các phần tử nhỏ bé tầm thường nhất trong Giáo Hội Việt Nam. Năm 1860, anh tuấn
bị bắt vào năm 36 tuổi, và bị giải tới phủ Xuân Trường cùng với một số giáo hữu
khác. Về sau, anh lại bị phân sáp vào làng An Bái, Thuộc huyện Thụy Anh.
Máu đào minh chứng
Từ khi về làng An Bái,
anh Giuse Tuấn bị giam trong ngục chật hẹp, cổ mang gông, chân mang cùm xiềng
xích. Nhưng người chiến sĩ đức tin vẫn kiên trì chịu đựng trong nhẫn nại và vui
vẻ. Theo chiếu chỉ phân sáp tháng 08-1861, quân lính nung đỏ thanh sắt, và khắc
vào má của anh một bên chữ "Tả Đạo", một bên là nguyên quán làng xã.
Sau những ngày tháng tù tội cơ cực, sức khỏe anh Tuấn suy giảm rất nhiều, các
quan tưởng anh sẽ nản chí bỏ cuộc, nên điều tra và yêu cầu anh bước qua Thánh
Giá. Quan còn hứa ban tặng tiền bạc sau khi trả tự do cho anh.
Nhưng các quan đã thất
bại chua cay, người nông dân tầm thường đó không dễ bị lung lạc thối chí. Ngược
lại, anh còn thừa trung tín và can đảm biểu lộ niềm tin của mình. Vì tin vào
Đấng Sáng Tạo yêu thương vô biên, và tin vào đấng cứu thế, nguồn trợ lực tâm
hồn, anh Giuse Tuấn Thành kính trước ảnh Chuộc tội nói lên lời cảm tạ Thiên
Chúa, Đấng mà chính anh đang cảm nghiệm được sự nâng đỡ của Ngài. Và anh đã
phải trả giá cho niềm tin đó: Quan đã kết án tử hình người chiến sĩ Đức Kitô
làng Nam Điền.
Ngày 07.06.1862, trên
đường tới nơi xử trảm, anh Giuse Tuấn bình thản đi sau đám quân lính, vừa đi
vừa sốt sắng đọc kinh Cầu Các Thánh. Tới nơi, lý hình đã vung gươm chém đầu vị
chứng nhân, đang khi anh qùy gối, miệng vẫn liên tục kêu tên cực trọng Chúa
Giesu. Người nông dân chất phác hiền hòa nhưng đạo đức, gan dạ, đã dùng chính
mình thay vì ngôn từ, để làm chứng cho Đức Kitô, nguồn chân lý vĩnh cửu bất
diệt. Hai năm sau, thi hài vị tử đạo được các giáo hữu cải táng và long trọng
rước về chôn cất tại nhà thờ họ Nam Điền, quê quán của ngài.
Ngày 29.04.1951 cùng với
24 vị tử đạo khác tại Việt Nam, người nông dân nghèo thánh thiện, Giuse Trần
Văn Tuấn, đã được Đức Piô XII suy tôn lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức
Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
Ngày nay chúng ta không
có hoàn cảnh như các ngài ở thế kỷ trước, nhưng với những khó khăn thử thách
vẫn thường xảy đến, chớ gì chúng ta vẫn noi gương Đức Cậy của thánh Giuse Tuấn
để mãi mãi ca tụng Thiên Chúa: "Lạy Chúa ! con hết lòng cảm tạ trước tình
yêu bao la và lòng thương xót hải hà của Chúa. Chúa là sức mạnh nâng đỡ
con".
Nguồn từ tu viện Đa Minh
Lời bất hủ: Quan
bắt chà đạp lên Thánh giá, thánh nhân đã quỳ gối trước ảnh Chuộc Tội, mắt ngước
lên trời cao và cầu nguyện lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ
trước tình yêu bao la và lòng thương xót hải hà của Chúa. Chúa là sức mạnh đỡ
nâng con".
www.tinmung.net
Thứ
Hai 7-1
Thánh Raymond ở Penafort
(1175
- 1275)
Ð
|
ược Thiên Chúa cho hưởng thọ
đến 100 tuổi, Thánh Raymond có cơ hội để thực hiện được nhiều điều trong đời.
Là một phần tử của dòng dõi
quý tộc Tây Ban Nha, ngài có đầy đủ tài nguyên và nền tảng giáo dục vững chắc
để bước vào đời. Ngay từ khi còn nhỏ, ngài đã yêu quý và sùng kính Ðức Mẹ. Vào
lúc 20 tuổi, ngài dạy triết. Trong khoảng 30, ngài đậu bằng tiến sĩ về giáo
luật và dân luật. Tuy nhiên, ngài đã từ bỏ tất cả để gia nhập Dòng Thuyết Giáo
(Ða Minh) và là một linh mục năm 47 tuổi. Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô IX gọi ngài
về Rôma làm việc cho đức giáo hoàng và cũng là cha giải tội cho người. Một
trong những điều đức giáo hoàng yêu cầu ngài thi hành là thu thập tất cả các
sắc lệnh của các giáo hoàng và công đồng trong 80 năm, kể từ lần sưu tập sau
cùng của Gratianô. Cha Raymond biên soạn thành năm cuốn sách được gọi là "Bộ
Giáo Lệnh" (Decretals). Những cuốn này được coi là bộ sưu tập giáo
luật có giá trị nhất của Giáo Hội mãi cho đến năm 1917 khi giáo luật được hệ
thống hóa.
Trước đó, Cha Raymond đã viết
một cuốn sách dành cho các cha giải tội, được gọi là "Summa de
Poenitentia et Matrimonio". Cuốn sách này không chỉ kể ra các tội và
việc đền tội, mà còn thảo luận các luật lệ và học thuyết chính đáng của Giáo
Hội liên hệ đến vấn đề hay trường hợp mà cha giải tội phải giải quyết.
Khi Cha Raymond được 60 tuổi,
ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục của Tarragona, thủ phủ của Aragon nằm về
phía đông bắc Tây Ban Nha. Ngài không thích vinh dự này chút nào nên kết quả là
ngài bị đau yếu và đã từ nhiệm sau đó hai năm.
Tuy nhiên, ngài không được
hưởng sự an bình đó bao lâu, vì khi 63 tuổi ngài được anh em tu sĩ dòng chọn
làm bề trên của toàn thể nhà dòng, chỉ sau Thánh Ða Minh. Cha Raymond phải vất
vả trong các công việc như đi thăm các tu sĩ dòng, cải tổ lại hiến pháp dòng và
cố đưa vào hiến pháp dòng điều khoản cho phép vị bề trên có thể từ chức. Khi
bản hiến pháp mới được chấp nhận, Cha Raymond, lúc ấy 65 tuổi, đã xin từ nhiệm.
Nhưng ngài vẫn còn phải làm
việc trong 35 năm nữa để chống với bè rối và hoán cải người Moor ở Tây Ban Nha.
Và theo lời yêu cầu của ngài, Thánh Tôma Aquina đã viết cuốn "Summa
Contra Gentes".
Mãi cho đến khi ngài được 100
tuổi thì Thiên Chúa mới cho ngài về hưu dưỡng. Năm 1601, Cha Raymond được Ðức
Giáo Hoàng Clêmentê VIII tuyên xưng là thánh.
Lời Bàn
Thánh Raymond là một luật gia
và là nhà giáo luật. Thói vụ luật (legalism) là một trong những điều mà Giáo
Hội cố tránh trong Công Ðồng Vatican II. Có sự khác biệt lớn lao giữa các điều
khoản với tinh thần và mục đích của luật lệ. Luật lệ tự nó có thể trở thành
cùng đích, do đó giá trị mà luật lệ muốn nhắm đến đã bị quên lãng. Nhưng chúng
ta cũng phải thận trọng đừng ngả về thái cực bên kia, coi luật lệ như vô ích
hoặc cho đó là một điều tầm thường. Một cách lý tưởng, luật lệ được đặt ra là
vì lợi ích của mọi người và phải đảm bảo quyền lợi của mọi người được tôn
trọng. Qua Thánh Raymond, chúng ta học được sự tôn trọng luật lệ như một phương
tiện phục vụ công ích.
Lời Trích
"Ai ghét bỏ luật lệ
thì không khôn ngoan, và sẽ bị nghiêng ngả như con tàu giữa cơn phong ba"
(Sách Huấn Ca 33:2).
www.nguoitinhuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét