Trang

Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2013

07-01-2013 : THỨ HAI SAU LỄ HIỂN LINH


Ngày 7 tháng Giêng
hay thứ Hai sau Lễ Hiển Linh

Bài Ðọc I: 1 Ga 3, 22 - 4, 6
"Hãy nghiệm xét các thần trí, coi có phải bởi Thiên Chúa hay không".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, bất cứ điều gì chúng ta xin, thì chúng ta cũng lãnh nhận được nơi Chúa, vì chúng ta giữ các giới răn Người và làm điều đẹp lòng Người. Và đây là giới răn của Người: chúng ta phải tin vào thánh danh Con của Người, là Chúa Giêsu Kitô, và phải thương yêu nhau, như Người đã ban giới răn cho chúng ta. Ai giữ các giới răn của Người, thì ở trong Người và Người ở trong họ. Do điều này mà chúng ta biết Người ở trong chúng ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta.
Các con thân mến, chớ tin bất cứ thần trí nào, nhưng hãy nghiệm xét các thần trí, coi có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì có nhiều tiên tri giả đã xuất hiện trong thế gian. Do điều này mà các con biết là thần trí của Thiên Chúa: Thần trí nào tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô đã đến trong xác phàm thì là bởi Thiên Chúa; còn thần trí nào phủ nhận Chúa Giêsu, thì không bởi Thiên Chúa mà ra, đó là thần trí của Phản-Kitô; các con nghe nói rằng nó đến, và hiện giờ nó đã ở trong thế gian rồi.
Các con thân mến, các con bởi Thiên Chúa mà ra và đã thắng nó, vì Ðấng ở trong các con thì cao trọng hơn kẻ ở trong thế gian. Chúng thuộc về thế gian, nên nói chuyện thế gian, và thế gian nghe theo chúng. Chúng ta bởi Thiên Chúa mà ra. Ai biết Thiên Chúa, thì nghe chúng ta; còn ai không bởi Thiên Chúa, thì không nghe chúng ta. Do đó mà chúng ta biết được thần trí chân thật và thần trí dối trá.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 2, 7-8. 10-11
Ðáp: Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp (c. 8a).
Xướng: 1) Ta sẽ tuyên rao thánh chỉ của Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con. Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp, và cùng kiệt cõi đất làm gia tài". - Ðáp.
2) Giờ đây, hỡi các vua, hãy nên hiểu biết; quân vương mặt đất nên giác ngộ. Hãy kính sợ làm tôi Chúa và hân hoan mừng Ngài; hãy khiếp run tỏ bày sự vâng phục Chúa. - Ðáp.

Alleluia: Mt 4,17
Alleluia, alleluia! - Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 4, 12-17. 23-25
"Nước trời đã đến gần".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ Nadarét, đến ở miền duyên hải thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nephtali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng:
"Hỡi đất Giabulon và đất Nephtali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết". Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: "Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến".
Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Tiếng tăm Người đồn ra khắp xứ Syria. Người ta đã đem đến cho Người đủ thứ bệnh nhân, những người mắc phải tật nguyền đau đớn, quỷ ám, kinh phong, bất toại. Người đã chữa họ lành. Dân chúng đông đảo theo Người, họ đến từ xứ Galilêa, miền Thập Tỉnh, Giêsrusalem, Giuđêa và vùng bên kia sông Giođan.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Dân Do thái đang trong tâm trạng sầu khổ dưới ách gông cùm đô hộ của ngoại bang. Họ như đoàn người đang phải lầm lũi trong bóng tối tăm, bị tử thần vây bủa. Họ khát khao được nguồn ánh sáng chiếu tỏa giải cứu. Ðức Giêsu là vị Cứu Tinh đích thực được Thiên Chúa sai đến để đưa họ vào miền tự do, miền ánh sáng của Thiên Chúa. Sung sướng biết bao! Họ được loan báo một tin trọng đại: Nước Trời. Nước Hạnh Phúc đã gần.

Cầu Nguyện:
Lạy Cha, chúng con cũng đang trong tâm trạng sầu khổ như dân Do Thái xưa. Chúng con cũng bị gông cùm của sa tan, bị ách tội lỗi đè nặng trên chúng con. Chúng con thấy khổ tâm, nhưng không sao thoát ra được. Quả thật, chúng con không thể tự cứu mình; và cũng không ai có thể cứu được chúng con.
Tuy nhiên, chúng con không thất vọng, vì Cha đã ban Ðức Giêsu cho chúng con. Ngài là vị Cứu Tin đến đem bình an và ơn Cứu Ðộ cho chúng con. Có Ðức Giêsu, chúng con bảo đảm được hạnh phúc. Trong niềm hân hoan, chúng con muốn reo lên lời tạ ơn: Xin tạ ơn Cha cùng với Ðức Giêsu Kitô Con Cha, Chúa chúng con. Amen.

 Chúng ta được mời gọi trở thành sự hiển linh của Chúa
trong môi trường chúng ta sinh sống

Hôm nay, mỗi người chúng ta được mời gọi trở thành sự hiển linh của Chúa trong môi trường chúng ta sinh sống. Nghĩa là mỗi người chúng ta phải càng ngày càng trở nên giống như Chúa Giêsu Kitô hơn, để anh chị em xung quanh nhìn thấy việc tốt chúng ta làm mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời.
Chuyện cổ của người Ả Rập có kể một câu chuyện như sau:
Một vị vua trẻ vừa mới lên ngôi kế nghiệp cha, ông rất yêu thương thần dân của mình, vị vua trẻ này rất cảm thông những nỗi khổ đau của các thần dân trong nước và hằng ngày chỉ mong sao cho mọi người có được cơm ăn, áo mặc, nhà ở, sống hạnh phúc. Thế nhưng, xem ra như dân chúng không màng chi đến tình thương và sự săn sóc này, họ không tỏ vẻ quí trọng, không có mối liên lạc thân tình nào đối với nhà vua.
Buồn lòng vì thái độ lãnh đạm của dân chúng. Nhà vua triệu tập các quan cận thần đến hỏi ý kiến: làm sao để được dân chúng đáp lại tình thương của mình, biết lắng nghe những lời khuyên của mình để được sống an vui hạnh phúc hơn, để họ nhìn nhận tình thương của mình đối với họ. Bấy giờ một viên quan cận thần trả lời:
- Thưa Ngài, dân chúng không lắng nghe Ngài, không nhận tình thương của Ngài, vì thấy Ngài sống khác xa với họ. Xin nhà vua hãy đến sống giữa họ, không phải như một nhà vua sang trọng, nhưng như một người như họ và giữa họ.
Nghe lời khuyên, nhà vua thay đổi y phục, trở thành như một người dân tầm thường, rời bỏ cung điện ra đi tìm mướn một căn nhà nghèo, sống giữa những thần dân của mình. Nhà vua trở thành người dân, hằng ngày làm việc cực nhọc như bao người khác, ngoài ra còn đi thăm những người nghèo xung quanh, giúp đỡ những kẻ đau yếu, khuyên lơn những ai gặp khó khăn, và tiếng đồn về một người nghèo phúc hậu, thương người đang sống giữa xóm nghèo càng ngày càng thêm, và mọi người trong nước tìm đến, muốn được nghe, được cùng sống và cùng làm việc với người nghèo nổi tiếng thương người này. Bất cứ chương trình gì mà người nghèo nổi tiếng này đề ra thì được mọi người chấp nhận.
Sau thời gian sống như vậy. Một hôm người nghèo biến mất, và nhà vua xuất hiện trở lại như một vị vua đi thăm dân chúng. Lúc đó, dân chúng mới vỡ lẽ nhận ra người nghèo phúc hậu kia chính là nhà vua. Và kể từ đó, họ sống chung với nhau, cùng quan tâm đến những dự án mà nhà vua muốn thực hiện để nâng cao cuộc sống của họ.
*
* *
Quí vị và các bạn thân mến,
Câu chuyện vui trên giúp chúng ta thêm phấn khởi để hiểu về Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể làm Người mà chúng ta mừng kính trong mùa Giáng Sinh sắp kết thúc với Chúa Nhật lễ Hiển Linh.
Con Thiên Chúa đã trở thành con người thật, chấp nhận mọi thân phận của con người ngoại trừ tội lỗi để chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa Cha đối với loài người. Trong câu chuyện vui trên, dân chúng trong vương quốc nhìn ra nhà vua của họ qua dung mạo người nghèo sống giữa họ, và kể từ đó có liên lạc thân tình hơn với nhà vua của mình.
Phần chúng ta, lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người. Lễ Giáng Sinh nhấn mạnh đến khía cạnh nhập thể, Con Thiên Chúa làm Người. Lễ Hiển Linh bổ túc cho lễ Giáng Sinh, nhắc cho con người chiều kích hiển linh của mầu nhiệm nhập thể. Nhắc cho con người nhớ rằng: Con trẻ, con người đặc biệt đây là Con Thiên Chúa là vua vũ trụ đã xuống thế làm người cho tất cả mọi người.
Bài Phúc Âm hôm nay vừa nhắc chúng ta về thái độ khác nhau của con người đối với Con Thiên Chúa nơi trẻ Giêsu sinh ra làm con Mẹ Maria. Tựu trung có hai thái độ: chối từ và chấp nhận: vua Hêrôđê, các Thầy Thượng Tế của Do Thái giáo, các vị tiến sĩ thông thái luật của Chúa và lời giảng dạy của các Tiên Tri. Những người này đã chối từ, và tệ hại hơn, vua Hêrôđê còn có thái độ giả nhân, giả nghĩa, đóng kịch với ba đạo sĩ từ Ðông Phương tìm đến và đang đi tìm Chúa để tôn thờ. Vua Hêrôđê xem Chúa như là kẻ thù, như người sẽ chiếm lấy địa vị xã hội và vinh quang quyền hành trần gian của mình. Vua Hêrôđê không thoát ra được khỏi cảnh sống tốt đẹp của mình, để lắng nghe ơn Chúa soi sáng, để nhìn thấy dấu chỉ ơn Chúa thực hiện trong lịch sử, trong thiên nhiên, để đi tìm và nhìn nhận Chúa. Còn các vị vua phương đông thì dám liều, dám đi tìm, bỏ cảnh sống của mình, từ bỏ những tiện nghi mình đang hưởng, để nghe theo sự soi sáng của ân sủng Chúa, để biết nhìn thấy sự lạ, và qua sự lạ đó như là lời mời gọi của Thiên Chúa và đã gặp Chúa, và khi gặp được Ngài, họ không thắc mắc, nhưng khiêm tốn tôn thờ vua vũ trụ nơi dung mạo một con trẻ yếu đuối nghèo hèn, con của Mẹ Maria. Với chúng ta, bao lễ Hiển Linh đã qua rồi trong cuộc đời chúng ta mà chúng ta có gặp được Chúa hay chưa?
Xin Chúa hướng dẫn và soi sáng giúp mỗi người chúng ta trở về gặp lại Chúa và tôn thờ Ngài.
(Veritas Asia)

 Lời Chúa Mỗi Ngày Thứ Hai sau Lễ Hiển Linh
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải học Lời Chúa để nhận ra sự thật!
 Chúng ta đang sống trong thế giới vàng thau lẫn lộn: sự thiện và sự ác, sự thật và sự giả trá điêu ngoa. Một người bình thường rất khó nhận ra sự thật từ biết bao nhiêu sự gian dối, người thành thật từ những người giả trá điêu ngoa. Làm sao để nhận ra sự thật và người thành thật?
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những tiêu chuẩn để nhận ra sự thật. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan cho chúng ta 2 tiêu chuẩn để nhận ra sự thật: (1) Người nói sự thật là những người tin vào Đức Kitô; và (2), người nói sự thật sẽ bị thế gian ghét bỏ. Trong Phúc Âm, Thánh Matthêu tường thuật bước đường đầu trong sứ vụ rao giảng của Đức Kitô: Ngài không những mang ánh sáng xua tan những vùng tăm tối sự chết của Dân Ngọai, mà còn cả cho những người Do-Thái đang mong chờ Đấng Cứu Thế ra đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
 1/ Bài đọc I: Phải ở lại trong Thiên Chúa để nhận ra sự thật.
1.1/ Làm thế nào để ở lại trong Thiên Chúa? Theo Gioan, để ở lại trong Thiên Chúa, các tín hữu phải giữ các giới răn: “Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta.” Theo truyền thống Do-Thái, biết Thiên Chúa không phải chỉ là họat động của tri thức, nhưng phải ảnh hưởng đến đời sống của người tin; nói cách khác, biết Thiên Chúa là phải giữ các giới răn của Ngài. Theo Gioan, hai giới răn quan trọng nhất là:
(1) Phải tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Người: Theo Gioan, đây là điều kiện để trở thành tín hữu, thành con Thiên Chúa. Sở dĩ Gioan nhắc lại điều này, là có những bè rối xuất thân từ cộng đòan tín hữu, từ chối nhân tính hay thiên tính của Đức Kitô.
(2) Phải yêu thương nhau: Thiên Chúa là tình yêu, ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Khi một người có Thiên Chúa, là có cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Ngược lại, ai ghét anh em mình, kẻ ấy sẽ không có Thiên Chúa.

1.2/ Làm thế nào để nhận ra sự thật? Phải cân nhắc để nhận ra sự thật: “Anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian.” Hai tiêu chuẩn cần dựa vào để nhận ra sự thật:
(1) Người nói sự thật là người nhìn nhận Đức Kitô đến từ Thiên Chúa: “Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giêsu, thì không bởi Thiên Chúa; đó là thần khí của tên Phản-Kitô.” Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi. Thời Thánh Gioan, có ít nhất 2 bè rối chống nhân tính của Đức Kitô là Phái Thuần Tri Thức và Bè rối Docetism; trong khi Nhóm Do-Thái bảo thủ từ chối không tiếp nhận thiên tính của Chúa Giêsu.
(2) Người nói sự thật không được thế gian chấp nhận: Đối với Gioan, chỉ có trắng hay đen, chứ không có vùng xám ở giữa; chỉ có sự thật của những người tin theo Đức Kitô hay sự gian trá của những người không tin Đức Kitô. Người Kitô hữu là những người tin Đức Kitô. Họ thuộc về Thiên Chúa. Họ nói sự thật và thế gian không tin họ. Kẻ Phản-Kitô là những người từ chối không tin Đức Kitô. Họ thuộc về thế gian. Họ nói những điều giả trá và thế gian tin họ. Tuy nhiên, Gioan củng cố niềm tin của các tín hữu: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, anh em thuộc về Thiên Chúa, và anh em đã thắng được các ngôn sứ giả đó, vì Đấng ở trong anh em mạnh hơn kẻ ở trong thế gian. Các ngôn sứ giả đó thuộc về thế gian; vì thế, chúng nói theo thế gian, và thế gian nghe chúng. Còn chúng ta, chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Ai biết Thiên Chúa thì nghe chúng ta. Ai không thuộc về Thiên Chúa thì không nghe chúng ta. Chúng ta cứ dựa vào đó mà nhận ra thần khí dẫn đến sự thật và thần khí làm cho sai lầm.”
 2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu tỏ mình cho tất cả mọi người.
2.1/ Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ giảng dạy cho Dân Ngọai tại miền Bắc của Galilee:
Galilee là vùng đất phì nhiêu, rất đông dân, nhưng bao quanh bởi các Dân Ngọai: Phía Tây Bắc là người Phoenicia, phía Đông Bắc là người Syria, và phía Nam là người Samaria; vì thế, Galilee chịu nhiều ảnh hưởng của Dân Ngọai hơn bất cứ vùng nào của người Do-Thái. Hơn nữa, Galilee còn là trục lộ giao thông của miền Trung Đông: Con Đường Ven Biển nối từ Damascus, Syria, tới Ai-Cập, rồi qua Phi Châu phải băng ngang qua Galilee; Con Đường tới phía Đông cũng phải qua Galilee. Vì thế, có thể nói: giao thông của thế giới phải ngang qua Galilee. Trong khi đó, Judah ở một vị trí tách biệt, không tiện lợi cho việc giao thông tới các nơi trên thế giới. Có người nhận xét về sự khác biệt giữa hai miền như sau: “Galilee là đường dắt tới mọi nơi, trong khi Judah không dắt tới đâu cả.” Điều này cho chúng ta thấy, Chúa Giêsu rất tinh tế trong việc lựa chọn địa danh để rao giảng. Ngài chọn Galilee là chỗ đông dân cư, và là chỗ qua lại của nhiều nền văn minh thế giới; để nhiều người có cơ hội nghe Tin Mừng Ngài rao giảng.
 Trình thuật hôm nay cũng đề cập tới việc Chúa Giêsu làm ứng nghiệm lời Tiên-tri Isaiah khi Ngài bắt đầu sứ vụ rao giảng tại vùng này: “Này đất Zebulun, và đất Naphtali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Jordan, hỡi Galilee, miền đất của Dân Ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.”
 2.2/ Từ Zebulun và Naphtali, Tin Mừng của Chúa Giêsu được lan rộng ra khắp nơi:
(1) Trước hết, Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng trong khắp miền Galilee; sau đó đến các vùng: Thập Tỉnh, Thành Jerusalem, miền Judah, và vùng bên kia sông Jordan. Dân chúng các nơi lũ lượt kéo đến đi theo Người.
(2) Họat động truyền gíao của Chúa Giêsu: Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng là "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần." Ngài giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa lành họ.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải nhận ra nhu cầu học hỏi Lời Chúa để biết và sống theo sự thật.
- Chỉ có một cách duy nhất để nhận ra sự thật từ bao nhiêu sự gian dối là dựa vào Lời của Thiên Chúa.
- Hai tiêu chuẩn căn bản để nhận ra sự thật: chúng ta phải tin Đức Kitô đến từ Thiên Chúa và phải giữ các giới răn của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

Thứ Hai sau Hiển Linh
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã kêu gọi hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần. Sám hối là điều kiện tiên quyết để được đón nhận Chúa. Chúng ta cần sám hối không phải một lần hoặc vài lần, nhưng cần sám hối mỗi ngày và trong từng phút giây của cuộc sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, lời mời gọi của Chúa nhắc lại lời mời gọi sám hối của thánh Gioan Tẩy Giả: “Hãy ăn năn sám hối”. Chúa đã nhập thể làm người và đã đích thân rảo qua các nẻo đường để rao giảng Tin Mừng. Là ánh sáng, Chúa không thể giấu mình được, Chúa cần chia sẻ chính mình. Chúa đã đến không như một ánh lửa leo lét, nhưng như ánh sáng huy hoàng để soi lối cho những ai đang ngồi trong bóng tối tử thần biết tìm về ơn cứu độ.
Lạy Chúa, để nhận ra ánh sáng đó, con cần có lòng khao khát ước mong. Ánh sáng của Chúa cũng vô ích nếu con không muốn thấy bởi vì đối với người mù, ngay cả mặt trời chính ngọ cũng chẳng khác gì đêm tối. Ánh sáng chỉ thuận lợi cho con nếu con muốn và có thể sử dụng. Chúa luôn tôn trọng sự tự do của con. Chúa đến để giải thoát con khỏi đêm tối tội lỗi.
Xin ánh sáng của Chúa chiếu soi vào tâm hồn con, để con nhận biết thân phận yếu đuối tội lỗi của mình. Bởi vì nhận biết mình tội lỗi là bước đầu của lòng sám hối. Lòng sám hối đích thực của con là quyết tâm sống tốt hơn với những việc làm cụ thể theo Lời Chúa dạy. Xin Chúa giúp con luôn biết sám hối trong suốt cuộc đời.
Xin cho Lời Chúa hôm nay hoán cải tâm hồn con, để ánh sáng của Chúa lan tỏa trong con, phá tan mọi ảnh hưởng tội lỗi, làm cho nẻo đường con đi luôn trong sáng, thánh hóa đời sống con nên thánh thiện. Amen.
Ghi nhớ: "Nước trời đã đến gần".
www.phatdiem.org
07/01/13 THỨ HAI SAU LỄ HIỂN LINH
Th. Râymunđô Pênhapho, linh mục
Mt 4,12-17.23-25

TIẾP NỐI SỨ VỤ CHÚA GIÊ-SU
Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân.(Mt 4,23)
Suy niệm: Galilê nằm ở miền bắc Palestine, từ bắc chí nam dài 80 cây số, thời Chúa Giêsu có 294 làng, mỗi làng độ 15 ngàn dân. Khi mới vào đất hứa, miền này dành cho chi tộc Ase, Naptali và Dơvulun nhưng luôn có người Canaan cư ngụ nên đây là vùng cư dân tạp chủng. Sứ vụ của Chúa Giêsu diễn ra hầu hết tại lãnh thổ đông dân và nhiều dân ngoại này. Chính tại đây Chúa đã chia sẻ cuộc sống và làm cho người ta nhận biết và đón nhận tình yêu Thiên Chúa qua việc rao giảng Tin Mừng, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Ngài đã mang ánh sáng cứu độ đến cho những người còn ngồi trong bóng tối tội lỗi và tử thần.
Mời Bạn: Thế giới ngày nay tràn ngập thông tin, kiến thức nhiều nhưng điều minh triết thực lại hiếm hoi. Chúng ta được kêu mời để tiếp nối sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu. Đây không phải thông truyền hiểu biết loài người nhưng là rao giảng sự khôn ngoan, chân lý vĩnh cửu của Thiên Chúa trong niềm tin vào quyền năng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Khi đem Tin Mừng cho người khác, tôi đem cho họ điều cốt yếu nhất cho sự sống của họ.
Chia sẻ: Trong Năm Đức Tin, chúng tôi có việc gì cụ thể để loan báo Tin Mừng cho những người chưa biết Chúa?
Sống Lời Chúa: Sống bác ái là cách tích cực để loan báo Tin Mừng.
Cầu nguyện: “Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin, hạnh phúc, và bình an của mình cho tha nhân, và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.” (Thắp Sáng Niềm Tin, 71)
www.5phutloichua.neT

Ánh sáng và sự sống

Làm thầy dạy và làm lương y là hai nghề đặc biệt tiếp nối công việc ngày xưa của Thầy Giêsu, để loan báo cho thế giới hôm nay về sự sống, ánh sáng và hy vọng. 
 Suy nim:
            Từ sau lễ Hiển Linh đến lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa, Giáo Hội cho chúng ta đọc các bài Tin Mừng về việc Chúa tỏ mình. Mỗi bài là một dịp Chúa tỏ mình cho Dân của Người.
            Bài đọc hôm nay cho thấy Đức Giêsu tỏ mình lần đầu tiên tại Galilê, vùng đất có nhiều người ngoại giáo sinh sống. Ngài tỏ mình tại Caphácnaum, một tỉnh lớn chuyên đánh cá gần hồ Galilê, tỉnh này nằm trong địa giới của chi tộc Naptali ngày xưa.
            Thánh Mátthêu thấy việc tỏ mình này làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1). Như thế Đức Giêsu chính là ánh sáng rực rỡ xua tan bóng tối, Người nâng dậy những ai đang ngồi trong cảnh chết chóc, tối tăm. Phần sau của bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy điều đó (Mt 4, 23-25).
            Đức Giêsu đã đi khắp vùng Galilê để làm ba việc: dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh nhân. Thật ra việc dạy dỗ và việc rao giảng có thể coi là một, nếu thế chương trình hành động của Đức Giêsu sẽ gồm giảng dạy và chữa bệnh. Dù giảng dạy hay chữa bệnh, Đức Giêsu chỉ muốn một điều đó là làm vơi nhẹ gánh nặng của những người đang đau khổ.
Đức Giêsu loan báo Nước Trời đã đến gần (Mt 4, 17), và Người chứng tỏ cho thấy Nước ấy đã đến thật rồi qua việc chữa lành moi bệnh hoạn tật nguyền của dân. Cách đây hai ngàn năm, đã có những người bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt. Ngày nay, dù khoa học tiến bộ, nhưng bệnh tật vẫn không tha con người. Y khoa vẫn phải đối mặt với những chứng bệnh mới, chưa có thuốc chữa. Con người không bị ám bởi quỷ, nhưng bởi những sản phẩm do mình làm ra. Làm thầy dạy và làm lương y là hai nghề đặc biệt tiếp nối công việc ngày xưa của Thầy Giêsu, để loan báo cho thế giới hôm nay về sự sống, ánh sáng và hy vọng.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ. Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống. Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật. Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng. Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng. Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực. Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau. Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Nước trời đã đến gần".
Nhận biết mình tội lỗi
Có hai người tìm đến một vị ẩn sĩ để xin chỉ giáo. Vị ẩn sĩ gọi từng người đến gặp riêng. Người thứ nhất nói: “Thưa thầy, con đã phạm tội xấu xa vô cùng”. Người thứ hai thưa: “Thưa thầy, con thấy không có gì cần thiết phải xưng thú cả, tất cả những tội con đã phạm chỉ là những thiếu sót không đáng kể”.
Vị ẩn sĩ thinh lặng trong giây lát như để suy nghĩ, rồi truyền cho hai người hãy đi và mang về hòn đá lớn hay nhỏ tùy theo tội của mình. Người thứ nhất trở lại với tảng đá lớn, vừa trút gánh nặng trước mặt vị ẩn sĩ, anh thở ra nhẹ nhõm. Người thứ hai cũng trở về với những viên đá cuội, anh vừa trao cho vị ẩn sĩ vừa ca hát như không có gì phải nhọc công.
Thế nhưng, vị ẩn sĩ lại ra lệnh cho họ đem những hòn đá này đi và đặt lại đúng chỗ đã tìm thấy. Người thứ nhất đã làm việc này một cách dễ dàng, còn người thứ hai cảm thấy bối rối, vì không nhớ rõ mình đã nhặt những viên đá cuội ở đâu, anh trở lại với túi đá cuội vẫn còn nguyên vẹn. Bấy giờ vị ẩn sĩ mới dẫn giải: Khi ta phạm tội trọng, lương tâm ta luôn bị đè nặng, nhưng nếu ta thực sự thống hối, thì sức nặng ấy được cất đi dễ dàng; trái lại, khi ta phạm tội nhẹ, ta cảm thấy như không có gì đè nặng lương tâm, do đó ta không muốn ăn năn sám hối, ta vẫn phạm tội mà không ý thức được mình là tội nhân.
Thiên Chúa mặc khải cho con người về chính Ngài, đồng thời Ngài cũng nói cho con người biết nó là ai. Và ý thức đầu tiên mà Thiên Chúa gợi lên cho con người chính là thân phận tội lỗi của nó. Chỉ có một tôn giáo được mặc khải mới tỏ bày bộ mặt ấy của con người.
Lời đầu tiên của Chúa Giêsu khi khai mở sứ điệp của Ngài, đó là “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Hãy sám hối trước tiên là hãy nhận ra thân phận yếu hèn tội lỗi của mình. Đó là ý thức cơ bản nhất của người có niềm tin. Chỉ khi nào ý thức được sự yếu đuối mỏng giòn của mình, con người mới nhận ra sự cần thiết của ơn cứu rỗi.
Cùng với lòng ăn năn sám hối tội lỗi, xin Chúa cho chúng ta luôn cảm nhận được tình yêu vô bờ của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Hãy sám hối.


Có một vị ẩn sĩ nổi tiếng là thánh thiện, và được nhiều người đến xin ông cầu nguyện cho. Điều đó làm cho ông rất hãnh diện.
Một buổi sáng nọ, trên đường đến thăm một ngôi nhà thờ, ông thấy một người ngồi nức nở bên đường. Đến gần, ông nhận ra đó là tên cướp mà mọi người trong vùng đều run sợ. Vị ẩn sĩ định bỏ đi, nhưng anh ta tiến đến quỳ gối trước mặt ông và xưng thú tội lỗi. Nghe xong, vị ẩn sĩ tự nhiên nổi giận, và nói lớn tiếng: “Một tên trộm cướp như ngươi mà hy vọng được Chúa tha thứ sao? Ta nói thật với ngươi: cây gậy mà ta đang cầm trên tay trổ bông còn dễ hơn việc Thiên Chúa tha thứ cho ngươi”. Nói như thế rồi, vị ẩn sĩ tiếp tục cất bước, bỏ mặc tội nhân trong thất vọng.
Nhưng chưa đi quá mười bước, cây gậy ông đang cầm trên tay bỗng bị cắm sâu xuống đất, ông dùng tất cả sức lực để rút lên, nhưng cây vẫn không nhúc nhích. Lạ hơn nữa, từ thân cây gậy, cành lá và hoa từ từ mọc ra. Rồi ông nghe có tiếng nói: “Sự tha thứ của Thiên Chúa dành cho một tội nhân sám hối còn dễ hơn một cây gậy trổ bông, một người tỗi lỗi biết hối cải được tha thứ dễ dàng hơn một hơn một kẻ kiêu hãnh”.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Đó là trọng tâm của bài Tin Mừng hôm nay. Ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu loan báo chính là giải phóng con người khỏi tội lỗi và những hệ lụy của nó, như yếu đau tật nguyền…
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Sám hối là điều kiện tiên quyết để được ơn cứu độ. Sám hối không phải là tiếng khóc của thất vọng, mà là một sức lực mới giúp con người vươn lên.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Nước Trời chính là động lực của sám hối. Và do đó, sám hối đích thực cũng chính là một quyết tâm hướng về những biểu hiện của Nước Trời như sống yêu thương, quảng đại, tha thứ.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên” hay nói đúng hơn hãy sám hối để cho Nước Trời được đến giữa mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Giêng
7 THÁNG GIÊNG
Hành Trình Trực Chỉ Giê-ru-sa-lem
Các nhà thông thái phương Đông là những người ngoại giáo đầu tiên đón nhận mạc khải đức tin vào Chúa Kitô. Họ là những người đầu tiên tiếp cận mầu nhiệm thừa tự mà Thiên Chúa đã mở ra cho mọi người nơi Đức Giêsu Kitô: cuộc Nhập Thể của Con đời đời của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy, nhờ Chúa Thánh Thần vén mở, đã được các nhà thông thái tiếp cận ngay cả trước khi nó được mạc khải cho các tông đồ – và ngay cả trước khi Tin Mừng được nhận biết như là con đường dẫn tới đức tin. Nơi các nhà thông thái này, chúng ta tìm thấy một hình mẫu của công cuộc tiền-Phúc-Âm hóa. Chúng ta thấy rõ linh hồn họ đã được Thiên Chúa chuẩn bị để đón nhận ơn cứu độ. Đây cũng là một công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng mạc khải ý nghĩa của ánh sao mà các nhà thông thái đã dõi bước theo trên hành trình trực chỉ Giê-ru-sa-lem. Aùnh sao ấy biểu trưng ý nghĩa rằng ơn cứu độ của họ vẫn còn ở xa xa, réo gọi.
Trong ngày Lễ Hiển Linh, phụng vụ của Giáo Hội cũng muốn dẫn dắt chúng ta trên hành trình của mình tiến về Giê-ru-sa-lem. Chúng ta hướng lòng về thành Thánh, “thành đô của Đại Vương”. Cho dẫu cư dân Giê-ru-sa-lem không hề hay biết rằng vị Vua Vinh Quang đã được sinh ra giữa họ, thì phần mình, chúng ta vẫn vui mừng hoan hỉ hướng về thành Thánh. Bởi đó là ‘thành đô của Đại Vương’.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
do nhà Servant Pubns xuất bản, 1994.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Raimunđô Penyafort, linh mục;                                                    1Ga 3, 22-4,6; Mt 4, 12-17.23-25.

LỜI SUY NIÊM: “Đức Giêsu nghe tin ông Gioan bị nộp, Người lánh qua miền Galilê. Rồi Người bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum, một thành ven biển hồ Galilê, thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali, để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói” (Mt 4,12-14).
Mỗi người đều có một sứ mạng truyền giáo, mỗi người đều có những môi trường và hoàn cảnh thuận tiện và không thuận tiện. Chúng ta đều phải cố gắng thực hiện cho được công tác mà mình đã nhận lãnh. Nhưng không phải cứ liều mạng lao đầu vào chốn hiểm nguy, vì tự ái, vì anh hung tính của mình. Việc truyền giáo phải biết đặt Thánh Ý của Thiên Chúa trên hết mọi sự, tất cả vì Thiên Chúa, vì việc thờ phượng tôn vinh Ngài. Nên trong mọi công tác và đời sống của chúng ta tiên vàng là phải cầu nguyện, xin cho được ơn khôn ngoan và suy biết, hầu trong mọi sự chúng ta sẽ được Chúa hướng dẫn và ban ơn để chúng ta hoàn thành công việc một cách tốt đẹp theo Thánh Ý của Chúa.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 07-01:
THÁNH RAYMUNDO PENYAFORT

Linh Mục (1175-1275)
Thánh Raymudô chào đời năm 1175 trong một gia đình hiệp sĩ tại lâu đài Penyafort ở California. Không chiều theo cuộc sống dễ dãi, Ngài đã dành trọn nỗ lực tuổi trẻ vào việc học hành và thực tập các nhân đức. Mới 20 tuổi, Ngài đã giữ ghế triết tại đại học Barcelona. Nhưng vì tinh thần hiếu học và muốn giúp ích cho Giáo hội đắc lực hơn, năm 30 tuổi, Ngài qua Italia để tiếp tục học luật tại Bologna. Tại đây Ngài đã tốt nghiệp tiến sĩ và thành công trong nghề luật sư, lại còn giảng dạy tại chính đại học Bologna trong ba năm. Nhiều nhà quí phái và bậc thứ giả tìm đến với Ngài. Tận tụy hướng dẫn họ, Ngài chỉ mong cho họ tiến bộ. Nếu có bị ép để nhận một ít thù lao nào, Ngài cũng đem phân phát cho người nghèo.
Năm 1249, Đức giám mục địa phận Bacelona mời Ngài về giúp việc địa phận. Nhưng lúc 48 tuổi, thánh nhân đã trốn mọi danh vọng và xin gia nhập dòng Daminh, Ngài chỉ ao ước được trao phó cho những công việc thấp hèn nhất. Nếu được tán thưởng, Ngài liền xin bề trên cho được làm việc đền tội. Tuy nhiên việc đền tội Ngài không mong mỏi chút nào, là việc nhà dòng trao cho Ngài trách nhiệm viết một tác phẩm về các vấn đề lương tâm để hướng dẫn các cha giải tội. Tác phẩm này cho tới ngày nay vẫn còn danh tiếng.
Năm 1230, Đức giáo hoàng Gregoriô IX cảm kích những thành quả do thánh Raymundô mang lại, đã mời làm cha giải tội cho mình, đồng thời chọn Ngài làm tổng giám mục thành Tarragona. Nhưng danh dự này đã khiến thánh nhân, khi nghe tin, lên cơn sốt liền trong vòng ba ngày, Ngài đã xin các đức hồng y can thiệp cho mình khỏi lãnh nhận danh dự và gánh nặng này. Cuối cùng Đức giáo hoàng đành chấp thuận. Năm năm làm việc tại giáo triều, đức giáo hoàng đã ủy thác cho thánh nhân thu thập các sắc lệnh của các đức giáo hoàng và các công đồng thánh nhân đã gom góp vào năm cuốn sách và được phê chuẩn năm 1234. Ngoài việc chu toàn các nghĩa vụ được trao phó, Ngài còn theo đuổi một nếp sống nhiệm nhặt, khiến Ngài lâm trọng bệnh. Thánh nhân liền khẩn nài cho mình được trở về với nếp sống tu sĩ bình thường.
Từ khứơc mọi đặc ân thánh nhân rời khỏi Roma trở về Barcelona. Trên chuyến tàu Ngài gặp một người lâm bệnh nặng không còn nói năng gì được. Cầu nguyện và xin mọi người cầu nguyện cho ông, thánh nhân hỏi ông có muốn xưng tội không ? Bệnh nhân bỗng nói được. Ông ta đã xưng tội rồi tắt thở.
Tại Barcelon, thánh nhân trở lại đời sống sám hối rất gương mẫu. Hàng ngày Ngài vẫn xưng tội rước khi dâng lễ. Ngài nói: - "Những ngày bị ngăn trở không xưng tội được, đối với tôi là những tang chế u sầu".
Năm 1238, Ngài được bầu làm bề trên tổng quyền thứ ba của dòng Daminh. Suốt hai năm làm bề trên, Ngài đã đi bộ đến thăm viếng mỗi tỉnh dòng để hun nóng lòng nhiêt thành của các tu sĩ. Hai năm sau Ngài xin từ chức vì tuổi già sức yếu.
Tuy nhiên trong tuổi già yếu, Ngài vẫn góp phần xây dựng cho tổ quốc. Ngài đã viết thư yêu cầu thánh Tôma viết một bộ sách để chống lại bọn lạc giáo, như vua Giacôbê yêu cầu. Thánh Tôma đã nhận lời và viết bộ sách "Summa Contra Ghentiles" Dù được nhà vua quí mến chiều chuộng, nhưng thánh nhân không ngại cảnh cáo ông ta. Một lần kia, trong cuộc chinh phục đảo Maiorqua. Vua mời thánh nhân cùng đi. Thánh nhân nhận lời với ước vọng giảng thuyết để phá đổ những sai lầm tại đó. Nhưng tới nơi, Ngài khám phá ra rằng nhà vua đang phá hoại tổ chức bằng cuộc sống tội lỗi của mình. Ngài can ngăn nhưng nhà vua không giữ lời hứa.
Thánh nhân liền tuyên cáo: - Vì Ngài không bỏ đường tội lỗi nên tôi sẽ bỏ đi.
Hoảng hốt, nhà vua cấm mọi tàu thuyền không được phép chở Ngài. Tương truyên rằng: thánh nhân đã nói với một tu sĩ đi theo Ngài rằng:  - Một vua trần thế cản đường, thì vua trên trời sẽ mở lối cho chúng ta đi.
Nói rồi, Ngài cởi áo ngoài trải ra trên mặt biển, cắm cây gậy làm cột và cuốn một góc làm buồm. Ngài mời thầy dòng lên "Tàu" nhưng ông không dám. Thế là một mình Ngài đáp "tàu" hồi hương. Vài giờ sau thánh nhân tới bến và Ngài vội vàng cuốn áo thẳng về nhà dòng để tránh tiếng hoan hô của dân chúng. Phép lạ này đã trở thành sức mạnh cải hóa nhà vua, đưa ông trở lại với lương tâm và quê hương mình.
Về già, thánh Raymundô đã chịu nhiều cơn đau yếu, nhưng lòng nhiệt thành của Ngài vẫn bốc cháy không ngừng. Ngày 6 tháng giêng năm 1275 Ngài đã từ giã cõi thế là nơi mà Ngài đã hiến trọn đời phụng vụ Chúa.
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
07 Tháng Giêng
33 Năm Sau

Với tựa đề "33 năm sau", đó là một câu chuyện thuật lại như sau: "Những gì đã xảy ra cho đứa bé năm nào?". Một trong ba vua đã đi triều bái vua Do Thái mới sinh tự hỏi. Suốt cuộc đời mình, nhà vua không thể nào quên được cuộc hành trình cách đây khoảng 33 năm, một cuộc hành trình dõi theo ánh sáng sao lạ dẫn ông đến hang đá Bêlem.
Câu hỏi: "Liệu đứa bé ấy có trị vì dân Israel được không?". Làm cho nhà vua bồn chồn đứng ngồi không yên. Rồi chẳng dừng được, một lần nữa nhà Vua quyết định lên đường đi đến Palestine. Tại Giêrusalem, những bậc bô lão còn nhớ đến những vì sao lạ, nhưng không ai biết gì đến đứa bé được sinh ra dưới điềm lạ ấy. Còn tại Bêlem mọi người được hỏi đều lắc đầu, ngoại trừ một cụ già cho nhà Vua biết: Làm gì có ông Giêsu Bêlem, chỉ có ông Giêsu Nagiarét, một người nói phạm thượng tự xưng mình là Con Thiên Chúa, nên cách đây mấy tuần đã bị xử "tử hình thập giá".
Thất vọng ê trề, nhà Vua thẫn thờ nhập vào đoàn những người hành hương trở lại Giêrusalem, vào đúng ngày Lễ Ngũ Tuần. Chen lấn vào đoàn lũ đang mừng lễ Tạ Ơn Sau Mùa Gặt, nhà Vua chú ý đến một đám đông đang bu quanh một nhóm người. Tò mò ông lấn qua đám đông để đến gần và nghe có kẻ nói: "Tưởng gì chứ lại gặp mấy tên say rượu nói tầm xàm".
Nhưng tai nhà Vua lại nghe một người trong nhóm nói tiếng nước mình và rõ ràng ông ta nói về ông Giêsu Nagiarét, người đã bị đóng đinh, nhưng đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết. Như bị một sức mạnh vô hình thúc đẩy, nhà Vua chen vào đám đông cất tiếng hỏi: "Vậy bây giờ ông Giêsu đó ở đâu?". Ðại diện nhóm người đứng ở giữa đám đông là Simon Phêrô trả lời: "Ngài đang ở giữa chúng tôi. Ngài đang ở trong chúng tôi. Chúng tôi là môi miệng, là tai mắt, là đôi tay, là đôi chân của Ngài".
Trong lúc Phêrô đang nói, bỗng có một luồng gió thổi mạnh và hình lưỡi lửa một lần nữa thổi tràn xuống mọi người. Nhà Vua bỗng lại thấy ánh sao Bêlem, nhưng lần này ánh sao ấy chia ra nhiều ánh sao khác rơi xuống mọi người. Trong tâm hồn, nhà Vua chợt hiểu: Mỗi người phải trở nên máng cỏ nơi Ðức Giêsu sinh ra và mỗi người phải mang Ngài đến cho mọi người xung quanh.
Câu chuyện trên nối liền ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, mừng biến cố Ngôi Lời nhập thể với Lễ Tưởng Niệm Biến Cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Ðồng thời câu chuyện cũng nêu nổi bật bổn phận của mọi người Kitô, là những kẻ phải trở nên tai mắt, trở nên môi miệng và chân tay của Ðức Kitô để mang Tin Mừng của Ngài đến cho mọi người chúng ta gặp gỡ và cộng tác hằng ngày.
(Lẽ Sống)
Giuse Trần Văn Tuấn (1824-1862)

Giuse Trần Văn Tuấn, Sinh năm 1824 tại Nam Ðiền, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị xử trảm ngày 7/01/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 7/01.
Dấu hiệu Đức Cậy.
Sự lạc quan trước những thử thách, đó là điều Thiên Chúa hằng mong đợi nơi mỗi người tín hữu. Chúng ta có thể gọi sự lạc quan ấy là Đức Cậy, vì dựa vào sức mạnh của Chúa và vững tin vào ngày mai tươi sáng. Nếu đã tin vào Đức Kitô, đấng đã chiến thắng các quyền lực sự ác, chúng ta thấy rằng không có gì có thể làm lay chuyển công trình Người thực hiện trên thế giới này. Đối với những thử thách lớn lao hơn như cuộc tử đạo, như những hình khổ, mà chỉ cần một hành vi chối đạo cũng đủ để thoát khỏ thì thái độ lạc quan kiên quyết của người tín hữu quả là một cuộc hiển dương Đức Cậy, như trường hợp Thánh Giuse Tuấn.
Sau một năm rưỡi đày cực khổ, các quan chỉ yêu cầu vị chứng nhân bước qua Thánh Giá để được tha về. Nhưng chẳng những người tôi tớ Chúa không tuân lệnh quan, lại còn quì gối trước Ảnh Chuộc Tội mắt hướng về trời cao mà cầu nguyện lớn tiếng rằng : "Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ trước tình yêu bao la và lòng thương xót hải hà của Chúa. Chúa là sức mạnh đỡ nâng con".
Người nông dân hiền lành.
Giuse Trần Văn Tuấn chào đời năm 1824 tại làng Nam Điền, một họ đạo xứ Phú Nhai, trong mái gia đình sinh sống nghề ruộng nhiều đời trên vùng đồng bằng sông Hồng thuộc tỉnh Nam Định (nay là Hà Nam Ninh). Cũng như hàng ngàn người nông dân Việt Nam, niềm vui của anh là con trâu, luống cày, để thu hoạch những bông lúa nặng trĩu do những giọt mồ hôi và công sức của mình.
Cùng với những giáo hữu đồng cảnh ngộ, cuộc đời anh Giuse Tuấn bỗng nổi cơn sóng gió vì những chiếu chỉ cấm đạo của nhà vua. Cuộc bách hại vào giai đoạn cao điểm này đã ảnh hưởng đến các phần tử nhỏ bé tầm thường nhất trong Giáo Hội Việt Nam. Năm 1860, anh tuấn bị bắt vào năm 36 tuổi, và bị giải tới phủ Xuân Trường cùng với một số giáo hữu khác. Về sau, anh lại bị phân sáp vào làng An Bái, Thuộc huyện Thụy Anh.
Máu đào minh chứng
Từ khi về làng An Bái, anh Giuse Tuấn bị giam trong ngục chật hẹp, cổ mang gông, chân mang cùm xiềng xích. Nhưng người chiến sĩ đức tin vẫn kiên trì chịu đựng trong nhẫn nại và vui vẻ. Theo chiếu chỉ phân sáp tháng 08-1861, quân lính nung đỏ thanh sắt, và khắc vào má của anh một bên chữ "Tả Đạo", một bên là nguyên quán làng xã. Sau những ngày tháng tù tội cơ cực, sức khỏe anh Tuấn suy giảm rất nhiều, các quan tưởng anh sẽ nản chí bỏ cuộc, nên điều tra và yêu cầu anh bước qua Thánh Giá. Quan còn hứa ban tặng tiền bạc sau khi trả tự do cho anh.
Nhưng các quan đã thất bại chua cay, người nông dân tầm thường đó không dễ bị lung lạc thối chí. Ngược lại, anh còn thừa trung tín và can đảm biểu lộ niềm tin của mình. Vì tin vào Đấng Sáng Tạo yêu thương vô biên, và tin vào đấng cứu thế, nguồn trợ lực tâm hồn, anh Giuse Tuấn Thành kính trước ảnh Chuộc tội nói lên lời cảm tạ Thiên Chúa, Đấng mà chính anh đang cảm nghiệm được sự nâng đỡ của Ngài. Và anh đã phải trả giá cho niềm tin đó: Quan đã kết án tử hình người chiến sĩ Đức Kitô làng Nam Điền.
Ngày 07.06.1862, trên đường tới nơi xử trảm, anh Giuse Tuấn bình thản đi sau đám quân lính, vừa đi vừa sốt sắng đọc kinh Cầu Các Thánh. Tới nơi, lý hình đã vung gươm chém đầu vị chứng nhân, đang khi anh qùy gối, miệng vẫn liên tục kêu tên cực trọng Chúa Giesu. Người nông dân chất phác hiền hòa nhưng đạo đức, gan dạ, đã dùng chính mình thay vì ngôn từ, để làm chứng cho Đức Kitô, nguồn chân lý vĩnh cửu bất diệt. Hai năm sau, thi hài vị tử đạo được các giáo hữu cải táng và long trọng rước về chôn cất tại nhà thờ họ Nam Điền, quê quán của ngài.
Ngày 29.04.1951 cùng với 24 vị tử đạo khác tại Việt Nam, người nông dân nghèo thánh thiện, Giuse Trần Văn Tuấn, đã được Đức Piô XII suy tôn lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
Ngày nay chúng ta không có hoàn cảnh như các ngài ở thế kỷ trước, nhưng với những khó khăn thử thách vẫn thường xảy đến, chớ gì chúng ta vẫn noi gương Đức Cậy của thánh Giuse Tuấn để mãi mãi ca tụng Thiên Chúa: "Lạy Chúa ! con hết lòng cảm tạ trước tình yêu bao la và lòng thương xót hải hà của Chúa. Chúa là sức mạnh nâng đỡ con".
Nguồn từ tu viện Đa Minh
Lời bất hủ: Quan bắt chà đạp lên Thánh giá, thánh nhân đã quỳ gối trước ảnh Chuộc Tội, mắt ngước lên trời cao và cầu nguyện lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ trước tình yêu bao la và lòng thương xót hải hà của Chúa. Chúa là sức mạnh đỡ nâng con".
www.tinmung.net
Thứ Hai 7-1
Thánh Raymond ở Penafort
(1175 - 1275)

Ð
ược Thiên Chúa cho hưởng thọ đến 100 tuổi, Thánh Raymond có cơ hội để thực hiện được nhiều điều trong đời. 
Là một phần tử của dòng dõi quý tộc Tây Ban Nha, ngài có đầy đủ tài nguyên và nền tảng giáo dục vững chắc để bước vào đời. Ngay từ khi còn nhỏ, ngài đã yêu quý và sùng kính Ðức Mẹ. Vào lúc 20 tuổi, ngài dạy triết. Trong khoảng 30, ngài đậu bằng tiến sĩ về giáo luật và dân luật. Tuy nhiên, ngài đã từ bỏ tất cả để gia nhập Dòng Thuyết Giáo (Ða Minh) và là một linh mục năm 47 tuổi. Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô IX gọi ngài về Rôma làm việc cho đức giáo hoàng và cũng là cha giải tội cho người. Một trong những điều đức giáo hoàng yêu cầu ngài thi hành là thu thập tất cả các sắc lệnh của các giáo hoàng và công đồng trong 80 năm, kể từ lần sưu tập sau cùng của Gratianô. Cha Raymond biên soạn thành năm cuốn sách được gọi là "Bộ Giáo Lệnh" (Decretals). Những cuốn này được coi là bộ sưu tập giáo luật có giá trị nhất của Giáo Hội mãi cho đến năm 1917 khi giáo luật được hệ thống hóa.
Trước đó, Cha Raymond đã viết một cuốn sách dành cho các cha giải tội, được gọi là "Summa de Poenitentia et Matrimonio". Cuốn sách này không chỉ kể ra các tội và việc đền tội, mà còn thảo luận các luật lệ và học thuyết chính đáng của Giáo Hội liên hệ đến vấn đề hay trường hợp mà cha giải tội phải giải quyết.
Khi Cha Raymond được 60 tuổi, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục của Tarragona, thủ phủ của Aragon nằm về phía đông bắc Tây Ban Nha. Ngài không thích vinh dự này chút nào nên kết quả là ngài bị đau yếu và đã từ nhiệm sau đó hai năm.
Tuy nhiên, ngài không được hưởng sự an bình đó bao lâu, vì khi 63 tuổi ngài được anh em tu sĩ dòng chọn làm bề trên của toàn thể nhà dòng, chỉ sau Thánh Ða Minh. Cha Raymond phải vất vả trong các công việc như đi thăm các tu sĩ dòng, cải tổ lại hiến pháp dòng và cố đưa vào hiến pháp dòng điều khoản cho phép vị bề trên có thể từ chức. Khi bản hiến pháp mới được chấp nhận, Cha Raymond, lúc ấy 65 tuổi, đã xin từ nhiệm.
Nhưng ngài vẫn còn phải làm việc trong 35 năm nữa để chống với bè rối và hoán cải người Moor ở Tây Ban Nha. Và theo lời yêu cầu của ngài, Thánh Tôma Aquina đã viết cuốn "Summa Contra Gentes".
Mãi cho đến khi ngài được 100 tuổi thì Thiên Chúa mới cho ngài về hưu dưỡng. Năm 1601, Cha Raymond được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VIII tuyên xưng là thánh.
Lời Bàn
Thánh Raymond là một luật gia và là nhà giáo luật. Thói vụ luật (legalism) là một trong những điều mà Giáo Hội cố tránh trong Công Ðồng Vatican II. Có sự khác biệt lớn lao giữa các điều khoản với tinh thần và mục đích của luật lệ. Luật lệ tự nó có thể trở thành cùng đích, do đó giá trị mà luật lệ muốn nhắm đến đã bị quên lãng. Nhưng chúng ta cũng phải thận trọng đừng ngả về thái cực bên kia, coi luật lệ như vô ích hoặc cho đó là một điều tầm thường. Một cách lý tưởng, luật lệ được đặt ra là vì lợi ích của mọi người và phải đảm bảo quyền lợi của mọi người được tôn trọng. Qua Thánh Raymond, chúng ta học được sự tôn trọng luật lệ như một phương tiện phục vụ công ích.
Lời Trích
"Ai ghét bỏ luật lệ thì không khôn ngoan, và sẽ bị nghiêng ngả như con tàu giữa cơn phong ba" (Sách Huấn Ca 33:2).
www.nguoitinhuu.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét