Chúa Nhật 20/01/2013
CHÚA NHẬT
2 THƯỜNG NIÊN Năm C
(phần I)
BÀI
ĐỌC I: Is 62, 1-5
"Người chồng sẽ
vui mừng vì vợ".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Vì
Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi, cho đến
khi Đấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Đấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc
sáng ngời. Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Đấng công chính của ngươi, và mọi đế
vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi
sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay
Thiên Chúa ngươi, ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ
không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là "kẻ Ta ưa
thích", và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên
Chúa, và đất ngươi sẽ có dân cư.
(Như)
thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người
chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi sẽ vui mừng vì ngươi. Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 7-8a. 9-10ac.
Đáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa chư dân (c. 3).
1)
Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu.
Hãy ca mừng Thiên chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Đáp.
2)
Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa
chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Đáp.
3)
Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa
quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh
Người. - Đáp.
4)
Hãy mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên
nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân
theo đường đoan chính. - Đáp.
BÀI
ĐỌC II: 1 Cr 12, 4-11
"Cùng một Thánh
Thần ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh
em thân mến, có những hồng ân khác nhau, nhưng vẫn là một Thánh Thần; có nhiều
chức vụ khác nhau, nhưng chính là một Chúa; và có những hành động khác nhau,
nhưng chính là một Thiên Chúa, Người thực hiện hết mọi cái trong mọi người. Ơn
Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi khác, cốt để mưu cầu công ích. Người thì được
Thánh Thần cho lời khôn ngoan, kẻ khác thì được lời thông minh, theo cùng một
Thánh Thần; người khác được đức tin, trong cùng một Thánh Thần; kẻ khác nữa
được ơn chữa bệnh, trong cũng một Thánh Thần đó; có người được ơn làm phép lạ,
có kẻ được ơn tiên tri, người khác được ơn phân biệt các thần trí; có người
được ơn nói nhiều thứ tiếng; người khác được ơn giải thích các thứ tiếng. Nhưng
cùng một Thánh Thần duy nhất thực hiện tất cả những điều đó. Người ban phát ơn
riêng cho mỗi người theo như Người quy định.
Đó
là lời Chúa.
ALLELUIA:
Lc 19, 38
Alleluia,
alleluia! - Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và
vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.
PHÚC
ÂM: Ga 2, 1-12
"Chúa Giêsu đã
làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu
và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới. Và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa
Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi". Chúa Giêsu nói với mẹ:
"Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu, giờ Con chưa đến". Mẹ Người nói
với những người giúp việc: "Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo". Ở đó
có sáu chum đá, dùng vào việc thanh tẩy của người Do-thái, mỗi chum đựng được
hai hoặc ba thùng nước. Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy đổ nước đầy các
chum". Họ đổ đầy tới miệng. Và Chúa Giêsu bảo họ: "Bây giờ hãy múc
đem cho người quản tiệc!" Và họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử
nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc
đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang mà nói: "Ai cũng đem rượu ngon
ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ
rượu ngon tới giờ này". Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ
Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.
Sau
đó Người xuống Capharnaum làm một với mẹ Người, anh em (Người) và môn đệ của
Người, nhưng các Ngài chỉ lưu lại ở đó ít ngày thôi. Đó là lời Chúa.
Ðức
Giêsu Kitô Tỏ Mình Trong Tiệc Cưới Cana
Suy Niệm:
Sau lễ Hiển linh nói lên mầu
nhiệm Ðức Giêsu tỏ mình cho chư dân, phụng vụ bắt đầu mùa Thường niên. Và những
Chúa nhật mở đầu trong mùa này sẽ thuật lại những công việc đầu tiên mà Ðức
Giêsu làm để xây dựng Nước Trời trong kế hoạch đã khiến Người nhập thể giáng
sinh cứu đời. Ðó là những việc đã từng được Cựu Ước loan báo và hứa hẹn. Ðức
Giêsu đã thực hiện khi Người ra đi giảng đạo, nhưng với mục đích những việc ấy
còn kéo dài ảnh hưởng cứu độ cho đến tận cùng lịch sử. Như vậy, các việc Ðức
Giêsu đã làm đang còn có liên hệ đến chúng ta; khiến chúng ta phải để tâm quan
sát và tìm hiểu. Chúng ta có thể cứ theo thứ tự thời gian: đọc lại những lời
loan báo của Cựu Ước về ý chỉ cứu độ của Chúa; rồi xem Người thực hiện thế nào
qua hành động của Ðức Giêsu nhưng nhất là cần xem những hành động này để lại
ảnh hưởng cứu độ thế nào trong cuộc đời hiện nay của chúng ta.
1. Thiên Chúa Hứa Kết Hôn
Với Dân Người
Bài sách Isaia hôm nay là một
lời tiên tri rất an ủi. Khó có thể xác định Chúa đã tuyên bố những lời hứa này
vào lúc nào. Tiên thiên, người ta có thể bảo đây là những lời an ủi Israen khi
họ đang lưu đày. Họ thấy mình đã bị bỏ rơi. Vì thực ra còn gì có thể gọi là dân
Chúa? Ðất nước bị ngoại bang xâm chiếm, Ðền thờ cũng chẳng còn; mà các phần tử
ưu tú trong dân cũng đã bị phát lưu sang tận Babylonia. Ở đây, người ta chỉ
thấy sức mạnh của đế quốc. Và tà giáo ở những nơi này thịnh đạt vô cùng. Làm
sao Israen có thể hồi sinh được? Và Chúa của Abraham, Isaac và Giacob chắc
chẳng mong gì có lại được một ngôi đền thờ sở dĩ coi được. Ngài đã bỏ Israen
rồi, vì chính họ đã chẳng chịu quay mặt về lại với Người. Lưu đày là mồ chôn
mọi lời giao ước...
Ðó là ý nghĩa của Israen. Mọi
kẻ biết họ cũng chỉ có thể nghĩ như thế thôi. Nhưng đó lại không phải là ý nghĩ
của Thiên Chúa. Người sai Isaia và các ngôn sứ đến. Họ khẳng định tương lai sẽ
không như vậy. Ở đây Isaia có vẻ như sẽ chẳng chịu ngồi yên cho đến khi nào ánh
sáng của Chúa lại tỏa trên Sion. Giêrusalem sẽ lại bừng sáng trước sự ngưỡng mộ
của chư dân. Chẳng ai sẽ còn bảo Israen là kẻ bị bỏ rơi nữa; ngược lại rõ ràng
nó sẽ trở nên người hôn thê lý tưởng của Thiên Chúa tình yêu.
Và tất cả sẽ xảy ra như thế
chỉ vì Giavê là Ðấng tín thành. Người không bỏ rơi người bạn mà Người đã đính
ước. Người lại toàn năng đến nỗi tự mình thay đổi hẳn được vận mạng của bạn
Người hiện nay. Từ thân phận như của một vùng đất tan hoang, Người sẽ biến nó
nên thiên đàng trù mật; và từ hình thức một thiếu phụ tàn tạ, Người sẽ đổi mới
thành một hiền thê khả ái. Chương trình của Người đáng tin cậy sao? Ðó là những
lời tiên tri đầy an ủi. Niềm tin này trở thành lẽ sống duy nhất của dân lưu
đày.
Chúng ta biết các ngôn sứ đã
có lý. Chúa đã đưa dân lưu lạc về. Giêrusalem được tái thiết. Nhưng ánh sáng
như vừa lóe lên ở Sion, thì bỗng dưng chân trời lại như muốn tối sầm lại. Việc
xây dựng đền thờ gặp nhiều khó khăn do đám dân đến ở Giêrusalem trong thời gian
lưu đày. Dân Chúa lại nao núng niềm tin. Có lẽ vào lúc ấy Isaia mới tuyên bố
những lời trong bài đọc hôm nay. Vị trí của những lời này trong sách của ông
khiến chúng ta phải nghĩ như vậy. Ðây là sấm ngôn trong phần III (cũng gọi là
sách III) trong tác phẩm mang tên Isaia. Xét về thời gian đó là những lời tiên tri
sau lưu đày. Nhưng xét về nội dung đó cũng là những lời có giá trị an ủi Israen
như trong phần II (hoặc sách II) của Isaia, tuyên bố trong thời gian dân Chúa
bị thử thách.
Ðàng nào thì dân Chúa cũng
đang gặp khó khăn và nặng mặc cảm bị Chúa bỏ rơi. Không như vậy thì vì sao công
việc tái thiết đền thờ lại gặp khó khăn như thế này. Tựa vào niềm tin, Isaia
can đảm nói lên lời trông cậy. Ông khuyến khích những cánh tay đang tái thiết
đền thờ đừng rã rời vì nản chí. Chúa sẽ chiếu sáng trên Sion mà! Người sẽ đặt
triều thiên trên đầu dân Người. Họ sẽ là hôn thê của Người như Hôsê cũng đã
từng loan báo. Chúng ta chưa thấy những công việc ấy hoàn toàn xảy ra sau lưu
đày. Nhưng sau này chắc chắn sẽ như vậy. Và những gì đáng xảy ra sau lưu đày,
ít nhất cũng là những dấu hiệu bảo chứng để chúng ta tin tưởng hướng về tương
lai.
Như vậy việc đặt các lời tiên
tri hôm nay vào thời gian sau lưu đày, lại càng ý nghĩa đối với chúng ta. Chúng
không cho phép chúng ta dừng lại nơi Cựu Ước, tưởng rằng lời tiên tri đã thực
hiện cho dân sau lưu đày. Không, mọi lời tiên tri chỉ thể hiện đầy đủ trong Tân
Ước, khởi sự nơi Ðức Giêsu Kitô nhưng cũng chỉ hoàn tất khi Người vươn tới tầm
vóc viên mãn, tức là lúc thế mạt. Cũng như thay vì hiểu những lời tiên tri hôm
nay như là những lời của Isaia nói với Israen, chúng ta có thể coi đó là những
lời của chính Thiên Chúa trực tiếp nói với dân Người. Họ bảo Người bỏ rơi họ ư?
Này, Người sẽ không ngồi yên cho đến khi ánh sáng lại bừng lên trên Giêrusalem
và Sion trở thành hiền thê của Người. Hiểu như vậy, bản văn sẽ trữ tình hơn,
cũng như hiểu đây là những lời tiên tri sau lưu đày sẽ trở nên gần gũi với
chúng ta hơn. Dù sao đoạn tiên tri hôm nay cũng cho chúng ta thấy tình yêu
trung kiên nồng nàn của Thiên Chúa đang nóng lòng muốn kết hôn với dân Người.
Người đã thực hiện được việc ấy chưa, hay còn trong thời gian chờ đợi? Chúng ta
hãy tìm câu trả lời trong bài Tin Mừng và bài Thánh thư.
2. Ðức Giêsu Kitô Tỏ Mình
Trong Một Cuộc Hôn Nhân
Rất tiếc, phụng vụ đã không
giữ lại những chữ đầu tiên mở đầu cho bài Tin Mừng hôm nay. Thánh Gioan đã
không viết rằng: bấy giờ có một tiệc cưới ở Cana; nhưng ghi rõ "ngày thứ
ba" có tiệc cưới ở Cana". Những chữ "ngày thứ ba" rất có
giá trị. Trong các sách Tin Mừng, những chữ ấy loan báo việc Chúa Giêsu sống
lại ngày thứ ba sau khi tử nạn... Và như vậy thánh Gioan muốn kể câu chuyện
tiệc cưới Cana trong ánh sáng và bầu khí Phục Sinh. Chúng ta phải dùng mầu
nhiệm Chúa sống lại để hiểu sự việc sắp xảy ra.
Hơn nữa theo sách Tin Mừng
của Gioan, ngày thứ ba hôm đó là ba ngày sau khi Ðức Giêsu hứa cho Nathanaen
còn được xem thấy những việc lớn lao hơn việc Người biết rõ hành động của ông.
Và tức cũng là ngày thứ năm sau khi Ðức Giêsu nhận các môn đệ đầu tiên; và là
bảy ngày sau khi Gioan giới thiệu Người với dân chúng. Như vậy tiệc cưới Cana
xảy ra vào ngày thứ tám, tức là ngày Chúa nhật của đạo mới. Gioan vốn có óc
phụng vụ, đặt câu chuyện xảy ra vào ngày Chúa nhật để hàm ý nói rằng nó có hệ
đến sinh hoạt của Hội Thánh hiện nay. Chúng ta không những phải dùng ánh sáng phục
sinh để tìm hiểu, mà cũng phải liên hệ với phụng vụ Chúa nhật, tức là sinh hoạt
của Hội Thánh hiện nay nữa. Những chữ "ngày thứ ba" mở đầu câu chuyện
tiệc cưới Cana có ý nghĩa như thế.
Cũng như rất có ý nghĩa sự
hiện diện của Ðức Maria, Mẹ Ðức Giêsu trong câu chuyện này. Người đã có mặt ở
đó trước khi Ðức Giêsu đến với các môn đệ. Như vậy mẹ con đã sống xa nhau rồi.
Ðức Giêsu đã đi vào cuộc đời công khai, xã hội. Người sống với các môn đệ chứ
không còn ở với mẹ trong gia đình.
Tuy nhiên sách Tin Mừng Gioan
sẽ lại nói đến Ðức Maria một lần nữa và chỉ một lần nữa thôi, khi ở dưới chân
thập giá. Ðầu và cuối cuộc đời cứu thế của Ðức Giêsu đều có sự hiện diện của Mẹ
Người, khiến chúng ta thấy Gioan có hàm ý rằng Ðức Maria theo dõi tham gia mật
thiết vào công cuộc cứu thế. Và chúng ta nên nhìn khuôn mặt Người ở đây như khi
Người sẽ đứng dưới chân thánh giá... Ðiều này giúp chúng ta hiểu hơn câu chuyện
tiệc cưới, đặc biệt những lời đối thoại giữa Ðức Giêsu và Mẹ Người.
Vậy Ðức Maria đã có mặt tại
tiệc cưới khi Ðức Giêsu đến với các môn đệ. Mẹ Người ở giữa xã hội loài người
để đón tiếp ơn Chúa viếng thăm. "Họ hết rượu rồi", đó là lời Ðức
Maria nói với Con Người khi Người vừa đến. Ai xúi Ðức Maria nói như vậy? làm
sao Người biết việc đó? Hành động này nói lên sự hiểu biết thông cảm và tình
thương cứu độ của Ðức Maria. Người là Ðấng cầu bầu cho loài người khốn khổ.
Người thưa với Thiên Chúa về mọi nhu cầu của chúng ta, cả khi chúng ta không
biết việc Người làm, chúng ta có tôn kính yêu mến Người mấy cũng chưa bù được tình
thương săn sóc của Người đối với chúng ta. Một mặt Người là Ðấng cầu bầu cho
chúng ta nhưng mặt khác, Người luôn luôn quay mặt nói với chúng ta như nói với
những người giúp tiệc hôm đó "Ngài có bảo gì thì cứ làm theo". Gioan
lấy lại lời Pharaon nói với dân Ai Cập trong nạn đói khổ: "Giuse bảo gì
thì cứ làm theo" (Kn 41,55). Ðặt những lời này trên môi miệng Ðức Maria,
Gioan muốn Mẹ Maria đóng vai trò giới thiệu Chúa Cứu Thế.
Hơn nữa, dường như Người muốn
nói với tất cả những ai ở mọi thế hệ chạy đến cầu bầu Người rằng: hãy cứ thi
hành lệnh Chúa truyền dạy. Trước mặt Chúa, Người là Ðấng chuyển cầu cho chúng
ta"... Còn đối với chúng ta, Người luôn luôn nhắn nhủ hãy sống theo ý
Chúa. Hai vai trò ấy cho chúng ta thấy Ðức Maria trong mầu nhiệm Cứu Thế và
khiến chúng ta phải biết tôn sùng Người thế nào cho hợp ý Người. Ở đây, trong
tiệc cưới Cana, Người đã trình bày thân phận thiếu thốn của loài người tội lỗi
trong câu: "Họ hết rượu rồi". Ðó là dân Cựu Ước thường dùng để mô tả
thời buổi đói khổ dân Chúa, biểu lộ hoàn cảnh đáng thương đang chờ ơn Cứu độ.
Như vậy Ðức Maria xin ơn cứu
độ cho loài người. Ít ra, Ðức Giêsu hiểu như vậy và muốn nâng lòng Mẹ Người
phải hiểu như thế. Do đó Người gọi mẹ bằng từ ngữ rất thông thường chẳng phải
bất kính gì, nhưng muốn đặt mẹ vào trong kế hoạch cứu độ. Trong kế hoạch này,
tình máu mủ thế gian không ăn thua gì. Tất cả giá trị tùy thuộc ở niềm tin.
Sau này, khi ở trên thập giá,
Ðức Giêsu cũng gọi mẹ bằng từ ngữ: "này bà", để Người ngửng đầu lên
nhận lấy trách nhiệm và vinh dự làm mẹ cả loài người.
Giờ ấy hôm nay chưa đến, Ðức
Giêsu ý thức như vậy. Nhưng nó cũng đã khởi sự từ hôm nay. Hoặc ít ra Ðức Giêsu
cũng muốn bắt đầu khi có lời thỉnh nguyện của Ðức Maria. Người chưa biến chén
rượu thành máu, vì đó là việc của "giờ" Cứu độ sẽ được thi hành trong
mầu nhiệm tử nạn phục sinh. Nhưng tiếp xúc với một nhân loại thống khổ, như Ðức
Maria vừa trình bày cho Người thấy, Ðức Giêsu đã khởi sự cứu vớt. Người biến
nước thành rượu để báo trước sẽ đến giờ biến rượu thành máu... Người biến cả 6
chum nước lớn để tỏ ra ơn cứu độ sẽ vô cùng dồi dào phong phú.
Và sự kiện này không thể
không tạo nên một niềm hân hoan lớn. Tất cả những câu nói của người chủ tiệc
chỉ có mục đích nói lên lòng cảm mến hân hoan đó. Rượu mới mà Ðức Giêsu mang
đến vượt xa thứ rượu cũ của Cựu Ước khiến thật sự chúng ta được chiêm ngưỡng
vinh quang hiển linh của Chúa nơi Ðức Giêsu Kitô.
Hiểu bài Tin Mừng hôm nay như
vậy, chúng ta thấy rõ câu chuyện tiệc cưới Cana gắn liền với mầu nhiệm Cứu thế
và với phụng vụ Thánh Thể mà Hội Thánh cử hành mỗi ngày thứ 8, tức là ngày Chúa
nhật. Thánh Gioan cho chúng ta thấy một cuộc hội họp, hình ảnh của xã hội loài
người nói chung và cộng đồng dân Chúa nói riêng.
Ðức Maria đã ở đó như là
Người trung gian các ơn trong thái độ chuyển cầu và khuyên bảo. Cuộc hôn nhân
mà loài người đang cử hành, tức là đời sống con người ở diện hạnh phúc nhất,
đang lâm vào tình trạng nguy ngập; Ðức Kitô đến; Ðức Mẹ thỉnh cầu; loài người
làm theo ý Chúa; hôn lễ được hồi sinh; nhưng người ta sẽ không còn để ý đến đám
hôn nhân hôm ấy nữa cho bằng đang nhìn theo đám người đang đi xuống Capharnaum:
Ðó là đi với Mẹ và anh em Người, và với các môn đồ của Người. Ðó là cộng đồng
dân Chúa mới, là Hội Thánh Ðức Kitô, là hôn nhân mới và vĩnh cửu nhờ chén rượu
đã trở thành máu trong giao ước mới, mà hôm nay việc nước biến nên rượu là bước
đầu.
Như vậy, kết thúc bài Tin
Mừng, thánh Gioan mời chúng ta nhìn sang Giáo Hội. Ở đây bài Thánh thư sẽ soi
sáng thêm cho chúng ta.
3. Hội Thánh Và Thánh Thần
Nhìn vào Ðức Giêsu vừa làm
phép lạ biến nước thành rượu giữa các tông đồ, con mắt đức tin của Gioan đã
nhận ra vinh quang của Thiên Chúa đã đến ở giữa loài người. Thiên Chúa và dân
Người đã mật thiết với nhau như thầy với trò.
Hơn nữa, bản tính Thiên Chúa
đã mặc lấy xác thể loài người khi Ngôi Lời hóa thành nhục thể. Ðó không phải là
cuộc hôn nhân giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và dân Người sao? Lời tiên tri
đã được thực hiện nơi Ðức Giêsu. Nhưng Ðức Giêsu đi giữa các môn đệ chưa hoàn
toàn là Ðức Giêsu vinh quang. Ánh sáng của Người chỉ lóe lên chốc lát trong
phép lạ nước hóa thành rượu. Ði giữa các môn đệ chưa được đầy Thánh Thần, vinh
quang của Người còn bị xác thịt che dấu.
Nay Người đã trở về trời và
sai Thánh Thần xuống, thì kìa Hội Thánh của Người đang đầy sức mạnh của Thánh
Thần. Tông đồ Phaolô nhìn thấy sự sống hiện nay của Hội Thánh là một vườn hoa
muôn sắc. Không thiếu ơn nào của Hội Thánh là một vườn hoa muôn sắc. Không
thiếu ơn nào. Khôn ngoan có; trí tri có; có những phần tử đầy lòng tin lại có
những anh em được tài chữa bệnh. Các ơn tiên tri cũng nhiều, mà các ơn biện
phân mầu nhiệm cũng lắm. Một Hội Thánh như vậy không phải là một tổ chức loài
người. Ðó không phải là xã hội sống bằng sự sống nhân loại. Nhưng rõ ràng đó là
cơ thể đầy thần khí. Thánh Thần đang làm việc trong cơ thể như đã từng làm việc
trong con người Ðức Giêsu Kitô ngày trước. Nói cách khác, xưa Thiên tính đã ở
với Ðức Giêsu thành Nadarét để cứu thế, thì bây giờ Thần khí Thiên Chúa đang ở
trong Hội Thánh để tiếp tục sứ mạng của Ðức Giêsu. Hội Thánh là thân thể nối
dài của Người. Và như vậy, cuộc hôn nhân giữa Thiên Chúa và dân Người, xưa thực
hiện nơi Ðức Giêsu, thì nay cũng đang tiếp tục trong Hội Thánh. Hội Thánh là
Israen mà Isaia đã nhìn thấy trong niềm tin vào lời hứa. Hội Thánh thực hiện
mọi lời tiên tri đã từng là lẽ sống cho tiền nhân. Và sở dĩ như vậy là nhờ Ðức
Giêsu Cứu Thế, đã biến đổi rượu thành máu trong cuộc khổ nạn của Người, hoàn
tất phép lạ hóa nước thành rượu trong tiệc cưới ở Cana. Chủ đám ngày xưa đã
thốt ra những lời ngưỡng mộ kinh ngạc khi được nếm chút rượu mới, thì chúng ta
phải hân hoan cảm tạ biết bao khi chạm vào chén máu của Ðức Kitô trong thánh lễ
này.
Phải, chính trong Hội Thánh
và nơi Thánh Thể mà chúng ta thấy kết tinh kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Ở
đây rõ ràng có tiệc cưới Chiên Con. Rượu sẽ hóa thành máu và máu sẽ ban Thánh
Thần cho những ai lãnh nhận để một thần khí Thiên Chúa sinh hoạt nơi mọi phần
tử trong Hội Thánh. Tham dự thánh lễ này, vì thế, chúng ta phải kết hiệp với
thánh linh; và rồi phải sống như mình chỉ là một chi thể trong một thân thể.
Phải đem khả năng thi hành nhiệm vụ riêng để phục vụ đoàn thể. Lúc ấy Hội Thánh
mới tỏ ra thực là một cơ thể, cơ thể có Thần Khí, làm chứng Thiên Chúa đang kết
hiệp với dân Người, thể hiện mọi lời tiên tri về hôn nhân như chúng ta đã nghe
đọc trong thánh lễ hôm nay.
(Trích dẫn từ tập sách
Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Chủ Nhật 2
Thường Niên, Năm C
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Trung
thành hiệp nhất trong những khác biệt của nhau.
Thiên
Chúa tạo dựng mỗi người, ban ân sủng, và trao sứ vụ khác nhau. Ngài muốn mỗi
người chu toàn sứ vụ của mình theo như những gì được ban cho, để xây dựng gia
đình, xã hội, và Nhiệm Thể của Đức Kitô. Nhưng rất nhiều người không hiểu sự
quan phòng của Thiên Chúa, họ lấy mình làm tiêu chuẩn để nhận xét, phê bình và
đòi hỏi tha nhân phải giống họ. Hậu quả là họ phải gánh là bất đồng ý kiến,
chia rẽ, và hận thù.
Các
Bài Đọc hôm nay mời gọi con người hãy nhận ra sự khác biệt trong mỗi cá nhân,
về quà tặng cũng như sứ vụ; để tôn trọng tha nhân và cùng nhau xây dựng Nước
Chúa. Trong Bài Đọc I, vì không biết vâng lời Thiên Chúa và tôn trọng tha nhân,
Jerusalem được ví như một người vợ bị chồng là Thiên Chúa bỏ rơi và con cái bị
lưu đày cực khổ các nơi; nhưng tiên-tri Isaiah nhìn thấy trước ngày Thiên Chúa
sẽ đoái thương nhìn đến và nối lại tình xưa nghĩa cũ với Jerusalem, vì Ngài là
Thiên Chúa trung thành yêu thương. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô nêu bật một
chìa khóa quan trọng để gìn giữ sự hiệp nhất và hạnh phúc trong gia đình cũng
như cộng đoàn, là phải nhận ra những gì có chung và những gì khác biệt, để tôn
trọng những khác biệt của nhau và cùng nhau xây dựng lợi ích chung. Mô hình lý
tưởng là sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Mẹ Maria nhận ra
ngay sự khó khăn của đôi tân hôn trong ngày trọng đại nhất của cuộc đời họ. Mẹ
biết chỉ một người duy nhất có thể cứu vãn tình thế là Chúa Giêsu; nhưng Mẹ chỉ
biết cầu cứu Chúa và nhắn nhủ các người giúp việc: "Hễ người bảo gì, cứ
làm như vậy."
KHAI TRIỂN
BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa.
1.1/
Jerusalem hoang phế sẽ được Thiên Chúa đoái thương nhìn tới: Jerusalem được tiên
tri Isaiah nhân cách hóa như một người vợ để chỉ nhà Israel. Jerusalem bị Thiên
Chúa bỏ rơi, vì đã bất trung với Thiên Chúa và bất công với tha nhân. Hậu quả
là quân thù đã tiêu hủy bình địa Jerusalem và đem tất cả dân chúng đi lưu đày.
Tuy nhiên, tình yêu và sự trung thành của Thiên Chúa là lý do Jerusalem được
phục hồi. Thiên Chúa không đành lòng khi thấy Jerusalem điêu tàn hoang phế;
nhưng Ngài phải sửa phạt để Jerusalem nhận ra những khuyết điểm của mình mà ăn
năn xám hối và quay về với tình yêu đích thực. Nếu không sửa phạt, Jerusalem sẽ
chết trong tội của mình và xa lìa Thiên Chúa. Trong trình thuật hôm nay,
tiên-tri Isaiah được Thiên Chúa cho nhìn thấy trước ngày Jerusalem được phục
hồi qua lời tuyên sấm: "Tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông,
ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc. Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng
đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ
rạng. Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng Đức Chúa đặt cho.
Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa, sẽ là mũ triều
thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay."
1.2/
Hạnh phúc có được khi Jerusalem biết sống mối liên hệ với Thiên Chúa: Vì bất trung và không
giữ các mệnh lệnh của Thiên Chúa mà Jerusalem bị mang tiếng là "Đồ bị
ruồng bỏ!" Xứ sở bị mang tiếng là "Phận bạc duyên đơn." Nhưng một
khi quay trở về với Thiên Chúa, Ngài sẽ yêu thương và chăm sóc Jerusalem như
một người vợ yêu dấu. Lúc đó, Jerusalem sẽ được chồng là Thiên Chúa gọi:
"Ái khanh lòng Ta hỡi!" Xứ sở sẽ được nổi danh là "Duyên thắm
chỉ hồng." Jerusalem sẽ được Đức Chúa đem lòng sủng ái, Chúa sẽ lập hôn
ước cùng xứ sở ngươi và Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Khi biết sống mối
liên hệ của người vợ trung thành, Jerusalem sẽ trở thành niềm vui và niềm hãnh
diện của Thiên Chúa.
2/
Bài đọc II: Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí.
Đây
là một tư tưởng quan trọng trong nền thần học về thân thể của Phaolô, và là
chìa khóa hiệu nghiệm để xây dựng hiệp nhất, bình an, và hạnh phúc. Thánh
Phaolô khuyên con người nhận ra hai đặc điểm quan trọng:
2.1/
Những gì mọi người cùng có chung: Để có thể sống chung và cùng nhau làm việc,
con người phải nhận ra những gì mọi người có chung. Ngài liệt kê ra những điểm
có chung quan trọng:
(1)
Một Thánh Thần: Đấng ban những đặc sủng khác nhau cho mỗi người để xây dựng lợi
ích chung và Nhiệm Thể của Đức Kitô.
(2)
Một Chúa Kitô: Đấng hy sinh chịu chết cho mọi người được tha tội và mang lại ơn
cứu độ cho mọi người. Tất cả chúng ta là chi thể của một Nhiệm Thể của Đức
Kitô.
(3)
Một Thiên Chúa: Đấng dựng nên và quan phòng mọi sự trong mọi người. Mỗi ngôi vị
của Ba Ngôi Thiên Chúa tuy thi hành một sứ vụ khác nhau; nhưng cả ba cùng chung
một mục đích là mưu cầu lợi ích cho con người.
(4)
Chỗ khác, thánh Phaolô còn liệt kê thêm các tín hữu chỉ có một Phép Rửa, một niềm tin
vào Ba Ngôi Thiên Chúa, và được tiền định để hướng về cùng một đích điểm.
2.2/
Những gì mọi người khác nhau: Bên cạnh những gì con người có chung, họ còn có rất nhiều
khác biệt:
(1)
Mỗi người được ban các đặc sủng khác nhau: "Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn
ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày.
Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất
ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người
thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được
ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ.''
''Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho
mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người."
(2)
Đặc sủng khác nhau dẫn tới những ơn gọi khác nhau: giáo sư để giảng dạy,
cha xứ để chăm sóc phần linh hồn cho dân, giáo dân để cung cấp nhân lực và giúp
đỡ cho xã hội và Giáo Hội, bác sĩ để chữa lành ... Mỗi người một công việc khác
nhau, không có ơn gọi này quan trọng hơn ơn gọi khác; nhưng tất cả đều góp phần
trong việc xây dựng lợi ích chung.
(3)
Mỗi người được tạo thành cách khác nhau: phái tính; tính khí; cơ thể ...
(4)
Ngoài ra, mỗi người còn sống trong môi trường và những nền văn hóa khác nhau; được nuôi dưỡng, dạy
dỗ, và trưởng thành trong những gia đình khác nhau.
Chúng
ta không thể nào tìm được hai cá nhân giống nhau về mọi phương diện; vì thế,
chúng ta đừng bao giờ bắt tha nhân phải suy nghĩ và hành xử giống mình về mọi
phương diện.
3/
Phúc Âm: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo."
Trình
thuật hôm nay bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng của Chúa Giêsu và là phép lạ
đầu tiên trong Tin Mừng theo thánh Gioan. Đây là phép lạ quan trọng, vì nó khơi
mào kỷ nguyên của Đấng Thiên Sai. Chúa Giêsu tỏ uy quyền và sự quan tâm của
Ngài cho Đức Mẹ, cho các môn đệ, và cho dân chúng để họ tin vào Ngài. Có ba
phản ứng khác nhau trong trình thuật hôm nay.
3.1/
Phản ứng rất tinh tế của Đức Mẹ: Mẹ Maria, tuy là khách dự tiệc; nhưng Mẹ
không giống như đa số khách dự tiệc đến để ăn. Mẹ là người đầu tiên nhận ra
hoàn cảnh khó khăn của đôi tân hôn. Mẹ hiểu biến cố hết rượu trong ngày cưới sẽ
ảnh hưởng đến hạnh phúc của đôi tân hôn, nên Mẹ đến cầu cứu với Chúa Giêsu cho
đôi trẻ, và nói với con mình: "Họ hết rượu rồi." Sự kiện Mẹ chọn đến
thưa chuyện với Chúa Giêsu chứng minh hai điều:
(1)
Niềm tin của Mẹ vào uy quyền của Chúa Giêsu: Mẹ biết Chúa Giêsu là người duy nhất có thể
cứu vãn tình thế cho đôi trẻ.
(2)
Mẹ không truyền lệnh; nhưng cầu cứu để Chúa Giêsu tự do đáp trả.
Sau
đó, Mẹ ra ngoài bếp và nhắn nhủ những người giúp việc một điều quan trọng:
"Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo."
3.2/
Phản ứng của Chúa Giêsu: Khi nghe lời Mẹ cầu cứu, Đức Giêsu trả lời: "Thưa bà,
chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến." Giờ của Chúa Giêsu
trong Tin Mừng Gioan là giờ mà Ngài được vinh quang khi bị treo trên Thập Giá.
Toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu trên dương thế đều hướng về giờ này.
Thoạt
nghe câu trả lời của Chúa Giêsu, nhiều người có thể cho là Ngài bất hiếu; nhưng
họ cần phải suy xét thêm: Trong cuộc đời, mỗi người có một sứ vụ Thiên Chúa
trao để chu toàn và có một thời gian cố định để chu toàn sứ vụ đó. Chúng ta
đừng bao giờ bắt người khác phải thi hành sứ vụ đó theo yêu cầu và thời gian
của chúng ta. Đây là chìa khóa để giữ bình an, hiệp nhất và hạnh phúc của gia
đình.
Lời
nhận xét của người quản tiệc là một ví dụ khác cho việc đừng bắt người khác
phải luôn theo truyền thống, vì mỗi người một hoàn cảnh khác nhau. Ông trách
tân lang: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới
đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ."
3.3/
Phản ứng của những người giúp việc: Trình thuật kể: "Ở đó có đặt sáu chum đá
dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng
tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước."
-
Đức Giêsu bảo các người giúp việc: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi!"
Đây không phải một lệnh truyền dễ thi hành vì phải ra đi kín một lượng nước lớn
trong ngày lễ cưới; nhưng họ đã vâng theo lệnh truyền của Chúa và đổ đầy tới
miệng.
-
Rồi Người nói với họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc." Lại
một lệnh truyền không dễ làm vì đòi hỏi một niềm tin; nhưng họ vâng lời và đem
cho ông quản tiệc.
-
Kết quả:
Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết rượu từ đâu
ra, chỉ có gia nhân đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang lại và hỏi: Tại
sao giữ rượu ngon đến giờ này?
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải tránh thái độ tự tôn cho mình có thể làm mọi việc mà không cần sự
giúp đỡ của tha nhân.
-
Chúng ta phải tôn trọng sự khác biệt của người khác. Đừng bao giờ bắt họ phải
giống mình trong cách nhận xét, trình bày, và giải quyết các vấn đề.
-
Điều chúng ta có thể làm là trình bày sự thật và mời gọi con người đáp trả;
nhưng phải để cho tha nhân suy nghĩ và tự do đáp trả theo hoàn cảnh và thời
gian của họ.
-
Chúng ta đừng vội kết tội và đoạn tuyệt với tha nhân vì họ đã không nhận ra sự
thật và làm theo ý muốn của mình.
Linh mục
Anthony Đinh Minh Tiên OP
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng
Giêng
20 THÁNG GIÊNG
Chia Sẻ Trong Công Trình Cứu Chuộc
Chúng ta không được phép quên lý do tại
sao Đức Giêsu đã đến làm người trên cõi đời này. Người đã đến để hoàn thành
công trình cứu độ. Người đã hoàn thành bằng cách nào? Bằng đau khổ và cái chết
của Người trên Thập Giá và bằng chiến thắng của Người nơi cuộc Phục Sinh vinh
quang. Mọi lao động của con người, dù có vẻ tầm thường đến mấy đi nữa, cũng đều
tham dự vào công trình cứu độ này của Đức Giêsu. Như tôi đã nói trong thông
điệp về Lao Động: “Bằng thái độ chấp nhận những nỗi vất vả trong công việc của
mình, trong niềm kết hiệp với Đức Kitô Khổ Nạn vì chúng ta, chúng ta đang cộng
tác – một cách nào đó – với Con Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc nhân
loại; chúng ta đang chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Đức Giêsu; chúng ta
đang vác thập giá hằng ngày của mình qua công việc mà mình được mời gọi đảm
nhận.” (Laborem exercens 27).
Giáo Hội cố gắng trung thành với mẫu
gương và chứng tá của Đức Kitô bằng cách kiên thủ với nỗi quan tâm đến thiện
ích của người lao động. Những thông điệp nổi tiếng của các giáo hoàng, bắt đầu
với Thông Điệp Rerum novarum của Đức Lê-ô XIII, luôn luôn bênh vực quyền lợi về
lương bổng và về điều kiện làm việc của người lao động.
Giáo huấn của Giáo Hội dựa trên nguyên
tắc rằng mọi con người đều được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và đều được
Thiên Chúa ban cho một phẩm giá độc đáo. Vì thế, cần phải bảo đảm rằng không ai
bị sử dụng thuần túy như một phương tiện sản xuất, như kiểu một cỗ máy hay một
con trâu, con bò… Giáo Hội bác bỏ mọi hệ thống xã hội và kinh tế dẫn đến tình
trạng tước đoạt nhân tính của người lao động.
Bên cạnh mối quan tâm về điều kiện làm
việc, Giáo Hội kiên quyết đòi hỏi rằng người lao động phải nhận được món tiền
lương xứng đáng – một món tiền lương có tính đến các nhu cầu của gia đình họ
nữa. “Đối với một người lao động trưởng thành có những trách nhiệm gia đình,
thì một món tiền lương công bằng nghĩa là phải đủ để tạo lập và duy trì một gia
đình đúng phẩm giá và bảo đảm tương lai của gia đình ấy nữa” (Laborem exercens
19).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II
-
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by
Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa Nhật II Thường Niên; Is 62, 1-5; 1Cr 12, 4-11; Ga 2, 1-11
LỜI SUY NIỆM: “Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức
Giêsu nói với Người: Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3).
Trong tiệc cưới tại Cana, Chúng ta thấy
được bản tính của Đức Me là luôn quan tâm đến người khác. Trước đây khi Đức Mẹ
được truyền tin, được sứ thần loan báo về chuyện chị họ mình đang mang thai.
Đức Mẹ đã vội vả lên đường thăm viếng và ở lại phục vụ. Hôm nay tại tiệc cưới
này Đức Mẹ cũng được mời dự tiệc, mặc dầu là một quan khách, nhưng Mẹ vẫn luôn
quan tâm diễn biến của tiệc cưới, do sự quan tâm, Mẹ đã nhận ra trong gia chủ
thiếu rượu và Mẹ đã thực hiện điều Mẹ quan tâm: Mẹ đã đến bên Chúa Giêsu và Mẹ
trình bày sự việc, mặc dầu câu nói của Chúa Giêsu xem như là đã khép cửa lại.
Nhưng đối với Mẹ, Mẹ vẫn tin ở Con Mẹ cũng có một tấm lòng như Mẹ, Chúa sẽ mở
cửa. Nên Mẹ đã bảo với gia nhân: “Thầy bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Trong
cuộc sống của chúng ta thật là hạnh phúc, khi có một người Mẹ luôn quan tâm đến
con cái lúc này và trong giờ lâm tử.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
20 Tháng Giêng
Chuyện Một Khu Rừng
Một câu chuyện có thật đã được kể về
nguồn gốc của một khu rừng như sau: Một ông lão người Pháp nọ, sau khi vợ qua
đời, đã mang đứa con trai duy nhất của ông đến một vùng đất khô cằn nhất của
Miền Trung nước Pháp để lập nghiệp. Thật ra, người đàn ông chỉ muốn quên đi cái
quá khứ khó khăn vất vả.
Vùng đất khô cằn nơi ông đặt chân đến
chỉ còn vỏn vẹn năm ngôi làng nhỏ với rất ít dân cư sống trong những căn nhà
siêu vẹo đổ nát, đa số đã bỏ lên những thành phố lớn để tìm công ăn việc làm. Ông lão trên 60 tuổi đưa mắt nhìn khung cảnh xung quanh và đi đến kết luận:
nếu không có cây cối, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, cả vùng này sẽ trở
thành sa mạc hoang tàn. Sau khi đã dọn chỗ cho đàn cừu và một số gia súc khác,
ông lão bắt đầu đi bộ dọc theo các lối đi và nhặt từng hạt dẻ. Ông chọn những
hạt dẻ tốt để riêng và ngâm vào nước. Khi mặt trời vừa lên, ông dùng một thanh
sắt nhọn moi những lỗ nhỏ và đặt cứ mỗi lỗ một hạt dẻ.
Ngày ngày như thế, trong liên tiếp 3
năm, ông lão đã trồng được 100 ngàn cây dẻ con. Ông hy vọng rằng ít nhất 10
ngàn cây còn sống sót. Ông cũng hy vọng rằng Chúa sẽ cho ông sống được thêm
vài năm nữa để làm cho xong công tác trồng cây này.
Ông qua đời năm 1947, hưởng thọ 89
tuổi. Từ những hạt dẻ ông đã cặm cụi moi từng lỗ bỏ vào, nay nước Pháp đã có
được một trong những khu rừng đẹp nhất thế giới. Trong ba khóm rừng mỗi khóm
dài 11 cây số, những cây dẻ xanh tươi cao lớn đã có mặt để giữ nước mưa, làm
cho cây cối xung quanh được xanh tươi và biến khu đồi khô cằn ngày xưa thành
những dòng suối róc rách. Chim chóc đã trở lại. Sự sống cũng chớm nở. Dân chúng
từ từ trở lại các ngôi làng cũ để xây nhà và làm lại cuộc đời.
Sự sống của thiên nhiên thường giúp con
người bớt cô đơn. Ðồng ruộng, cây cỏ xanh tươi, tiếng chim ca hót thường khơi
dậy niềm vui sướng trong lòng người. Ðó là lý do khiến cho những người sống ở
thôn dã dễ có tâm hồn thanh thản và lạc quan vui sống hơn người thành thị.
Lớn lên ở thôn dã, chứng kiến cảnh gieo
trồng của người nông dân, Chúa Giêsu đã mượn những hình ảnh của những sinh hoạt
thôn dã ấy để nói về Nước Trời. Người gieo trồng nào cũng có niềm tin và sự lạc
quan. Gieo hạt giống vào lòng đất là đặt tất cả niềm tin tưởng phó thác của
mình vào thiên nhiên. Có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi bên vệ đường, có hạt
rơi trong bụi gai. Nhưng kết quả cuối cùng vẫn là vụ mùa tươi tốt. Có những hạt
rơi vào đất tốt, có những hạt rơi bên vệ đường, có những hạt rơi vào bụi gai.
Có những kết quả trông thấy, có những âm thầm đau khổ, có những bách hại dữ
dội, nhưng cuối cùng Giáo Hội của Ðức Kitô vẫn tồn tại và sinh ra được nhiều
hoa trái của niềm Hy Vọng.
(Lẽ Sống)
19-1
Thánh Fabian
(250)
abian là một giáo dân bình
thường ở Rôma từ quê lên tỉnh vào một ngày khi giáo sĩ và dân chúng chuẩn bị
chọn vị tân giáo hoàng. Có lẽ ngài đến Rôma cũng giống như nhiều người ngày
nay đến Rôma trong thời gian tuyển chọn giáo hoàng: lo lắng cho tương lai của
đạo, tò mò muốn biết vị tân giáo hoàng, hoặc tỏ lòng luyến tiếc vị giáo hoàng
vừa quá cố. Hơn nữa, được nhìn thấy tất cả các vị chức sắc trong Giáo Hội
cùng quy tụ lại để có một quyết định quan trọng cũng là điều thích thú. Ai sẽ
là tân giáo hoàng? Ðó là người nhiều quyền thế? Là người có tài hùng biện? Là
người dũng cảm?
Theo sử gia Eusebius của
Giáo Hội, bỗng dưng có một con chim bồ câu từ trần nhà bay xuống, nhưng không
đậu trên "bất cứ ai nổi tiếng". Theo Eusebius, bồ câu "đậu
trên đầu Fabian giống hệt như Chúa Thánh Thần ngự trên Ðấng Cứu Thế dưới hình
chim bồ câu." Ðiều đó phải có một ý nghĩa gì liên quan đến sự hoạt
động của Chúa Thánh Thần, và mọi người đồng thanh tuyên bố Fabian "xứng
đáng" là giáo hoàng.
Ðối với chúng ta, bồ câu
tượng trưng cho sự hòa bình, và chim bồ câu ấy là điềm báo trước. Bắt đầu từ
gần ngày Fabian được tuyển chọn, việc bách hại và đau khôå của Giáo Hội cũng
chấm dứt. Hoàng đế Philip, thân thiện với Kitô Hữu và không những ông ngừng
bách hại mà còn chấp nhận các nghi lễ của Kitô Giáo.
Trong thời gian hòa bình,
Ðức Fabian đã có thể xây dựng cơ cấu Giáo Hội Rôma, ngài chỉ định bảy phó tế
và giúp thu thập các chứng thư tử đạo.
Nhưng như ở bất cứ thời
gian nào, những người có quyền thường không vui khi thấy các kẻ lạ mặt gia
tăng và phát đạt. Có nhiều lần người ngoại giáo đã tấn công Kitô Hữu, và khi
hoàng đế Philip từ trần thì thời gian bình an cũng chấm dứt. Hoàng đế mới là
Decius, ra lệnh cho mọi Kitô Hữu phải khước từ Ðức Kitô bằng cách thờ cúng tà
thần, hoặc tham dự các nghi thức ngoại giáo khác.
Sau một vài năm bình an,
Giáo Hội vẫn chưa đủ mạnh. Nhiều người đã không đủ can đảm để tử đạo. Nhưng
Ðức Fabian, một biểu tượng hoà bình nổi bật, đã đứng lên để can đảm làm gương
cho mọi người trong đàn chiên. Ngài chịu tử đạo năm 250 và được chôn cất
trong Nghĩa Trang Calixtus, là nơi chính ngài giúp tân trang.
Trong Nghĩa Trang Calixtus,
ngày nay vẫn còn có một bia đá dùng để đậy mồ Thánh Fabian, bị vỡ làm bốn
mảnh, có mang dòng chữ Hy Lạp, "Fabian, giám mục, tử đạo."
Lời Bàn
Chúng ta chỉ có thể tin
tưởng bước vào tương lai và chấp nhận những thay đổi cần thiết để phát triển
nếu chúng ta bám rễ vào quá khứ của một truyền thống sống động. Một vài mảnh
đá ở Rôma nhắc nhở rằng, chúng ta là những người của thế kỷ 20 tiếp tục
truyền thống đức tin sống động và can đảm thay đổi cuộc đời giống như Ðức
Kitô, và làm chứng cho Ngài trong thế gian. Chúng ta đã có các anh chị là
những người "ra đi trước chúng ta được ghi dấu đức tin" để dẫn
đường cho chúng ta.
Lời Trích
"Máu các vị tử đạo
là hạt giống của Giáo Hội" (Tertullian).
|
|
|
www.nguoitinhuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét