Thứ Tư 23/01/2013
Thứ Tư Tuần II Mùa Thường
Niên Năm lẻ
BÀI
ĐỌC I: Dt 7, 1-3. 15-17
"Ngươi là tư tế
theo phẩm hàm Menkixêđê tới muôn đời".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh
em thân mến, Menkixêđê này là vua Salem, tư tế của Thiên Chúa Tối Cao, ông đã đi
đón Abraham đang trên đường về sau khi đánh bại các vua, ông chúc lành cho
Abraham. Và Abraham dâng cho ông một phần mười các chiến lợi phẩm. Giải nghĩa
tên ông, trước tiên thấy tên ông mang tên vua công chính, rồi ông lại còn là
vua Salem, nghĩa là vua hoà bình. Ông không cha không mẹ, không gia phả, không
ngày sinh, không ngày tử, nhưng ông được so sánh với Con Thiên Chúa, nên ông
làm tư tế muôn đời.
Việc
còn hiển nhiên hơn nữa, nếu một tư tế khác được thiết lập theo phẩm hàm
Menkixêđê, không phải chiếu theo luật xác thịt quy định, nhưng chiếu theo quyền
năng của sự sống bất diệt. Vì đã chứng thực về ngài rằng: "Ngươi là tư tế
theo phẩm hàm Menkixêđê tới muôn đời". Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 109, 1. 2. 3. 4
Đáp: Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê (c. 4bc).
1)
Thiên Chúa đã tuyên bố cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Ta, cho
tới khi Ta bắt quân thù làm bệ kê dưới chân Con". - Đáp.
2)
Đức Thiên Chúa từ Sion sẽ phô bày vương trượng quyền bính của Ngài, rằng:
"Con hãy thống trị giữa quân thù". - Đáp.
3)
Các thủ lãnh cùng hiện diện bên Con, ngày Con giáng sinh trong thánh thiện huy
hoàng: "Trước rạng đông, tựa hồ sương sa, Ta đã sinh hạ ra Con". - Đáp.
4)
Đức Thiên Chúa đã thề và không hối hận rằng: "Con là Thượng tế tới muôn
đời theo phẩm hàm Menkixêđê. - Đáp.
ALLELUIA:
Ga 6, 64b và 69b
-
Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống. Chúa có những lời ban sự sống
đời đời. - Alleluia.
PHÚC
ÂM: Mc 3, 1-6
"Trong ngày
Sabbat được cứu sống hay là giết chết?"
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, Chúa Giêsu lại vào hội đường và ở đó có một người khô bại một tay. Người ta
để ý quan sát xem Chúa có chữa bệnh trong ngày Sabbat không, để tố cáo Người.
Chúa bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy đứng ra giữa đây". Rồi
Người bảo họ: "Trong ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Được cứu sống
hay là giết chết?" Nhưng họ thinh lặng. Bấy giờ Người thịnh nộ đưa mắt
nhìn họ và buồn phiền vì lòng họ chai đá, Người bảo bệnh nhân rằng: "Hãy
giơ tay ra". Người đó giơ tay ra và tay anh ta được lành. Lập tức, những
người biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người
và tìm cách hại Người. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm: Phản
ứng của Chúa Giêsu
Trong diễn văn đọc trước
ngoại giao đoàn bên cạnh Toà Thánh nhân dịp Năm Mới 1996, Ðức Gioan Phaolô II
đã mạnh mẽ tố giác các đàn áp Kitô hữu; Ngài nhận định như sau: "Người ta
không thể đàn áp mãi hàng triệu tín hữu, nghi ngờ hoặc chia rẽ họ, mà những
hành động đó lại không đưa đến những hậu quả tiêu cực, chẳng những đối với uy
tín của các quốc gia trên trường quốc tế, mà cả trong nội bộ các xã hội liên
hệ; trái lại, những mối quan hệ tốt giữa các Giáo Hội và nhà nước góp phần vào
sự hòa hợp mọi thành phần trong xã hội".
Vừa đàn áp, vừa kêu gọi tin
tưởng, chỉ có người mù quáng mới không thấy được sự mâu thuẫn trong hành động
của mình. Người mù lòa ít ra còn biết mình không thấy, nhưng kẻ mù quáng vốn có
mắt, nhưng lại không nhìn thấy.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu có một phản ứng trước sự mù quáng của những người Biệt phái. Chúng ta cứ
tưởng tượng một bệnh nhân đang quằn quại trong đau khổ cần được một bàn tay săn
sóc chữa trị, thì người ta lại nại đến luật ngày Hưu lễ để bắt bẻ và cấm chế.
Thánh sử Marcô như muốn tô đậm phản ứng của Chúa trước thái độ mù quáng như
thế, khi viết: "Chúa Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng chai
đá của họ". Chúa Giêsu vốn là Ðấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Chúng ta hãy chiêm ngưỡng thái độ của Ngài đối với những người khốn khổ, các
bệnh nhân, các tội nhân, những người bị đẩy ra bên lề xã hội, Ngài đồng bàn với
họ, cảm thông với họ, tha thứ cho họ.
Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông
tha thứ đối với mọi tội lỗi của con người, duy chỉ có một thái độ Ngài không
bao giờ chấp nhận và tha thứ, đó là thói giả hình và mù quáng. Do yếu đuối, con
người sa ngã là chuyện bình thường, nhưng nhắm mắt khép kín tâm hồn để không
nhận ra mình yếu đuối cũng như nhân danh đạo lý và pháp luật để khước từ yêu
thương, để loại trừ người khác, Chúa Giêsu gọi đó là tội chống lại Thánh Thần,
tội không thể tha thứ được. Thật thế, khi con người không còn nhận ra thân phận
tội lỗi yếu đuối của mình, khi con người khước từ yêu thương, thì mọi tương
quan với Thiên Chúa cũng hoàn toàn bị cắt đứt. Chúa Giêsu không ngừng lên án
thái độ giả hình và mù quáng của những người Biệt phái; Ngài cũng luông kêu gọi
các môn đệ đề cao cảnh giác trước men Biệt phái.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta
ghi tạc Lời Chúa để tránh khỏi men giả hình và mù quáng ấy. Xin Ngài cho chúng
ta một tâm hồn nhạy cảm để nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta và
đáp lại tiếng gọi thống hối và hoán cải không ngừng của Chúa. Xin Ngài ban cho
chúng ta một trái tim luôn biết rung động trước nỗi đau khổ của đồng loại và
đôi tay luôn biết rộng mở để săn sóc chữa trị và san sẻ trao ban cho mọi người.
(Veritas Asia)
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần II TN, Năm lẻ
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Đức
Kitô là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek.
Tôn
giáo hiện hữu là để đưa con người tới Thiên Chúa. Để làm việc này, con người
cần giữ luật. Bao lâu con người tuân giữ những luật Thiên Chúa truyền, con
người giữ mối liên hệ tốt lành với Thiên Chúa. Nhưng con người đã không thể giữ
mãi mối liên hệ với Thiên Chúa vì họ phạm tội; và như thế, con người cần dâng
lễ vật để đền tội và nối lại mối liên hệ với Thiên Chúa. Đó là lý do chức tư tế
và luật dâng lễ vật hiện hữu. Theo từ ngữ Latin, từ ngữ dùng để chỉ tư tế là
pontifex, có nghĩa người xây cầu để nối giữa 2 điểm. Tư tế là người xây cầu để
nối giữa Thiên Chúa và con người bằng dâng các lễ vật hy sinh. Theo truyền
thống Do-Thái, lễ vật hy sinh chỉ có thể đền những tội vô tình xúc phạm đến
Luật mà thôi; những tội cố ý, không lễ vật hy sinh nào có thể đền được. Tác giả
Thư Do-Thái nhìn thấy sự bất tòan của chức tư tế và các lễ vật hy sinh trong
Đạo Do-Thái; ông nhận ra con người cần một phẩm trật tư tế cao trọng hơn phẩm
trật tư tế theo Aaron, và một lễ vật hy sinh cao trọng hơn máu chiên bò, để có
thể tha thứ các tội cho con người, và cung cấp cho con người cách thức an tòan
để nối lại mối liên hệ với Thiên Chúa sau khi phạm tội.
Trong
Bài Đọc I, Tác giả dùng Thánh Vịnh 110:4 và Sách Sáng Thế 14:18-20, để chứng
minh Đức Kitô là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek; phẩm trật này cao trọng
hơn phẩm trật Aaron, vì “Melkizedek không có cha, không có mẹ, không có gia
phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng không có kết thúc. Như thế là ông giống
Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế.” Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tức giận
vì Nhóm Pharisees lòng chai dạ đá: trong khi Ngài muốn chữa lành con người khỏi
mọi tội lỗi và bệnh họan, tật nguyền, nhưng họ luôn tìm cách để tố cáo và luận
tội Ngài.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Đức Kitô là Thượng-tế theo phẩm trật Melkizedek.
1.1/
Thượng Tế Melkizedek: Khi
truy tầm tên Melkizedek mà Thánh Vịnh 110 đề cập tới, Tác-giả Thư Do-Thái tìm
thấy trong Sách Sáng Thế nói về Ông như sau: “Ông Melkizedek, vua thành Salem,
mang bánh và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao. Ông chúc phúc cho
ông Abraham và nói: "Xin Thiên Chúa Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất, chúc
phúc cho Abraham! Chúc tụng Thiên Chúa Tối Cao, Đấng đã trao vào tay ông những
thù địch của ông!" Rồi ông Abraham biếu ông Melkizedek một phần mười tất
cả chiến lợi phẩm” (Gen 14:18-20).
Tác-giả
dựa vào những gì Sách Sáng Thế trình bày, và suy diễn thêm về những gì tuy Kinh
Thánh không nói tới, nhưng quan trọng về vị Thượng Tế này như sau: “Trước hết,
ông tên là Melkizedek, nghĩa là "Vua công chính;" rồi ông lại là vua
Salem, nghĩa là "Vua bình an." Ông không có cha, không có mẹ, không
có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng không có kết thúc. Như thế là ông
giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế.”
1.2/ Sự
khác biệt giữa 2 phẩm trật tư tế: Tác giả so sánh những gì ông tìm ra về Thượng Tế Melkizedek và so
sánh với những gì ghi chép trong Luật về phẩm trật tư tế Aaron, ông tìm ra
những khác biệt trong Chương 7, chúng tôi chỉ tóm tắt như sau:
(1)
Phẩm trật Aaron: Theo Luật
Do-Thái, một người trở thành tư tế vì thuộc giòng dõi Aaron; mà không tùy thuộc
vào đặc tính và khả năng của vị tư tế. Chức tư tế của những người theo phẩm
trật Aaron chấm dứt cùng với cái chết của người ấy. Thiên Chúa không bao giờ
thề hứa với phẩm trật theo Aaron. Sau cùng, các tư tế theo phẩm trật này phải
luôn dâng hy lễ đền tội cho mình, trước khi có thể dâng lễ đền tội cho người
khác.
(2)
Phẩm trật Melkizedek: Chức tư
tế của Melkizedek không tùy thuộc vào giòng dõi con người, nhưng tùy thuộc vào
đặc tính và khả năng của Ông. Hơn nữa, Melkizedek không có gia phả con người,
và Kinh Thánh không thấy nói tới sự chết của ông; vì thế, chức tư tế của ông
tồn tại đến muôn đời. Chức tư tế theo phẩm trật Melkizedek được Thiên Chúa thề
hứa và không bao giờ thay đổi (x/c Psa 110:4). Đức Kitô không bao giờ phạm tội,
và Ngài không cần dâng lễ đền tội cho mình, chỉ dâng hy lễ một lần để đền tội
cho con người là đủ.
1.3/
Đức Kitô là Thượng-tế theo phẩm trật Melkizedek: Tác giả Thư Do-Thái kết luận: “Điều ấy lại còn hiển nhiên
hơn nữa, khi một vị tư tế khác tương tự như ông Melkizedek xuất hiện; vị này đã
trở nên tư tế không phải do Lề Luật quy định việc cha truyền con nối, nhưng do
sức mạnh của một đời sống bất diệt. Quả thật, có lời chứng nhận rằng: “Muôn
thuở, Con là Thượng-tế theo phẩm trật Melkizedek”” (Psa 110:4).
2/ Phúc
Âm: Đức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá.
2.1/
Xung đột ý kiến giữa Chúa Giêsu và Nhóm Pharisees: Chỉ trong hai câu mô tả ngắn ngủi, Marcô
cho chúng ta nhìn thấy sự xung đột giữa hai bên: “Đức Giêsu lại vào hội đường.
Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy ngày
Sabbath không, để tố cáo Người.” Trong khi Chúa Giêsu chính thức rao giảng và
chữa lành dân chúng trong các hội đường, Nhóm Pharisees cũng có mặt. Mục đích
của họ không phải để nghe giảng, nhưng để “rình xem” Chúa Giêsu có chữa bệnh
trong ngày Sabbath.
2.2/
Hai phản ứng khác nhau:
(1)
Phản ứng của của Chúa Giêsu: Khi
nhìn thấy người bại tay, Chúa Giêsu động lòng thương anh, và Ngài muốn chữa
lành, nên bảo anh: "Anh trỗi dậy, ra giữa đây!" Ngài có thể bảo anh
ngày mai trở lại, hay bảo anh đi đến một nơi nào đó cho khuất mắt những người
đang rình; nhưng để dạy cho họ có cơ hội hiểu biết đúng đắn về ngày Sabbath,
Chúa Giêsu mời gọi họ đối thọai với Ngài: "Ngày Sabbath, được phép làm
điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?" Nhưng họ làm thinh.
Đức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh
bại tay: "Anh giơ tay ra!" Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình
thường.
(2)
Phản ứng của Nhóm Pharisees:
Làm thinh không nói có thể vì không biết câu trả lời; nhưng họ đã biết câu trả
lời: phải luôn làm việc lành trong cả ngày Sabbath, và phải luôn cứu mạng
người; nhưng vì họ sợ nếu phải công nhận những gì Chúa Giêsu dạy trước mặt mọi
người, họ phải tin theo và làm những gì Ngài đòi hỏi nên họ làm thinh. Không
phải chỉ có thế, nhưng sau khi ra khỏi đó, Nhóm Pharisee lập tức bàn tính với
phe Herode, để tìm cách giết Đức Giêsu.
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tội
lỗi làm chúng ta xa cách Thiên Chúa; nhưng qua Đức Kitô là Thượng Tế theo phẩm
trật Melkizedek, chúng ta đã có con đường an tòan để nối lại tình nghĩa với
Ngài.
-
Chúng ta hãy vâng lời làm theo những gì Đức Kitô dạy. Nếu không hiểu, hãy chịu
khó bỏ thời giờ để nghiên cứu học hỏi; đừng ngoan cố như những người Biệt-phái
để cố tình sống trong tội lỗi của mình.
- Tôn
giáo không phải chỉ là tuân theo những luật lệ cứng nhắc, nhưng trước hết là
tâm tình đồng cảm với những khổ đau của nhân lọai, và tìm cách để làm vơi đi
những khổ đau này.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
THỨ TƯ TUẦN II MÙA QUANH
NĂM
Mc 3, 1 - 6
Mc 3, 1 - 6
1. Ghi nhớ: "Rồi Người nói với họ: "Ngày sa-bát, được
phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?" (Mc
3,4).
2. Suy niệm : Tình thương không cho
phép trì hoãn trước nổi bất hạnh của đồng loại. Do đó, Chúa Giêsu đã mang lại
hạnh phúc cho người bị bại tay, khi chữa lành cho anh, dù ngày sabát chỉ được
cứu người khi nguy tử, trong khi bệnh nầy chưa đến nổi phải chết.
Đã bao lần chúng ta
làm ngơ trước cảnh nghèo khó, bệnh tật, bất hạnh của láng giềng, chòm xóm,
không phải vì ghét bỏ, hoặc không muốn giúp; nhưng chờ cho đến khi chúng ta có
đủ điều kiện. Biết bao nhiêu là đủ, bao giờ là đủ. Tình yêu thúc bách chúng ta
trải lòng mình ra với anh em trong hoàn cảnh và điều kiện mà chúng ta đang có.
Vấn đề là chúng ta sẵn sàng thể hiện tình thương ngay lúc tha nhân đang cần,
chứ không phải bao giờ chúng ta có.
3. Sống Lời Chúa: Đừng đợi đủ mới giúp.
Biết bao giờ là đủ?
4. Cầu nguyện: Xin choTình yêu Chúa thúc bách chúng con yêu thương
anh em mình một cách thiết thực. Amen.
www.giaophanvinhlong.net
23/01/13 THỨ
TƯ TUẦN 2 TN
Mc 3,1-6
Mc 3,1-6
VÔ CẢM
Rồi Người nói với họ :"Ngày Sa-bát, được phép làm điều
lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi ?" Nhưng họ làm thinh, Đức
Giê-su giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại
tay :"Anh giơ tay ra !" Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường. (Mc 3,4-5)
Suy niệm: Chỉ vì muốn bắt bẻ Chúa Giêsu
mà những người Pharisêu đã vô cảm trước nỗi khổ của người bị bại tay. Lấy anh
ta làm cớ để xem thử Chúa Giêsu có vi phạm lề luật hay không. Tuy nhiên, câu
hỏi của Chúa Giêsu đã cho họ thấy cái sai căn bản vì họ đã không hề hiểu mục
đích thật sự của luật nghỉ ngày Sabát: “Ngày Sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người
hay giết đi?” Sabát là ngày của Thiên Chúa, ngày của yêu thương, ngày của sự
sống, chứ không phải của luật buộc hay của cái gì khác.
Mời Bạn: Chúa Giêsu giận dữ và buồn khổ
vì lòng người Pharisêu chai đá trước nỗi đau của đồng loại. Điều này nhắc ta
đừng thờ ơ, vô cảm trước đau khổ của người xung quanh. Theo gương Chúa Giêsu,
ta cần có thái độ sẵn sàng, mau mắn trong việc giúp đỡ người khác.
Chia sẻ: Có lần nào bạn cảm thấy ân hận
khi bỏ qua một cơ hội giúp đỡ người hoạn nạn, đang cần sự giúp đỡ của bạn? Xin
mời bạn chia sẻ.
Sống Lời Chúa: Ghi nhớ và thực hành câu Lời
Chúa: “Ngươi phải yêu người thân cận
như chính mình” (Mt 22,39).
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, vì sợ phiền hà,
vì những tính toán riêng tư, đôi khi con trở nên vô cảm trước những đau khổ của
người anh em. Xin giúp con có tinh thần sẵn sàng và tấm lòng rộng mở, để biết
nhạy cảm và mau mắn giúp đỡ những ai đang cần đến con trong cuộc sống. Amen.
www.5phutloichua.net
ANH GIƠ TAY RA !
Có bao nhiêu bàn tay, dù không bại liệt,
nhưng chẳng bao giờ bình thường vì chẳng bao giờ dám đưa ra để trao và để nhận,
để nắm và để buông.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay là cao điểm của năm cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với các kinh sư hay người
Pharisêu (Mc 2, 1-3, 6). Đó là các cuộc
tranh luận về quyền tha tội của Đức Giêsu, về chuyện Ngài ăn uống với người thu thuế, chuyện môn đệ không
ăn chay, chuyện môn đệ bứt lúa ngày sabát, và cuối
cùng là chuyện Ngài chữa bệnh.
Trong hội đường, vào một ngày sabát, một người có bàn tay bị teo đi
dự lễ. Các người Pharisêu rình xem Đức Giêsu có
chữa cho anh ấy không. để có cớ tố cáo
Ngài. Đức Giêsu chủ động đưa âm mưu của họ ra ánh
sáng. Ngài muốn công khai hóa và chính thức hóa
việc làm của mình, bởi vậy Ngài mới
nói với người bị tật rằng: “Anh hãy trỗi
dậy ra giữa đây!” Như thế mọi người
trong hội đường đều thấy được anh. Rồi Ngài đặt câu hỏi với các người đang rình rập Ngài
về điều được phép làm trong
ngày sabát:
được làm điều tốt hay điều
xấu, cứu sống hay giết chết?
Câu trả lời tưởng như quá rõ
ràng, nhưng ta nên nhớ rằng chữa bệnh ngày sabát
bị coi như lao động. Chỉ được chữa
bệnh ngày sabát khi đó là một bệnh nguy tử. Anh bại tay không phải là người lâm cơn bệnh nguy tử. Nếu hoãn lại đến ngày mai mới chữa anh, thì
có vẻ cũng chẳng sao. Nhưng Đức Giêsu
đã không chấp nhận sự trì hoãn này. Đối với Ngài, làm điều tốt là chữa ngay cho anh. Ngài không đợi anh ấy gần chết mới cứu
sống. Cứu sống là cho con người được sống hạnh
phúc dồi dào hơn. Một bàn tay héo
khô, teo tóp, bại liệt, một bàn tay đàn
ông chẳng còn làm việc được, chẳng còn tự phục vụ được, một bàn tay đã chịu tật nguyền như thế từ
bao giờ, theo Đức Giêsu, bàn tay ấy phải được chữa
lành ngay khi có thể.
“Hãy giơ tay ra!” Người ấy đã giơ tay ra và tay anh trở lại
bình thường.
Giơ tay ra là điều trước kia
anh mong muốn mà không làm được. Bây giờ
anh có thể giơ tay để nắm lấy một bàn tay khác, và cảm được sự ấm áp chân thành của tình bạn.
Có bao nhiêu bàn tay, dù không bại liệt, nhưng chẳng bao giờ bình
thường vì chẳng bao giờ dám đưa ra để trao và để
nhận, để nắm và để buông.
Trước sự thinh lặng chai đá của các kẻ chống đối, Đức Giêsu vừa giận vừa buồn (c.5). Ngài chấp nhận trả giá cho quyết định của
mình. Ngài đã chữa bệnh chỉ bằng một lời nói, chứ
không bằng đụng chạm. Thế nên theo
Luật Môsê, Ngài vẫn không bị coi là đã vi phạm ngày sabát.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa. vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hóa. Chúng con
thích Chúa
đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay
chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên
thập giá giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau
là anh em.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Trong
ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?"
Làm việc lành khi nào?
Đức
Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giêsu có
chữa người ấy ngày sa bát không, để tố cáo Người. Đức Giêsu bảo người bại tay:
“Anh chỗi dậy, ra giữa đây!” Rồi Người nói với họ: “Ngày sa bát, được phép làm
điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?” Nhưng họ làm thinh. (Mc. 3,
1-4)
Chúa
Giêsu và các người Biệt phái đã nhiều lần đối đầu với nhau về vấn đề giải thích
Luật. Chúa Giêsu có một cách tiếp cận Luật một cách khá thông thoáng, còn những
người Biệt phái chủ trương một sự giải thích chặt chẽ khít khao. Thực ra mỗi
bên đều theo đuổi những nguyên tắc và quan điểm riêng, nên không thống nhất
được một thang giá trị về công lý. Một bên thì cọi trọng những luật lệ và thực
hành cũ kỹ của quá khứ, bên kia lại sẵn sàng thích ứng với hiện tại.
Một vấn đề có tính thời sự
Sự
phát triển về cấu trúc lao động trong các xã hội công nghiệp đã dẫn đến một sự
quá chuyên biệt và phân cách trong các ngành nghề và hoạt động khác nhau, đồng
thời khiến cho những luật về lao động càng rắc rối phức tạp. Kết quả là vì muốn
tôn trọng người lao động mà người ta đã phạm phải những sai lầm vô lý, tỉ dụ
như trên một công trường xây dựng, người thợ điện không được phép cưa một khúc
gỗ cho anh mà phải đem khúc gỗ ấy đến xưởng cưa, ông thầy dạy học không thể
cung ứng cho các sinh viên một sinh hoạt ngoài giờ học; những công nhân đã bị
người ta rầy la khi làm việc vì đã tỏ ra quá nhiệt tình và đã bày ra thêm một
lượng công việc lớn hơn mức trung bình.
Người
ta lại phải tự hỏi: khi nào phải làm việc lành? Có phải tôn trọng hay bỏ qua
những luật lệ tỉ mỉ này không?
Thí
dụ nêu trên về tình hình lao động khiến chúng ta phải nêu lên mấy câu hỏi. Chúa
Giêsu liệu có phải giận dữ rảo mắt nhìn ta khi thấy ta đôi khi vì những luật lệ
tỉ mỉ này mà làm cho lòng quảng đại khó được thực hiện chăng? Chúng ta xây dựng
loại thế giới nào khi chính những con người cần cù lao động lại bị coi như làm
hại cho những kẻ lười biếng? Và biết bao người trong chúng ta thường ỷ vào
những quy ước, văn bản đã ký, những nỗi lo toan việc chung để thoái thác một
đơn thỉnh cầu và xếp lại hồ sơ hay gọi điện thoại đẩy công việc đó cho một
người khác?
Phần
Chúa Giêsu, Người đã trả lời những câu hỏi này và khi thấy việc lành cần làm
thì Người đã làm ngay.
www.gplongxuyen.net
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng
Giêng
23 THÁNG GIÊNG
Tôn Trọng Nhân Vị Con Người
Tại Môi Trường Lao Động
Nhãn quan Kitô giáo về thực tại tập chú
trên con người và phẩm giá của con người xét như một ngôi vị được tạo thành
theo hình ảnh Thiên Chúa. Đó là lý do vì sao tôi muốn khẳng định mạnh mẽ rằng
nhân vị phải luôn luôn là mối ưu tiên đệ nhất trong lao động. Khẳng định ấy sẽ
đưa ta tới một quan điểm hết sức quan trọng về đạo đức. Đành rằng quả thật con
người được gọi và được định liệu để lao động; song, lao động tiên vàn là cho
con người, chứ không phải con người cho lao động. Nói cho cùng, mọi loại lao
động của con người – dù tầm thường hay đơn điệu đến mấy đi nữa – cũng luôn luôn
nhận cứu cánh của nó là chính con người (Laborem exercens 6).
Toàn bộ cơ cấu lao động phải vận hành
xoay quanh chiếc trục bản lề là chính con người. Lao động là thực tại cao quí.
Nhưng con người còn cao quí hơn muôn muôn triệu lần. Con người là thiêng thánh.
Và tính thiêng thánh này không thể bị xúc phạm. Dứt khoát phải tôn trọng nhân
vị con người trong mọi môi trường lao động.
Tính thiêng thánh ấy là gốc rễ từ đó bật
ra tất cả các quyền đặc biệt của con người. Bất cứ cảnh vực lao động nào muốn
tạo lập một môi trường đạo đức lành mạnh đều phải tôn trọng nhãn giới ấy về con
người.
Thật vậy, chất lượng luân lý và đạo đức
của một doanh nghiệp – và thường kể cả mức hiệu năng của doanh nghiệp ấy trên
thị trường nữa – được đo lường chính nơi thái độ của doanh nghiệp này đối với
con người.
Công nghệ, tư bản, lợi nhuận, và tất cả
những gì góp phần đem lại sự thành công về tài chánh đều được trân trọng và
tưởng thưởng theo mức độ mà chúng tôn trọng phẩm giá con người trong môi trường
lao động. Chúng phải luôn luôn lệ thuộc con người – và con người phải luôn luôn
chiếm được sự quan tâm hàng đầu tại mọi môi trường lao động.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II
-
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 23-01
Dt 7, 1-3.15-17; Mc 3, 1-6.
LỜI SUY NIỆM: “Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy
ngày Sabát không, để tố cáo Người” (Mc 3,2)
Chúa Giêsu đang ở trong hội đường, và
công việc của Ngài làm là chữa lành cho một người bại tay, Ngài không những đem
lại hạnh phúc cho anh ta, là: được có thêm một bàn tay để làm việc, mà qua bàn
tay được lành, anh sẽ làm ra lương thực thực phầm cho xã hội và nuôi sống bản
thân và người trong gia đình. Nhưng vẫn có người rình xem để tố cáo, vì Ngài
làm công việc này trong ngày Sabát. Khi chúng ta đọc đoạn Kinh Thánh này, ai
cũng phê phán nhóm người Pharisêu đó. Trong cuộc đời của mỗi người, cần phải
tránh hành vi rình xem, tự bản chất của hành vi này đã là không tốt. Chúa ban
cho mỗi một người có hai con mắt, chúng ta cần tận dụng để nhìn ra cái tốt
trong mọi sự, nơi mọi người để học và làm theo, hầu đem lại lợi ích cho mình
đời này và đời sau; phải nhìn ra cái xấu để biết mà tránh, để khỏi bị phê phán
và bị kết án lúc này và mai sau,
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
23 Tháng Giêng
Chúa Giêsu Ði Xem Bóng Ðá
Một linh mục Ấn Ðộ chuyên về huấn
luyện tu đức là cha Anthony de Mello đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau:
Chúa Giêsu than phiền là Ngài chưa được một lần tham dự một trận túc cầu. Chúng
tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin Lành và một
đội Công Giáo. Ðội Công Giáo làm bàn trước một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô
và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, đội Tin Lành lại làm bàn. Lần này Chúa
Giêsu cũng vỗ tay reo hò và tung mũ lên trời.
Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó
chịu về thái độ của Chúa Giêsu. Ông ta lấy tay đập lên vai Ngài rồi hỏi:
"Ê ông bạn, ông bạn ủng hộ bên nào vậy?". Xem chừng như vẫn còn bị
khích động bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời: "Tôi hả? Tôi không ủng hộ bên
nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu thôi". Người khán giả
khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, nay lại càng bực bội hơn. Ông quay sang
người bên cạnh và nói nhỏ: "Hắn là một tên vô thần".
Trên đường trở về nhà, chúng tôi chất
vấn Chúa Giêsu về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài:
"Thưa Chúa, những con người có tôn giáo thật là buồn cười. Họ tưởng rằng
Chúa Giêsu chỉ đứng riêng về phía họ và nghịch lại với những người thuộc tôn
giáo khác".
Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài
nói: "Ðó là lý do tại sao ta không ủng hộ tôn giáo mà chỉ ủng hộ con
người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người trọng hơn ngày Sabbat.
Chúng con nên biết là chính những người có tôn giáo đã treo Ta lên thập
giá".
Câu chuyện tưởng tượng trên đây cho
chúng ta thấy rằng một trong những vết thương lớn nhất của nhân loại trải qua
mọi thời đại: đó là thái độ bất khoan dung đưa đến những cuộc chiến tranh tôn
giáo. Con người ai cũng bị cám dỗ nhân danh Thượng Ðế, thần minh và hệ tư tưởng
của mình để triệt hạ, để loại trừ, để bách hại người khác. Kỳ thực, có tôn giáo
nào mà không dạy sự khoan dung, lòng nhân từ đối với mọi người?
Chúa Giêsu đến để mạc khải cho chúng ta
một Thiên Chúa là Cha của mọi người. Ngài là Ðấng làm cho mặt trời mọc lên cho
người lành cũng như kẻ dữ. Ngài yêu thương những kẻ nhận biết và yêu mến Ngài
cũng như những kẻ chối bỏ và thù ghét Ngài. Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau
như anh em cùng một gia đình. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta là
Ðấng mà người ta cũng sẽ chối bỏ nếu người ta khước từ chính anh em đồng loại
của mình. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải là Ðấng mà người ta cũng sẽ xúc
phạm nếu xúc phạm đến con người.
(Lẽ Sống)
Thứ
Tư 23-1
Tôi Tớ Thiên Chúa
Juan de Padilla
Juan de Padilla
(1492
- 1542)
K
|
hi rao giảng Tin Mừng của Ðức
Kitô, Cha Juan không biết mình sẽ đến đâu, nhưng ngài tin tưởng rằng Thiên Chúa
sẽ ban cho ngài sức mạnh để chu toàn ơn gọi của một nhà thừa sai. Ơn gọi của
ngài đã dẫn đến cái chết vì đạo ở Kansas, là một phần của Tân Thế Giới được
khám phá vào năm ngài chào đời.
Cha Juan xuất thân từ một
thành phố thuộc phía nam Tây Ban Nha, là nơi ngài gia nhập dòng Phanxicô. Năm
1526, ngài đến Mễ Tây Cơ để hoạt động truyền giáo trong các tiểu bang Hidalgo
và Jalisco. Năm 1540, ngài tháp tùng Coronado trong chuyến thám hiểm New
Mexico. Năm kế đó, ngài đi với đoàn thám hiểm đến Kansas, ở đây ngài gặp gỡ
người thổ dân Quivira. Sau khi đoàn thám hiểm trở về Mễ Tây Cơ, Cha Juan vẫn
tiếp tục ở lại hoạt động. Ngài bị một vài người Quivira giết chết chỉ vì ngài
muốn đến truyền giáo cho người Kaws, là kẻ thù truyền kiếp của người Quivira.
Ngài là người đầu tiên trong số tối thiểu 79 tu sĩ Phanxicô tử vì đạo ở Hoa Kỳ.
Lời Bàn
Suy nghĩ về những người tử
đạo vì đức tin đôi khi làm chúng ta bồn chồn. Làm sao họ có thể làm như vậy
được? Họ có bình thường không? Ao ước loan truyền phúc âm của Cha Juan de Padilla
thì lớn hơn nỗi lo sợ cái chết. Ngài nhắc nhở cho chúng ta biết không ai có thể
lựa chọn cái chết, nhưng chúng ta có thể lựa chọn lối sống của chúng ta.
www.nguoitinhuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét