Trang

Thứ Ba, 22 tháng 1, 2013

23-01-2013 : THỨ TƯ TUẦN II MÙA THƯỜNG NIÊN năm lẻ


Thứ Tư 23/01/2013
Thứ Tư Tuần II Mùa Thường Niên Năm lẻ


BÀI ĐỌC I: Dt 7, 1-3. 15-17
"Ngươi là tư tế theo phẩm hàm Menkixêđê tới muôn đời".

 Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, Menkixêđê này là vua Salem, tư tế của Thiên Chúa Tối Cao, ông đã đi đón Abraham đang trên đường về sau khi đánh bại các vua, ông chúc lành cho Abraham. Và Abraham dâng cho ông một phần mười các chiến lợi phẩm. Giải nghĩa tên ông, trước tiên thấy tên ông mang tên vua công chính, rồi ông lại còn là vua Salem, nghĩa là vua hoà bình. Ông không cha không mẹ, không gia phả, không ngày sinh, không ngày tử, nhưng ông được so sánh với Con Thiên Chúa, nên ông làm tư tế muôn đời.
Việc còn hiển nhiên hơn nữa, nếu một tư tế khác được thiết lập theo phẩm hàm Menkixêđê, không phải chiếu theo luật xác thịt quy định, nhưng chiếu theo quyền năng của sự sống bất diệt. Vì đã chứng thực về ngài rằng: "Ngươi là tư tế theo phẩm hàm Menkixêđê tới muôn đời". Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 109, 1. 2. 3. 4

Đáp: Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê (c. 4bc).

1) Thiên Chúa đã tuyên bố cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Ta, cho tới khi Ta bắt quân thù làm bệ kê dưới chân Con". - Đáp.
2) Đức Thiên Chúa từ Sion sẽ phô bày vương trượng quyền bính của Ngài, rằng: "Con hãy thống trị giữa quân thù". - Đáp.
3) Các thủ lãnh cùng hiện diện bên Con, ngày Con giáng sinh trong thánh thiện huy hoàng: "Trước rạng đông, tựa hồ sương sa, Ta đã sinh hạ ra Con". - Đáp.
4) Đức Thiên Chúa đã thề và không hối hận rằng: "Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê. - Đáp.

ALLELUIA: Ga 6, 64b và 69b

- Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống. Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mc 3, 1-6
"Trong ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu lại vào hội đường và ở đó có một người khô bại một tay. Người ta để ý quan sát xem Chúa có chữa bệnh trong ngày Sabbat không, để tố cáo Người. Chúa bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy đứng ra giữa đây". Rồi Người bảo họ: "Trong ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Được cứu sống hay là giết chết?" Nhưng họ thinh lặng. Bấy giờ Người thịnh nộ đưa mắt nhìn họ và buồn phiền vì lòng họ chai đá, Người bảo bệnh nhân rằng: "Hãy giơ tay ra". Người đó giơ tay ra và tay anh ta được lành. Lập tức, những người biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người và tìm cách hại Người. Đó là lời Chúa.

Suy Niệm: Phản ứng của Chúa Giêsu
Trong diễn văn đọc trước ngoại giao đoàn bên cạnh Toà Thánh nhân dịp Năm Mới 1996, Ðức Gioan Phaolô II đã mạnh mẽ tố giác các đàn áp Kitô hữu; Ngài nhận định như sau: "Người ta không thể đàn áp mãi hàng triệu tín hữu, nghi ngờ hoặc chia rẽ họ, mà những hành động đó lại không đưa đến những hậu quả tiêu cực, chẳng những đối với uy tín của các quốc gia trên trường quốc tế, mà cả trong nội bộ các xã hội liên hệ; trái lại, những mối quan hệ tốt giữa các Giáo Hội và nhà nước góp phần vào sự hòa hợp mọi thành phần trong xã hội".
Vừa đàn áp, vừa kêu gọi tin tưởng, chỉ có người mù quáng mới không thấy được sự mâu thuẫn trong hành động của mình. Người mù lòa ít ra còn biết mình không thấy, nhưng kẻ mù quáng vốn có mắt, nhưng lại không nhìn thấy.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu có một phản ứng trước sự mù quáng của những người Biệt phái. Chúng ta cứ tưởng tượng một bệnh nhân đang quằn quại trong đau khổ cần được một bàn tay săn sóc chữa trị, thì người ta lại nại đến luật ngày Hưu lễ để bắt bẻ và cấm chế. Thánh sử Marcô như muốn tô đậm phản ứng của Chúa trước thái độ mù quáng như thế, khi viết: "Chúa Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng chai đá của họ". Chúa Giêsu vốn là Ðấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng thái độ của Ngài đối với những người khốn khổ, các bệnh nhân, các tội nhân, những người bị đẩy ra bên lề xã hội, Ngài đồng bàn với họ, cảm thông với họ, tha thứ cho họ.
Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông tha thứ đối với mọi tội lỗi của con người, duy chỉ có một thái độ Ngài không bao giờ chấp nhận và tha thứ, đó là thói giả hình và mù quáng. Do yếu đuối, con người sa ngã là chuyện bình thường, nhưng nhắm mắt khép kín tâm hồn để không nhận ra mình yếu đuối cũng như nhân danh đạo lý và pháp luật để khước từ yêu thương, để loại trừ người khác, Chúa Giêsu gọi đó là tội chống lại Thánh Thần, tội không thể tha thứ được. Thật thế, khi con người không còn nhận ra thân phận tội lỗi yếu đuối của mình, khi con người khước từ yêu thương, thì mọi tương quan với Thiên Chúa cũng hoàn toàn bị cắt đứt. Chúa Giêsu không ngừng lên án thái độ giả hình và mù quáng của những người Biệt phái; Ngài cũng luông kêu gọi các môn đệ đề cao cảnh giác trước men Biệt phái.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta ghi tạc Lời Chúa để tránh khỏi men giả hình và mù quáng ấy. Xin Ngài cho chúng ta một tâm hồn nhạy cảm để nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta và đáp lại tiếng gọi thống hối và hoán cải không ngừng của Chúa. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim luôn biết rung động trước nỗi đau khổ của đồng loại và đôi tay luôn biết rộng mở để săn sóc chữa trị và san sẻ trao ban cho mọi người.
(Veritas Asia)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần II TN, Năm lẻ
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Đức Kitô là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek.
Tôn giáo hiện hữu là để đưa con người tới Thiên Chúa. Để làm việc này, con người cần giữ luật. Bao lâu con người tuân giữ những luật Thiên Chúa truyền, con người giữ mối liên hệ tốt lành với Thiên Chúa. Nhưng con người đã không thể giữ mãi mối liên hệ với Thiên Chúa vì họ phạm tội; và như thế, con người cần dâng lễ vật để đền tội và nối lại mối liên hệ với Thiên Chúa. Đó là lý do chức tư tế và luật dâng lễ vật hiện hữu. Theo từ ngữ Latin, từ ngữ dùng để chỉ tư tế là pontifex, có nghĩa người xây cầu để nối giữa 2 điểm. Tư tế là người xây cầu để nối giữa Thiên Chúa và con người bằng dâng các lễ vật hy sinh. Theo truyền thống Do-Thái, lễ vật hy sinh chỉ có thể đền những tội vô tình xúc phạm đến Luật mà thôi; những tội cố ý, không lễ vật hy sinh nào có thể đền được. Tác giả Thư Do-Thái nhìn thấy sự bất tòan của chức tư tế và các lễ vật hy sinh trong Đạo Do-Thái; ông nhận ra con người cần một phẩm trật tư tế cao trọng hơn phẩm trật tư tế theo Aaron, và một lễ vật hy sinh cao trọng hơn máu chiên bò, để có thể tha thứ các tội cho con người, và cung cấp cho con người cách thức an tòan để nối lại mối liên hệ với Thiên Chúa sau khi phạm tội.
Trong Bài Đọc I, Tác giả dùng Thánh Vịnh 110:4 và Sách Sáng Thế 14:18-20, để chứng minh Đức Kitô là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek; phẩm trật này cao trọng hơn phẩm trật Aaron, vì “Melkizedek không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế.” Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tức giận vì Nhóm Pharisees lòng chai dạ đá: trong khi Ngài muốn chữa lành con người khỏi mọi tội lỗi và bệnh họan, tật nguyền, nhưng họ luôn tìm cách để tố cáo và luận tội Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Kitô là Thượng-tế theo phẩm trật Melkizedek.
1.1/ Thượng Tế Melkizedek: Khi truy tầm tên Melkizedek mà Thánh Vịnh 110 đề cập tới, Tác-giả Thư Do-Thái tìm thấy trong Sách Sáng Thế nói về Ông như sau: “Ông Melkizedek, vua thành Salem, mang bánh và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao. Ông chúc phúc cho ông Abraham và nói: "Xin Thiên Chúa Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất, chúc phúc cho Abraham! Chúc tụng Thiên Chúa Tối Cao, Đấng đã trao vào tay ông những thù địch của ông!" Rồi ông Abraham biếu ông Melkizedek một phần mười tất cả chiến lợi phẩm” (Gen 14:18-20).
Tác-giả dựa vào những gì Sách Sáng Thế trình bày, và suy diễn thêm về những gì tuy Kinh Thánh không nói tới, nhưng quan trọng về vị Thượng Tế này như sau: “Trước hết, ông tên là Melkizedek, nghĩa là "Vua công chính;" rồi ông lại là vua Salem, nghĩa là "Vua bình an." Ông không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế.”
1.2/ Sự khác biệt giữa 2 phẩm trật tư tế: Tác giả so sánh những gì ông tìm ra về Thượng Tế Melkizedek và so sánh với những gì ghi chép trong Luật về phẩm trật tư tế Aaron, ông tìm ra những khác biệt trong Chương 7, chúng tôi chỉ tóm tắt như sau:
(1) Phẩm trật Aaron: Theo Luật Do-Thái, một người trở thành tư tế vì thuộc giòng dõi Aaron; mà không tùy thuộc vào đặc tính và khả năng của vị tư tế. Chức tư tế của những người theo phẩm trật Aaron chấm dứt cùng với cái chết của người ấy. Thiên Chúa không bao giờ thề hứa với phẩm trật theo Aaron. Sau cùng, các tư tế theo phẩm trật này phải luôn dâng hy lễ đền tội cho mình, trước khi có thể dâng lễ đền tội cho người khác.
(2) Phẩm trật Melkizedek: Chức tư tế của Melkizedek không tùy thuộc vào giòng dõi con người, nhưng tùy thuộc vào đặc tính và khả năng của Ông. Hơn nữa, Melkizedek không có gia phả con người, và Kinh Thánh không thấy nói tới sự chết của ông; vì thế, chức tư tế của ông tồn tại đến muôn đời. Chức tư tế theo phẩm trật Melkizedek được Thiên Chúa thề hứa và không bao giờ thay đổi (x/c Psa 110:4). Đức Kitô không bao giờ phạm tội, và Ngài không cần dâng lễ đền tội cho mình, chỉ dâng hy lễ một lần để đền tội cho con người là đủ.
1.3/ Đức Kitô là Thượng-tế theo phẩm trật Melkizedek: Tác giả Thư Do-Thái kết luận: “Điều ấy lại còn hiển nhiên hơn nữa, khi một vị tư tế khác tương tự như ông Melkizedek xuất hiện; vị này đã trở nên tư tế không phải do Lề Luật quy định việc cha truyền con nối, nhưng do sức mạnh của một đời sống bất diệt. Quả thật, có lời chứng nhận rằng: “Muôn thuở, Con là Thượng-tế theo phẩm trật Melkizedek”” (Psa 110:4).
2/ Phúc Âm: Đức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá.
2.1/ Xung đột ý kiến giữa Chúa Giêsu và Nhóm Pharisees: Chỉ trong hai câu mô tả ngắn ngủi, Marcô cho chúng ta nhìn thấy sự xung đột giữa hai bên: “Đức Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy ngày Sabbath không, để tố cáo Người.” Trong khi Chúa Giêsu chính thức rao giảng và chữa lành dân chúng trong các hội đường, Nhóm Pharisees cũng có mặt. Mục đích của họ không phải để nghe giảng, nhưng để “rình xem” Chúa Giêsu có chữa bệnh trong ngày Sabbath.
2.2/ Hai phản ứng khác nhau:
(1) Phản ứng của của Chúa Giêsu: Khi nhìn thấy người bại tay, Chúa Giêsu động lòng thương anh, và Ngài muốn chữa lành, nên bảo anh: "Anh trỗi dậy, ra giữa đây!" Ngài có thể bảo anh ngày mai trở lại, hay bảo anh đi đến một nơi nào đó cho khuất mắt những người đang rình; nhưng để dạy cho họ có cơ hội hiểu biết đúng đắn về ngày Sabbath, Chúa Giêsu mời gọi họ đối thọai với Ngài: "Ngày Sabbath, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?" Nhưng họ làm thinh. Đức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay: "Anh giơ tay ra!" Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường.
(2) Phản ứng của Nhóm Pharisees: Làm thinh không nói có thể vì không biết câu trả lời; nhưng họ đã biết câu trả lời: phải luôn làm việc lành trong cả ngày Sabbath, và phải luôn cứu mạng người; nhưng vì họ sợ nếu phải công nhận những gì Chúa Giêsu dạy trước mặt mọi người, họ phải tin theo và làm những gì Ngài đòi hỏi nên họ làm thinh. Không phải chỉ có thế, nhưng sau khi ra khỏi đó, Nhóm Pharisee lập tức bàn tính với phe Herode, để tìm cách giết Đức Giêsu.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tội lỗi làm chúng ta xa cách Thiên Chúa; nhưng qua Đức Kitô là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek, chúng ta đã có con đường an tòan để nối lại tình nghĩa với Ngài.
- Chúng ta hãy vâng lời làm theo những gì Đức Kitô dạy. Nếu không hiểu, hãy chịu khó bỏ thời giờ để nghiên cứu học hỏi; đừng ngoan cố như những người Biệt-phái để cố tình sống trong tội lỗi của mình.
- Tôn giáo không phải chỉ là tuân theo những luật lệ cứng nhắc, nhưng trước hết là tâm tình đồng cảm với những khổ đau của nhân lọai, và tìm cách để làm vơi đi những khổ đau này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

THỨ TƯ TUẦN II MÙA QUANH NĂM 
Mc 3, 1 - 6
1. Ghi nhớ: "Rồi Người nói với họ: "Ngày sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?" (Mc 3,4).
2. Suy niệm : Tình thương không cho phép trì hoãn trước nổi bất hạnh của đồng loại. Do đó, Chúa Giêsu đã mang lại hạnh phúc cho người bị bại tay, khi chữa lành cho anh, dù ngày sabát chỉ được cứu người khi nguy tử, trong khi bệnh nầy chưa đến nổi phải chết.
Đã bao lần chúng ta làm ngơ trước cảnh nghèo khó, bệnh tật, bất hạnh của láng giềng, chòm xóm, không phải vì ghét bỏ, hoặc không muốn giúp; nhưng chờ cho đến khi chúng ta có đủ điều kiện. Biết bao nhiêu là đủ, bao giờ là đủ. Tình yêu thúc bách chúng ta trải lòng mình ra với anh em trong hoàn cảnh và điều kiện mà chúng ta đang có. Vấn đề là chúng ta sẵn sàng thể hiện tình thương ngay lúc tha nhân đang cần, chứ không phải bao giờ chúng ta có.
3. Sống Lời Chúa: Đừng đợi đủ mới giúp. Biết bao giờ là đủ?
4. Cầu nguyện: Xin choTình yêu Chúa thúc bách chúng con yêu thương anh em mình một cách thiết thực. Amen.
www.giaophanvinhlong.net
23/01/13 THỨ TƯ TUẦN 2 TN
Mc 3,1-6

VÔ CẢM
Rồi Người nói với họ :"Ngày Sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi ?" Nhưng họ làm thinh, Đức Giê-su giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay :"Anh giơ tay ra !" Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường. (Mc 3,4-5)
Suy niệm: Chỉ vì muốn bắt bẻ Chúa Giêsu mà những người Pharisêu đã vô cảm trước nỗi khổ của người bị bại tay. Lấy anh ta làm cớ để xem thử Chúa Giêsu có vi phạm lề luật hay không. Tuy nhiên, câu hỏi của Chúa Giêsu đã cho họ thấy cái sai căn bản vì họ đã không hề hiểu mục đích thật sự của luật nghỉ ngày Sabát: “Ngày Sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?” Sabát là ngày của Thiên Chúa, ngày của yêu thương, ngày của sự sống, chứ không phải của luật buộc hay của cái gì khác.
Mời Bạn: Chúa Giêsu giận dữ và buồn khổ vì lòng người Pharisêu chai đá trước nỗi đau của đồng loại. Điều này nhắc ta đừng thờ ơ, vô cảm trước đau khổ của người xung quanh. Theo gương Chúa Giêsu, ta cần có thái độ sẵn sàng, mau mắn trong việc giúp đỡ người khác.
Chia sẻ: Có lần nào bạn cảm thấy ân hận khi bỏ qua một cơ hội giúp đỡ người hoạn nạn, đang cần sự giúp đỡ của bạn? Xin mời bạn chia sẻ.
Sống Lời Chúa: Ghi nhớ và thực hành câu Lời Chúa: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22,39).
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, vì sợ phiền hà, vì những tính toán riêng tư, đôi khi con trở nên vô cảm trước những đau khổ của người anh em. Xin giúp con có tinh thần sẵn sàng và tấm lòng rộng mở, để biết nhạy cảm và mau mắn giúp đỡ những ai đang cần đến con trong cuộc sống. Amen.
www.5phutloichua.net

ANH GIƠ TAY RA !
Có bao nhiêu bàn tay, dù không bại liệt, nhưng chẳng bao giờ bình thường vì chẳng bao giờ dám đưa ra để trao và để nhận, để nắm và để buông. 
Suy nim:

            Bài Tin Mừng hôm nay là cao điểm của năm cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với các kinh sư hay người Pharisêu (Mc 2, 1-3, 6). Đó là các cuộc tranh luận về quyền tha tội của Đức Giêsu, về chuyện Ngài ăn uống với người thu thuế, chuyện môn đệ không ăn chay, chuyện môn đệ bứt lúa ngày sabát, và cuối cùng là chuyện Ngài chữa bệnh.
            Trong hội đường, vào một ngày sabát, một người có bàn tay bị teo đi dự lễ. Các người Pharisêu rình xem Đức Giêsu có chữa cho anh ấy không. để có cớ tố cáo Ngài. Đức Giêsu chủ động đưa âm mưu của họ ra ánh sáng. Ngài muốn công khai hóa và chính thức hóa việc làm của mình, bởi vậy Ngài mới nói với người bị tật rằng: “Anh hãy trỗi dậy ra giữa đây!” Như thế mọi người trong hội đường đều thấy được anh. Rồi Ngài đặt câu hỏi với các người đang rình rập Ngài
về điều được phép làm trong ngày sabát: được làm điều tốt hay điều xấu, cứu sống hay giết chết?
Câu trả lời tưởng như quá rõ ràng, nhưng ta nên nhớ rằng chữa bệnh ngày sabát bị coi như lao động. Chỉ được chữa bệnh ngày sabát khi đó là một bệnh nguy tử. Anh bại tay không phải là người lâm cơn bệnh nguy tử. Nếu hoãn lại đến ngày mai mới chữa anh, thì có vẻ cũng chẳng sao. Nhưng Đức Giêsu đã không chấp nhận sự trì hoãn này. Đối với Ngài, làm điều tốt là chữa ngay cho anh. Ngài không đợi anh ấy gần chết mới cứu sống. Cứu sống là cho con người được sống hạnh phúc dồi dào hơn. Một bàn tay héo khô, teo tóp, bại liệt, một bàn tay đàn ông chẳng còn làm việc được, chẳng còn tự phục vụ được, một bàn tay đã chịu tật nguyền như thế từ bao giờ, theo Đức Giêsu, bàn tay ấy phải được chữa lành ngay khi có thể.
            “Hãy giơ tay ra!” Người ấy đã giơ tay ra và tay anh trở lại bình thường. Giơ tay ra là điều trước kia anh mong muốn mà không làm được. Bây giờ anh có thể giơ tay để nắm lấy một bàn tay khác, và cảm được sự ấm áp chân thành của tình bạn.
            Có bao nhiêu bàn tay, dù không bại liệt, nhưng chẳng bao giờ bình thường vì chẳng bao giờ dám đưa ra để trao và để nhận, để nắm và để buông.
            Trước sự thinh lặng chai đá của các kẻ chống đối, Đức Giêsu vừa giận vừa buồn (c.5). Ngài chấp nhận trả giá cho quyết định của mình. Ngài đã chữa bệnh chỉ bằng một lời nói, chứ không bằng đụng chạm. Thế nên theo Luật Môsê, Ngài vẫn không bị coi là đã vi phạm ngày sabát.

Cầu nguyn:

            Lạy Chúa,
lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.
            Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa. vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hóa. Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.
            Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Trong ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?"

Làm việc lành khi nào?
Đức Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy ngày sa bát không, để tố cáo Người. Đức Giêsu bảo người bại tay: “Anh chỗi dậy, ra giữa đây!” Rồi Người nói với họ: “Ngày sa bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?” Nhưng họ làm thinh. (Mc. 3, 1-4)
Chúa Giêsu và các người Biệt phái đã nhiều lần đối đầu với nhau về vấn đề giải thích Luật. Chúa Giêsu có một cách tiếp cận Luật một cách khá thông thoáng, còn những người Biệt phái chủ trương một sự giải thích chặt chẽ khít khao. Thực ra mỗi bên đều theo đuổi những nguyên tắc và quan điểm riêng, nên không thống nhất được một thang giá trị về công lý. Một bên thì cọi trọng những luật lệ và thực hành cũ kỹ của quá khứ, bên kia lại sẵn sàng thích ứng với hiện tại.
Một vấn đề có tính thời sự
Sự phát triển về cấu trúc lao động trong các xã hội công nghiệp đã dẫn đến một sự quá chuyên biệt và phân cách trong các ngành nghề và hoạt động khác nhau, đồng thời khiến cho những luật về lao động càng rắc rối phức tạp. Kết quả là vì muốn tôn trọng người lao động mà người ta đã phạm phải những sai lầm vô lý, tỉ dụ như trên một công trường xây dựng, người thợ điện không được phép cưa một khúc gỗ cho anh mà phải đem khúc gỗ ấy đến xưởng cưa, ông thầy dạy học không thể cung ứng cho các sinh viên một sinh hoạt ngoài giờ học; những công nhân đã bị người ta rầy la khi làm việc vì đã tỏ ra quá nhiệt tình và đã bày ra thêm một lượng công việc lớn hơn mức trung bình.
Người ta lại phải tự hỏi: khi nào phải làm việc lành? Có phải tôn trọng hay bỏ qua những luật lệ tỉ mỉ này không?
Thí dụ nêu trên về tình hình lao động khiến chúng ta phải nêu lên mấy câu hỏi. Chúa Giêsu liệu có phải giận dữ rảo mắt nhìn ta khi thấy ta đôi khi vì những luật lệ tỉ mỉ này mà làm cho lòng quảng đại khó được thực hiện chăng? Chúng ta xây dựng loại thế giới nào khi chính những con người cần cù lao động lại bị coi như làm hại cho những kẻ lười biếng? Và biết bao người trong chúng ta thường ỷ vào những quy ước, văn bản đã ký, những nỗi lo toan việc chung để thoái thác một đơn thỉnh cầu và xếp lại hồ sơ hay gọi điện thoại đẩy công việc đó cho một người khác?
Phần Chúa Giêsu, Người đã trả lời những câu hỏi này và khi thấy việc lành cần làm thì Người đã làm ngay.
www.gplongxuyen.net
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Giêng
23 THÁNG GIÊNG
Tôn Trọng Nhân Vị Con Người
Tại Môi Trường Lao Động
Nhãn quan Kitô giáo về thực tại tập chú trên con người và phẩm giá của con người xét như một ngôi vị được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa. Đó là lý do vì sao tôi muốn khẳng định mạnh mẽ rằng nhân vị phải luôn luôn là mối ưu tiên đệ nhất trong lao động. Khẳng định ấy sẽ đưa ta tới một quan điểm hết sức quan trọng về đạo đức. Đành rằng quả thật con người được gọi và được định liệu để lao động; song, lao động tiên vàn là cho con người, chứ không phải con người cho lao động. Nói cho cùng, mọi loại lao động của con người – dù tầm thường hay đơn điệu đến mấy đi nữa – cũng luôn luôn nhận cứu cánh của nó là chính con người (Laborem exercens 6).
Toàn bộ cơ cấu lao động phải vận hành xoay quanh chiếc trục bản lề là chính con người. Lao động là thực tại cao quí. Nhưng con người còn cao quí hơn muôn muôn triệu lần. Con người là thiêng thánh. Và tính thiêng thánh này không thể bị xúc phạm. Dứt khoát phải tôn trọng nhân vị con người trong mọi môi trường lao động.
Tính thiêng thánh ấy là gốc rễ từ đó bật ra tất cả các quyền đặc biệt của con người. Bất cứ cảnh vực lao động nào muốn tạo lập một môi trường đạo đức lành mạnh đều phải tôn trọng nhãn giới ấy về con người.
Thật vậy, chất lượng luân lý và đạo đức của một doanh nghiệp – và thường kể cả mức hiệu năng của doanh nghiệp ấy trên thị trường nữa – được đo lường chính nơi thái độ của doanh nghiệp này đối với con người.
Công nghệ, tư bản, lợi nhuận, và tất cả những gì góp phần đem lại sự thành công về tài chánh đều được trân trọng và tưởng thưởng theo mức độ mà chúng tôn trọng phẩm giá con người trong môi trường lao động. Chúng phải luôn luôn lệ thuộc con người – và con người phải luôn luôn chiếm được sự quan tâm hàng đầu tại mọi môi trường lao động.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 23-01
Dt 7, 1-3.15-17; Mc 3, 1-6.

LỜI SUY NIỆM: “Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy ngày Sabát không, để tố cáo Người” (Mc 3,2)
Chúa Giêsu đang ở trong hội đường, và công việc của Ngài làm là chữa lành cho một người bại tay, Ngài không những đem lại hạnh phúc cho anh ta, là: được có thêm một bàn tay để làm việc, mà qua bàn tay được lành, anh sẽ làm ra lương thực thực phầm cho xã hội và nuôi sống bản thân và người trong gia đình. Nhưng vẫn có người rình xem để tố cáo, vì Ngài làm công việc này trong ngày Sabát. Khi chúng ta đọc đoạn Kinh Thánh này, ai cũng phê phán nhóm người Pharisêu đó. Trong cuộc đời của mỗi người, cần phải tránh hành vi rình xem, tự bản chất của hành vi này đã là không tốt. Chúa ban cho mỗi một người có hai con mắt, chúng ta cần tận dụng để nhìn ra cái tốt trong mọi sự, nơi mọi người để học và làm theo, hầu đem lại lợi ích cho mình đời này và đời sau; phải nhìn ra cái xấu để biết mà tránh, để khỏi bị phê phán và bị kết án lúc này và mai sau,
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
23 Tháng Giêng
Chúa Giêsu Ði Xem Bóng Ðá
Một linh mục Ấn Ðộ chuyên về huấn luyện tu đức là cha Anthony de Mello đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: Chúa Giêsu than phiền là Ngài chưa được một lần tham dự một trận túc cầu. Chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin Lành và một đội Công Giáo. Ðội Công Giáo làm bàn trước một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, đội Tin Lành lại làm bàn. Lần này Chúa Giêsu cũng vỗ tay reo hò và tung mũ lên trời.
Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu. Ông ta lấy tay đập lên vai Ngài rồi hỏi: "Ê ông bạn, ông bạn ủng hộ bên nào vậy?". Xem chừng như vẫn còn bị khích động bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời: "Tôi hả? Tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu thôi". Người khán giả khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, nay lại càng bực bội hơn. Ông quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: "Hắn là một tên vô thần".
Trên đường trở về nhà, chúng tôi chất vấn Chúa Giêsu về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài: "Thưa Chúa, những con người có tôn giáo thật là buồn cười. Họ tưởng rằng Chúa Giêsu chỉ đứng riêng về phía họ và nghịch lại với những người thuộc tôn giáo khác".
Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài nói: "Ðó là lý do tại sao ta không ủng hộ tôn giáo mà chỉ ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người trọng hơn ngày Sabbat. Chúng con nên biết là chính những người có tôn giáo đã treo Ta lên thập giá".
Câu chuyện tưởng tượng trên đây cho chúng ta thấy rằng một trong những vết thương lớn nhất của nhân loại trải qua mọi thời đại: đó là thái độ bất khoan dung đưa đến những cuộc chiến tranh tôn giáo. Con người ai cũng bị cám dỗ nhân danh Thượng Ðế, thần minh và hệ tư tưởng của mình để triệt hạ, để loại trừ, để bách hại người khác. Kỳ thực, có tôn giáo nào mà không dạy sự khoan dung, lòng nhân từ đối với mọi người?
Chúa Giêsu đến để mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa là Cha của mọi người. Ngài là Ðấng làm cho mặt trời mọc lên cho người lành cũng như kẻ dữ. Ngài yêu thương những kẻ nhận biết và yêu mến Ngài cũng như những kẻ chối bỏ và thù ghét Ngài. Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau như anh em cùng một gia đình. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta là Ðấng mà người ta cũng sẽ chối bỏ nếu người ta khước từ chính anh em đồng loại của mình. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải là Ðấng mà người ta cũng sẽ xúc phạm nếu xúc phạm đến con người.
(Lẽ Sống)
Thứ Tư 23-1
Tôi Tớ Thiên Chúa
Juan de Padilla
(1492 - 1542)

K
hi rao giảng Tin Mừng của Ðức Kitô, Cha Juan không biết mình sẽ đến đâu, nhưng ngài tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ngài sức mạnh để chu toàn ơn gọi của một nhà thừa sai. Ơn gọi của ngài đã dẫn đến cái chết vì đạo ở Kansas, là một phần của Tân Thế Giới được khám phá vào năm ngài chào đời.
Cha Juan xuất thân từ một thành phố thuộc phía nam Tây Ban Nha, là nơi ngài gia nhập dòng Phanxicô. Năm 1526, ngài đến Mễ Tây Cơ để hoạt động truyền giáo trong các tiểu bang Hidalgo và Jalisco. Năm 1540, ngài tháp tùng Coronado trong chuyến thám hiểm New Mexico. Năm kế đó, ngài đi với đoàn thám hiểm đến Kansas, ở đây ngài gặp gỡ người thổ dân Quivira. Sau khi đoàn thám hiểm trở về Mễ Tây Cơ, Cha Juan vẫn tiếp tục ở lại hoạt động. Ngài bị một vài người Quivira giết chết chỉ vì ngài muốn đến truyền giáo cho người Kaws, là kẻ thù truyền kiếp của người Quivira. Ngài là người đầu tiên trong số tối thiểu 79 tu sĩ Phanxicô tử vì đạo ở Hoa Kỳ.
Lời Bàn
Suy nghĩ về những người tử đạo vì đức tin đôi khi làm chúng ta bồn chồn. Làm sao họ có thể làm như vậy được? Họ có bình thường không? Ao ước loan truyền phúc âm của Cha Juan de Padilla thì lớn hơn nỗi lo sợ cái chết. Ngài nhắc nhở cho chúng ta biết không ai có thể lựa chọn cái chết, nhưng chúng ta có thể lựa chọn lối sống của chúng ta.
www.nguoitinhuu.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét