Trang

Thứ Ba, 22 tháng 1, 2013

22-01-2013 : THỨ BA TUẦN II MÙA THƯỜNG NIÊN năm lẻ


Thứ Ba 22/01/2013
Thứ Ba Tuần II Mùa Thường Niên Năm lẻ
Mc 2, 23-28


BÀI ĐỌC I: Dt 6, 10-20
"Chúng ta có một niềm tin đặt trước mặt như chiếc neo chắc chắn và bền vững".

 Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, Thiên Chúa không bất công đến nỗi quên công trình của anh em và lòng bác ái anh em đã tỏ ra vì danh Người, anh em là những người đã phục vụ và hiện đang phục vụ các thánh. Chúng tôi mong ước mỗi người anh em thi thố cũng một lòng hăng hái đó để giữ vững niềm hy vọng đến cùng, ngõ hầu anh em không trễ nải, nhưng sẽ noi gương những kẻ nhờ tin tưởng và kiên nhẫn mà hưởng thụ các điều đã hứa.
Quả thật, khi Thiên Chúa hứa cùng Abraham, Người không dựa vào ai lớn hơn mà thề, nhưng dựa vào chính Mình mà thề rằng: "Ta sẽ chúc phúc cho ngươi và sẽ cho ngươi sinh sản ra nhiều". Do đó, Abraham kiên nhẫn chờ đợi, nên được hưởng lời hứa. Vì chưng, loài người dựa vào kẻ lớn hơn mình mà thề, và lời thề được coi như bảo chứng chấm dứt mọi tranh tụng. Cũng vậy, vì Thiên Chúa muốn minh chứng cho những kẻ hưởng thụ lời hứa ý định bất di bất dịch của Người, nên đã làm lời thề, để nhờ hai điều bất di bất dịch mà Thiên Chúa không thể sai lời, thì chúng ta là những người tìm ẩn náu nơi niềm hy vọng đã ban cho chúng ta, chúng ta có một nguồn yên ủi chắc chắn. Trong niềm hy vọng đó, linh hồn chúng ta có một chiếc neo chắc chắn và bền vững, cắm vào tận bên trong bức màn, nơi Đức Giêsu đã vào như vị tiền phong của chúng ta, Người được phong làm Thượng tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 110, 1-2. 4-5. 9 và 10c

Đáp: Cho tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).
Hoặc đọc: Alleluia.

1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi. - Đáp.
2) Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thật là Đấng nhân hậu từ bi. Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. - Đáp.
3) Chúa đã gởi tặng ơn giải phóng cho dân Người, đã thiết lập lời minh ước tới muôn đời, danh Người thực là thánh thiện và khả uý. Lời khen ngợi Chúa còn tồn tại đến muôn đời. - Đáp.

ALLELUIA: Ga 8, 12

-Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mc 2, 23-28
"Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: "Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?" Người trả lời rằng: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy điều mà Đavít đã làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?" Và Người bảo họ rằng: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat". Đó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Linh hồn của Lề Luật
Nói về luật pháp của con người, triết gia Schopenhauer đã ví von như sau: "Luật pháp cũng giống như một mạng nhện, những con ong gấu thì vượt qua một cách dễ dàng, những thứ ruồi nhặng thì kẹt lại". Ðây là một sự thật đau lòng mà chúng ta chứng kiến mỗi ngày trên khắp thế giới: những con ong gấu, tức những người làm ra luật, những kẻ có quyền thế trong tay, thường chiu qua những kẽ hở của luật pháp một cách dễ dàng; thế lực của đồng tiền, vây cánh, ô dù, giúp họ luôn đứng trên luật pháp mà chính họ lập ra.
Vào thời Chúa Giêsu không có chuyện ô dù, nhưng có một hạng người tự cho mình có quyền lập ra luật, bắt người khác giữ luật, còn mình thì không muốn lay thử một ngón tay. Tin Mừng hôm nay là khởi đầu của một cuộc đối đầu triền miên giữa Chúa và hạng người này, tức là nhóm Biệt phái về vấn đề luật pháp. Chúa Giêsu không phải là một người vô kỷ luật. Ngài sinh ra khi cha mẹ Ngài tuân theo lệnh kiểm tra dân số do Hoàng đế La mã ban hành; sau này Ngài vẫn đóng thuế như bất cứ một công dân của Ðế quốc nào. Trong lãnh vực tôn giáo Ngài tuân giữ lề luật của Môsê. Ngài cũng chịu cắt bì, được hiến dâng trong Ðền thờ vì là con trai đầu lòng, hằng năm lên Yêrusalem để mừng lễ, mỗi ngày hưu lễ Ngài cũng đến Hội đường.
Tuy nhiên, như Chúa Giêsu đã có lần tuyên bố Ngài đến là để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật là gì nếu không phải là mặc cho nó linh hồn là tình yêu; không có tình yêu thì lề luật chỉ là những thây chết, nhưng nói đến tình yêu là nói đến con người. Như vậy luật lệ là vì con người, là để giúp con người sống chứ không phải để đàn áp và giết chết con người; luật lệ chỉ có ý nghĩa và giá trị khi nó là một biểu lộ của tôn trọng và yêu thương đối với con người; trái lại, tất cả những luật lệ nào đi ngược lại với sự sống và tình yêu, đều là những luật lệ bất công. Trong Thông điệp "Tin Mừng Sự Sống" ban hành năm 1995, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi các tín hữu mạnh mẽ và can đảm chống lại những thứ luật lệ xúc phạm đến chính sự sống của con người, như luật cho phép phá thai, luật cho phép kết liễu cuộc sống của bệnh nhân.
Là một xã hội, Giáo Hội cũng ban hành luật lệ. Tất cả lề luật của Giáo Hội được tóm gọn trong một giới luật duy nhất và nền tảng, đó là yêu thương. Ăn chay, giữ ngày Chúa nhật hoặc bao nhiêu khoản luật khác liên quan đến đời sống hôn nhân, tất cả đều qui về một luật duy nhất là để giúp các tín hữu sống tôn trọng và yêu thương con người. Như thế, người Kitô hữu chỉ có một giới răn để tuân giữ, đó là giới răn yêu thương, và họ cũng chỉ có một tinh thần duy nhất để tuân giữ lề luật, đó là tình yêu thương.
Nguyện xin Chúa hướng dẫn để chúng ta luôn sống đạo theo tinh thần yêu thương ấy.
(Veritas Asia)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần II TN, Năm lẻ

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Con người quí trọng hơn luật lệ.

Phẩm giá con người rất quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Các Lề Luật Ngài ban cũng là để bảo vệ và phục vụ con người. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài không bao giờ muốn cho con người phải làm nô lệ cho Lề Luật và tội lỗi; nhưng muốn Lề Luật phục vụ con người và làm cho đời sống con người được bảo vệ và an tòan hơn.

Các Bài Đọc hôm nay nói lên sụ quan tâm của Thiên Chúa cho con người. Trong Bài Đọc I, tác-giả Thư Do-Thái khuyên các tín hữu phải bền lòng trông cậy vào Lời Thiên Chúa đã hứa. Một khi Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thi hành. Tác giả đưa ra một ví dụ là Lời Thiên Chúa hứa với Tổ-phụ Abraham. Lời hứa này đã được thực hiện nơi Đức Kitô, khi Ngài đi tiên phong vào nơi Cực Thánh để mở đường cho con người đến trực tiếp với Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, các Pharisees tố cáo với Chúa Giêsu: các môn đệ của Ngài đã vi phạm luật của ngày Sabbath. Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài có lý do làm như thế để bảo vệ sự sống. Ngài nhắc cho họ biết luật lệ làm ra là vì con người, chứ không con người cho luật lệ.


KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Kitô.

1.1/ Phải kiên nhẫn trong khi Chúa thực hiện Lời Hứa: “Quả thế, Thiên Chúa không bất công đến nỗi quên việc anh em đã làm và lòng yêu mến anh em đã tỏ ra đối với danh Người, khi trước đấy anh em phục vụ các người trong dân thánh, và hiện nay vẫn còn đang phục vụ. Nhưng chúng tôi ao ước cho mỗi người trong anh em cũng tỏ ra nhiệt thành như thế, để niềm hy vọng của anh em được thực hiện đầy đủ cho đến cùng.” Qua đọan văn này, tác giả muốn khuyên các tín hữu 2 điều:
(1) Những lúc tăm tối của cuộc đời: Đừng nản lòng! Hãy nắm giữ niềm hy vọng vào Lời Thiên Chúa hứa. Con người ai cũng phải trải qua những đêm tăm tối này. Trong những lúc như thế, tác giả khuyên cứ giữ vững đức tin, thực hành các việc lành như đã và đang làm. Chắc chắn tăm tối sẽ qua, và ánh sáng của Thiên Chúa lại tiếp tục chiếu sáng.
(2) Bắt chước gương Tổ-phụ Abraham: “Anh em đừng trở nên uể oải, nhưng hãy bắt chước những người nhờ có đức tin và lòng kiên nhẫn mà được thừa hưởng các lời hứa… Như thế, vì nhẫn nại đợi chờ, ông Abraham đã nhận được lời hứa.”

1.2/ Lời Thiên Chúa hứa với Tổ-phụ Abraham: “Ta sẽ ban phúc dư dật cho ngươi và sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông vô số” (Gen 22:16-18).
(1) Lời hứa được bảo đảm bằng lời thề: Con người thường lấy danh ai cao hơn mình mà thề để bảo đảm lời mình đã long trọng hứa. Khi Thiên Chúa hứa với ông Abraham, Người đã không thể lấy danh ai cao trọng hơn mình mà thề, nên đã lấy chính danh mình mà thề. Như vậy, cả lời hứa lẫn lời thề đều bất di bất dịch, và khi thề hứa, Thiên Chúa không thể nói dối được. Do đó, chúng ta là những kẻ ẩn náu bên Thiên Chúa, chúng ta được mạnh mẽ khuyến khích nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng ta.
(2) Lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Kitô: “Chúng ta có điều này nhưcái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, là hy vọng được vào cung điện cực thánh bên trong, đàng sau tấm màn. Đó là nơi Đức Giêsu đã vào như người tiền phong mở đường cho chúng ta, sau khi trở thành vị Thượng Tế đời đời theo phẩm trật Melkisedech.”

Đối với các thủy thủ, cái neo là khí cụ cần thiết cho việc sinh tồn. Một khi đã thả neo là không còn sợ sóng gió làm thuyền lật được nữa. Trong thế giới ngày xưa, cái neo là biểu tượng của hy vọng. Epictetus nói: “Một chiếc thuyền không bao giờ nên tùy thuộc vào một cái neo hay một đời sống trên một niềm hy vọng.” Pythagore nói: “Của cải là cái neo mỏng giòn; danh vọng còn yếu hơn. Khôn ngoan, rộng lượng, và can đảm, là những cái neo mà không sóng gió nào có thể vùi giập được.” Tác giả Thư Do-Thái nhấn mạnh người tín hữu có một hy vọng lớn lao nhất trong thế giới là hy vọng của họ vào Lời Thiên Chúa hứa.
Niềm hy vọng đó là được vào trong thánh điện đàng sau bức màn. Trong Đền Thờ, chỗ cực thánh là nơi chứa đựng Hòm Bia Thiên Chúa, được che phủ bởi bức màn. Đây là nơi Thiên Chúa ngự. Trong nơi này, chỉ độc quyền có một người được vào, mỗi năm một lần; đó là Thượng Tế trong Ngày Xá Tội mà thôi. Tác giả Thư Do-Thái có ý muốn nói: Giờ đây, Chúa Giêsu Kitô đã mở đường vào nơi đó cho tất cả con người ở mọi nơi và mọi thời. Từ ngữ ông dùng để chỉ Chúa Giêsu như prodromos = người tiên phong mở đường. Chúa Giêsu đi tiền phong mở đường vào nơi hiện diện của Thiên Chúa, và Ngài bảo đảm an tòan cho tất cả những ai theo sau. Nói cách khác, trước khi Đức Kitô xuất hiện, Thiên Chúa là Người Khách xa lạ và cách biệt với con người; chỉ một số nhỏ có thể đến gần và luôn sợ bị thiệt mạng. Nhưng sau khi Đức Kitô đến, Thiên Chúa trở nên bạn hữu của tất cả; mọi người đều có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa.

2/ Phúc Âm: Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbath.

2.1/ Người Pharisee tố cáo các môn đệ Chúa Giêsu vi phạm ngày Sabbath: Vào ngày Sabbath, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt lúa. Người Pharisee liền nói với Đức Giêsu: "Ông coi, ngày Sabbath mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!" Có tất cả 39 luật về ngày Sabbath ngăn cấm không cho làm việc, và các môn đệ phạm 4 luật bằng hành động bứt lúa để ăn: gặt (bứt lúa), xay (vò lúa trong tay), sàng (thổi vỏ đi), và chuẩn bị bữa ăn (làm lúa sẵn sàng để ăn). Sự tỉ mỉ của Luật có thể có thể làm chúng ta lắc đầu; nhưng đối với các Rabbi, nó liên quan đến tội, và có thể gây ra cái chết. Đó là lý do họ tố cáo các môn đệ với Chúa Giêsu, và họ chờ Chúa sửa phạt các môn đệ.

2.2/ Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài: Chúa Giêsu đưa ra một trường hợp riêng đã được ghi lại trong Cựu Ước, và sau đó, Ngài thiết lập một qui luật chung về ngày Sabbath.
(1) Trường hợp Vua David (I Sam 21:1-6): Người đáp: "Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách sao? Ông David đã làm gì, khi ông và thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng? Dưới thời Thượng-tế Abiathar, ông vào nhà Thiên Chúa, ăn bánh tiến, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn nữa. Thứ bánh này không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế." Chúa Giêsu có ý muốn nói: trong trường hợp phải bảo vệ sự sống, con người có thể vi phạm Luật.
(2) Luật chung của ngày Sabbath: Người nói tiếp: "Ngày Sabbath được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabbath. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbath." Điều này hiển nhiên, vì con người được Thiên Chúa tạo dựng trước khi luật về ngày Sabbath ra đời. Con người không được tạo dựng để trở thành nạn nhân hay làm nô lệ cho luật lệ của ngày Sabbath. Sở dĩ có luật lệ về ngày Sabbath là để bảo vệ con người, làm cho con người biết thân xác họ cần được nghỉ ngơi, và linh hồn họ cần được nuôi dưỡng bởi thức ăn tinh thần.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Phẩm giá con người chúng ta rất quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Ngài đã hy sinh Người Con của Ngài để cứu chúng ta thóat khỏi làm nô lệ cho Lề Luật, tội lỗi, và sự chết.
- Nhờ lễ tế hy sinh của Người Con, chúng ta có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa mà không cần qua trung gian; đến bất cứ lúc nào chứ không phải đợi một ngày cố định trong năm.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

22/01/13 THỨ BA TUẦN 2 TN
Th. Vinhsơn, phó tế, tử đạo
Mc 2,23-28

GIỮ NGÀY SA-BÁT
"Con Người làm chủ ngày Sa-bát" (Mc 2,28)
Suy niệm: Trong ngày sabát, được phép làm gì, bị cấm làm gì: đó là nội dung nhiều cuộc tranh luận gay gắt giữa Chúa Giêsu và biệt phái. Giới lãnh đạo Do Thái Giáo đã đặt ra tới 39 qui định tỉ mỉ liên quan đến việc giữ ngày sabát, trói buộc con người vào luật đến độ có thể nói chết  luật; Chúa Giêsu lại muốn con người sống nhờ luật: nếu khi nào luật ngăn cản sự sống thì luật đó không còn giá trị! Trong Cựu Ước, người Do Thái đã cởi trói luật hưu lễ, tự vệ để sống còn (x. 1Mcb 2,29-44). Cũng thế, nếu trong ngày sabát bứt một gié lúa để ăn cho đỡ đói mà bị khép vào luật cấm gặt lúa trong ngày sabát, thì luật đó quả là khe khắt, phi nhân, phải loại bỏ đi. Luật kiêng việc xác ngày sabát phải hướng đến một chủ đích cao hơn, đó là trong ngày sabát, con người không bận tâm vào việc mưu sinh (tự nhiên), để dành trọn cho việc thờ phượng Chúa (siêu nhiên). Hội Thánh vẫn mời gọi con cái mình hướng đến chủ đích trên trong ngày của Chúa (Chúa nhật).
Mời Bạn: Thật đáng tiếc, ngày nay khi cuộc sống đầy đủ hơn, thì nhiều người chỉ nghĩ đến việc chăm lo sự sống thể lý (ăn, chơi) mà hờ hững chăm lo sự sống thiêng liêng! Đứng trước hiện tượng ngày càng có nhiều người dễ dàng bỏ lễ Chúa Nhật, bạn hãycảnh tỉnh để sống thật ý nghĩa ngày của Chúa.
Sống Lời Chúa: Ghi nhớ câu Lời Chúa: “Của Xêda hãy trả cho Xêda ; của Chúa hãy trả cho Chúa” (Mt 22,21).
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy con hiểu rằng con không chỉ sống cho riêng mình hay cho tha nhân, nhưng con chỉ thật sự sống, nếu trên hết và trước hết, con sống cho Chúa, nhờ Chúa và vì Chúa. Amen.
www.5phutloichua.net

CON NGƯỜI LÀM CHỦ NGÀY SA-BÁT
Trong thế giới quá cạnh tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở về chuyện nghỉ ngơi để sống cho mình, cho nhau, cho Chúa. Ngày Chúa Nhật là thời gian tuyệt vời đề sống cả ba chiều kích ấy. 
Suy nim:

            Các kitô hữu gốc Do Thái của Giáo Hội sơ khai thường bị chê trách vì đã lơ là trễ nải trong việc giữ ngày sabát. Giữ ngày sabát là điều hết sức quan trọng đối với người theo Do Thái giáo Ai vi phạm ngày này có thể bị xử tử (Xh 31, 14), bị ném đá (Ds 15, 32-36). Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hẳn đã soi sáng cho vấn đề này.
            Câu chuyện xảy ra vào một ngày sabát. Khi thầy trò băng qua đồng lúa, các môn đệ đã bứt các bông lúa. Và hẳn họ đã vò lúa trong tay trước khi có thể ăn hạt bên trong. Theo sách Đệ nhị luật (23, 26) thì hành động này được phép làm : Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa. Nhưng theo các kinh sư, điều này bị cấm làm trong ngày sabát, lý do là vì bứt lúa và vò trong tay cũng giống với hành vi gặt và xay lúa, mà gặt và xay lúa là một trong ba mươi chín việc không được phép làm ngày sabát. Từ đó người Pharisêu kết luận việc các môn đệ bứt lúa là phạm đến luật Môsê. Ngày nay chúng ta có thể buồn cười về chuyện này, nhưng nó nói lên việc các kinh sư vì sợ người ta phạm luật nên sau này đã thêm thắt những quy định tỉ mỉ chi li.
            Đức Giêsu đã trả lời người Pharisêu bằng đức cách trưng dẫn chuyện vua Đavít. Trong truyền thống Do Thái, vua này thường được coi là đạo đức mẫu mực. Đavít đã làm điều không được phép làm, đó là ăn bánh tiến (x. 1 Sm 21, 1-6). Bánh này gồm mười hai ổ lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24, 5-9). Vào mỗi ngày sabát, bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế.
Khi kể câu chuyện về vua Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng nếu Đavít và các thuộc hạ có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh thì Đức Giêsu và các môn đệ trong trường hợp nào đó cũng có thể được miễn giữ ngày sabát thánh (x. 1 Mac 2, 34-38).
            Theo Đức Giêsu, ngày sabát được tạo cho loài người, chứ không phải ngược lại. Người Pharisêu có lẽ đã quên đi mục đích của việc giữ luật ngày sabát. Thiên Chúa lập nên ngày sabát để loài người có thời gian nghỉ ngơi hầu nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của Ngài (Đnl 5, 14-15). Ngày sabát đúng là ngày của Chúa, dành cho Chúa, nhưng nó cũng là ngày cho loài người sau sáu ngày làm việc vất vả.
            Ngày nay chúng ta không còn giữ ngày sabát nữa, nhưng giữ ngày Chúa Nhật, ngày của Chúa. Cám ơn vị nào đã lần đầu tiên dùng từ này để chỉ ngày đầu tiên của tuần. Trong thế giới quá cạnh tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở về chuyện nghỉ ngơi để sống cho mình, cho nhau, cho Chúa. Ngày Chúa Nhật là thời gian tuyệt vời đề sống cả ba chiều kích ấy.
Cầu nguyn:
Ngày lại ngày, lạy Thiên Chúa,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan,
hai tay cung kính, lạy Thiên Chúa muôn loài,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Dưới bầu trời bao la,
trong cô đơn và thầm lặng,
với tấm lòng thanh tịnh,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Trong thế giới ồn ào vì nhọc nhằn,
huyên náo vì đấu tranh,
giữa đám đông hối hả lăng xăng,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Và khi đã hoàn tất việc đời,
lạy Thiên Chúa muôn loài,
một mình, lặng lẽ,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
(R. Tagore - Ðỗ Khánh Hoan dịch)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat"

Thiên Chúa phục vụ con người

Vào ngày sa bát Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Các môn đệ Người bắt đầu bứt lúa trong khi đi đường. Nhưng người Pha-ri-sêu liền nói với Đức Giêsu: “Ông coi ngày sa bát mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!”
Đức Giêsu nói: “Ngày sa bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa bát. Bởi đó con người làm chủ luôn ngày sa bát. (Mc. 2, 23-24. 27-28)
Điều khiến ta ngạc nhiên nhất khi đọc trích đoạn Phúc âm này không phải là việc Chúa Giêsu đặt mình ở trên luật về ngày sa-bát hay là muốn cho truyền thống mang một sắc thái khác, mà đúng hơn là việc Người tỏ cho ta biết rằng ngày sa-bát được làm ra vì con người.
Ngày sa-bát, ngày của Thiên Chúa
Khi viết tường thuật về việc Chúa tạo dựng trời đất muôn vật, các tác giả theo truyền thống tư tế đã xếp đặt cho công việc tạo dựng này được hoàn tất trong sáu ngày, còn ngày thứ bảy Chúa nghỉ ngơi: đó là ngàyThiên Chúa dành cho chính mình. Vì thế, “ngày-của-chúa” đó, dân chúng phải sống và làm việc vì Chúa, cho Chúa, và ngày đó vì thế đã trở thành ngày dành cho việc phụng thờ.Cho nên các linh mục là những người phải lo viêc Đền thờ, có giảng giải và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giữ ngày chúa nhật như kiêng việc xác, đi lễ đọc kinh, làm việc đạo đức và từ thiện….thì cũng là điều dễ hiểu và bình thường thôi.
Vậy mà Chúa Giêsu lại nói: ”Cái ngày mà anh em coi như thuộc về Thiên Chúa, ngày ấy lại được làm ra vì anh em”. Có nghía là cả Ba Ngôi Thiên Chúa đã hướng cuộc sống, sự hiện hữu của mình vì con người.
Một Thiên Chúa phục vụ
Thiên Chúa phục vụ con người, đây không phải là một mạc khải mới mẻ. Tất cả lịch sử của dân được tuyển chọn đều kể lại cho ta hay Đức Giavê đã sẵn sàng phục vụ như thế nào: đem họ ra khỏi Ai cập, đưa họ từ chốn lưu đầy trở về, lập vương quốc cho Đavít… Cả khi họ hối lỗi trở về, thì Chúa vẫn sẵn sàng thứ tha. Vừa thoáng có dấu hiệu của sự hối cải, trở về là Chúa hoan hỉ, và quên đi ngay những đe dọa trừng phạt.
Và đấy chính là điều Chúa muốn khẳng dịnh lại khi nói rằng ngày sa-bát được làm ra vì con người. Tất cả những gì liên quan tới Chúa, thì Người đã ràng buộc nó vào vận mệnh của chúng ta. Thiên Chúa đã hạ mình phục vụ ta, để ta cũng theo gương Người mà phục người khác như vậy.
Mạc khải này đưa chúng ta đến câu hỏi sau đây: Ta có đi đúng đường khi giữ cũng như bảo người khác giữ ngày của Chúa? Phải chăng ta chỉ nhắc lại suông bằng lời mà không thực hành bằng việc, mạc khải Chúa đã tỏ cho ta là Thiên Chúa phục vụ con người? Phục vụ tha nhân, há chẳng phải là nét cao cả, là điểm nổi bật trong đời sống Kitô hữu, và là con dường hay nhất giúp ta đến và sống với tha nhân sao?
Thiên Chúa phục vụ! Thiên-Chúa-vì-con-người!
Ai đón nhận Tin Mừng này sẽ không còn phải sợ mình không thuộc về Chúa vậy.

www.gplongxuyen.net
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Giêng
22 THÁNG GIÊNG
Tin Mừng Lao Động
Lao động, đó trước hết là một ơn gọi của con người. Lao động là dấu hiệu cho thấy bản tính của con người: những hữu thể có lý trí! Mỗi người đều được ban cho trí tuệ và ý chí. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa – và được mời gọi làm chủ mọi tạo vật.
Để đáp trả tiếng gọi này, chúng ta có mẫu gương tuyệt hảo là Đức Giêsu. Người đã lao động suốt ba mươi năm hàn vi ở thị trấn nghèo Na-da-rét, với Thánh Giu-se, trong nghề thợ mộc.
Ba mươi năm âm thầm này – và cái nghề rất đỗi khiêm hạ này trong cuộc đời của Đức Giêsu – có chất chứa một sứ điệp nào đó gọi mời chúng ta học hỏi. Ba mươi năm ấy, có thể nói, là trường đào tạo chàng trai Giê-su: càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, và càng dồi dào ân sủng. Con Thiên Chúa – là Con Người – đã đảm nhận lấy lao động, một loại lao động cơ bản, là chính tiếng gọi mà Thiên Chúa đã ủy trao cho con người ngay từ thuở ban sơ.
Ngôi nhà Na-da-rét ấy và xưởng mộc đơn sơ ấy của Thánh Giu-se và chàng trai Giêsu là trọng tâm và là tiêu điểm của Tin Mừng Lao Động. Mẫu gương lao động này muốn nhắc nhở chúng ta rằng điều thật sự đáng cho ta chú ý không phải là loại công việc được làm nhưng là chính những con người làm việc. Tiêu điểm ấy sẽ cho phép chúng ta nhận thức rõ hơn về giá trị nhân bản và siêu nhiên của lao động.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 22-01
Thánh Vinh Sơn, phó tế tử đạo; Dt 6, 10-20; Mc 2, 23-28.

LỜI SUY NIỆM: “Người nói tiếp: Ngày Sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sabát” (Mc 2,27).
Tinh thần của ngày Sabát là ngày được hoàn toàn nghỉ ngơi, phải là ngày tạ ơn và là ngày vui. Nhưng vì con người quá chi li trong việc giữ luật nghỉ ngơi này nên đã biến thành gánh nặng cho con người, làm cho con người phải so đo tính toán và tìm cách lách luật để khỏi phải bị phê phán. Trong hiện tại của chúng ta, có ngày Chúa Nhật, chúng ta phải xem đây là ngày tất cả con cái trong đại gia đình của Chúa, quy tụ về đây để gặp gỡ Thiên Chúa, để ca tụng tạ ơn Ngài. Đây là cơ hội Chúa ban cho chúng ta có dịp gặp gỡ nhau, chuyện trò chia sẽ với nhau những vui buồn, những thành công hay thất bại trong tuần qua, cũng như trao đổi những thao thức trong lòng của mình để tìm ra người cùng chí hướng mà cọng tác phục vụ công ích cho Giáo hội và xã hội. Nên khi đến với nhau chúng ta phải trao cho nhau những nụ cười qua ánh mắt, qua bắt tay mặt mừng. Có như vậy chúng ta mới  ngày Chúa Nhật, là ngày cần cho cuộc sống. Chứ không phải là gánh nặng.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 22-01: Thánh VINHSƠN
Phó Tế Tử Đạo (... 304)

Thánh Vinhsơn sinh tại Huesca nước Tây Ban Nha. Từ nhỏ, thánh nhân đã theo giúp Thánh giám mục Valêriô và được Ngài dạy dỗ cho cả về giáo lý lẫn văn hóa. Lớn lên, Ngài còn được đức giám mục phong chức phó tế để có thể làm việc đắc lực hơn.
Trong cuộc bách hại của Dacianô, đức giám mục giáo phận Saragossa và vị phó tế của Ngài bị bắt trước hết. Xiềng các Ngài lại, Dacianô tống các Ngài vào ngục. Nhưng khi mở ngục ra, ông đã ngạc nhiên khi thấy các Ngài vẫn tươi tỉnh mạnh khỏe. Sau khi dụ dỗ lẫn đe dọa đủ cách mà không lay chuyển nổi đức tin của vị giám mục già nua với vị phó tế của Ngài. Daciano liền phân cách hai người ra. Cuộc tra tấn dã man phó tế Vinhsơn bắt đầu. Người ta căng Ngài ra trên giường rồi thi nhau đánh đòn cho tới khi da thịt rách nát và máu phun ra lai láng. Dầu vậy thánh nhân vẫn tươi tỉnh, thỉnh thoảng còn khích lệ lý hình nữa. Tức giận, Dacianô truyền lấy móc sắt nung đỏ để xé thịt Ngài. Chính bọn lý hình cũng phải rùng mình đối với hình phạt.
Cuối cùng, để cho tội nhân chết dần, ông truyền ném thánh nhân vào ngục tối đầy miểng chai bể. Dầu vậy thánh nhân vẫn sống. Tương truyền rằng: khi Ngài bị sa thải vào ngục thì ngục thất bỗng sáng trưng. Quân canh hoảng sợ chạy trốn, chỉ có viên cai ngục tò mò ở lại coi và được ơn đức tin. Thân xác đau đớn rã rời, nhưng từ trong ngục thất, Ngài vẫn không ngớt hát ca vịnh chúc tụng Chúa.
Cuối cùng, bạn bè thánh nhân được phép tới thăm. Họ dọn cho Ngài một cái giường nệm. Nhưng khi vừa dặt thánh nhân lên giường thì Ngài tắt thở.
Người ta kể rằng, cho tới nỗi đó mà Dacianô vẫn còn giận dữ. Ông hành hạ xác chết cho hả giận. Trước hết, ông truyền vứt xác thánh nhân vào hoang địa cho chim trời xâu xé. Nhưng một con quạ khổng lồ đã đến canh xác không cho con vật nào tới gần. Dacianô cố gắng lần chót bằng cách cột đá để dìm xác thánh nhân xuống biển cho cá rỉa. Nhưng sóng biển lại đánh dạt túi dựng xác Ngài vào bờ và tại nơi này người ta đã xây cất một thánh đường dâng kính thánh nhân.
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
22 Tháng Giêng
Người Hành Khất Quảng Ðại

Bangladesh là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Dĩ nhiên, trong một nước nghèo, thì hành khất vẫn là nghề thịnh hành nhât. Một nhà truyền giáo đã thuật lại một trường hợp hành khất lạ lùng như sau:
Sau một ngày làm việc nặng nhọc, một người đàn ông nọ đi về nhà mình không ngoài một phương tiện nào khác hơn là đôi chân. Người đàn ông dừng lại dưới một bóng cây và thiếp ngủ. Dáng vẻ của ông tiều tụy đến độ người qua lại lầm ông với một người hành khất. Không ai bảo ai, kẻ qua người lại đều dừng lại và bỏ vào chiếc mũ của ông vài đồng xu nhỏ. Không mấy chốc, chiếc mũ cũ kỹ đầy tiền.
Vừa thức giấc, người đàn ông ngạc nhiên trước sự quảng đại của khách qua đường. Ông đếm từng đồng xu nhỏ: số tiền còn lớn hơn cả một ngày công của ông. Người đàn ông mỉm cười về nghề hành khất bất đắc dĩ của mình. Chợt nhìn thấy xung quanh mình có nhiều người hành khất đui mù tàn tật, người đàn ông lặng lẽ đi đến từng người và chia đều cho họ số tiền ông đã thu được và tiếp tục đoạn đường còn lại.
Adam Smith, kinh tế gia nổi tiếng của Tô Cách Lan vào thế kỷ thứ 18 đã nói một câu mà K.Marx đã lập lại trong một tác phẩm của ông. Câu nói đó là: "Một nước giàu có là một nước trong đó có nhiều người nghèo". Câu định nghĩa về sự phồn thịnh ấy vừa nói lên sự nghèo đói về mặt tinh thần mà những người sống trong một nước giàu có thể cảm nghiệm được, nó cũng nói lên những bất công xã hội mà những người nghèo trong một nước giàu phải gánh chịu.
Bần cùng thường sinh ra đạo tặc. Những nước nghèo là những nước có nhiều tệ đoan xã hội. Tuy nhiên, cũng chính trong cảnh nghèo ấy, người ta thường gặp được nhiều tấm lòng vàng. Cảnh nghèo có thể đưa con người đến chỗ giành giật xâu xé, nhưng cũng có thể khiến cho con người dễ cảm thông với người khác và san sẻ quảng đại hơn. Nhưng dĩ nhiên, chỉ có ai có tinh thần khó nghèo đích thực mới hiểu được giá trị của cảnh nghèo và sự thôi thúc của lòng quảng đại. "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó". Chúa Giêsu để lại cho chúng ta điều khoản cơ bản ấy của Hiến Chương Nước Trời. Có khó nghèo thực sự, con người mới cân lường được sự chóng qua của tiền của vật chất. Có khó nghèo thực sự, con người mới có thể mở mắt để nhìn thấy cảnh nghèo xung quanh. Có khó nghèo thực sự, con người mới dễ cảm thông và mở rộng quả tim và lòng bàn tay để trao ban.
(Lẽ Sống)
Thứ Ba 22-1
Thánh Vinh Sơn ở Saragossa
(c. 304)

K
hi Ðức Giêsu có ý định bắt đầu "hành trình" của Người đến sự chết, Thánh Sử Luca viết Người "quyết tâm" đi về Giêrusalem. Ðây là sự can đảm không lay chuyển đặc biệt của các vị tử đạo.
Những gì chúng ta biết về Thánh Vinh Sơn là từ nhà thơ Prudentius. Các "hành vi" của thánh nhân đã được tự do tô điểm bởi trí tưởng tượng của người biên soạn. Nhưng Thánh Augustine, trong một bài giảng về Thánh Vinh Sơn, đã nói về sự tử đạo của ngài. Tối thiểu chúng ta được biết chắc chắn về tên của ngài, về chức vụ phó tế, về cái chết và nơi chôn cất ngài.
Theo truyền thuyết (và cũng như các vị tử đạo tiên khởi, điều ngài được tán tụng phải xuất phát từ đời sống anh hùng của ngài), Thánh Vinh Sơn được phong chức phó tế bởi một người bạn của ngài là Thánh Giám Mục Valerius ở Saragossa Tây Ban Nha. Vào năm 303, các hoàng đế Rôma ban chỉ dụ chống đối hàng giáo sĩ, và chống đối giáo dân vào năm kế tiếp. Phó Tế Vinh Sơn và Ðức Giám Mục Valerius bị giam ở Valencia. Sự đói khổ và tra tấn không làm gì được các ngài.
Ðức Valerius bị đi lưu đầy, và hoàng đế Dacian dồn mọi sự tức giận lên Phó Tế Vinh Sơn. Mọi hình thức tra tấn đều được sử dụng. Nhưng kết quả chỉ làm Dacian thêm rối trí. Chính ông ra lệnh đánh đập các lý hình vì sự thất bại của họ.
Sau cùng ông đề nghị nếu Phó Tế Vinh Sơn giao nộp sách thánh để đốt theo như chỉ dụ của hoàng đế thì ông sẽ tha cho. Nhưng thánh nhân cương quyết không nhượng bộ. Sự tra tấn tiếp tục, nhưng dù nằm trên vỉ sắt được nung nóng, người tù nhân vẫn can đảm chịu đựng, đến nỗi chính lý hình cũng phải nản chí. Sau cùng Phó Tế Vinh Sơn bị ném vào một xà lim dơ bẩn -- ở đây ngài đã hoán cải người cai tù. Dacian tức điên người, nhưng lạ lùng thay, ông lại ra lệnh cho tù nhân được tĩnh dưỡng đôi chút.
Các tín hữu đến thăm Phó Tế Vinh Sơn, nhưng ngài không còn thì giờ để nghỉ ngơi ở trần thế, khi họ đặt ngài lên chiếc giường êm ả thì ngài đã đi vào nơi an nghỉ đời đời.
Lời Bàn
Các vị tử đạo là gương mẫu anh hùng mà chỉ quyền năng Thiên Chúa mới có thể thực hiện được. Chúng ta biết sức người không thể chịu đựng nổi các tra tấn như Thánh Vinh Sơn mà vẫn trung tín với đức tin. Nếu chỉ cậy dựa vào sức con người thì quả thật không ai có thể trung tín với Thiên Chúa ngay cả khi không bị tra tấn hoặc bị đau khổ. Thiên Chúa không đến giải cứu chúng ta vào những giây phút cô đơn "đặc biệt". Ngài luôn luôn hỗ trợ người mạnh cũng như kẻ yếu.

www.nguoitinhuu.com
Matthêu Ðậu (1702-1745)

Matthêu Ðậu (Matthaeus Alonso Leciniana), Sinh năm 1702 tại Nava del Rey, Tây Ban Nha, Linh Mục dòng Ða Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 22/01/1745 tại Thăng Long dưới đời chúa trịnh Doanh, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 22/01.






Phanxicô Tế (1702-1745)

Phanxicô Tế (Francois Gil de Federich), Sinh 1702 tại Tortosa, Catalunha, Tây Ban Nha, Linh mục thừa sai dòng Ða Minh, thuộc địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 22/01/1745 tại Thăng Long dưới đời chúa Trịnh Doanh, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 22/01.
www.tinmung.net

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét