Trang

Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2013

06-01-2013 : CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH


Lễ Hiển Linh

Bài Ðọc I: Is 60, 1-6
"Vinh quang Chúa xuất hiện trên ngươi".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi.
Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.
Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông.
Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 71, 2. 7-8. 10-11a. 12-13
Ðáp: Lạy Chúa, mọi dân tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa (x. c. 11b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.
2) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.
3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ. - Ðáp.
4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Ep 3, 2-3a. 5-6
"Bây giờ được tỏ ra rằng các dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, (chắc) anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mt 2, 2
Alleluia, alleluia! - Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đã đến để triều bái Người. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 2, 1-12
"Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".
Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Ba nhà đạo sĩ đã theo ánh sao lạ tiến về hang Bêlem. Trong niềm hân hoan, họ mong gặp được vị vua Do thái mới sinh để triều bái Người.
Cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình chúng ta là một cuộc hành trình tiến về nhà Cha. Ðức Giêsu vẫn là ánh sao lạ đã và đang đi trước chúng ta. Chúng ta vui sướng bước theo Ngài, nghe tiếng Ngài dạy bảo. Nhưng có những lúc dường như ngôi sao ấy biến đi khiến chúng ta phải lao đao lo sợ. Hãy kiên trì chờ đợi trong niềm tin.

Cầu Nguyện:
Lạy Cha, xưa Cha đã dùng ánh sao lạ mà dẫn ba vua đến Bê lem bái thờ con Cha. Hôm nay xin Cha khơi dậy nơi tâm hồn chúng con khao khát tìm gặp được ánh sao lạ, là Ðức Giêsu con Cha, để chúng con bước đi theo Ngài về bên Cha trong an bình và niềm vui. Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Giêsu, Chúa chúng con. Amen.
(Vertas Asia)

Tin Mừng cho lương dân
Suy Niệm:
Chúa Nhật Lễ Hiển Linh
Chúng ta đọc: Isaia 60,1-6
Thư Êphêsô 3,2-3a.5-6
Tin Mừng Matthêô 2,1-12
Lễ Hiển linh ngày nay không còn long trọng như ngày trước. Nó không còn là cao điểm có nhiều Chúa Nhật theo sau làm thành một mùa phụng vụ Hiển linh nữa. Nay, Hiển linh chỉ còn là lễ sau hết của mùa Giáng sinh. Và như thế cũng dễ hiểu. Vì Hiển linh là gì, nếu chẳng phải là việc Ðấng Linh thiêng tỏ hiện ra? Thế mà còn việc tỏ hiện nào rõ rệt hơn chính Ðấng Linh thiêng mặc lấy xác thịt sinh ra làm người? Giáng sinh là Hiển linh vậy.
Tuy nhiên, lễ Hiển linh hôm nay cũng có một đối tượng rõ rệt. Nó nói đến việc Thiên Chúa Giáng sinh làm người tỏ mình ra cho dân ngoại, cũng như Người đã tỏ mình ra cho dân Dothái khi gọi mục đồng đến thờ lạy và khi để cho ông Simêon và bà Anna nhìn thấy Người nơi Ðền thờ. Lễ Hiển linh nằm trong mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ bản tính thần linh của Người ra cho mắt phàm của loài người chúng ta được nhìn thấy Người. Nhưng những kẻ được nhìn thấy Người hôm nay không phải là dân Dothái nữa, mà là các dân ngoại. Và điều này được cả ba bài đọc Kinh Thánh của Phụng vụ Thánh lễ hôm nay đồng thanh nói lên.

1. Isaia Ðã Tiên Báo Mầu Nhiệm Này
Bài sách của ông ngày nay được thẩm định như một bản văn khởi hứng vào mùa thu năm 520. Dân Dothái mới được phép hồi hương. Ðoàn người đạo đức về trước đã lập lại được bàn thờ ở Yêrusalem và đang xây dựng lại cả ngôi thánh đường ngày trước. Ai ai cũng phấn khởi. Dịp lễ Trại càng nô nức hơn nữa. Có lẽ chính bối cảnh đó đã khởi hứng cho tác giả của đoạn tiên tri hôm nay.
Ông nhìn vào các tường thành đang mọc lên và ông thốt ra lời phấn khởi: hãy vùng đứng, hỡi Yêrusalem; vì ánh sáng của Thiên Chúa cứu độ đã tỏa xuống trên ngươi. Hết rồi các thời ngươi bị nhục nhã tiêu điều trong cảnh lưu đày.
Ngược lại, kìa xem các dân tộc đang tối tăm trong gió bụi. Bàn tay Thiên Chúa đang đè nặng trên họ. Còn ngươi, bây giờ bình an đang xây lại giao ước với Thiên Chúa tín thành... Người mà vùng lên trong chiều hướng này thì rõ ràng các Lời Thiên Chúa cùng tổ phụ chúng ta sẽ thực hiện. Mọi dân đang đi trong tối tăm lầm lạc sẽ nhìn thấy ánh sáng chiếu trên ngươi mà tuôn đến. Họ đem theo cả con cháu ngươi đã phân tán trong thời lưu lạc trở về. Họ mang nhiều thổ sản đến dâng lễ cho Thiên Chúa.
Như vậy tác giả đã căn cứ vào thực tại để nói lên niềm tin vào tương lai theo như lời Chúa hứa. Lời của ông đúng thật là lời tiên tri, theo nghĩa tiên báo về thời sau hết, khi mọi Lời Hứa được thực hiện. Do đó nó vượt xa hơn cả thời thiên sai nữa, nếu ta hiểu thời này là lúc Chúa Cứu thế sinh ra trong xác thịt. Nó nói về thời cánh chung, khi mọi sự được hoàn tất. Và như thế, tác giả sách Khải huyền thật có lý khi mượn lại những lời tiên tri hôm nay để nói về Yêrusalem trên trời (21,9-27).
Nhưng không thể có Yêrusalem trên trời trước khi có Yêrusalem dưới đất. Không phải Yêrusalem "hình bóng" nơi dân Dothái mà là Yêrusalem "chân thật" là Hội Thánh chúng ta.
Do đó, lời tiên tri hôm nay cũng đưa về Hội Thánh đang trên đường lữ thứ trần gian, Hội Thánh mà Công đồng Vatican 2 đã tuyên xưng là "ánh sáng muôn dân". Và trong thực tế, Hội Thánh này đang quy tụ muôn dân muôn nước, mà trước đây là dân ngoại. Hội Thánh đã được ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi ngay từ hôm Thánh Thần hiện xuống. Các dân tộc bắt đầu đến với Hội Thánh ngay từ hôm đó. Sự hiện diện của Hội Thánh ở giữa thế giới nói lên rằng lời tiên tri Isaia đang được thực hiện.
Và như thế là nhờ ở ánh sáng của Thiên Chúa cứu độ đang tỏa trên Hội Thánh như mây sáng phủ trên Lều Giao ước trên đường đi giữa sa mạc. Vì nếu không có "Chúa ở với Hội Thánh hằng ngày cho đến tận thế", Hội Thánh không thể quy tụ được muôn dân nước như vậy. Chính Ðức Yêsu, Con Thiên Chúa giáng trần làm người đã đem ánh sáng mới vào thế gian và đặt nơi Hội Thánh. Chính Người sau khi tử nạn và phục sinh đã tuôn đổ Thánh Thần xuống dưới hình lưỡi lửa để Hội Thánh trở thành ánh sáng muôn dân.
Và như thế lời Isaia nói về Yêrusalem ở thời cánh chung cũng như trong giai đoạn lữ thứ trần gian, cuối cùng phải căn cứ vào việc Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh trong xác thịt để tỏ vinh quang Thần tính cho thiên hạ được thấy. Phụng vụ có lý để đọc bài tiên tri này trong ngày lễ hôm nay. Và chúng ta được khuyến khích nhìn vào con trẻ thành Bêlem như là cứu tinh các dân tộc, vì Người thật là ánh sáng chiếu trong Hội Thánh.

2. Thánh Mátthêu Nhìn Thấy Mầu Nhiệm
Người diễn tả mầu nhiệm trong bài Tin Mừng hôm nay. Bề ngoài người như muốn thuật truyện, nhưng thật ra người đã mượn truyện để nói lên niềm tin Ðức Yêsu là ánh sáng muôn dân và là nhà của Người là Hội Thánh sẽ tập họp muôn nước. Chính vì vậy mà câu truyện người kể có nhiều thiếu sót về văn chương khiến hậu thế đã tìm cách bổ sung bằng nhiều ý kiến khác thường.
Người ta muốn xác định có những vị vua từ Batư tới mang theo các lễ vật để dâng Chúa. Vìcó vàng, hương và mộc dược nên hãy quy định họ là phái đoàn 3 người cho tiện. Ðàng khác, con số 3 này lại nhắc nhở tới 3 người con Noe là tổ phụ của tất cả loài người sau nạn lụt. Họ có thể đã từ Batư tới bởi vì năm 614 khi quân đội nước này đến tàn phá thánh địa họ đã kính trọng đền thờ ở Bêlem vì trong đó có họa những người mặc y phục Batư đến thờ lạy Hài nhi. Nhưng nếu như vậy thì không nên coi họ là vua cho dù danh từ hợp với những câu thánh vịnh (72,10) nói rằng: "Vua Chúa Tarsis và các đảo sẽ kiệu đến lễ vật; Vua Chúa Sêba và Saba sẽ đem triều cống lại chầu". Ở Batư không có nhiều vua cùng một lúc, nhưng lại có nhiều đạo sĩ, cũng là những nhà hiền triết thông thạo Kinh Thánh Batư và thường được các hoàng đế Batư thỉnh vấn. Nabuchodonosor khi đến Yêrusalem (Yr 39,3-13) cũng đem theo một vị đạo sĩ như thế để bàn hỏi.
Nhưng tất cả những yếu tố đó không quan trọng đối với thánh Matthêu. Người chú trọng giới thiệu Ðức Yêsu là Cứu thế, Ðấng mà ở thời thánh Matthêu, người Dothái không chịu công nhận đang khi các dân ngoại gia nhập Hội Thánh. Thế nên vai trò chính trong câu truyện là những con người đến từ phương Ðông và các tư tế ở Yêrusalem. Dân ngoại nhờ đường lối tự nhiên đã khởi sự tìm ra Chúa; trong khi dân Dothái có sách Thánh mà không biết đến Người. Nói đúng hơn, dân ngoại cũng phải nhờ người Dothái công bố sách Thánh thì mới thành công trong việc đi theo đường lối tự nhiên, bởi vì ơn cứu độ bởi dân Dothái mà đến. Nhưng dân này đọc sách Thánh mà không hiểu, đang khi chỉ một vài chỉ dẫn của Thánh Kinh đã giúp được dân ngoại lên đường gặp Chúa.
Ở đây nói cho đúng không phải là lời sách Isaia mà là lời tiên tri Mikê, cũng đồng thời với Isaia. Mikê thấy dân Chúa đang hoảng hốt trước sức mạnh xâm chiếm của ngoại bang (Assyria), ông được lệnh an ủi và củng cố dân... Không có gì phải sợ tên "Gôliát" ấy, vì Chúa sẽ cho xuất hiện một Ðavít mới từ Bêlem, làng nhỏ xíu của đất Yuđa. Như vậy thì Bêlem đâu có nhỏ nữa; nên thánh Matthêu mới đổi lại câu và viết: Bêlem hẳn không phải là nhỏ nhất trong hàng bộ lạc Yuđa. Thánh Matthêu nghĩ đến Chúa Yêsu sinh ra ở Bêlem, Người sẽ làm lớn vì sẽ chăn dắt Israel Dân Chúa.
Các đạo sĩ sẽ nhận ra Người khi nghe lời Kinh Thánh mà tiếp tục cuộc hành trình đã khởi sự từ phương Ðông. Ngôi sao lạ lại xuất hiện dẫn đường. Chính nó đã khiến họ biết có một vị cứu tinh hay cứu thế đã ra đời, vì người xưa vẫn quan niệm đời những nhân vật xuất chúng thường gắn liền với một vì sao. Chúa cho họ thấy một sao lạ hiện ra ở trên trời. Họ đinh ninh ngay rằng đó là ngôi sao của một vị cứu tinh mới. Chúa dùng đường lối tự nhiên, phù hợp với họ, để đưa họ lên đường cứu rỗi. Họ đến Yêrusalem. Ðiều này làm chứng nỗi chờ mong vị cứu thế ở trong dân Chúa đã được những dân tộc chung quanh nghe biết. Họ hỏi vua Hêrôđê. Nhưng nơi dân Chúa, muốn biết chân lý phải đọc Thánh Kinh Lời Chúa sẵn đó, nhưng phải thi hành, có đi đến Bêlem mới gặp; chứ không cố gắng như các luật sĩ ở lại Yêrusalem thì chẳng bao giờ nhìn thấy ánh sáng cứu độ đã tỏa xuống trên Yêrusalem mới là Hài nhi thành Bêlem và Hội Thánh mới mẻ của Người.
Như vậy, thánh Matthêu đã có nhiều ẩn ý khi viết bài Tin Mừng hôm nay. Ðó là Tin Mừng cho lương dân và đúng hơn cho Hội Thánh của Chúa Yêsu. Ngược lại nó gây lo lắng buồn phiền cho Yêrusalem cũ, là những người Dothái không đón nhận Chúa Yêsu. Ðúng như Yoan viết trong chương mở đầu sách Tin Mừng thứ tư: "Người đã đến trong nhà Người mà gia nhân của Người đã không tiếp nhận. Còn ai tiếp nhận thì Người đã ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa... Và chúng tôi đã được ngắm vinh quang của Người".
Ðiều này cũng là ý của bài thơ Phaolô hôm nay. Theo người: mầu nhiệm trong các thế hệ trước chưa hề thông tri cho con cái loài người, thì nay đã được mạc khải ra: ấy là dân ngoại cũng là kẻ thừa tự, là thân mình, và đồng hưởng lời hứa trong Ðức Yêsu Kitô nhờ Tin Mừng.
Nhưng không thể Phụng vụ hôm nay chỉ nói lên mầu nhiệm đó để Hội Thánh tạ ơn và để chúng ta biết mình đã được Chúa thương kêu gọi từ dân ngoại vào hưởng gia nghiệp Dân Chúa. Bài sách Isaia đã căn cứ vào thực tại nhưng muốn người ta nhìn xa hơn cho đến tận cùng lịch sử. Phụng vụ hôm nay cũng khuyên chúng ta hướng mắt về thời cánh chung mà vùng lên, bừng sáng lên để lôi cuốn, chỉ đường cho các dân tộc xây dựng ngày mai tươi sáng. Ý tưởng của bài thư Phaolô cũng vậy. Thánh Tông đồ viết ra để thúc đẩy chúng ta nhiệt tình với công cuộc truyền giáo. Và bài Tin Mừng rõ ràng khuyến khích mọi người lên đường tìm Chúa theo gương các đạo sĩ.
Chúng ta sẽ thành thật tham dự mầu nhiệm Hiển linh này, nếu sau khi thờ lạy Chúa trong Phụng vụ chúng ta cũng vươn lên, bừng sáng, tức là có nếp sống tốt đẹp hơn, để soi sáng cho người khác biết Chúa; chúng ta cũng phải lên đường với tha nhân, nêu lên với họ những câu nói về Chúa. Có khi chính chúng ta sẽ thấy phải rở lại sách Thánh; và lần này đọc lên chúng ta sẽ hiểu rõ thời điềm, tức là đọc thấy ý Chúa nơi mọi sự việc xảy đến hằng ngày. Có thể có nhiều ánh sao đang chờ đợi dẫn đưa chúng ta đến gặp Chúa và đưa người ta đến với Người. Và như vậy, năm nay cũng có một lễ Hiển linh cho chúng ta.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật Lễ Hiển Linh, Năm ABC

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: 
Chúa Kitô là ánh sáng cho muôn dân.

Đứng trước cùng một biến cố xảy ra, con người có những phản ứng khác nhau, tùy thuộc vào sự cần thiết và hy vọng của con người: có người dửng dưng, có người đàn áp, và có người nhiệt thành đón nhận. Biến Cố Nhập Thể của Đức Kitô cũng thế, dù được báo trước và dặn phải chuẩn bị sẵn sàng, nhiều người Do-Thái vẫn không chuẩn bị để đón nhận Chúa Cứu Thế; nhưng các Mục-đồng và Ba Nhà Đạo Sĩ từ phương xa nhiệt thành đi tìm và họ đã tìm thấy Đấng Cứu Thế.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Isaiah cho thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ ban Ơn Cứu Độ của Ngài như vinh quang cho Jerusalem và như ánh sáng cho muôn dân. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu của ngài về Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Theo Mầu Nhiệm này, Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái như Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Ngài đến, Ngài sẽ ban Ơn Cứu Độ cho tất cả mọi người qua niềm tin của họ vào Đức Kitô. Trong Phúc-Âm, Thánh Matthew tường thuật 3 phản ứng chính của con người khi phải đối diện với Tin Mừng của Đấng Cứu Thế: thờ ơ lạnh nhạt, lập kế tiêu diệt, và nhiệt thành đi tìm.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Chúa Kitô là vinh quang của Israel và là ánh sáng cho muôn dân.

1.1/ Sự sáng của Thiên Chúa đã chiếu tỏa trên Jerusalem: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.”
Chương 60 của Sách Tiên Tri Isaiah được viết sau thời gian Lưu Đày Babylon; lúc đó Jerusalem còn là một thành trì hoang phế bởi chiến tranh. Vì thế, đọan văn này không có ý nói về Thành Jerusalem cách thể lý, nhưng nói về một Jerusalem tinh thần, tượng trưng cho dân tộc Israel. Người làm cho Jerusalem được đứng dạy, được bừng sáng, là Thiên Chúa; chứ không phải dân tộc Israel. Ánh sáng và vinh quang của Đức Chúa đây chính là Ơn Cứu Độ, mà Ngài đã hứa ban cho Jerusalem qua các Tiên-tri. Ơn Cứu Độ nói tới ở đây không chỉ là việc giải thóat và cho dân Israel được trở về Jerusalem từ chốn Lưu Đày Babylon; nhưng còn bao gồm cả việc gỉai phóng Israel khỏi nô lệ của tội lỗi qua Đấng Thiên Sai.
Tác giả nêu bật sự tương phản giữa ánh sáng của Jerusalem và bóng tối của chư dân qua câu: “Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.” Trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, người Do-Thái quan niệm: chỉ có họ mới là Dân Riêng của Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng Ơn Cứu Độ; còn tất cả các dân tộc khác (Dân Ngọai) là những người ngồi trong bóng tối tăm sự chết, và không được hưởng Ơn Cứu Độ. Bóng tối và mây mù tác giả muốn nói tới ở đây là việc không biết Thiên Chúa, không biết Ơn Cứu Độ, và không sống theo đường lối của Thiên Chúa.

1.2/ Chư dân từ khắp nơi sẽ tuôn đến Jerusalem: Nhưng một khi Đấng Cứu Thế tới, mọi sự đều đổi khác: Ơn Cứu Độ không còn giới hạn trong dân tộc Israel, nhưng mở rộng tới mọi dân tộc (còn được gọi chung là Dân Ngọai), như viễn tượng mà Tiên-tri Isaiah đã nhìn thấy hôm nay: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúahướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.” Như đã nói ở trên, ánh sáng của Jerusalem chính là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Ánh sáng này soi tỏa cho các dân tộc trên địa cầu, và mọi người sẽ tuôn đến Jerusalem tinh thần để được hưởng Ơn Cứu Độ này. Tiên-tri Isaiah liệt kê các thành phần tiến đến Jerusalem bao gồm: (1) Các vua chúa của các quốc gia; và (2) các con trai và các con gái. Các người con này không có liên hệ với Jerusalem bằng máu mủ, nhưng bằng niềm tin vào Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Khi những điều này xảy ra, Jerusalem sẽ tràn đầy niềm vui như Tiên-tri loan báo: “Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Median và Ephah: tất cả những người từ Sheba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa.” Trong thế giới thời đó, giàu sang được đo lường bằng những đòan vật, và lạc đà được coi là thú vật có giá trị nhất trong việc di chuyển đồ đạc qua sa mạc cho các quốc gia vùng Trung Đông. Theo Sáng Thế Ký 25:4, Ephah là con trai của Midian, và là cháu của Jokshan, cha của Sheba. Sheba ngày nay là Nước Yemen. Vàng và nhũ hương là 2 món hàng đắt nhất thời bấy giờ. Điều này chúng ta sẽ đề cập tới trong Phúc Âm, khi Ba Vua dâng những quà này cho Chúa Hài Đồng.

2/ Bài đọc II: Các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái.

2.1/ Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây.” Thánh Phaolô viết Thư này cho các tín hữu Philiphê, khi ngài đang bị cầm tù tại Rome. Ngài nhắc lại cho họ biết về “kế họach ân sủng” mà Thiên Chúa đã ủy thác cho ngài. Kế họach này bao gồm hai việc: biến cố trở lại trên đường Damascus và sứ vụ rao truyền Tin Mừng cho Dân Ngọai được ủy thác cho ngài. Giữa 2 biến cố này là khỏang thời gian Thánh Phaolô đi vào tĩnh tâm trong sa mạc Arabia, để được Thiên Chúa mặc khải về mầu nhiệm Đức Kitô cho thánh nhân. Sở dĩ có sự kiện này là vì Thánh Phaolô đã không được giao tiếp với Đức Kitô như các Tông-đồ khác khi Chúa Giêsu còn sống trên dương gian.

2.2/ Dân Ngọai cũng được thừa hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thánh Thần mà mặc khải cho các thánh Tông-đồ và Tiên-tri của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” Qua những hàng vắn tắt này, Thánh Phaolô tường thuật cho chúng ta biết 2 giai đọan chính của Mầu Nhiệm Cứu Độ: (1) Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái là Dân Riêng của Thiên Chúa để được huấn luyện và chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến; và (2) Khi Đấng Cứu Thế đến, Ơn Cứu Độ được lan rộng tới mọi người qua việc rao truyền Tin Mừng và niềm tin của mọi người vào Đức Kitô. Qua việc tuyên xưng đức tin và chịu Phép Rửa, tất cả cùng được tháp nhập vào thân thể của Đức Kitô.

3/ Phúc Âm: Con người phản ứng trước ánh sáng của Thiên Chúa.

3.1/ Con người buộc phải có thái độ trước Tin Mừng về Đức Kitô: Thiên Chúa có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho Ba Nhà Đạo Sĩ một mạch tới Bethlehem, mà không cần phải đi qua Jerusalem; nhưng để cho mọi người cư ngụ tại Jerusalem có cơ hội đồng đều để lắng nghe Tin Mừng, Ngài làm mất dấu ngôi sao để Ba Nhà Đạo Sĩ phải vào Jerusalem để loan tin. Thánh Matthew tường thuật: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bethlehem, miền Judah, thời vua Herode trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Jerusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do-Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các Thượng-tế và Kinh-sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại Bethlehem, miền Judah, vì trong sách Tiên-tri, có chép rằng: "Phần ngươi, hỡi Bethlehem, miền đất Judah, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Judah, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời."

3.2/ Ba phản ứng của con người trước ánh sáng: Đứng trước Tin Mừng được loan báo bởi Ba Nhà Đạo Sĩ, chúng ta tổng hợp được 3 thái độ chính của con người:
(1) Thái độ thờ ơ của Dân Thành Jerusalem cách chung và của các Thượng-tế và các Kinh-sư nói riêng: Thánh Matthew ám chỉ Dân Thành biết biến cố Chúa Cứu Thế ra đời trong câu: “Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao.” Họ xôn xao để tìm ra nơi chốn sinh ra của Đấng Cứu Thế, rồi âm thầm lên giường đắp chăn ngủ tiếp! Họ có thể sợ vì trời tối, đường xa, và lạnh lẽo; nhưng đơn giản là vì họ đã có mọi thứ và không cần tới Đấng Cứu Thế. Các Thượng-tế và các Kinh-sư mang tội nặng hơn, vì họ là những người thông hiểu Kinh-Thánh và sự cần thiết của việc Đấng Cứu Thế đến; nhưng họ dùng Kinh-Thánh để tìm ra và chỉ đường cho người khác đến gặp Ngài; phần họ, gấp sách lại và từ chối không lên đường đi tìm Ngài.
(2) Thái độ muốn tiêu diệt ánh sáng của Vua Herode: Bấy giờ Vua Herode bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bethlehem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." Đã không tiếp nhận ánh sáng, Vua Herode còn toan tính tiêu diệt ánh sáng. Trong cuộc đời, chúng ta cũng gặp nhiều thái độ như Vua Herode. Họ muốn tiêu diệt ánh sáng vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những ích kỷ, toan tính, và những xấu xa trong tâm hồn của họ.
(3) Thái độ nhiệt thành đi tìm ánh sáng của Ba Nhà Đạo Sĩ: Trớ trêu thay cho dân tộc Do-Thái, họ trông chờ từng ngày từng giờ và chuẩn bị cho việc đón Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Người xuất hiện, lại chỉ có Ba Nhà Đạo Sĩ là những người Dân Ngọai, từ phương trời xa xôi đi tìm Người theo dấu một vì sao. Họ không sợ đường xa, trời tối, nguy hiểm, gió lạnh mùa Đông, và nhất là theo dấu một vì sao mong manh. Họ không nản lòng khi mất dấu ngôi sao, họ vào Thành Jerusalem với hy vọng sẽ tìm được Ngài trong lịch sử. Và khi được hướng dẫn của Kinh Thánh (Micah 5:1), họ lại tiếp tục lên đường. Họ mừng vui khi thấy ngôi sao tái xuất hiện, và họ đã thấy Hài Nhi. Mở túi hành trang ra, họ dâng 3 lễ vật quí giá nhất cho Hài Nhi: vàng chỉ sự thần phục Hài Nhi là Vua; nhũ hương chỉ sự thần phục Hài Nhi là Chúa; mộc dược tiên báo trước Cuộc Thương Khó và cái chết của Hài Nhi. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Herode nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa đã tỏ tình thương qua việc ban Người Con Một của Ngài cho chúng ta, phản ứng của chúng ta làm sao khi lãnh nhận Tin Mừng này?
- Chúng ta có hăng hái nhiệt thành lên đường đi tìm Ngài, hay ngại ngùng phải rời bỏ ốc đảo bình an của chúng ta vì sợ nguy hiểm, tốn thời gian, và lười biếng?
- Rất nhiều lần chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và ánh sáng, không phải vì chúng ta không biết đó là sự thật hay ánh sáng; nhưng chúng ta sợ: nếu chấp nhận sự thật, chúng ta phải sống điều sự thật đòi hỏi; nếu phải đến gần ánh sáng, chúng ta phải bỏ những tội lỗi mà chúng ta đã quá quen thuộc!

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


Lễ Hiển Linh
Sứ điệp: Các vị đạo sĩ chân thành tìm kiếm vị cứu tinh và đã gặp được Ngài. Muốn gặp được Chúa trong cuộc sống, mỗi người chúng ta cần theo gương các đạo sĩ: thành tâm, kiên trì, quả cảm, bỏ ý riêng và tư lợi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, vua Hêrôđê và những người thuộc lòng Kinh Thánh trong đền vua đã không nhận biết Chúa là Đấng cứu tinh. Trong khi đó, thật vinh dự và an ủi cho các đạo sĩ: họ chân thành đi tìm Chúa và họ đã gặp được Chúa. Con chiêm ngắm các nhà đạo sĩ trên đường đến với Chúa: họ đã hy sinh tất cả. Họ chẳng quản vất vả. Họ không thỏa mãn với địa vị đang có. Họ không kiêu căng tự mãn với cuộc sống. Họ không sống ích kỷ. Họ chân thành tìm Chúa để thờ lạy Chúa. Họ không hề có một ác ý nào trong việc tìm Chúa. Con trông thấy các đạo sĩ đang rong đuổi cách trung thành theo ánh sao trời để tìm Chúa. Con nhận ra các đạo sĩ đang vâng lời tuyệt đối. Họ đi con đường ngôi sao dẫn họ. Có lúc lý trí cũng soi dẫn họ: họ nghĩ Chúa phải sinh ra trong hoàng cung. Nhưng làm theo lý trí, họ đã không tìm ra Chúa. Họ phải nhờ Thánh Kinh để nhận ra Chúa.
Lạy Chúa, cuộc đời con cũng là cuộc hành trình tìm Chúa. Ánh sáng Chúa vẫn dẫn con mỗi ngày mỗi đêm. Đó chính là những lời dạy dỗ của Chúa trong Kinh Thánh. Chúa đang dẫn con từng bước qua lời dạy dỗ của Giáo Hội như ánh sao đặc biệt. Các đạo sĩ đã nhận ra Chúa vì họ đã nỗ lực tìm Chúa. Con cũng thế, con quyết tâm nỗ lực ngày đêm tìm Chúa. Con cũng muốn như các đạo sĩ quên mình và bất chấp mọi khó khăn đến với Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Con quyết tâm cố gắng mỗi ngày nhận ra Chúa nơi anh em con, nhất là nơi những người nghèo đói bệnh tật. Đây không phải là chuyện dễ, Chúa ơi. Xin Chúa Hài Đồng giúp con. Con sợ lòng kiêu căng và sự tự mãn làm con mù quáng và không gặp được Chúa như vua Hêrôđê và các nhà thông thạo Kinh Thánh, nhưng con chân thành chạy đến với Chúa. Xin Chúa giúp con. Amen.
Ghi nhớ: "Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
www.phatdiem.org
06/01/13 CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH - C
Mt 2,1-12

VẤN NẠN CHO NGƯỜI KI-TÔ HỮU
Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, và hỏi :"Đức vua Do-Thái mới sinh hiện đang ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem xôn xao. (Mt 2,1-3)
Suy niệm: Thật là một điều nghịch lý: Dân Do Thái từ lâu đã trông đợi Đấng Cứu Tinh, họ đã được các ngôn sứ tiên báo, thế mà khi Ngài đến, họ đã không dành nổi cho Ngài một chỗ ở giữa họ, lại còn bối rối xôn xao vì sự xuất hiện của Ngài. Đau đớn thay, họ nắm giữ kho tàng mạc khải mà lại không nhận ra Ngài! Trong lúc ấy, các nhà chiêm tinh đại diện cho thế giới của lương dân chỉ biết lần theo dấu chỉ tự nhiên lên đường tìm kiếm: “Đức vua Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu?” Họ muốn biết để đến thờ lạy Ngài. Hài Nhi mới sinh đó có tầm quan trọng quyết định với cuộc đời họ. Vì thế, họ không ngần ngại chấp nhận một cuộc phiêu lưu đường dài với niềm khao khát gặp gỡ. Cuộc dấn thân của họ càng làm cho câu hỏi họ đặt ra thêm nặng ký.
Mời Bạn: Bạn có cảm thấy thán phục thiện chí và nỗ lực của những người thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và gia nhập Hội Thánh? Phần chúng ta, bối rối, xôn xao như Hêrôđê hay thao thức với sứ mệnh truyền giáo cho lương dân?
Chia sẻ: Chia sẻ kinh nghiệm nhận biết Chúa qua những dấu chỉ tự nhiên.
Sống Lời Chúa: Bạn hãy cầu nguyện cho một gia đình lương dân, và giúp họ nhận biết Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa xin cho con luôn thao thức với việc tìm kiếm Chúa và loan báo Tin Mừng cho lương dân.
www.5phutloichua.net

NGÔI SAO DẪN ĐƯỜNG
Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của bạn, đưa bạn vào sự bấp bênh, mong manh, để rồi cuối cùng bạn gặp được sự vững vàng trong Chúa.

Suy nim:
Ðoạn Tin Mừng trên nói về các nhà chiêm tinh dân ngoại theo ánh sao mà tìm đến bái yết Hài Nhi
Một loạt câu hỏi thường được đặt ra hôm nay. Làm sao một ngôi sao có thể dẫn đường cho họ đi?
Nếu đó là một ngôi sao sáng lạ lùng thì tại sao thành Giêrusalem lại không nhận biết?
Bởi đâu ngôi sao lại không đi thẳng tới Bêlem? Có tin được chuyện ngôi sao ngừng lại trước cửa nhà không? Các câu hỏi trên đều xoay quanh ngôi sao lạ. Một ngôi sao như thế có thật không
hay đây chỉ là một truyền thuyết?
Thánh Mátthêu đã viết đoạn Tin Mừng này theo một thể văn đặc biệt của người Do Thái. Chúng ta không nên hiểu mọi chi tiết theo nghĩa đen. Ðiều quan trọng không phải là có một ngôi sao lạ, một ngôi sao thông minh biết dẫn lối chỉ đường. Ðiều quan trọng là điều Mátthêu muốn nói với ta: Ðức Giêsu không phải chỉ là Mêsia cho dân Do Thái, Ngài còn là Ðấng Cứu Ðộ cho cả nhân loại.
Các nhà chiêm tinh là dân ngoại. Họ đại diện cho mọi dân tộc, cho chính chúng ta. Họ khao khát tìm ơn cứu độ. Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ, họ nghe thấy lời mời gọi lên đường. Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả và bước đi trong đêm tối. Các nhà chiêm tinh không dựa vào điều gì khác ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ. Cần có đức tin cứng cáp mới dám dựa vào một dấu chỉ mong manh như thế. Cũng cần có đức tin mạnh mẽ mới dám tin rằng vị vua mới sinh đang khiêm tốn sống trong một ngôi nhà ở Bêlem, chứ không uy nghi ngự giữa hoàng cung lộng lẫy. Cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng nào mới có thái độ sấp mình bái lạy trước Hài Nhi, và tiến dâng lễ vật quý giá.
Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Ðức Giêsu Kitô.
Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao, mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người chúng ta phải trung thành với ánh sáng đó, và bước vào cuộc hành trình đức tin đầy mạo hiểm, như các nhà chiêm tinh ngày xưa.
Ðôi khi chúng ta có nét giống Hêrôđê, sợ hãi bối rối trước sự xuất hiện của Ðấng Cứu Ðộ.
Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của bạn, đưa bạn vào sự bấp bênh, mong manh, để rồi cuối cùng bạn gặp được sự vững vàng trong Chúa.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất. Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự
và cũng là một trách nhiệm nặng nề.

Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối
của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng. Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.

Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con. Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Giêng
6 THÁNG GIÊNG
Tiếng Gọi Của Lễ Hiển Linh
“Mầu nhiệm này tôi đã được mạc khải cho biết” (Ep 3,3). Giáo Hội lấy những lời ấy của Tông Đồ Phao-lô trong thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô để nhận hiểu ý nghĩa của ngày Lễ Hiển Linh (Epiphany), ngày lễ này đã được gọi tên như thế ngay từ thuở đầu của Giáo Hội. Chúng ta muốn suy tôn ân sủng của Thiên Chúa trong ngày lễ này, ân sủng dẫn con người đến với đức tin.
Vâng, mầu nhiệm Đức Kitô được vén mở cho con người nhận biết qua đức tin. Đây là cốt lõi của ngày Lễ Hiển Linh. Bằng một cách thức nào đó, đức tin này được mạc khải vào tâm khảm của kẻ nhận thần khải, như ngày ấy Đức Giêsu đã tự tỏ hiện cho Sao-lô người Tarsus trên đường đi Damas. Thế là, Phao-lô trở thành một chứng nhân đặc biệt nhờ cuộc trở về đón nhận đức tin. Như chính Phao-lô tuyên bố: “… anh em nghe nói đến ân huệ mà Thiên Chúa đã ưu ái ban cho tôi vì thiện ích của anh em” (Ep 3,2).
Thánh tông đồ muốn làm chứng hùng hồn cho ân sủng Hiển Linh. Và Giáo Hội lấy lại lời của Thánh tông đồ, vì trong lời chứng ấy chúng ta có thể nhận ra tất cả những ai được Đức Kitô kêu gọi qua đức tin. Tất cả những ai tin đều trở thành “người thông dự vào lời hứa của Đức Giêsu Kitô qua Tin Mừng” (Ep 3,6). Thánh Phao-lô muốn nhấn mạnh với chúng ta tiếng gọi giục giã loan báo Tin Mừng cho dân ngoại – vì chúng ta là những người đã tin. Đó là tiếng gọi đem ánh sáng mạc khải của Thiên Chúa đến cho các dân tộc. Đó là tiếng gọi của ngày Lễ Hiển Linh.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
do nhà Servant Pubns xuất bản, 1994.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa nhật Chúa Hiển Linh;                      
 Is 60, 1-6; Ep 3, 2-3a.5-6; Mt 2, 1-12.

LỜI SUY NIỆM: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và hỏi: Đức Vua dân Do-Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2).
            Từ thời các tổ phụ của dân tộc Do-Thái, đã nhận được lời hứa từ Thiên Chúa là: Ngài sẽ cho xuất hiện một Đấng Giải Thoát để cứu dân tộc này. Nên dân Do-Thái đã có một sự chuẩn bị rất chu đáo, qua từng giai đoạn lịch sử của họ, đều được Thiên Chúa gởi những vị ngôn sứ của Ngài đến để loan báo những điều cần thiết trong cuộc sống, hay răn đe khi dân bê trể, buông thả trong lối sống. Họ luôn quan niệm Đấng Mêsia là của riêng họ. Nhưng với dấu chỉ các nhà chiêm tinh ở phương Đông, nhận ra, sự ra đời của Chúa Giêsu, họ đã tìm đến, và đã thờ lạy Ngài. Cho chúng ta một nhận thức: Chúa Giêsu Ki-tô không là của riêng ai. Ngài xuất hiện trên trần gian này là để Cứu Độ tất cả mọi người không phân biệt một ai, hay một dân tộc vùng miền nào kể từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế.

Mạnh Phương
+++++++++++++++++
06 tháng Giêng
Vị Vua Thứ Tư

Hôm nay lễ Ba Vua. Phúc Âm chỉ nhắc đến ba vị vua. Thế nhưng văn sĩ Joergernen người Ðan Mạch thì lại tưởng tượng ra một vị vua thứ tư. Vị vua thứ tư này đến chầu Chúa Giêsu sau ba vị vua khác. Triều bái Hài Nhi Giêsu nhưng mặt ông tiu nghỉu bởi vì ông không còn gì để dâng tặng Ngài.
Trước khi lên đường, ông chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của ông, thế những dọc đường gặp bất cứ ai xin, ông cũng mang ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp là một cụ già rét run vì lạnh. Ðộng lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ viên ngọc thứ nhất. Ði thêm một đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông đành mang viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lính do vua Herôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Vị vua thứ tư đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.
Tìm được Hài Nhi Giêsu, vị vua thứ tư chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình.
Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra đón nhận quà tặng của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ.
Mùa Giáng Sinh là mùa của những bất ngờ. Bất ngờ của một Thiên Chúa hóa thân làm người. Bất ngờ của một thiên Chúa giáng hạ trong hang súc vật. Bất ngờ sự việc những người nghèo hèn nhất trong xã hội đã nhận ra Tin Mừng. Bất ngờ của những người dân ngoại tìm đến triều bái Vua các vua. Nhưng điều khiến con người sẽ không bao giờ ngờ đến: đó là Ðấng Thiên Chúa hóa thân làm người ấy lại tự đồng hóa với mỗi một con người sinh ra trên cõi đời này, nhất là những con người bé mọn nhất trong xã hội. Ngài đã nói: tất cả những gì các người làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất là các người làm cho chính Ta. Từ đây, người ta chỉ có thể gặp gỡ được Ngài qua tha nhân. Tất cả những gì người ta làm cho tha nhân là làm cho chính Ngài. Lễ dâng làm đẹp lòng Ngài nhất chính là những gì người ta trao tặng cho tha nhân, nhất là những người nghèo hèn túng thiếu hay bất cứ ai cần sự giúp đỡ.
(Lẽ Sống)

Lectio: Chúa Hin Linh (C)

Chúa Nht, 6 Tháng 1, 2013
Cuc viếng thăm ca các v Vua t phương Đông
Mt 2:1-12 

1.  Trong im lng trước Thiên Chúa

Lắng nghe Lời Chúa trong cầu nguyện đòi hỏi sự chú tâm; nó đòi hỏi rằng sự lắng nghe của bạn chỉ được hướng tới Thiên Chúa mà thôi với tất cả sự sẵn sàng mà tâm hồn bạn có thể.  Phẩm chất lời cầu nguyện tùy thuộc rất nhiều vào sự chú tâm mà chúng ta dành cho nó.  Người ta nói rằng sự chú tâm là “thực chất của lời cầu nguyện”.  Nếu việc tìm kiếm Thiên Chúa của bạn thành khẩn, chân thành, trung thực, thì bạn sẽ có thể tìm thấy Thiên Chúa.  Hôm nay, trong ngày Chúa Nhật này Chúa được biểu thị như là ánh sáng cho nhân loại, chúng ta muốn cầu xin Chúa cho có được “sự say mê lắng nghe Lời Người” với những lời của Thánh Êlisabéth Ba Ngôi:  “Ôi lạy Ngôi Lời hằng hữu, Ngôi Lời của Thiên Chúa con, con ước ao được dành trọn cuộc đời con để lắng nghe Người, con muốn được hoàn toàn khuất phục để học hỏi tất cả mọi thứ từ Chúa.  Rồi sau đó, suốt mỗi đêm, mọi sự trống vắng, mọi nỗi bất lực, con luôn luôn ước ao được dồn sự tập trung vào Chúa và ở lại dưới ánh sáng tuyệt vời của Chúa” (Ngước nhìn lên Thiên Chúa Ba Ngôi, 21 tháng 11 năm 1904).
·                      
2.  Li Chúa được soi sáng 
a)  Bối cảnh của đoạn Tin Mừng

Nếu trong chương đầu tiên của Tin Mừng Mátthêu ý định của tác giả Phúc Âm là để cho thấy danh tánh của Đức Giêsu (Chúa Giêsu là ai), thì trong chương thứ hai Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu nhập thể đã được nối vào một số nơi cho thấy sự khởi đầu cuộc sống nơi trần thế của Người.
Đoạn Phúc Âm phụng vụ của Chúa Nhật tuần này là phần đầu của chương 2 trong Tin Mừng Mátthêu (2:1-29) được nối tiếp bởi ba câu chuyện khác: cuộc chạy trốn sang Ai Cập (2:13-15), việc sát hại các Thánh Anh Hài (2:16-18) và chuyến trở về từ Ai Cập (2:19-23).
Để hiểu rõ hơn về sứ điệp của bài Tin Mừng trong các câu 1-13, có lẽ sẽ ích lợi hơn nếu chia đoạn Phúc Âm lễ Chúa Hiển Linh này thành hai phần dựa theo tiêu chuẩn của việc thay đổi địa điểm:  thành Giêrusalem (2:1-6) và Bêlem (2:7:12).  Cũng nên lưu ý rằng tại tâm điểm của câu chuyện Ba Vua chúng ta thấy một câu trích dẫn từ Kinh Thánh trong đó tập trung vào sự quan trọng của thành Bêlem trong thời thơ ấu của Đức Giêsu:  “Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel, dân tộc của Ta” (Mt 2:16).
Hai thành phố tạo nên bối cảnh cho chuyến viễn du của ba nhà Đạo sĩ và được kết hợp bởi hai mạch của chủ đề:  ngôi sao (các câu 2, 7, 9, 10) và việc triều bái Hài Nhi Giêsu (2:11).

b)  Phúc Âm:

Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem, thuộc xứ Giuđêa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông Phương tìm đến Giêrusalem. 2 Các ông nói:  “Vua người Do-Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?  Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông Phương, và chúng tôi đến để triều bái Người.”  3 Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. 4 Vua đã triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ.
5 Họ tâu nhà vua rằng:  “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđêa, vì đó là lời do đấng tiên tri đã chép: 6 “Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta.”  7 Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu mấy nhà Đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. 8 Rồi vua phái họ đi Bêlem và dặn rằng: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho trẫm, để cả trẫm cũng đến triều bái Người.” 9 Nghe nhà vua nói, họ lên đường.  Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông Phương, lại đi trước họ, mãi cho tới khi tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. 10 Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. 11 Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Đức Maria mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống, sụp lạy Người.  Rồi, mở bảo tráp ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật:  vàng, nhũ hương, và mộc dược.  12 Và khi nhận được lời mộng báo “Đừng trở lại với Hêrôđê”, họ đã qua đường khác, trở về xứ sở mình.

3.  Giây phút thinh lng trước Thiên Chúa

Bạn hãy đặt mình trước Thiên Chúa với sự khiêm cung, ngập chìm trong một sự im lặng nội tâm sâu thẳm; hãy gạt sang một bên tất cả những tò mò, những suy nghĩ và trí tưởng tượng; hãy mở lòng bạn cho sự tác động Lời của Chúa.

4.  Đc chăm chú


a)  Biểu tượng ngôi sao:

Ba vua, các Đạo sĩ từ Đông Phương, thông thạo về khoa thiên văn và tiên đoán được vận mệnh hoặc tương lai, thường xuyên được vấn kế về các thiên thể.  Bấy giờ khi họ đã đến thành Giêrusalem, họ nói rằng họ “đã nhìn thấy vì sao của Người xuất hiện”.  Chữ “xuất hiện”, từ tiếng Hy-lạp anatolê, khi không có mạo từ, có nghĩa là Đông Phương hoặc phía Đông (hướng mặt trời mọc); nhưng trong văn bản tiếng Hy-lạp có mạo từ và chữ này có nghĩa là sự xuất hiện của một vì sao thực sự và có thật.  Điều này được xác nhận bởi lời Kinh Thánh:  “Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24:17). Vì sao trở thành biểu tượng của một vị vua mới vừa được sinh ra và hướng dẫn họ đi đến nơi Người được hạ sinh và được tìm thấy.  Thật thú vị khi lưu ý rằng ngôi sao này không thể thấy được ở Giêrusalem nhưng lại xuất hiện lần nữa với các nhà Đạo sĩ khi các ông rời khỏi thành:  thật sự, ngôi sao là một yếu tố quan trọng hơn trong sự việc này.
Hơn hết tất cả, các vị Đạo sĩ trong cuộc hành trình dài của họ đã không đi theo ngôi sao mà đã thấy nó xuất hiện và lập tức kết nối ngôi sao này với sự giáng sinh của Đấng Mêssia.  Ngoài ra, cuộc hành trình không phải là không có phương hướng nhưng mục tiêu là thành Giêrusalem, thành phố mà tất cả mọi dân tộc hội tụ về trong cuộc hành hương như theo lời tiên tri Isaia.
Thành phố khi nghe tin này từ các Đạo sĩ đã đến để triều bái Đấng Mêssia thì xôn xao và bối rối.  Dân thành Giêrusalem dường như không mấy tha thiết và không quan tâm lắm về việc đi triều bái “vị vua người Do Thái mới sinh”.  Thực ra, Hêrôđê còn có ý định sát hại Người.
Tuy nhiên theo sách tiên tri Isaia, Chương 60:1-6, thành Giêrusalem đã được kêu gọi “Hãy đứng lên, vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi” và bây giờ trong Mt 2:2, chúng ta chứng kiến phản ứng chối từ của nhà vua và của dân thành Giêrusalem về Đấng Thiên Sai được hạ sinh tại Bêlem. Một thái độ như vậy báo trước cho sự bắt đầu của việc thù nghịch dẫn đến việc Chúa Giêsu bị lên án tại chính Giêrusalem.  Không chịu đựng được phản ứng ngăn cản các Đạo sĩ có cơ hội tìm đến với ơn cứu chuộc ngay tại thành phố được chọn là công cụ của sự hiệp thông tất cả các dân tộc với Thiên Chúa, việc ra đời của Chúa Giêsu dời chuyển tất cả mọi việc đến Bêlem.  Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn các sự kiện lịch sử khiến cho các vị Đạo sĩ rời thành Giêrusalem và họ lại lên đường tiếp tục cuộc hành trình và tìm thấy Đấng Thiên Sai tại Bêlem, thành phố quê hương của vua Đavít.  Trong thành này, vua Đavít đã nhận được sự tấn phong thiêng liêng: không bằng dầu nhưng bằng quyền năng Chúa Thánh Thần (Mt 1:18, 20). Các dân tộc, bấy giờ đi lên thành phố này, được đại diện bởi các vị Đạo sĩ, đến chiêm bái Đức Êmmanuel, Đấng Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, và để có được trải nghiệm của sự bình an và đức tin.

b)  Biểu tượng cuộc hành trình của các vị Đạo sĩ:

i)  Một cuộc hành trình vất vả với nhiều khó khăn, nhưng cuối cùng cũng đạt đến thành công

Động lực thúc đẩy cuộc hành trình của họ là sự xuất hiện của một ngôi sao, được nối kết với sự ra đời của một vị vua mới:  “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện”.  Ở đây, ngôi sao chỉ là một dấu hiệu, một chỉ dấu thông tri với các vị Đạo sĩ ý tưởng bắt đầu cuộc hành trình.  Khởi thủy, có lẽ họ đã bị thúc đẩy bởi tính tò mò, nhưng sau đó việc này đã trở thành một ước muốn tìm kiếm và khám phá.  Thực sự là dấu hiệu của ngôi sao đã đánh động người ta và thúc đẩy họ đi tìm câu trả lời:  có lẽ là một niềm mong ước sâu sắc chăng?  Ai mà biết được!  Bài Tin Mừng cho thấy các vị Đạo sĩ có một câu hỏi trong lòng, và không hề ngại ngùng lặp lại nó, thậm chí nó còn làm cho họ trở thành lạc lõng: “Vua dân Do Thái ở đâu?”
Họ đặt câu hỏi đó với vua Hêrôđê và, một cách gián tiếp, với thành Giêrusalem.  Câu trả lời được đưa ra bởi những người chuyên môn, các thượng tế, các kinh sư:  thật là cần thiết phải đi tìm cho được vị vua mới ở Bêlem của xứ Giuđa, bởi vì đây là lời tiên tri của ngôn sứ Isaia:  “Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, trong đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh.  Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta” (Mt 2:6).  Lời tiên tri đến để giải quyết những khó khăn của các vị Đạo sĩ:  Lời của Chúa trở thành ánh sáng cho cuộc hành trình của họ.
Với sức mạnh của dữ kiện đó, được trích từ lời tiên tri của ngôn sứ Isaia, và được an ủi bởi sự tái xuất hiện của ngôi sao, các Đạo sĩ một lần nữa lại lên đường tiếp tục cuộc hành trình của họ với mục tiêu là Bêlem. Ngôi sao dẫn họ đến dừng lại ngôi nhà nơi họ tìm thấy Chúa Giêsu. Thật là lạ vì những người sống tại Bêlem hoặc các vùng lân cận nơi Hài Nhi Giêsu được tìm thấy đã không nhìn thấy dấu hiệu ấy.  Ngoài ra, những người có kiến thức về Kinh Thánh biết tin về sự ra đời của vị vua mới của Israel, nhưng đã không buồn đi tìm Người.  Thay vào đó, câu hỏi của các Đạo Sĩ đã khơi lên trong lòng họ nỗi lo sợ và bối rối.  Một cách dứt khoát, những kẻ rất gần với sự kiện giáng sinh của Chúa Giêsu đã không nhận thức được việc gì đã xảy ra, trong khi đó những người ở rất xa sau khi đã trải qua một cuộc hành trình đầy gian nan, cuối cùng đã tìm thấy những gì họ đang tìm kiếm.  Thế nhưng, trong thực tế, chính mắt những vị Đạo sĩ đã thấy gì:  một Hài Nhi với mẹ Người trong một căn nhà nghèo hèn.  Ngôi sao đã dẫn đường cho họ, như nói ở trên, đã dẫn họ tới một hài nhi đơn sơ và nghèo hèn, Đấng mà họ nhận ra là vị vua của dân Do-thái.
Họ đã quỳ gối sụp lạy Người và dâng tiến Người những lễ vật tượng trưng:  vàng (vì Người là vua); nhũ hương (vì đằng sau bản thể con người của Hài Nhi đó, có sự hiện diện thiên tính của Thiên Chúa); mộc dược (vì Đấng từ trời đã mặc lấy xác loài người, đến để chịu chết).

ii)  Cuộc hành trình của các vị Đạo sĩ:  cuộc hành trình của đức tin:

Không có gì sai lầm khi nghĩ rằng cuộc hành trình của ba nhà Đạo Sĩ là một cuộc hành trình đích thực của đức tin, đó là một cuộc hành trình của những người tuy không thuộc về dân riêng của Chúa, đã tìm thấy Đức Kitô.  Khi bắt đầu cuộc hành trình, luôn luôn có một dấu hiệu đòi hỏi được nhìn thấy ở đó nơi mỗi người sống và lòng quyết tâm.  Các nhà Đạo Sĩ đã tìm kiếm, đã nghiên cứu các tầng trời, trong Kinh Thánh, về Thiên Chúa, và từ nơi có dấu hiệu:  một ngôi sao.  Nhưng để bắt đầu một cuộc hành trình đức tin, nếu chỉ tìm kiếm hoặc học hỏi về các dấu hiệu của sự hiện diện của Thiên Chúa thì chưa đủ.  Một dấu hiệu có nhiệm vụ khơi lên lòng ước ao đòi hỏi một thời gian nào đó để thực hiện, một con đường của kiếm tìm, của đợi chờ.  Lời bày tỏ mà thánh Edith Stein mô tả trong cuộc hành trình đức tin của bà thật có ý nghĩa: “Thiên Chúa là chân lý.  Ai đi tìm kiếm chân lý là đi tìm kiếm Thiên Chúa, dù rằng có chủ đích hay không”.
Một niềm ước ao thực sự gợi lên một câu hỏi.  Trong khi đó, các vị Đạo sĩ đi tìm Đức Giêsu bởi vì trong lòng họ đang có những thắc mắc mạnh mẽ.  Kinh nghiệm được gặp gỡ Đức Giêsu như thế thực sự là một việc khích lệ cho công việc mục vụ:  có nhu cầu không ban đặc ân một giáo lý được tạo bởi những điều chắc chắn hoặc mối quan tâm về việc cung cấp các câu trả lời có sẵn, mà là khơi dậy trong con người ngày nay các câu hỏi quan trọng về những vấn đề cốt yếu của nhân loại.  Đây là những gì mà một vị Giám Mục từ miền trung nước Ý đề nghị trong một lá thư mục vụ:  “Giới thiệu Chúa Kitô và Tin Mừng trong sự nối kết với những vấn nạn căn bản về sự tồn tại của loài người (sống – chết, tội lỗi – sự dữ, công bằng – nghèo khó, hy vọng – vỡ mộng, bác ái – hận thù, sự liên hệ giữa các cá nhân trong gia đình, ngoài xã hội, các mối quan hệ quốc tế, v.v…), để tránh sự nhầm lẫn giữa các câu hỏi về nhân loại và các câu trả lời của chúng ta” (Gm. Lucio Maria Renna).
Câu trả lời, như chúng ta được giảng dạy bởi kinh nghiệm của ba vị Đạo Sĩ, được tìm thấy trong Kinh Thánh.  Và nó không phải chỉ là một câu hỏi về kiến thức trí tuệ hay hiểu biết về nội dung của Kinh Thánh, như trong trường hợp của các vị kinh sư, nhưng về đường đi đến được hướng dẫn bởi lòng mong ước, bởi thắc mắc.  Đối với ba vị Đạo Sĩ, chỉ cần sự chỉ dẫn của Thánh Kinh đã soi sáng họ hoàn thành giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình:  Bêlem.  Ngoài ra, Lời của Chúa cho phép họ thấy trong các dấu hiệu khiêm nhu của một ngôi nhà, của Hài Nhi Giêsu với Đức Maria, mẹ Người, Vua dân Do-Thái, Đấng đang được dân Israel mong đợi.
Các vị Đạo sĩ ngưỡng mộ Người và khám phá ra trong Đức Giêsu là Đấng mà họ đã tìm kiếm đã lâu.  Trên một khía cạnh khác, người đọc rất ngạc nhiên bởi sự chênh lệch giữa những cử chỉ và các món quà dâng tiến của các vị Đạo sĩ và thực tế khiêm tốn hiện diện trước mắt họ; nhưng mặt khác, chắc chắn rằng Hài Nhi mà ba vị Đạo sĩ triều bái chính thực là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ thế gian đang được mong chờ. Và vì thế cuộc hành trình đã trở nên cuộc hành trình của mỗi người đọc của câu chuyện có ý nghĩa này về ba vị Đạo sĩ:  bất cứ ai đi tìm kiếm, dù cho có xa Thiên Chúa cách mấy đi nữa, vẫn có thể tìm thấy Người. Thay vào đó, những ai cho là mình đã biết tất cả mọi sự về Thiên Chúa và tin rằng sự cứu rỗi của họ đã được bảo đảm, thì có nguy cơ bị vong thân khi gặp gỡ Người.  Trong một chương trình giáo lý được tổ chức tại Cologne vào dịp Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới kỳ thứ 20, đức Tổng Giám Mục Bruno Forte đã phát biểu như sau:  “Ba vị Đạo sĩ đại diện cho tất cả những ai đi tìm kiếm chân lý, sẵn sàng để sống cuộc sống của họ như trong một cuộc sống lưu đày, trên đường đi đến cuộc gặp gỡ với ánh sáng đến từ trên cao”.
Ngoài ra, kinh nghiệm của ba vị Đạo Sĩ dạy cho chúng ta biết rằng trong mọi nền văn hóa, trong mỗi con người luôn có những kỳ vọng sâu xa đòi hỏi phải được đáp ứng.  Từ đây bắt đầu cho một trách nhiệm đọc những dấu hiệu của Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử loài người.


5.  Suy Gm

-  Sau khi đọc đoạn Tin Mừng này, tôi đã sẵn sàng để làm sống lại cuộc hành trình của bvị Đạo Sĩchưa?
-  Những điều khó khăn gì bạn đã gặp phải trong sự hiểu biết sâu xa về Đức Giêsu Kitô?  Làm cách nào bạn đã có thể khắc phục được chúng?
-  Trong việc đi tìm kiếm chân lý, bạn có biết cách làm thế nào để tin tưởng, để lên đường và để lắng nghe Thiên Chúa không?
-  Trong ánh sáng của Lời Chúa, bạn có thể thay đổi những gì trong đời sống của bạn? 

6.  Thánh Vnh 72:1-11

Đây là một bài Thánh Vịnh tiến vua, được soạn ra để chào mừng ngày nhà vua đăng quang lên ngai.  Cộng đồng Kitô hữu nguyên thủy đã không có nghi ngờ trong việc được trông thấy hình ảnh Đấng Mêssia trong thân phận con người.  
Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.

Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân.
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!

Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.

Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, và Saba,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.

Bài ca tụng Chúa

Chúng con chúc tụng vinh quang Đức Chúa Cha,
danh thánh Chúa uy linh cao cả;
cùng với Chúa Con và Chúa Thánh Thần
luôn mãi vinh quang đến muôn thuở muôn đời.

7.  Li nguyn kết

Xin vâng, Amen!
Ôi lạy Chúa Cha, Chúng con nói lời đó với Chúa,
với tất cả tâm tình chúng con
hòa đồng với tâm tình của Con Cha
và của Đức Trinh Nữ Maria.
Chúng con nói với toàn thể Hội Thánh
và cho cả nhân loại.
Xin hãy ban cho chúng con, đang tập họp với nhau trong tình yêu,  
sau lời “xin vâng” trong giờ của thập giá
chúng con có thể trong cùng một tiếng nói thống nhất,
trong một ca đoàn mạnh mẽ,
trong một sự huy hoàng nói không nên lời,
hát bài ca này đến muôn đời
trên Thiên Đàng tôn nghiêm
Amen! Alleluia!
(Nt Anna Maria Canopi)
 www.dongcatminh.org


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét