Lễ Hiển Linh
Bài Ðọc I: Is 60, 1-6
"Vinh quang Chúa xuất
hiện trên ngươi".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Hãy đứng lên, hãy toả sáng
ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng
dậy trên mình ngươi.
Kìa tối tăm đang bao bọc địa
cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì
vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự
sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.
Hãy ngước mắt lên chung
quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với
ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy
từ khắp bên hông.
Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và
ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho
tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi.
Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ
Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và
họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 71, 2. 7-8.
10-11a. 12-13
Ðáp: Lạy Chúa, mọi dân tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa (x. c.
11b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban
quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để
người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính
trực. - Ðáp.
2) Sự công chính và nền hoà
bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không
còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến
tận cùng trái đất. - Ðáp.
3) Vì người sẽ giải thoát kẻ
nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ.
Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ
cùng khổ. - Ðáp.
4) Chúc tụng danh người đến
muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất
hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 3, 2-3a. 5-6
"Bây giờ được tỏ ra
rằng các dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa".
Trích thư Thánh Phaolô Tông
đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, (chắc) anh
em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh
em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con
cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các
thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin
Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần
với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 2, 2
Alleluia, alleluia! - Chúng
tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đã đến để triều
bái Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 2, 1-12
"Chúng tôi từ phương
Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại
Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương
tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang
ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi
đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả
Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và
luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng:
"Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi
nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì
của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi
Israel dân tộc của Ta".
Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập
mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua
đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về
Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều
bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở
Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở.
Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp
thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi,
mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và
khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về
xứ sở mình.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Ba nhà đạo sĩ đã theo ánh sao
lạ tiến về hang Bêlem. Trong niềm hân hoan, họ mong gặp được vị vua Do thái mới
sinh để triều bái Người.
Cuộc sống của mỗi người, mỗi
gia đình chúng ta là một cuộc hành trình tiến về nhà Cha. Ðức Giêsu vẫn là ánh
sao lạ đã và đang đi trước chúng ta. Chúng ta vui sướng bước theo Ngài, nghe
tiếng Ngài dạy bảo. Nhưng có những lúc dường như ngôi sao ấy biến đi khiến
chúng ta phải lao đao lo sợ. Hãy kiên trì chờ đợi trong niềm tin.
Cầu Nguyện:
Lạy Cha, xưa Cha đã dùng ánh
sao lạ mà dẫn ba vua đến Bê lem bái thờ con Cha. Hôm nay xin Cha khơi dậy nơi
tâm hồn chúng con khao khát tìm gặp được ánh sao lạ, là Ðức Giêsu con Cha, để
chúng con bước đi theo Ngài về bên Cha trong an bình và niềm vui. Chúng con cầu
xin, nhờ Ðức Giêsu, Chúa chúng con. Amen.
(Vertas Asia)
Tin
Mừng cho lương dân
Suy Niệm:
Chúa Nhật Lễ Hiển Linh
Chúng ta đọc: Isaia 60,1-6
Thư Êphêsô 3,2-3a.5-6
Tin Mừng Matthêô 2,1-12
Lễ Hiển linh ngày nay không
còn long trọng như ngày trước. Nó không còn là cao điểm có nhiều Chúa Nhật theo
sau làm thành một mùa phụng vụ Hiển linh nữa. Nay, Hiển linh chỉ còn là lễ sau
hết của mùa Giáng sinh. Và như thế cũng dễ hiểu. Vì Hiển linh là gì, nếu chẳng
phải là việc Ðấng Linh thiêng tỏ hiện ra? Thế mà còn việc tỏ hiện nào rõ rệt
hơn chính Ðấng Linh thiêng mặc lấy xác thịt sinh ra làm người? Giáng sinh là
Hiển linh vậy.
Tuy nhiên, lễ Hiển linh hôm
nay cũng có một đối tượng rõ rệt. Nó nói đến việc Thiên Chúa Giáng sinh làm
người tỏ mình ra cho dân ngoại, cũng như Người đã tỏ mình ra cho dân Dothái khi
gọi mục đồng đến thờ lạy và khi để cho ông Simêon và bà Anna nhìn thấy Người
nơi Ðền thờ. Lễ Hiển linh nằm trong mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ bản tính thần linh
của Người ra cho mắt phàm của loài người chúng ta được nhìn thấy Người. Nhưng
những kẻ được nhìn thấy Người hôm nay không phải là dân Dothái nữa, mà là các
dân ngoại. Và điều này được cả ba bài đọc Kinh Thánh của Phụng vụ Thánh lễ hôm
nay đồng thanh nói lên.
1. Isaia Ðã Tiên Báo Mầu
Nhiệm Này
Bài sách của ông ngày nay
được thẩm định như một bản văn khởi hứng vào mùa thu năm 520. Dân Dothái mới
được phép hồi hương. Ðoàn người đạo đức về trước đã lập lại được bàn thờ ở
Yêrusalem và đang xây dựng lại cả ngôi thánh đường ngày trước. Ai ai cũng phấn
khởi. Dịp lễ Trại càng nô nức hơn nữa. Có lẽ chính bối cảnh đó đã khởi hứng cho
tác giả của đoạn tiên tri hôm nay.
Ông nhìn vào các tường thành
đang mọc lên và ông thốt ra lời phấn khởi: hãy vùng đứng, hỡi Yêrusalem; vì ánh
sáng của Thiên Chúa cứu độ đã tỏa xuống trên ngươi. Hết rồi các thời ngươi bị
nhục nhã tiêu điều trong cảnh lưu đày.
Ngược lại, kìa xem các dân
tộc đang tối tăm trong gió bụi. Bàn tay Thiên Chúa đang đè nặng trên họ. Còn
ngươi, bây giờ bình an đang xây lại giao ước với Thiên Chúa tín thành... Người
mà vùng lên trong chiều hướng này thì rõ ràng các Lời Thiên Chúa cùng tổ phụ
chúng ta sẽ thực hiện. Mọi dân đang đi trong tối tăm lầm lạc sẽ nhìn thấy ánh
sáng chiếu trên ngươi mà tuôn đến. Họ đem theo cả con cháu ngươi đã phân tán
trong thời lưu lạc trở về. Họ mang nhiều thổ sản đến dâng lễ cho Thiên Chúa.
Như vậy tác giả đã căn cứ vào
thực tại để nói lên niềm tin vào tương lai theo như lời Chúa hứa. Lời của ông
đúng thật là lời tiên tri, theo nghĩa tiên báo về thời sau hết, khi mọi Lời Hứa
được thực hiện. Do đó nó vượt xa hơn cả thời thiên sai nữa, nếu ta hiểu thời
này là lúc Chúa Cứu thế sinh ra trong xác thịt. Nó nói về thời cánh chung, khi
mọi sự được hoàn tất. Và như thế, tác giả sách Khải huyền thật có lý khi mượn
lại những lời tiên tri hôm nay để nói về Yêrusalem trên trời (21,9-27).
Nhưng không thể có Yêrusalem
trên trời trước khi có Yêrusalem dưới đất. Không phải Yêrusalem "hình
bóng" nơi dân Dothái mà là Yêrusalem "chân thật" là Hội Thánh
chúng ta.
Do đó, lời tiên tri hôm nay
cũng đưa về Hội Thánh đang trên đường lữ thứ trần gian, Hội Thánh mà Công đồng
Vatican 2 đã tuyên xưng là "ánh sáng muôn dân". Và trong thực tế, Hội
Thánh này đang quy tụ muôn dân muôn nước, mà trước đây là dân ngoại. Hội Thánh
đã được ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi ngay từ hôm Thánh Thần hiện xuống. Các
dân tộc bắt đầu đến với Hội Thánh ngay từ hôm đó. Sự hiện diện của Hội Thánh ở
giữa thế giới nói lên rằng lời tiên tri Isaia đang được thực hiện.
Và như thế là nhờ ở ánh sáng
của Thiên Chúa cứu độ đang tỏa trên Hội Thánh như mây sáng phủ trên Lều Giao
ước trên đường đi giữa sa mạc. Vì nếu không có "Chúa ở với Hội Thánh hằng
ngày cho đến tận thế", Hội Thánh không thể quy tụ được muôn dân nước như
vậy. Chính Ðức Yêsu, Con Thiên Chúa giáng trần làm người đã đem ánh sáng mới
vào thế gian và đặt nơi Hội Thánh. Chính Người sau khi tử nạn và phục sinh đã
tuôn đổ Thánh Thần xuống dưới hình lưỡi lửa để Hội Thánh trở thành ánh sáng
muôn dân.
Và như thế lời Isaia nói về
Yêrusalem ở thời cánh chung cũng như trong giai đoạn lữ thứ trần gian, cuối
cùng phải căn cứ vào việc Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh trong xác thịt để tỏ
vinh quang Thần tính cho thiên hạ được thấy. Phụng vụ có lý để đọc bài tiên tri
này trong ngày lễ hôm nay. Và chúng ta được khuyến khích nhìn vào con trẻ thành
Bêlem như là cứu tinh các dân tộc, vì Người thật là ánh sáng chiếu trong Hội
Thánh.
2. Thánh Mátthêu Nhìn Thấy
Mầu Nhiệm
Người diễn tả mầu nhiệm trong
bài Tin Mừng hôm nay. Bề ngoài người như muốn thuật truyện, nhưng thật ra người
đã mượn truyện để nói lên niềm tin Ðức Yêsu là ánh sáng muôn dân và là nhà của
Người là Hội Thánh sẽ tập họp muôn nước. Chính vì vậy mà câu truyện người kể có
nhiều thiếu sót về văn chương khiến hậu thế đã tìm cách bổ sung bằng nhiều ý
kiến khác thường.
Người ta muốn xác định có
những vị vua từ Batư tới mang theo các lễ vật để dâng Chúa. Vìcó vàng, hương và
mộc dược nên hãy quy định họ là phái đoàn 3 người cho tiện. Ðàng khác, con số 3
này lại nhắc nhở tới 3 người con Noe là tổ phụ của tất cả loài người sau nạn
lụt. Họ có thể đã từ Batư tới bởi vì năm 614 khi quân đội nước này đến tàn phá
thánh địa họ đã kính trọng đền thờ ở Bêlem vì trong đó có họa những người mặc y
phục Batư đến thờ lạy Hài nhi. Nhưng nếu như vậy thì không nên coi họ là vua
cho dù danh từ hợp với những câu thánh vịnh (72,10) nói rằng: "Vua Chúa
Tarsis và các đảo sẽ kiệu đến lễ vật; Vua Chúa Sêba và Saba sẽ đem triều cống
lại chầu". Ở Batư không có nhiều vua cùng một lúc, nhưng lại có nhiều đạo
sĩ, cũng là những nhà hiền triết thông thạo Kinh Thánh Batư và thường được các
hoàng đế Batư thỉnh vấn. Nabuchodonosor khi đến Yêrusalem (Yr 39,3-13) cũng đem
theo một vị đạo sĩ như thế để bàn hỏi.
Nhưng tất cả những yếu tố đó
không quan trọng đối với thánh Matthêu. Người chú trọng giới thiệu Ðức Yêsu là
Cứu thế, Ðấng mà ở thời thánh Matthêu, người Dothái không chịu công nhận đang
khi các dân ngoại gia nhập Hội Thánh. Thế nên vai trò chính trong câu truyện là
những con người đến từ phương Ðông và các tư tế ở Yêrusalem. Dân ngoại nhờ
đường lối tự nhiên đã khởi sự tìm ra Chúa; trong khi dân Dothái có sách Thánh
mà không biết đến Người. Nói đúng hơn, dân ngoại cũng phải nhờ người Dothái
công bố sách Thánh thì mới thành công trong việc đi theo đường lối tự nhiên,
bởi vì ơn cứu độ bởi dân Dothái mà đến. Nhưng dân này đọc sách Thánh mà không
hiểu, đang khi chỉ một vài chỉ dẫn của Thánh Kinh đã giúp được dân ngoại lên
đường gặp Chúa.
Ở đây nói cho đúng không phải
là lời sách Isaia mà là lời tiên tri Mikê, cũng đồng thời với Isaia. Mikê thấy
dân Chúa đang hoảng hốt trước sức mạnh xâm chiếm của ngoại bang (Assyria), ông
được lệnh an ủi và củng cố dân... Không có gì phải sợ tên "Gôliát"
ấy, vì Chúa sẽ cho xuất hiện một Ðavít mới từ Bêlem, làng nhỏ xíu của đất Yuđa.
Như vậy thì Bêlem đâu có nhỏ nữa; nên thánh Matthêu mới đổi lại câu và viết:
Bêlem hẳn không phải là nhỏ nhất trong hàng bộ lạc Yuđa. Thánh Matthêu nghĩ đến
Chúa Yêsu sinh ra ở Bêlem, Người sẽ làm lớn vì sẽ chăn dắt Israel Dân Chúa.
Các đạo sĩ sẽ nhận ra Người
khi nghe lời Kinh Thánh mà tiếp tục cuộc hành trình đã khởi sự từ phương Ðông.
Ngôi sao lạ lại xuất hiện dẫn đường. Chính nó đã khiến họ biết có một vị cứu
tinh hay cứu thế đã ra đời, vì người xưa vẫn quan niệm đời những nhân vật xuất
chúng thường gắn liền với một vì sao. Chúa cho họ thấy một sao lạ hiện ra ở
trên trời. Họ đinh ninh ngay rằng đó là ngôi sao của một vị cứu tinh mới. Chúa
dùng đường lối tự nhiên, phù hợp với họ, để đưa họ lên đường cứu rỗi. Họ đến
Yêrusalem. Ðiều này làm chứng nỗi chờ mong vị cứu thế ở trong dân Chúa đã được
những dân tộc chung quanh nghe biết. Họ hỏi vua Hêrôđê. Nhưng nơi dân Chúa,
muốn biết chân lý phải đọc Thánh Kinh Lời Chúa sẵn đó, nhưng phải thi hành, có
đi đến Bêlem mới gặp; chứ không cố gắng như các luật sĩ ở lại Yêrusalem thì
chẳng bao giờ nhìn thấy ánh sáng cứu độ đã tỏa xuống trên Yêrusalem mới là Hài
nhi thành Bêlem và Hội Thánh mới mẻ của Người.
Như vậy, thánh Matthêu đã có
nhiều ẩn ý khi viết bài Tin Mừng hôm nay. Ðó là Tin Mừng cho lương dân và đúng
hơn cho Hội Thánh của Chúa Yêsu. Ngược lại nó gây lo lắng buồn phiền cho
Yêrusalem cũ, là những người Dothái không đón nhận Chúa Yêsu. Ðúng như Yoan
viết trong chương mở đầu sách Tin Mừng thứ tư: "Người đã đến trong nhà
Người mà gia nhân của Người đã không tiếp nhận. Còn ai tiếp nhận thì Người đã
ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa... Và chúng tôi đã được ngắm vinh quang của
Người".
Ðiều này cũng là ý của bài
thơ Phaolô hôm nay. Theo người: mầu nhiệm trong các thế hệ trước chưa hề thông
tri cho con cái loài người, thì nay đã được mạc khải ra: ấy là dân ngoại cũng
là kẻ thừa tự, là thân mình, và đồng hưởng lời hứa trong Ðức Yêsu Kitô nhờ Tin
Mừng.
Nhưng không thể Phụng vụ hôm
nay chỉ nói lên mầu nhiệm đó để Hội Thánh tạ ơn và để chúng ta biết mình đã
được Chúa thương kêu gọi từ dân ngoại vào hưởng gia nghiệp Dân Chúa. Bài sách
Isaia đã căn cứ vào thực tại nhưng muốn người ta nhìn xa hơn cho đến tận cùng
lịch sử. Phụng vụ hôm nay cũng khuyên chúng ta hướng mắt về thời cánh chung mà
vùng lên, bừng sáng lên để lôi cuốn, chỉ đường cho các dân tộc xây dựng ngày
mai tươi sáng. Ý tưởng của bài thư Phaolô cũng vậy. Thánh Tông đồ viết ra để
thúc đẩy chúng ta nhiệt tình với công cuộc truyền giáo. Và bài Tin Mừng rõ ràng
khuyến khích mọi người lên đường tìm Chúa theo gương các đạo sĩ.
Chúng ta sẽ thành thật tham
dự mầu nhiệm Hiển linh này, nếu sau khi thờ lạy Chúa trong Phụng vụ chúng ta
cũng vươn lên, bừng sáng, tức là có nếp sống tốt đẹp hơn, để soi sáng cho người
khác biết Chúa; chúng ta cũng phải lên đường với tha nhân, nêu lên với họ những
câu nói về Chúa. Có khi chính chúng ta sẽ thấy phải rở lại sách Thánh; và lần
này đọc lên chúng ta sẽ hiểu rõ thời điềm, tức là đọc thấy ý Chúa nơi mọi sự
việc xảy đến hằng ngày. Có thể có nhiều ánh sao đang chờ đợi dẫn đưa chúng ta
đến gặp Chúa và đưa người ta đến với Người. Và như vậy, năm nay cũng có một lễ
Hiển linh cho chúng ta.
(Trích dẫn từ tập sách
Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật Lễ Hiển
Linh,
Năm ABC
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Chúa Kitô là ánh
sáng cho muôn dân.
Đứng
trước cùng một biến cố xảy ra, con người có những phản ứng khác nhau, tùy thuộc
vào sự cần thiết và hy vọng của con người: có người dửng dưng, có người đàn áp,
và có người nhiệt thành đón nhận. Biến Cố Nhập Thể của Đức Kitô cũng thế, dù
được báo trước và dặn phải chuẩn bị sẵn sàng, nhiều người Do-Thái vẫn không
chuẩn bị để đón nhận Chúa Cứu Thế; nhưng các Mục-đồng và Ba Nhà Đạo Sĩ từ
phương xa nhiệt thành đi tìm và họ đã tìm thấy Đấng Cứu Thế.
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung vào Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I,
Tiên-tri Isaiah cho thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ ban Ơn Cứu Độ của Ngài như
vinh quang cho Jerusalem và như ánh sáng cho muôn dân. Trong Bài Đọc II, Thánh
Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu của ngài về Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa.
Theo Mầu Nhiệm này, Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái như Dân Riêng để chuẩn bị cho
Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Ngài đến, Ngài sẽ ban Ơn Cứu Độ cho tất cả mọi
người qua niềm tin của họ vào Đức Kitô. Trong Phúc-Âm, Thánh Matthew tường
thuật 3 phản ứng chính của con người khi phải đối diện với Tin Mừng của Đấng
Cứu Thế: thờ ơ lạnh nhạt, lập kế tiêu diệt, và nhiệt thành đi tìm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúa Kitô là vinh quang của Israel và là
ánh sáng cho muôn dân.
1.1/
Sự sáng của Thiên Chúa đã chiếu tỏa trên Jerusalem: “Đứng lên, bừng sáng
lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu
toả trên ngươi.”
Chương
60 của Sách Tiên Tri Isaiah được viết sau thời gian Lưu Đày Babylon; lúc đó
Jerusalem còn là một thành trì hoang phế bởi chiến tranh. Vì thế, đọan văn này
không có ý nói về Thành Jerusalem cách thể lý, nhưng nói về một Jerusalem tinh
thần, tượng trưng cho dân tộc Israel. Người làm cho Jerusalem được đứng dạy,
được bừng sáng, là Thiên Chúa; chứ không phải dân tộc Israel. Ánh sáng và vinh
quang của Đức Chúa đây chính là Ơn Cứu Độ, mà Ngài đã hứa ban cho Jerusalem qua
các Tiên-tri. Ơn Cứu Độ nói tới ở đây không chỉ là việc giải thóat và cho dân
Israel được trở về Jerusalem từ chốn Lưu Đày Babylon; nhưng còn bao gồm cả việc
gỉai phóng Israel khỏi nô lệ của tội lỗi qua Đấng Thiên Sai.
Tác
giả nêu bật sự tương phản giữa ánh sáng của Jerusalem và bóng tối của chư dân
qua câu: “Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên
ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.”
Trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, người Do-Thái quan niệm: chỉ có họ mới là Dân
Riêng của Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng Ơn Cứu Độ; còn tất cả các dân tộc
khác (Dân Ngọai) là những người ngồi trong bóng tối tăm sự chết, và không được
hưởng Ơn Cứu Độ. Bóng tối và mây mù tác giả muốn nói tới ở đây là việc không
biết Thiên Chúa, không biết Ơn Cứu Độ, và không sống theo đường lối của Thiên
Chúa.
1.2/
Chư dân từ khắp nơi sẽ tuôn đến Jerusalem: Nhưng một khi Đấng Cứu Thế tới, mọi sự đều đổi
khác: Ơn Cứu Độ không còn giới hạn trong dân tộc Israel, nhưng mở rộng tới mọi
dân tộc (còn được gọi chung là Dân Ngọai), như viễn tượng mà Tiên-tri Isaiah đã
nhìn thấy hôm nay: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua
chúahướng
về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả
đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi
được ẵm bên hông.” Như đã nói ở trên, ánh sáng của Jerusalem chính là Ơn Cứu Độ
của Thiên Chúa. Ánh sáng này soi tỏa cho các dân tộc trên địa cầu, và mọi người
sẽ tuôn đến Jerusalem tinh thần để được hưởng Ơn Cứu Độ này. Tiên-tri Isaiah
liệt kê các thành phần tiến đến Jerusalem bao gồm: (1) Các vua chúa của các
quốc gia; và (2) các con trai và các con gái. Các người con này không có liên
hệ với Jerusalem bằng máu mủ, nhưng bằng niềm tin vào Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Khi
những điều này xảy ra, Jerusalem sẽ tràn đầy niềm vui như Tiên-tri loan báo:
“Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì
nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với
ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Median và Ephah: tất cả những người
từ Sheba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca
tụng Đức Chúa.” Trong thế giới thời đó, giàu sang được đo lường bằng những đòan
vật, và lạc đà được coi là thú vật có giá trị nhất trong việc di chuyển đồ đạc
qua sa mạc cho các quốc gia vùng Trung Đông. Theo Sáng Thế Ký 25:4, Ephah là
con trai của Midian, và là cháu của Jokshan, cha của Sheba. Sheba ngày nay là
Nước Yemen. Vàng và nhũ hương là 2 món hàng đắt nhất thời bấy giờ. Điều này
chúng ta sẽ đề cập tới trong Phúc Âm, khi Ba Vua dâng những quà này cho Chúa
Hài Đồng.
2/ Bài đọc II: Các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia
nghiệp với người Do-Thái.
2.1/
Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân
sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải
để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây.”
Thánh Phaolô viết Thư này cho các tín hữu Philiphê, khi ngài đang bị cầm tù tại
Rome. Ngài nhắc lại cho họ biết về “kế họach ân sủng” mà Thiên Chúa đã ủy thác
cho ngài. Kế họach này bao gồm hai việc: biến cố trở lại trên đường Damascus và
sứ vụ rao truyền Tin Mừng cho Dân Ngọai được ủy thác cho ngài. Giữa 2 biến cố
này là khỏang thời gian Thánh Phaolô đi vào tĩnh tâm trong sa mạc Arabia, để
được Thiên Chúa mặc khải về mầu nhiệm Đức Kitô cho thánh nhân. Sở dĩ có sự kiện
này là vì Thánh Phaolô đã không được giao tiếp với Đức Kitô như các Tông-đồ
khác khi Chúa Giêsu còn sống trên dương gian.
2.2/
Dân Ngọai cũng được thừa hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa: “Mầu nhiệm này, Thiên
Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người
đã dùng Thánh Thần mà mặc khải cho các thánh Tông-đồ và Tiên-tri của Người. Mầu
nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các Dân Ngoại được cùng thừa
kế gia nghiệp với người Do-Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ
điều Thiên Chúa hứa.” Qua những hàng vắn tắt này, Thánh Phaolô tường thuật cho
chúng ta biết 2 giai đọan chính của Mầu Nhiệm Cứu Độ: (1) Thiên Chúa chọn Dân
Do-Thái là Dân Riêng của Thiên Chúa để được huấn luyện và chuẩn bị cho Đấng Cứu
Thế đến; và (2) Khi Đấng Cứu Thế đến, Ơn Cứu Độ được lan rộng tới mọi người qua
việc rao truyền Tin Mừng và niềm tin của mọi người vào Đức Kitô. Qua việc tuyên
xưng đức tin và chịu Phép Rửa, tất cả cùng được tháp nhập vào thân thể của Đức
Kitô.
3/ Phúc Âm: Con người phản ứng trước ánh sáng của Thiên
Chúa.
3.1/
Con người buộc phải có thái độ trước Tin Mừng về Đức Kitô: Thiên Chúa có thể dùng
ngôi sao dẫn đường cho Ba Nhà Đạo Sĩ một mạch tới Bethlehem, mà không cần phải
đi qua Jerusalem; nhưng để cho mọi người cư ngụ tại Jerusalem có cơ hội đồng
đều để lắng nghe Tin Mừng, Ngài làm mất dấu ngôi sao để Ba Nhà Đạo Sĩ phải vào
Jerusalem để loan tin. Thánh Matthew tường thuật: “Khi Đức Giêsu ra đời tại
Bethlehem, miền Judah, thời vua Herode trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương
Đông đến Jerusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do-Thái mới sinh, hiện ở đâu?
Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến
bái lạy Người." Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem
cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các Thượng-tế và Kinh-sư trong dân
lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại
Bethlehem, miền Judah, vì trong sách Tiên-tri, có chép rằng: "Phần ngươi,
hỡi Bethlehem, miền đất Judah, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Judah, vì
ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời."
3.2/
Ba phản ứng của con người trước ánh sáng: Đứng trước Tin Mừng được loan báo bởi Ba Nhà Đạo
Sĩ, chúng ta tổng hợp được 3 thái độ chính của con người:
(1)
Thái độ thờ ơ của Dân Thành Jerusalem cách chung và của các Thượng-tế và các
Kinh-sư nói riêng: Thánh Matthew ám chỉ Dân Thành biết biến cố Chúa Cứu Thế ra đời
trong câu: “Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn
xao.” Họ xôn xao để tìm ra nơi chốn sinh ra của Đấng Cứu Thế, rồi âm thầm lên
giường đắp chăn ngủ tiếp! Họ có thể sợ vì trời tối, đường xa, và lạnh lẽo;
nhưng đơn giản là vì họ đã có mọi thứ và không cần tới Đấng Cứu Thế. Các
Thượng-tế và các Kinh-sư mang tội nặng hơn, vì họ là những người thông hiểu
Kinh-Thánh và sự cần thiết của việc Đấng Cứu Thế đến; nhưng họ dùng Kinh-Thánh
để tìm ra và chỉ đường cho người khác đến gặp Ngài; phần họ, gấp sách lại và từ
chối không lên đường đi tìm Ngài.
(2)
Thái độ muốn tiêu diệt ánh sáng của Vua Herode: Bấy giờ Vua Herode bí mật vời các nhà
chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các
vị ấy đi Bethlehem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài
Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy
Người." Đã không tiếp nhận ánh sáng, Vua Herode còn toan tính tiêu diệt
ánh sáng. Trong cuộc đời, chúng ta cũng gặp nhiều thái độ như Vua Herode. Họ
muốn tiêu diệt ánh sáng vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những ích kỷ, toan tính, và
những xấu xa trong tâm hồn của họ.
(3)
Thái độ nhiệt thành đi tìm ánh sáng của Ba Nhà Đạo Sĩ: Trớ trêu thay cho dân
tộc Do-Thái, họ trông chờ từng ngày từng giờ và chuẩn bị cho việc đón Đấng Cứu
Thế ra đời; nhưng khi Người xuất hiện, lại chỉ có Ba Nhà Đạo Sĩ là những người
Dân Ngọai, từ phương trời xa xôi đi tìm Người theo dấu một vì sao. Họ không sợ
đường xa, trời tối, nguy hiểm, gió lạnh mùa Đông, và nhất là theo dấu một vì
sao mong manh. Họ không nản lòng khi mất dấu ngôi sao, họ vào Thành Jerusalem
với hy vọng sẽ tìm được Ngài trong lịch sử. Và khi được hướng dẫn của Kinh
Thánh (Micah 5:1), họ lại tiếp tục lên đường. Họ mừng vui khi thấy ngôi sao tái
xuất hiện, và họ đã thấy Hài Nhi. Mở túi hành trang ra, họ dâng 3 lễ vật quí
giá nhất cho Hài Nhi: vàng chỉ sự thần phục Hài Nhi là Vua; nhũ hương chỉ sự
thần phục Hài Nhi là Chúa; mộc dược tiên báo trước Cuộc Thương Khó và cái chết
của Hài Nhi. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Herode nữa, nên
đã đi lối khác mà về xứ mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thiên Chúa đã tỏ tình thương qua việc ban Người Con Một của Ngài cho chúng ta,
phản ứng của chúng ta làm sao khi lãnh nhận Tin Mừng này?
-
Chúng ta có hăng hái nhiệt thành lên đường đi tìm Ngài, hay ngại ngùng phải rời
bỏ ốc đảo bình an của chúng ta vì sợ nguy hiểm, tốn thời gian, và lười biếng?
-
Rất nhiều lần chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và ánh sáng, không phải vì
chúng ta không biết đó là sự thật hay ánh sáng; nhưng chúng ta sợ: nếu chấp
nhận sự thật, chúng ta phải sống điều sự thật đòi hỏi; nếu phải đến gần ánh
sáng, chúng ta phải bỏ những tội lỗi mà chúng ta đã quá quen thuộc!
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Lễ Hiển Linh
Sứ điệp: Các vị đạo sĩ chân
thành tìm kiếm vị cứu tinh và đã gặp được Ngài. Muốn gặp được Chúa trong cuộc
sống, mỗi người chúng ta cần theo gương các đạo sĩ: thành tâm, kiên trì, quả
cảm, bỏ ý riêng và tư lợi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, vua Hêrôđê và
những người thuộc lòng Kinh Thánh trong đền vua đã không nhận biết Chúa là Đấng
cứu tinh. Trong khi đó, thật vinh dự và an ủi cho các đạo sĩ: họ chân thành đi
tìm Chúa và họ đã gặp được Chúa. Con chiêm ngắm các nhà đạo sĩ trên đường đến
với Chúa: họ đã hy sinh tất cả. Họ chẳng quản vất vả. Họ không thỏa mãn với địa
vị đang có. Họ không kiêu căng tự mãn với cuộc sống. Họ không sống ích kỷ. Họ
chân thành tìm Chúa để thờ lạy Chúa. Họ không hề có một ác ý nào trong việc tìm
Chúa. Con trông thấy các đạo sĩ đang rong đuổi cách trung thành theo ánh sao
trời để tìm Chúa. Con nhận ra các đạo sĩ đang vâng lời tuyệt đối. Họ đi con
đường ngôi sao dẫn họ. Có lúc lý trí cũng soi dẫn họ: họ nghĩ Chúa phải sinh ra
trong hoàng cung. Nhưng làm theo lý trí, họ đã không tìm ra Chúa. Họ phải nhờ
Thánh Kinh để nhận ra Chúa.
Lạy Chúa, cuộc đời con cũng là cuộc hành trình
tìm Chúa. Ánh sáng Chúa vẫn dẫn con mỗi ngày mỗi đêm. Đó chính là những lời dạy
dỗ của Chúa trong Kinh Thánh. Chúa đang dẫn con từng bước qua lời dạy dỗ của
Giáo Hội như ánh sao đặc biệt. Các đạo sĩ đã nhận ra Chúa vì họ đã nỗ lực tìm
Chúa. Con cũng thế, con quyết tâm nỗ lực ngày đêm tìm Chúa. Con cũng muốn như
các đạo sĩ quên mình và bất chấp mọi khó khăn đến với Chúa trong Bí tích Thánh
Thể. Con quyết tâm cố gắng mỗi ngày nhận ra Chúa nơi anh em con, nhất là nơi
những người nghèo đói bệnh tật. Đây không phải là chuyện dễ, Chúa ơi. Xin Chúa
Hài Đồng giúp con. Con sợ lòng kiêu căng và sự tự mãn làm con mù quáng và không
gặp được Chúa như vua Hêrôđê và các nhà thông thạo Kinh Thánh, nhưng con chân
thành chạy đến với Chúa. Xin Chúa giúp con. Amen.
Ghi nhớ: "Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
www.phatdiem.org
06/01/13 CHÚA
NHẬT LỄ HIỂN LINH - C
Mt 2,1-12
Mt 2,1-12
VẤN NẠN CHO NGƯỜI KI-TÔ HỮU
Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua
Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, và hỏi
:"Đức vua Do-Thái mới sinh hiện đang ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của
Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." Nghe
tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem xôn xao. (Mt 2,1-3)
Suy niệm: Thật là một điều nghịch lý: Dân
Do Thái từ lâu đã trông đợi Đấng Cứu Tinh, họ đã được các ngôn sứ tiên báo, thế
mà khi Ngài đến, họ đã không dành nổi cho Ngài một chỗ ở giữa họ, lại còn bối
rối xôn xao vì sự xuất hiện của Ngài. Đau đớn thay, họ nắm giữ kho tàng mạc
khải mà lại không nhận ra Ngài! Trong lúc ấy, các nhà chiêm tinh đại diện cho
thế giới của lương dân chỉ biết lần theo dấu chỉ tự nhiên lên đường tìm kiếm: “Đức vua Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu?” Họ muốn biết để đến thờ lạy
Ngài. Hài Nhi mới sinh đó có tầm quan trọng quyết định với cuộc đời họ. Vì thế,
họ không ngần ngại chấp nhận một cuộc phiêu lưu đường dài với niềm khao khát
gặp gỡ. Cuộc dấn thân của họ càng làm cho câu hỏi họ đặt ra thêm nặng ký.
Mời Bạn: Bạn có cảm thấy thán phục thiện
chí và nỗ lực của những người thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và gia nhập Hội
Thánh? Phần chúng ta, bối rối, xôn xao như Hêrôđê hay thao thức với sứ mệnh
truyền giáo cho lương dân?
Chia sẻ: Chia sẻ kinh nghiệm nhận biết
Chúa qua những dấu chỉ tự nhiên.
Sống Lời Chúa: Bạn hãy cầu nguyện cho một gia
đình lương dân, và giúp họ nhận biết Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa xin cho con luôn thao
thức với việc tìm kiếm Chúa và loan báo Tin Mừng cho lương dân.
www.5phutloichua.net
NGÔI SAO DẪN ĐƯỜNG
Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của
bạn, đưa bạn vào sự bấp bênh, mong manh, để rồi cuối cùng bạn gặp được sự vững
vàng trong Chúa.
Suy niệm:
Ðoạn Tin
Mừng trên nói về các nhà chiêm tinh dân ngoại theo ánh
sao mà tìm đến bái yết Hài Nhi
Một loạt câu hỏi thường được
đặt ra hôm nay. Làm sao một ngôi sao có thể dẫn đường cho
họ đi?
Nếu đó là một ngôi sao sáng lạ
lùng thì tại sao thành Giêrusalem lại không nhận
biết?
Bởi đâu ngôi sao lại không đi
thẳng tới Bêlem? Có tin được chuyện ngôi sao ngừng lại trước
cửa nhà không? Các câu hỏi trên đều xoay quanh ngôi sao
lạ. Một ngôi sao như thế có thật không
hay đây chỉ là một truyền
thuyết?
Thánh
Mátthêu đã viết đoạn Tin Mừng này theo một thể văn
đặc biệt của người Do Thái. Chúng ta không nên hiểu mọi chi tiết theo
nghĩa đen. Ðiều quan trọng không phải là có một ngôi
sao lạ, một ngôi sao thông minh biết dẫn lối chỉ
đường. Ðiều quan trọng là điều Mátthêu muốn nói
với ta: Ðức Giêsu không phải chỉ là Mêsia cho dân
Do Thái, Ngài còn là Ðấng Cứu Ðộ cho cả nhân loại.
Các nhà
chiêm tinh là dân ngoại. Họ đại diện cho mọi dân tộc, cho chính
chúng ta. Họ khao khát tìm ơn cứu độ. Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ, họ nghe thấy lời mời gọi lên đường. Chấp nhận
lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả và bước đi trong
đêm tối. Các nhà chiêm tinh không dựa vào điều gì
khác ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ. Cần có đức tin cứng cáp mới dám dựa vào
một dấu chỉ mong manh như thế. Cũng cần có đức tin mạnh mẽ mới dám tin rằng vị vua mới sinh đang khiêm tốn
sống trong một ngôi nhà ở Bêlem,
chứ không uy nghi ngự giữa
hoàng cung lộng lẫy. Cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng nào mới có thái độ sấp mình bái lạy trước Hài Nhi, và tiến dâng lễ vật quý giá.
Thiên Chúa
vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một
của Ngài là Ðức Giêsu Kitô.
Ngài vẫn không ngừng cho những
ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao, mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người chúng ta phải trung thành với ánh sáng đó, và bước vào cuộc hành trình đức tin đầy mạo hiểm, như các nhà chiêm tinh ngày xưa.
Ðôi khi
chúng ta có nét giống Hêrôđê, sợ hãi bối rối trước sự xuất hiện của Ðấng
Cứu Ðộ.
Hãy để Chúa làm lung lay ngai
vàng của bạn, đưa bạn vào sự bấp bênh, mong manh, để rồi cuối cùng bạn gặp được sự vững vàng trong Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt
trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên
mặt đất. Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự
và cũng là một trách nhiệm
nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng. Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con. Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
Tháng Giêng
6 THÁNG GIÊNG
Tiếng Gọi Của Lễ Hiển
Linh
“Mầu
nhiệm này tôi đã được mạc khải cho biết” (Ep 3,3). Giáo Hội lấy những lời ấy của
Tông Đồ Phao-lô trong thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô để nhận hiểu ý nghĩa của ngày
Lễ Hiển Linh (Epiphany), ngày lễ này đã được gọi tên như thế ngay từ thuở đầu
của Giáo Hội. Chúng ta muốn suy tôn ân sủng của Thiên Chúa trong ngày lễ này,
ân sủng dẫn con người đến với đức tin.
Vâng,
mầu nhiệm Đức Kitô được vén mở cho con người nhận biết qua đức tin. Đây là cốt
lõi của ngày Lễ Hiển Linh. Bằng một cách thức nào đó, đức tin này được mạc khải
vào tâm khảm của kẻ nhận thần khải, như ngày ấy Đức Giêsu đã tự tỏ hiện cho
Sao-lô người Tarsus trên đường đi Damas. Thế là, Phao-lô trở thành một chứng
nhân đặc biệt nhờ cuộc trở về đón nhận đức tin. Như chính Phao-lô tuyên bố: “…
anh em nghe nói đến ân huệ mà Thiên Chúa đã ưu ái ban cho tôi vì thiện ích của
anh em” (Ep 3,2).
Thánh
tông đồ muốn làm chứng hùng hồn cho ân sủng Hiển Linh. Và Giáo Hội lấy lại lời
của Thánh tông đồ, vì trong lời chứng ấy chúng ta có thể nhận ra tất cả những
ai được Đức Kitô kêu gọi qua đức tin. Tất cả những ai tin đều trở thành “người
thông dự vào lời hứa của Đức Giêsu Kitô qua Tin Mừng” (Ep 3,6). Thánh Phao-lô
muốn nhấn mạnh với chúng ta tiếng gọi giục giã loan báo Tin Mừng cho dân ngoại
– vì chúng ta là những người đã tin. Đó là tiếng gọi đem ánh sáng mạc khải của
Thiên Chúa đến cho các dân tộc. Đó là tiếng gọi của ngày Lễ Hiển Linh.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by
Pope John Paul II
do nhà Servant
Pubns xuất bản, 1994.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa nhật Chúa Hiển
Linh;
Is 60, 1-6; Ep 3, 2-3a.5-6; Mt 2,
1-12.
LỜI
SUY NIỆM: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê,
thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và
hỏi: Đức Vua dân Do-Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của
Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2).
Từ thời các tổ phụ của dân tộc Do-Thái, đã nhận được lời hứa từ Thiên Chúa là:
Ngài sẽ cho xuất hiện một Đấng Giải Thoát để cứu dân tộc này. Nên dân Do-Thái
đã có một sự chuẩn bị rất chu đáo, qua từng giai đoạn lịch sử của họ, đều được
Thiên Chúa gởi những vị ngôn sứ của Ngài đến để loan báo những điều cần thiết
trong cuộc sống, hay răn đe khi dân bê trể, buông thả trong lối sống. Họ luôn
quan niệm Đấng Mêsia là của riêng họ. Nhưng với dấu chỉ các nhà chiêm tinh ở
phương Đông, nhận ra, sự ra đời của Chúa Giêsu, họ đã tìm đến, và đã thờ lạy
Ngài. Cho chúng ta một nhận thức: Chúa Giêsu Ki-tô không là của riêng ai. Ngài
xuất hiện trên trần gian này là để Cứu Độ tất cả mọi người không phân biệt một
ai, hay một dân tộc vùng miền nào kể từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
06 tháng Giêng
Vị Vua Thứ Tư
Hôm nay lễ Ba Vua. Phúc Âm chỉ nhắc đến ba vị
vua. Thế nhưng văn sĩ Joergernen người Ðan Mạch thì lại tưởng tượng ra một vị
vua thứ tư. Vị vua thứ tư này đến chầu Chúa Giêsu sau ba vị vua khác. Triều bái
Hài Nhi Giêsu nhưng mặt ông tiu nghỉu bởi vì ông không còn gì để dâng tặng
Ngài.
Trước khi lên đường, ông chọn ba viên ngọc quý
nhất trong kho tàng của ông, thế những dọc đường gặp bất cứ ai xin, ông cũng
mang ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp là một cụ già rét run vì lạnh.
Ðộng lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ viên ngọc thứ nhất. Ði thêm một đoạn
đường nữa, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông đành mang viên
ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến
vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lính do vua Herôđê sai đi để tàn sát các
hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Vị vua thứ tư đành phải rút ra viên ngọc
cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.
Tìm được Hài Nhi Giêsu, vị vua thứ tư chỉ còn hai
bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình.
Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa
bàn tay bé nhỏ ra đón nhận quà tặng của ông. Nó không phải là vàng bạc châu
báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất
là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ.
Mùa Giáng Sinh là mùa của những bất ngờ. Bất ngờ
của một Thiên Chúa hóa thân làm người. Bất ngờ của một thiên Chúa giáng hạ
trong hang súc vật. Bất ngờ sự việc những người nghèo hèn nhất trong xã hội đã
nhận ra Tin Mừng. Bất ngờ của những người dân ngoại tìm đến triều bái Vua các
vua. Nhưng điều khiến con người sẽ không bao giờ ngờ đến: đó là Ðấng Thiên Chúa
hóa thân làm người ấy lại tự đồng hóa với mỗi một con người sinh ra trên cõi
đời này, nhất là những con người bé mọn nhất trong xã hội. Ngài đã nói: tất cả
những gì các người làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất là các người làm cho
chính Ta. Từ đây, người ta chỉ có thể gặp gỡ được Ngài qua tha nhân. Tất cả
những gì người ta làm cho tha nhân là làm cho chính Ngài. Lễ dâng làm đẹp lòng
Ngài nhất chính là những gì người ta trao tặng cho tha nhân, nhất là những
người nghèo hèn túng thiếu hay bất cứ ai cần sự giúp đỡ.
(Lẽ Sống)
Lectio: Chúa Hiển Linh (C)
Chúa Nhật, 6 Tháng 1, 2013
Cuộc viếng thăm của các vị Vua từ phương Đông
Mt 2:1-12
1. Trong
im lặng trước Thiên Chúa
Lắng nghe Lời Chúa
trong cầu nguyện đòi hỏi sự chú tâm; nó đòi hỏi rằng sự lắng nghe của bạn chỉ
được hướng tới Thiên Chúa mà thôi với tất cả sự sẵn sàng mà tâm hồn bạn có
thể. Phẩm chất lời cầu nguyện tùy thuộc rất nhiều vào sự chú tâm mà
chúng ta dành cho nó. Người ta nói rằng sự chú tâm là “thực chất của
lời cầu nguyện”. Nếu việc tìm kiếm Thiên Chúa của bạn thành khẩn,
chân thành, trung thực, thì bạn sẽ có thể tìm thấy Thiên Chúa. Hôm
nay, trong ngày Chúa Nhật này Chúa được biểu thị như là ánh sáng cho nhân loại,
chúng ta muốn cầu xin Chúa cho có được “sự say mê lắng nghe Lời Người” với
những lời của Thánh Êlisabéth Ba Ngôi: “Ôi lạy Ngôi Lời hằng hữu,
Ngôi Lời của Thiên Chúa con, con ước ao được dành trọn cuộc đời con để lắng
nghe Người, con muốn được hoàn toàn khuất phục để học hỏi tất cả mọi thứ từ
Chúa. Rồi sau đó, suốt mỗi đêm, mọi sự trống vắng, mọi nỗi bất lực,
con luôn luôn ước ao được dồn sự tập trung vào Chúa và ở lại dưới ánh sáng
tuyệt vời của Chúa” (Ngước nhìn lên Thiên Chúa Ba Ngôi, 21 tháng 11
năm 1904).
·
2. Lời Chúa được soi sáng
a) Bối cảnh của
đoạn Tin Mừng
Nếu trong chương đầu
tiên của Tin Mừng Mátthêu ý định của tác giả Phúc Âm là để cho thấy danh tánh
của Đức Giêsu (Chúa Giêsu là ai), thì trong chương thứ hai Mầu Nhiệm của Chúa
Giêsu nhập thể đã được nối vào một số nơi cho thấy sự khởi đầu cuộc sống nơi
trần thế của Người.
Đoạn Phúc Âm phụng vụ
của Chúa Nhật tuần này là phần đầu của chương 2 trong Tin Mừng Mátthêu (2:1-29)
được nối tiếp bởi ba câu chuyện khác: cuộc chạy trốn sang Ai Cập (2:13-15),
việc sát hại các Thánh Anh Hài (2:16-18) và chuyến trở về từ Ai Cập (2:19-23).
Để hiểu rõ hơn về sứ
điệp của bài Tin Mừng trong các câu 1-13, có lẽ sẽ ích lợi hơn nếu chia đoạn
Phúc Âm lễ Chúa Hiển Linh này thành hai phần dựa theo tiêu chuẩn của việc thay
đổi địa điểm: thành Giêrusalem (2:1-6) và Bêlem
(2:7:12). Cũng nên lưu ý rằng tại tâm điểm của câu chuyện Ba Vua
chúng ta thấy một câu trích dẫn từ Kinh Thánh trong đó tập trung vào sự quan trọng
của thành Bêlem trong thời thơ ấu của Đức Giêsu: “Cả ngươi nữa,
hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của
Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel,
dân tộc của Ta” (Mt 2:16).
Hai thành phố tạo nên bối
cảnh cho chuyến viễn du của ba nhà Đạo sĩ và được kết hợp bởi hai mạch của chủ
đề: ngôi sao (các câu 2, 7, 9, 10) và việc triều bái Hài Nhi Giêsu
(2:11).
b) Phúc Âm:
1 Khi Chúa Giêsu sinh hạ
tại Bêlem, thuộc xứ Giuđêa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông
Phương tìm đến Giêrusalem. 2 Các ông nói: “Vua
người Do-Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy
ngôi sao của Người ở Đông Phương, và chúng tôi đến để triều bái
Người.” 3 Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất
cả Giêrusalem cùng với nhà vua. 4 Vua đã triệu tập tất cả
các thượng tế và kinh sư trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ.
5 Họ tâu nhà vua
rằng: “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđêa, vì đó là lời do đấng tiên tri đã
chép: 6 “Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì
ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất
hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta.” 7 Bấy
giờ Hêrôđê ngầm triệu mấy nhà Đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi
sao đã hiện ra. 8 Rồi vua phái họ đi Bêlem và dặn
rằng: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy,
hãy báo tin lại cho trẫm, để cả trẫm cũng đến triều bái Người.” 9 Nghe
nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông
Phương, lại đi trước họ, mãi cho tới khi tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi
ở. 10 Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. 11 Và
khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Đức Maria mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống,
sụp lạy Người. Rồi, mở bảo tráp ra, họ đã dâng tiến Người lễ
vật: vàng, nhũ hương, và mộc dược. 12 Và
khi nhận được lời mộng báo “Đừng trở lại với Hêrôđê”, họ đã qua đường khác, trở
về xứ sở mình.
3. Giây
phút thinh lặng trước Thiên Chúa
Bạn hãy đặt mình trước
Thiên Chúa với sự khiêm cung, ngập chìm trong một sự im lặng nội tâm sâu thẳm;
hãy gạt sang một bên tất cả những tò mò, những suy nghĩ và trí tưởng tượng; hãy
mở lòng bạn cho sự tác động Lời của Chúa.
4. Đọc chăm chú
a) Biểu tượng
ngôi sao:
Ba vua, các Đạo sĩ từ
Đông Phương, thông thạo về khoa thiên văn và tiên đoán được vận mệnh hoặc tương
lai, thường xuyên được vấn kế về các thiên thể. Bấy giờ khi họ đã
đến thành Giêrusalem, họ nói rằng họ “đã nhìn thấy vì sao của Người xuất
hiện”. Chữ “xuất hiện”, từ tiếng Hy-lạp anatolê, khi không có mạo
từ, có nghĩa là Đông Phương hoặc phía Đông (hướng mặt trời mọc); nhưng trong
văn bản tiếng Hy-lạp có mạo từ và chữ này có nghĩa là sự xuất hiện của một vì
sao thực sự và có thật. Điều này được xác nhận bởi lời Kinh
Thánh: “Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ
Israel” (Ds 24:17). Vì sao trở thành biểu tượng của một vị vua mới vừa
được sinh ra và hướng dẫn họ đi đến nơi Người được hạ sinh và được tìm
thấy. Thật thú vị khi lưu ý rằng ngôi sao này không thể thấy được ở
Giêrusalem nhưng lại xuất hiện lần nữa với các nhà Đạo sĩ khi các ông rời khỏi
thành: thật sự, ngôi sao là một yếu tố quan trọng hơn trong sự việc
này.
Hơn hết tất cả, các vị
Đạo sĩ trong cuộc hành trình dài của họ đã không đi theo ngôi sao mà đã thấy nó
xuất hiện và lập tức kết nối ngôi sao này với sự giáng sinh của Đấng
Mêssia. Ngoài ra, cuộc hành trình không phải là không có phương
hướng nhưng mục tiêu là thành Giêrusalem, thành phố mà tất cả mọi dân tộc hội
tụ về trong cuộc hành hương như theo lời tiên tri Isaia.
Thành phố khi nghe tin
này từ các Đạo sĩ đã đến để triều bái Đấng Mêssia thì xôn xao và bối
rối. Dân thành Giêrusalem dường như không mấy tha thiết và không
quan tâm lắm về việc đi triều bái “vị vua người Do Thái mới
sinh”. Thực ra, Hêrôđê còn có ý định sát hại Người.
Tuy nhiên theo sách
tiên tri Isaia, Chương 60:1-6, thành Giêrusalem đã được kêu gọi “Hãy đứng
lên, vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi” và bây
giờ trong Mt 2:2, chúng ta chứng kiến phản ứng chối từ của nhà vua và
của dân thành Giêrusalem về Đấng Thiên Sai được hạ sinh tại Bêlem. Một
thái độ như vậy báo trước cho sự bắt đầu của việc thù nghịch dẫn đến việc Chúa
Giêsu bị lên án tại chính Giêrusalem. Không chịu đựng được phản ứng
ngăn cản các Đạo sĩ có cơ hội tìm đến với ơn cứu chuộc ngay tại thành phố được
chọn là công cụ của sự hiệp thông tất cả các dân tộc với Thiên Chúa, việc ra
đời của Chúa Giêsu dời chuyển tất cả mọi việc đến Bêlem. Thiên Chúa
là Đấng hướng dẫn các sự kiện lịch sử khiến cho các vị Đạo sĩ rời thành
Giêrusalem và họ lại lên đường tiếp tục cuộc hành trình và tìm thấy Đấng Thiên
Sai tại Bêlem, thành phố quê hương của vua Đavít. Trong thành này,
vua Đavít đã nhận được sự tấn phong thiêng liêng: không bằng dầu nhưng bằng
quyền năng Chúa Thánh Thần (Mt 1:18, 20). Các dân tộc, bấy giờ đi lên
thành phố này, được đại diện bởi các vị Đạo sĩ, đến chiêm bái Đức Êmmanuel,
Đấng Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, và để có được trải nghiệm của sự bình an và
đức tin.
b) Biểu tượng
cuộc hành trình của các vị Đạo sĩ:
i) Một cuộc
hành trình vất vả với nhiều khó khăn, nhưng cuối cùng cũng đạt đến thành công
Động lực thúc đẩy cuộc
hành trình của họ là sự xuất hiện của một ngôi sao, được nối kết với sự ra đời
của một vị vua mới: “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất
hiện”. Ở đây, ngôi sao chỉ là một dấu hiệu, một chỉ dấu thông tri
với các vị Đạo sĩ ý tưởng bắt đầu cuộc hành trình. Khởi thủy, có lẽ
họ đã bị thúc đẩy bởi tính tò mò, nhưng sau đó việc này đã trở thành một ước
muốn tìm kiếm và khám phá. Thực sự là dấu hiệu của ngôi sao đã đánh
động người ta và thúc đẩy họ đi tìm câu trả lời: có lẽ là một niềm
mong ước sâu sắc chăng? Ai mà biết được! Bài Tin Mừng cho
thấy các vị Đạo sĩ có một câu hỏi trong lòng, và không hề ngại ngùng lặp lại
nó, thậm chí nó còn làm cho họ trở thành lạc lõng: “Vua dân Do Thái ở đâu?”
Họ đặt câu hỏi đó với
vua Hêrôđê và, một cách gián tiếp, với thành Giêrusalem. Câu trả lời
được đưa ra bởi những người chuyên môn, các thượng tế, các kinh
sư: thật là cần thiết phải đi tìm cho được vị vua mới ở Bêlem của xứ
Giuđa, bởi vì đây là lời tiên tri của ngôn sứ Isaia: “Cả ngươi nữa,
hỡi Bêlem, trong đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành
trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh. Người đó
sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta” (Mt 2:6). Lời tiên tri đến để
giải quyết những khó khăn của các vị Đạo sĩ: Lời của Chúa trở thành
ánh sáng cho cuộc hành trình của họ.
Với sức mạnh của dữ
kiện đó, được trích từ lời tiên tri của ngôn sứ Isaia, và được an ủi bởi sự tái
xuất hiện của ngôi sao, các Đạo sĩ một lần nữa lại lên đường tiếp tục cuộc hành
trình của họ với mục tiêu là Bêlem. Ngôi sao dẫn họ đến dừng lại ngôi nhà
nơi họ tìm thấy Chúa Giêsu. Thật là lạ vì những người sống tại Bêlem hoặc các
vùng lân cận nơi Hài Nhi Giêsu được tìm thấy đã không nhìn thấy dấu hiệu
ấy. Ngoài ra, những người có kiến thức về Kinh Thánh biết tin về sự
ra đời của vị vua mới của Israel, nhưng đã không buồn đi tìm
Người. Thay vào đó, câu hỏi của các Đạo Sĩ đã khơi lên trong lòng họ
nỗi lo sợ và bối rối. Một cách dứt khoát, những kẻ rất gần với sự
kiện giáng sinh của Chúa Giêsu đã không nhận thức được việc gì đã xảy ra, trong
khi đó những người ở rất xa sau khi đã trải qua một cuộc hành trình đầy gian
nan, cuối cùng đã tìm thấy những gì họ đang tìm kiếm. Thế nhưng,
trong thực tế, chính mắt những vị Đạo sĩ đã thấy gì: một Hài Nhi với
mẹ Người trong một căn nhà nghèo hèn. Ngôi sao đã dẫn đường cho họ,
như nói ở trên, đã dẫn họ tới một hài nhi đơn sơ và nghèo hèn, Đấng mà họ nhận
ra là vị vua của dân Do-thái.
Họ đã quỳ gối sụp lạy
Người và dâng tiến Người những lễ vật tượng trưng: vàng (vì Người là
vua); nhũ hương (vì đằng sau bản thể con người của Hài Nhi đó, có sự hiện diện
thiên tính của Thiên Chúa); mộc dược (vì Đấng từ trời đã mặc lấy xác loài
người, đến để chịu chết).
ii) Cuộc
hành trình của các vị Đạo sĩ: cuộc hành trình của đức tin:
Không có gì sai lầm
khi nghĩ rằng cuộc hành trình của ba nhà Đạo Sĩ là một cuộc hành trình đích
thực của đức tin, đó là một cuộc hành trình của những người tuy không thuộc về
dân riêng của Chúa, đã tìm thấy Đức Kitô. Khi bắt đầu cuộc hành
trình, luôn luôn có một dấu hiệu đòi hỏi được nhìn thấy ở đó nơi mỗi người sống
và lòng quyết tâm. Các nhà Đạo Sĩ đã tìm kiếm, đã nghiên cứu các
tầng trời, trong Kinh Thánh, về Thiên Chúa, và từ nơi có dấu
hiệu: một ngôi sao. Nhưng để bắt đầu một cuộc hành trình
đức tin, nếu chỉ tìm kiếm hoặc học hỏi về các dấu hiệu của sự hiện diện của
Thiên Chúa thì chưa đủ. Một dấu hiệu có nhiệm vụ khơi lên lòng ước
ao đòi hỏi một thời gian nào đó để thực hiện, một con đường của kiếm tìm, của
đợi chờ. Lời bày tỏ mà thánh Edith Stein mô tả trong cuộc hành trình
đức tin của bà thật có ý nghĩa: “Thiên Chúa là chân lý. Ai đi tìm
kiếm chân lý là đi tìm kiếm Thiên Chúa, dù rằng có chủ đích hay không”.
Một niềm ước ao thực
sự gợi lên một câu hỏi. Trong khi đó, các vị Đạo sĩ đi tìm Đức Giêsu
bởi vì trong lòng họ đang có những thắc mắc mạnh mẽ. Kinh nghiệm
được gặp gỡ Đức Giêsu như thế thực sự là một việc khích lệ cho công việc mục vụ: có
nhu cầu không ban đặc ân một giáo lý được tạo bởi những điều chắc chắn hoặc mối
quan tâm về việc cung cấp các câu trả lời có sẵn, mà là khơi dậy trong con
người ngày nay các câu hỏi quan trọng về những vấn đề cốt yếu của nhân
loại. Đây là những gì mà một vị Giám Mục từ miền trung nước Ý đề
nghị trong một lá thư mục vụ: “Giới thiệu Chúa Kitô và Tin Mừng
trong sự nối kết với những vấn nạn căn bản về sự tồn tại của loài người (sống –
chết, tội lỗi – sự dữ, công bằng – nghèo khó, hy vọng – vỡ mộng, bác ái – hận
thù, sự liên hệ giữa các cá nhân trong gia đình, ngoài xã hội, các mối quan hệ
quốc tế, v.v…), để tránh sự nhầm lẫn giữa các câu hỏi về nhân loại và các câu
trả lời của chúng ta” (Gm. Lucio Maria Renna).
Câu trả lời, như chúng
ta được giảng dạy bởi kinh nghiệm của ba vị Đạo Sĩ, được tìm thấy trong Kinh
Thánh. Và nó không phải chỉ là một câu hỏi về kiến thức trí tuệ hay
hiểu biết về nội dung của Kinh Thánh, như trong trường hợp của các vị kinh sư,
nhưng về đường đi đến được hướng dẫn bởi lòng mong ước, bởi thắc
mắc. Đối với ba vị Đạo Sĩ, chỉ cần sự chỉ dẫn của Thánh Kinh đã soi
sáng họ hoàn thành giai đoạn cuối cùng của cuộc hành
trình: Bêlem. Ngoài ra, Lời của Chúa cho phép họ thấy
trong các dấu hiệu khiêm nhu của một ngôi nhà, của Hài Nhi Giêsu với Đức Maria,
mẹ Người, Vua dân Do-Thái, Đấng đang được dân Israel mong đợi.
Các vị Đạo sĩ ngưỡng
mộ Người và khám phá ra trong Đức Giêsu là Đấng mà họ đã tìm kiếm đã
lâu. Trên một khía cạnh khác, người đọc rất ngạc nhiên bởi sự chênh
lệch giữa những cử chỉ và các món quà dâng tiến của các vị Đạo sĩ và thực tế
khiêm tốn hiện diện trước mắt họ; nhưng mặt khác, chắc chắn rằng Hài Nhi mà ba
vị Đạo sĩ triều bái chính thực là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ thế gian đang
được mong chờ. Và vì thế cuộc hành trình đã trở nên cuộc hành trình của
mỗi người đọc của câu chuyện có ý nghĩa này về ba vị Đạo sĩ: bất cứ
ai đi tìm kiếm, dù cho có xa Thiên Chúa cách mấy đi nữa, vẫn có thể tìm thấy
Người. Thay vào đó, những ai cho là mình đã biết tất cả mọi sự về Thiên
Chúa và tin rằng sự cứu rỗi của họ đã được bảo đảm, thì có nguy cơ bị vong thân
khi gặp gỡ Người. Trong một chương trình giáo lý được tổ chức tại
Cologne vào dịp Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới kỳ thứ 20, đức Tổng Giám Mục Bruno
Forte đã phát biểu như sau: “Ba vị Đạo sĩ đại diện cho tất cả những
ai đi tìm kiếm chân lý, sẵn sàng để sống cuộc sống của họ như trong một cuộc
sống lưu đày, trên đường đi đến cuộc gặp gỡ với ánh sáng đến từ trên cao”.
Ngoài ra, kinh nghiệm
của ba vị Đạo Sĩ dạy cho chúng ta biết rằng trong mọi nền văn hóa, trong mỗi
con người luôn có những kỳ vọng sâu xa đòi hỏi phải được đáp ứng. Từ
đây bắt đầu cho một trách nhiệm đọc những dấu hiệu của Thiên Chúa hiện diện
trong lịch sử loài người.
5. Suy Gẫm
- Sau khi
đọc đoạn Tin Mừng này, tôi đã sẵn sàng để làm sống lại cuộc hành trình của ba vị Đạo
Sĩchưa?
- Những
điều khó khăn gì bạn đã gặp phải trong sự hiểu biết sâu xa về Đức Giêsu
Kitô? Làm cách nào bạn đã có thể khắc phục được chúng?
- Trong
việc đi tìm kiếm chân lý, bạn có biết cách làm thế nào để tin tưởng, để lên
đường và để lắng nghe Thiên Chúa không?
- Trong ánh
sáng của Lời Chúa, bạn có thể thay đổi những gì trong đời sống của bạn?
6. Thánh Vịnh 72:1-11
Đây là một bài Thánh Vịnh tiến vua, được soạn
ra để chào mừng ngày nhà vua đăng quang lên ngai. Cộng đồng Kitô hữu
nguyên thủy đã không có nghi ngờ trong việc được trông thấy hình ảnh Đấng
Mêssia trong thân phận con người.
Tâu Thượng Đế, xin ban
quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân.
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!
Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, và Saba,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Bài ca tụng Chúa
Chúng con chúc tụng vinh quang Đức Chúa Cha,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân.
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!
Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, và Saba,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Bài ca tụng Chúa
Chúng con chúc tụng vinh quang Đức Chúa Cha,
danh thánh Chúa uy
linh cao cả;
cùng với Chúa Con và
Chúa Thánh Thần
luôn mãi vinh quang
đến muôn thuở muôn đời.
7. Lời nguyện kết
Xin vâng, Amen!
Ôi lạy Chúa Cha, Chúng
con nói lời đó với Chúa,
với tất cả tâm tình
chúng con
hòa đồng với tâm tình
của Con Cha
và của Đức Trinh Nữ
Maria.
Chúng con nói với toàn
thể Hội Thánh
và cho
cả nhân loại.
Xin hãy
ban cho chúng con, đang tập họp với nhau trong tình yêu,
sau lời
“xin vâng” trong giờ của thập giá
chúng
con có thể trong cùng một tiếng nói thống nhất,
trong
một ca đoàn mạnh mẽ,
trong
một sự huy hoàng nói không nên lời,
hát bài
ca này đến muôn đời
trên
Thiên Đàng tôn nghiêm
Amen!
Alleluia!
(Nt Anna
Maria Canopi)
www.dongcatminh.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét