Thứ Hai 21/01/2013
Thứ Hai Tuần II Mùa Thường
Niên Năm lẻ
BÀI
ĐỌC I: Dt 5, 1-10
"Dầu là Con Thiên
Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Tất
cả các vị Thượng tế được chọn giữa loài người, nên được đặt lên thay cho loài
người mà lo việc Chúa, để hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông
cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư
bề. Vì thế cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng
lễ đền tội cho chính mình như vậy. Không ai được chiếm vinh dự đó, nhưng phải
là người được Thiên Chúa kêu gọi, như Aaron. Cũng thế, Đức Kitô không tự dành
lấy quyền làm thượng tế, nhưng là Đấng đã nói với Người rằng: "Con là Con
Cha, hôm nay Cha sinh ra Con". Cũng có nơi khác Ngài phán: "Con là Tư
tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê". Khi còn sống ở đời này, Chúa
Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Đấng có thể cứu
Mình khỏi chết, và vì lòng thành kính, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên
Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất,
Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục
Người. Người được Thiên Chúa gọi là Thượng tế theo phẩm hàm Menkixêđê. Đó là
lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 109, 1. 2. 3. 4.
Đáp: Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê (c. 4bc).
1)
Thiên Chúa đã tuyên bố cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Ta, cho
tới khi Ta bắt quân thù làm bệ kê dưới chân Con". - Đáp.
2)
Đức Thiên Chúa từ Sion sẽ phô bày vương trượng quyền bính của Ngài, rằng:
"Con hãy thống trị giữa quân thù". - Đáp.
3)
Các thủ lãnh cùng hiện diện bên Con, ngày Con giáng sinh trong thánh thiện huy
hoàng: trước rạng đông, tựa hồ sương sa, Ta đã sinh hạ ra Con". - Đáp.
4)
Đức Thiên Chúa đã thề và không hối hận rằng: "Con là Thượng tế tới muôn
đời theo phẩm hàm Menkixêđê". - Đáp.
ALLELUIA:
Tv 144, 13cd
-Chúa
trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. -
Alleluia.
PHÚC
ÂM: Mc 2, 18-22
"Tân lang còn ở
với họ".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, họ đến nói với Chúa Giêsu
rằng: "Tại sao môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ
Ngài lại không ăn chay?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các khách dự tiệc
cưới có thể ăn chay khi tân lang còn ở với họ không? Bao lâu tân lang còn ở với
họ, thì họ không thể ăn chay được. Nhưng sẽ đến ngày tân lang bị đem đi, bấy
giờ họ sẽ ăn chay. Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ
rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu
da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới
phải để trong bầu da mới". Đó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Cốt lõi
của đạo
Trong những
thập niên gần đây, mặc dầu càng lúc Hiến pháp các quốc gia càng đi sâu vào sự
tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước; thế nhưng, sự liên kết giữa tôn giáo và
chính trị lại càng đậm nét hơn. Cuộc chiến giữa Tư bản và Cộng sản đã hầu như
chấm dứt, nhưng chiến tranh tôn giáo xem chừng vẫn dai dẳng, không những giữa
những người khác tôn giáo với nhau, mà ngay cả trong cùng một tôn giáo. Nhìn
vào thảm cảnh ấy, ai cũng thắc mắc tự hỏi: Tôn giáo nào mà không dạy ăn ngay ở
lành, tôn giáo nào mà không dạy sự khoan dung tha thứ, thế thì tại sao những
người có tôn giáo lại nhân danh tôn giáo của mình để gây chiến với người khác
hay với chính những người đồng đạo của mình? Câu trả lời thật đơn giản: sở dĩ
người có tôn giáo có thái độ quá khích và bất khoan nhượng, là vì họ chưa sống
đúng cái cốt lõi của đạo. Xét cho cùng, cái cốt lõi của tôn giáo nào cũng là
tình thương.
Chúa Giêsu
cũng muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là sống đạo. Chúng ta hãy chiêm
ngắm thái độ và lời dạy của Ngài trong Tin Mừng hôm nay. Vừa bắt đầu sứ mệnh
rao giảng của Ngài, cũng như các kinh sư của thời đại Ngài, Chúa Giêsu cũng qui
tụ một số môn đệ; và cũng như các môn đệ của các kinh sư khác, môn đệ của Ngài
cũng theo một lối sống nào đó. Thế nhưng, điều khiến cho nhiều người ngạc nhiên
và đặt vấn đề, đó là Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài không tuân giữ một số ngày
chay tịnh như môn đệ của Gioan hay của những người Biệt phái. Không tuân giữ
những ngày chay tịnh đã đành, sau này xem ra Chúa Giêsu càng thách thức hơn
nữa, khi Ngài không tuân giữ cả ngày hưu lễ hay một số tập tục khác, như rửa
tay trước khi ăn.
Suốt cuộc
sống của Ngài, Chúa Giêsu đã tỏ ra rất độc lập đối với Do thái giáo. Ðây quả là
cách sống đạo hoàn toàn mới mẻ mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho con người. Ðối với
Ngài, linh hồn và cốt lõi của đạo chính là tình thương; tình thương ấy đã thúc
đẩy Ngài đi đến tận cùng bằng cái chết trên Thập giá, và cái chết của Ngài mãi
mãi là lời tố cáo về thái độ bất khoan nhượng trong niềm tin tôn giáo của con
người. Vụ án của Ngài được thi hành như một vụ án chính trị; mãi mãi tên tuổi
của viên toàn quyền La mã là Philatô gắn liền với cái chết của Ngài. Tuy nhiên,
vụ án của Chúa Giêsu vẫn là một vụ án tôn giáo: Ngài chết vì sự cuồng tín và
thái độ bất khoan nhượng của các thủ lãnh Do thái giáo.
Chiêm ngắm
thái độ của Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài và lắng nghe giáo
huấn của Ngài, chúng ta sẽ thấy rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương.
Trong cuộc sống đạo, nhiều lúc chúng ta thắc mắc phải ăn chay thế nào cho đúng
cách? Ngày Chúa nhật có được làm việc xác không? Bỏ lễ Chúa nhật có tội hay
không? Thật ra còn có nhiều câu hỏi nền tảng hơn mà thiết tưởng chúng ta không
thể không đặt ra để tự vấn lương tâm mỗi ngày: tôi có sống công bình, bác ái
chưa? Tôi có yêu thương người anh em bên cạnh tôi chưa? Nhắm mắt làm ngơ trước
nỗi khổ của người xung quanh tôi có phải là một tội không?
Nguyện xin
Chúa cho chúng ta ngày càng thấu hiểu và xác tín rằng sống đạo là sống yêu
thương, rằng cốt lõi của Kitô giáo chính là tình thương.
(Veritas Asia)
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần II TN, Năm lẻ
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Cũ
và mới
Xung
đột giữa cái cũ và cái mới thường xảy ra ở mọi nơi và mọi thời: các chính thể,
tôn giáo, cách cư xử, thời trang và vóc dáng. Ví dụ: Phong trào canh tân của
Nhóm Tự Lực Văn Đòan vào đầu thế kỷ 20, điển hình trong tác phẩm Đọan Tuyệt của
Khái Hưng. Chúa Giêsu và các môn đệ cũng phải đương đầu với người Do-Thái khi
mang ra những mặc khải mới của Thiên Chúa đến cho con người. Câu hỏi đặt ra:
Cái nào tốt hơn?
Các
Bài Đọc hôm nay cũng xoay quanh sự xung đột giữa cũ và mới. Trong Bài Đọc I,
tác giả Thư Do-Thái dùng tiêu chuẩn cũ để chứng minh Đức Kitô là Thượng Tế mới
có khả năng đem Thiên Chúa đến cho con người và đem con người về cho Thiên
Chúa; vì Ngài vừa có kinh nghiệm của Thiên Chúa, vừa có kinh nghiệm của con
người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng câu hỏi của những người thuộc thời đại cũ
để giúp họ nhận ra thời đại mới đã bắt đầu; họ cần có tâm hồn mới để lãnh nhận
giáo lý mới của Ngài mang đến.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Chúa Giêsu là Thượng Tế. Bản văn chúng ta nghiên cứu hôm nay, Heb 5:1-10, được tác giả
sắp xếp theo cấu trúc hình nón, với chóp đỉnh là Thượng Tế Aaron của Cựu Ước.
Mục đích của tác giả là chứng minh Chúa Giêsu là Thượng Tế của Tân Ước. Để làm
điều này, tác giả dùng một tam đọan luận: trước tiên, tác giả liệt kê 3 đặc
tính của chức Thượng Tế; sau đó, tác giả chứng minh Chúa Giêsu hội đủ 3 điều
kiện này; cuối cùng, tác giả kết luận: “Thiên Chúa tôn xưng Chúa Giêsu là
Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedech.”
1.1/
Ba đặc tính của Thượng Tế:
(1) Thượng Tế đại diện cho con người: “Quả
vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên
làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng
lễ phẩm cũng như tế vật đền tội.”
(2)
Thượng Tế phải cảm thông với con người: “Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ
lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải
dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình
như vậy.”
(3)
Thượng Tế phải được Thiên Chúa gọi: “Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên
Chúa gọi, như ông Aaron đã được gọi.”
1.2/
Chúa Giêsu là Thượng Tế:
(1)
Chúa Giêsu được chọn làm Thượng Tế: “Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế,
nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra
Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo
phẩm trật Melkisedech.”
(2)
Chúa Giêsu cảm thông với con người: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van
khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi
chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người
đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.”
(3)
Chúa Giêsu đại diện cho con người: “và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên
nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được
Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedech.”
2/ Phúc
Âm: Chúa Giêsu bảo vệ môn đệ của mình.
2.1/
Tại sao môn đệ Chúa Giêsu không ăn chay? “Bấy giờ các môn đệ ông Gioan và các người Pharisees đang ăn
chay; có người đến hỏi Đức Giêsu: "Tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn
đệ người Pharisees ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?"
Giao
thời giữa Cựu và Tân Ước là thời gian người Do-Thái gia tăng việc chay tịnh và
khổ chế, không những chỉ có trong những giáo phái, mà còn phổ thông trong dân
như các việc đạo đức. Chay tịnh, cùng với cầu nguyện và làm phúc, được coi là
ba trụ chính của đời sống đạo đức (Tob 12:8). Sách Judith coi chay tịnh là cách
để xin ơn lành từ Thiên Chúa (Jdt 4:9). Lối sống chay tịnh và khổ chế của Gioan
Tẩy Giả trong sa mạc là muốn đề cao lối sống đơn giản và sự tùy thuộc hòan tòan
vào Thiên Chúa.
2.2/
Câu trả lời của Chúa Giêsu nhấn mạnh đến 2 điểm chính:
(1)
Lý do ăn chay: Ăn chay
phải có mục đích rõ ràng. Chúa cho biết lý do tại sao các môn đệ của Ngài chưa
ăn chay: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở
với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được.” Chúa Giêsu
nhận Ngài chính là chàng rể, và khách dự tiệc cưới, bạn hữu của chàng rể là các
môn đệ.
(2)
Thời gian ăn chay: Chay
tịnh có lúc của nó, không phải lúc nào cũng ăn chay. Chúa Giêsu cho biết khi
nào các môn đệ của Ngài sẽ ăn chay: "Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi
rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó.”
2.3/
Phải có tâm hồn mới để lãnh nhận đạo lý mới: Chúa Giêsu là mốc thời gian để phân biệt giữa cái cũ và
mới. Những người Pharisees và môn đệ của Gioan đại diện cho lớp người cũ, các
môn đệ của Chúa Giêsu đại diện cho lớp người mới. Để có thể lãnh nhận những đạo
lý mới được giảng dạy bởi Đức Kitô, một người cần có tâm hồn mới: rộng đủ để
nhận ra những bất tòan của đạo lý cũ; đồng thời biết đón nhận những đạo lý mới
để làm cho con người ngày càng tòan hảo hơn. Nếu không có tâm hồn mới, con
người sẽ ngoan cố thủ cựu những điều cũ; đồng thời họ sẽ khước từ những giáo lý
mới của Đức Kitô.
Để
giúp họ nhận ra sự quan trong của một tâm hồn mới, Chúa Giêsu dùng 2 ví dụ rất
quen thuộc với khán giả:
(1)
Áo và miếng vá: “Chẳng ai
lấy vải mới mà vá áo cũ, vì như vậy, miếng vá mới đã vá vào sẽ kéo vải cũ,
khiến chỗ rách lại càng rách thêm.”
(2)
Rượu và bầu da: “Cũng không
ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng
mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới!"
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúa Kitô là Thượng Tế mới của giao ước mới hòan hảo hơn. Chúng ta hãy chạy đến
với Ngài để học hỏi những mặc khải mới của Thiên Chúa; và mời Ngài đồng hành
với chúng ta.
-
Chúng ta cần mở rộng tâm hồn để đón nhận những điều mới lạ từ Thiên Chúa và tha
nhân. Một tâm hồn khép kín và thái độ hay chỉ trích sẽ không làm cho chúng ta
tiến xa được.
- Dĩ
nhiên chúng ta không đón nhận tất cả các cái mới và lọai bỏ các cái cũ; nhưng
biết dùng trí khôn để thích ứng với hòan cảnh: giữ lại những gì tốt, thâu nhận
những gì mới, và cải tiến để làm cho tốt hơn.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
21/01/13 THỨ HAI TUẦN 2
TN
Th. Anê, trinh nữ, tử đạo
Mc 2,18-22
Th. Anê, trinh nữ, tử đạo
Mc 2,18-22
THÍCH NGHI MÀ KHÔNG VÁ VÍU
"Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới có thể ăn chay, khi chàng
rễ còn ở với họ ?. . . chẳng ai lấy vải mới vá áo cũ. . ." (Mc 2,19.21)
Suy niệm: Người ngày nay ăn chay để giảm
cân, chữa bệnh, nhưng gặp tiệc tùng thì cứ ăn, vì thỉnh thoảng mới có tiệc
tùng, chuyện gì sau đó hãy tính. Trong việc xây dựng nhiều người sính theo kiểu
“tân cổ giao duyên” cho lạ đời, bắt mắt, không nhận ra sự vá víu, rằng chúng có
thể sớm lỗi thời, phá vỡ cảnh quan chung. Não trạng “tổng hợp” thích nghi cách
vá víu đó cũng dễ gặp thấy trong sinh hoạt tôn giáo, cụ thể là qua câu chuyện
giữa người Pharisêu và Chúa Giêsu về việc ăn chay hay không ăn chay. Không có
chuyện áp đặt người phải giống ta và ta phải theo người. Ai có thể cấm ta ăn
chay để tiết chế dục vọng, và ai có thể ngăn ta vui với niềm vui của người
khác? Tiêu chí cho mọi sự “thích nghi” là Chúa Kitô, là “chàng rể” đang hiện
diện nơi bàn tiệc Nước Trời mà mọi người được mời tham dự.
Mời Bạn: Điều được coi là “thích nghi”
này dễ bị lạm dụng và khiến nó trở nên tệ hại hơn những gì tốt đẹp đã có trước
đó. Vì thế ta phải biết suy xét thấu đáo trước khi đem áp dụng cho mình, hay
day cho người ta làm như vậy, đặc biệt trong việc giáo dục con cái. Giáo dục không
phải là sự hoài cổ, nhưng cũng không nên quá cấp tiến.
Chia sẻ: Trong Năm Đức Tin này chúng ta
học hỏi giáo huấn Công Đồng Vatican II với những thích nghi, nhưng không nên
sáng kiến tuỳ tiện mang tính chủ quan cá nhân.
Sống Lời Chúa: Hãy vui với người vui và hãy
khóc với người khóc!
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin soi sáng
cho con biết việc mình phải làm, và biết từ bỏ việc không nên làm, dù điều ấy
làm con thích thú hơn. Amen.
www.5phutloichua.net
CHÀNG RỄ CÒN Ở VỚI
Đức Giêsu tự ví mình với chàng rể, còn môn đệ là khách dự
tiệc cưới. Bầu khí trong nhóm môn đệ của ngài là bầu khí vui tươi của một lễ
thành hôn bởi lẽ thời đại thiên sai đã đến rồi.
Suy niệm:
Một trong những nét khác biệt giữa Gioan Tẩy Giả với Đức
Giêsu
là sự khắc khổ nhiệm nhặt. Gioan được coi là người “không ăn bánh,
không uống rượu” (Lc 7, 33). còn Đức
Giêsu bị mang tiếng là “tay ăn nhậu” với quân thu thuế (Lc 7, 34). Chúng ta đã từng thấy ngài ăn tại nhà ông
Lêvi hay ông Dakêu. Các người
Pharisêu cũng là những người thích ăn chay nhiều lần trong tuần, dù ngày ăn chay chính thức hàng năm của đạo
Do-thái chỉ là ngày lễ Xá tội.
Như thế có sự khác biệt khá rõ giữa môn đệ của Đức Giêsu với môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đệ của
người Pharisêu. Một bên có vẻ
thoáng và thoải mái, một bên thì khắc khổ nhiệm nhặt. “Tại sao môn
đệ của ông lại không ăn chay ?” Có người đã dám hỏi thẳng Đức Giêsu như thế. Ngài đã trả lời bằng một cách dùng một hình
ảnh dễ hiểu và đầy ý nghĩa. Vào thời
Đức Giêsu, tại Palestin, cũng như tại nhiều vùng quê ngày nay, đám cưới là một biến cố mừng vui có tính
làng xã. Chẳng thể nào hiểu được chuyện một người đi
ăn cưới với khuôn mặt buồn của kẻ đang ăn chay. “Chẳng lẽ
khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể
còn ở với họ”
Đức Giêsu tự ví mình với chàng rể, còn môn đệ là khách dự
tiệc cưới. Bầu khí trong nhóm môn đệ của ngài là bầu
khí vui tươi của một lễ thành hôn bởi lẽ thời đại thiên sai đã đến rồi. Đức Giêsu, Đấng Mêsia dân Israel mong đợi từ lâu, nay có mặt. Ngài là chàng rể kết duyên với cô dâu là
dân tộc Israel của ngài. Đức Giêsu đã làm
trọn điều các ngôn sứ nói trong Cựu Ước về việc Thiên Chúa lập hôn ước với dân của Người (Hs 2, 21-22; Is
62, 4-5). “Nhưng khi tới
ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ, bấy giờ họ mới ăn chay.”
Sau khi Đức Giêsu chịu cái chết dữ dằn, được phục sinh và
lên trời, Giáo hội bước vào một giai đoạn mới, giai
đoạn chờ đợi ngài quang lâm. Trong
giai đoạn này, khi Chúa Giêsu vừa vắng mặt, vừa hiện diện, Các Kitô hữu ăn chay, vác thánh giá theo
Chúa Giêsu,
dù họ vẫn luôn sống trong niềm
vui, bởi tin vào Đấng đã phục sinh vinh hiển.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng. Nụ cười ấy hòa với niềm vui của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu, có những niềm vui Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay, có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại. Xin dạy chúng con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều màu hồng. Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con. Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng
Giêng
21 THÁNG GIÊNG
Những Người Thất Nghiệp –
Mối Ưu Tư Nặng Trĩu Lòng Tôi
Tôi đặc biệt cảm thông tận đáy lòng mình
hoàn cảnh của vô số anh chị em thất nghiệp. Họ muốn làm việc, nhưng không thể
kiếm được một chỗ làm. Nhiều trường hợp, đó bởi vì nạn kỳ thị tôn giáo, giai
cấp, chủng tộc, hay ngôn ngữ. Không có việc làm hay thiếu việc làm – tình trạng
ấy gây ra nỗi chán chường và dễ làm cho người ta tự cảm thấy mình thừa thãi. Đó
là nguyên nhân của nhiều xung đột trong các gia đình và thường dẫn đến bao
phiền não lắm khi không thể tả xiết. Tình trạng ấy vừa làm suy yếu cấu trúc xã
hội, vừa đe dọa chính phẩm giá của người ta, nam cũng như nữ, trong các gia
đình.
Chúng ta cần có những sáng kiến mới mẻ để
giải quyết vấn đề rất hệ trọng này. Những sáng kiến ấy sẽ đòi hỏi sự cộng tác
trên bình diện quốc gia và quốc tế. Điều cực kỳ quan trọng, đó là những chương
trình được phác họa để giải quyết vấn đề thất nghiệp phải thúc đẩy lòng tôn
trọng và cảm thông giữa những người chủ việc và những người lao động đang tìm
kiếm một chỗ làm.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II
-
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by
Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Annê, trinh nữ, tử đạo; Dt 5, 1-10; Mc 2, 18-22.
LỜI SUY NIỆM: “Nhưng rượu mới, thì phải bầu mới”(Mc
2,22b)
Giáo hội luôn mời gọi mọi người tín
hữu, từ hàng giáo dân cho đến các tu sĩ nam nữ và giáo sĩ phải luôn canh tân,
đổi mới đời sống đạo của mình cho phù hợp với Tin Mừng. Muốn đạt điều này trước
tiên trong các cộng đoàn tu sĩ và giáo sĩ phải tiên phong tự canh tân trước. Từ
những sự canh tân đó giúp cho bản thân của các vị khám phá ra những lợi ích cho
đời sống đức tin của mình, Khi đó mới thấy được sự cần thiết phải canh tân cộng
đoàn dân Chúa. Và dẫn đưa đoàn chiên của mình đi đúng hướng. Khi đề cập đến
việc canh tân đói với bản thân mình hay mọi người trong cộng đoàn, không phải
là đơn giản và dễ dàng. Nhưng sẽ có rất nhiều chướng ngại vật, đó là óc bảo
thủ, tính kiêu ngạo, lòng tự mãn, ngại đổi mới,… bởi vì những nếp cũ đã ăn
sâu vào não trạng và cách sống đã lâu. Trước mỗi sự canh tân cộng đoàn phải có
chương trình và phương pháp học hỏi phù hợp với trình độ văn hóa, lứa tuổi và
thành phần xã hội, để mọi người dễ tiếp thu. Cần phải có sự kiên trì và liên
tục. Nếu không thì sự canh tân sẽ có chống đối và khó thành công. Dẫn đến chia
rẽ trong cộng đoàn.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
21 Tháng Giêng
Chiếc Khăn Tay Vấy Mực
John Ruskin |
Ruskin là một nghệ sĩ, phê bình nghệ
thuật kiêm xã hội học người Anh sống vào cuối thế kỷ 19.
Một hôm, có một người đàn bà quý phái
mang đến cho ông xem một chiếc khăn tay đắt tiền đã bị vấy mực. Bà ta xuýt xoa
tiếc rẻ vì chiếc khăn tay đã hoàn toàn mất giá trị của nó.
Ruskin không nói gì, ông chỉ xin cho
ông mượn chiếc khăn tay trong một ngày. Ngày hôm sau, ông trao lại chiếc khăn
tay cho người đàn bà mà cũng không nói một lời nào. Nhưng khi trải chiếc khăn
tay ra, người đàn bà hết sức ngạc nhiên, bởi vì từ một vết mực trong góc của
chiếc khăn, nhà nghệ sĩ đã biến thành một bức tranh tuyệt mỹ.
Chiếc khăn tay có vấy mực tưởng đã bị
vứt đi, nay đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật để đời.
Những người có niềm tin vào cuộc sống
không bao giờ bỏ cuộc trước những thất bại. Họ luôn biết biến những thất bại ấy
thành khởi đầu của một thành công vĩ đại hơn.
Người có niềm tin vào Thiên Chúa cũng
luôn nhìn vào thất bại, rủi ro, đau khổ trong cuộc sống như cơ may của một ân
phúc cao cả và dồi dào hơn.
Dạo tháng 6 năm 1990, mục sư Anh giáo
Michael Lapsley, người Zimbabwe bên Phi Châu, vì là mục sư Tuyên úy của tổ chức
Quốc đại Châu Phi bao gồm các lực lượng tranh đấu cho quyền lợi của người da
đen Nam Phi, đã bị quân khủng bố đặt chất nổ khiến ông bị cụt hai tay, mù một
mắt và hỏng lỗ tai. Trong một tuyên ngôn công bố sau đó, ông đã viết như sau:
"Họ đã lấy mất đôi tay của tôi. Nhưng tôi không buồn, bởi vì tôi không
dùng đến võ khí để cần phải có đôi tay. Họ đã lấy mất một phần đôi mắt của tôi
và thính giác của tôi, nhưng tôi vẫn còn có thể dâng hiến lời nói để tiếp tục
rao giảng một cách xác tín và mạnh mẽ hơn".
Người ta vẫn thường nói: Yêu là chết
trong lòng một ít. Tình yêu đích thực luôn luôn đòi hỏi hy sinh, mất mát. Nhưng
chỉ có đôi mắt tình yêu mới nhận ra giá trị của những mất mát ấy.
Qua cái chết trên thập giá như một tiêu
hao hoàn toàn, Chúa Giêsu đã bày tỏ Tình Yêu của Thiên Chúa cho nhân loại, ánh
sáng của Tình Yêu đã chiếu sáng qua sự mất mát ấy. Qua những hao mòn trong từng
ngày của cuộc sống Mẹ Maria, Tình Yêu của Thiên Chúa cũng được tiếp tục bày tỏ.
Có cái chết độc ác, tức tưởi của Chúa Giêsu trên thập giá, thì cũng có cái chết
âm thầm từng ngày của Mẹ Maria. Ngày nay, tình Yêu của Thiên Chúa cũng cần có
những mất mát, hao mòn khác của người Kitô để được tiếp tục bày tỏ cho con
người, bởi vì sứ mệnh của người Kitô chính là bổ túc cho những gì còn thiếu sót
trong cuộc tử nạn của Ðức Kitô.
(Lẽ Sống)
Thứ Hai 21-1
Thánh Agnes
(c. 258?)
Thánh A-nê |
H
|
ầu như chúng ta không biết gì
nhiều về vị thánh nữ nổi tiếng này, ngoại trừ ngài rất trẻ -- khoảng 12 hay 13
tuổi khi ngài chịu tử đạo vào hậu bán thế kỷ thứ ba. Nhiều giả thuyết được đưa
ra về cái chết của ngài như bị chém đầu, bị thiêu hoặc bị xiết cổ.
Truyền thuyết nói rằng Thánh
Agnes là một thiếu nữ xinh đẹp mà nhiều thanh niên muốn kết hôn. Trong những
người bị khước từ lời cầu hôn, có một người đã đi tố cáo ngài là Kitô Hữu với
nhà chức trách. Ngài bị bắt và bị giam trong nhà gái điếm.
Truyền thuyết kể rằng có một
người bị mù vì đã nhìn ngài với ước muốn dâm dục, và sau khi được ngài cầu
nguyện cho, họ đã sáng mắt. Ngài bị kết án, bị xử tử và được chôn gần Rôma,
trong một hang toại đạo mà sau này được mang tên của thánh nữ.
Vào thế kỷ thứ tư,
Constantia, con gái của hoàng đế Constantine đã xây một đền thờ để tôn kính
thánh nữ. Huy hiệu của ngài trong các tranh ảnh là hình con chiên, vì tên của
ngài gần giống như chữ Latinh, agnus, có nghĩa là con chiên.
Lời Bàn
Cũng giống như Thánh Maria
Goretti trong thế kỷ gần đây, sự tử đạo của các thiếu nữ đồng trinh là một ấn
tượng mạnh mẽ đối với xã hội ngày nay đang nô lệ cho chủ nghĩa duy vật. Như
Thánh Agatha, là người đã chết trong hoàn cảnh tương tự, Thánh Agnes tiêu biểu
cho sự thánh thiện mà không lệ thuộc vào tuổi tác, tài năng hay sự cố gắng cá
nhân. Ðó là món quà mà Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người.
Lời Trích
"Ðây là ngày sinh
nhật của một trinh nữ; chúng ta hãy noi gương khiết tịnh của ngài. Ðây là ngày
sinh nhật của một vị tử đạo; chúng ta hãy dâng lên những hy sinh; đây là ngày
sinh nhật của Thánh Agnes: Các ông hãy cảm phục, các thiếu niên hãy hy vọng,
các bà hãy kính sợ và các thiếu nữ hãy ganh đua. Ðối với tôi, người thiếu nữ
này, dường như sự thánh thiện và sự can đảm vượt lên trên bản tính con người,
được đặt tên là Agnes (Hy Lạp: tinh tuyền) không phải do trần thế quyết định,
mà là một mặc khải từ Thiên Chúa về con người của thánh nữ" (Bài
giảng của Thánh Ambrôsiô về vấn đề đồng trinh).
www.nguoitinhuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét