Thứ Bảy 26/01/2013
Thứ Bảy Tuần II Mùa Thường
Niên Năm lẻ
Lễ Thánh Timôthêu và Thánh
Titô, Giám Mục
BÀI
ĐỌC I: 2 Tm 1, 1-8
"Nhớ lại đức tin
trung thành của con".
Trích
thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Timô-thêu.
Phaolô, Tông đồ của Chúa Giêsu Kitô,
bởi ý định của Thiên Chúa, theo lời hứa ban sự sống trong Chúa Giêsu Kitô, gởi
lời thăm Timôthêu, người con yêu dấu. Nguyện chúc ân sủng, lòng từ bi và bình
an của Thiên Chúa Cha, và Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Cha cảm tạ ơn Chúa, Đấng cha phụng
sự như tổ tiên cha, với tâm hồn trong trắng, khi cha đêm ngày hằng nhớ đến con
trong kinh nguyện, nhớ đến nước mắt con đã chảy ra. Cha mong ước gặp con, để
được đầy lòng vui mừng. Cha nhớ lại đức tin trung thành của con, đức tin mà bà
ngoại của con là Lois đã có trước, rồi đến mẹ con là Êunikê, và cha tin chắc
con cũng có đức tin đó. Vì vậy, cha nhắc nhở con điều này, là hãy làm sống động
ơn Chúa trong con, ơn mà con lãnh nhận qua việc cha đặt tay trên con. Thật vậy,
Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần trí nhát sợ, mà là thần trí dũng
mạnh, mến yêu và độ lượng. Vậy con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta,
cũng đừng hổ thẹn vì cha là tù nhân của Người; nhưng hãy cộng tác với Tin Mừng
dựa theo quyền lực của Thiên Chúa. Đó là lời Chúa.
Hoặc
đọc: Tt 1, 1-5
"Gởi lời thăm
Titô, người con chân thật trong cùng một đức tin".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Phaolô, đầy tớ của Thiên Chúa, Tông
đồ của Đức Giêsu Kitô, theo đức tin của những người được Chúa chọn, và sự hiểu
biết chân lý theo lòng đạo đức, trong hy vọng được sống đời đời mà Thiên Chúa
là Đấng không lừa dối, đã hứa từ muôn đời; và khi đến giờ đã định, Người bày tỏ
lời Người qua việc rao giảng mà Người đã giao phó cho cha theo lệnh của Thiên
Chúa Đấng Cứu độ chúng ta: gởi lời thăm Titô, người con chân thật trong cùng
một đức tin. Nguyện chúc cho con được ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha, và
của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ chúng ta. Đây là lý do cha để con ở lại Crêta,
là để con tổ chức cho xong xuôi tất cả, và thiết lập hàng niên trưởng trong mỗi
thành phố, như cha đã truyền dạy cho con. Đó là lời Chúa.
Hoặc
đọc 2 Sm 7, 18-19. 24-29
"Lạy Chúa là
Thiên Chúa, tôi là ai và gia đình tôi là chi?"
Trích
sách Samuel quyển thứ hai.
Sau khi Nathan nói với Đavít xong,
vua Đavít đến ngồi trước Thiên Chúa mà nói rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa,
con là ai và gia đình con là chi mà Chúa dẫn con đến đây? Nhưng lạy Chúa là
Thiên Chúa, như thế Chúa còn cho là ít, nên Chúa còn nói đến nhà tôi tớ Chúa
trong tương lai lâu dài, vì lạy Chúa, đó là thường tình của loài người.
"Chúa đã thiết lập dân Israel
làm dân Chúa đến muôn đời, và lạy Chúa, chính Chúa trở thành Thiên Chúa của họ.
Vậy giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa, xin hãy thực hiện mãi mãi lời Chúa đã nói
về tôi tớ và về nhà của nó, và hãy làm như Chúa đã phán, để danh Chúa được ca
khen đến muôn đời, và được truyền tụng rằng: 'Chúa các đạo binh là Thiên Chúa
của Israel'. Xin cho nhà tôi tớ Chúa được vững chắc trước nhan thánh Chúa. Lạy
Chúa các đạo binh, Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã mạc khải cho tôi tớ Chúa
biết những lời này: 'Ta sẽ xây dựng cho ngươi một ngôi nhà', vì thế, tôi tớ
Chúa vững tâm thốt lên lời khẩn nguyện trên đây. Vậy giờ đây, lạy Chúa là Thiên
Chúa, và lời Chúa thì chân thật, vì Chúa đã tỏ ra cho tôi tớ Chúa những điều hạnh
phúc ấy. Giờ đây, xin hãy khởi sự chúc phúc cho nhà tôi tớ Chúa, để nhà tôi tớ
Chúa tồn tại trước mặt Chúa đến muôn đời, vì lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa đã
phán và xin giáng phúc cho nhà tôi tớ Chúa đến muôn đời". Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 131, 1-2. 3-5. 11. 12. 13-14
Đáp: Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người (Lc
1, 32a).
1)
Lạy Chúa, để thương Đavít, xin Chúa nhớ đến mọi nỗi ưu tư của người: người đã
thề như thế nào với Chúa, người đã khấn hứa cùng Đấng toàn năng nhà Giacóp
rằng: -Đáp.
2)
"Tôi sẽ không vào lều trại nhà tôi, tôi sẽ không bước lên giường nằm, tôi
sẽ không nhắm mắt ngủ, không để cho mi mắt tôi được nghỉ an, cho tới khi tôi
gặp được nơi ngự điện cho Chúa, gặp được cung lâu cho Đấng Toàn năng nhà
Giacóp". - Đáp.
3)
Chúa đã thề hứa cùng Đavít một lời hứa quả quyết mà Người sẽ chẳng rút lời,
rằng: "Ta sẽ đặt lên ngai báu của ngươi một người con cháu thuộc dòng
giống của ngươi". -Đáp.
4)
"Nếu các con ngươi tuân giữ điều ước của Ta và những luật lệ mà Ta ban ra
dạy chúng, thì cả con cháu chúng cũng được muôn đời ngồi cai trị trên ngai báu
của ngươi". -Đáp.
5)
Bởi chưng Chúa đã kén chọn Sion, đã thích lựa Sion làm nơi cư ngụ cho mình.
Ngài phán: "Đây là nơi nghỉ ngơi của Ta tới muôn đời, Ta sẽ cư ngụ nơi
đây, vì Ta ưa thích". -Đáp.
ALLELUIA:
Tv 24, 4c và 5a
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn
con trong chân lý của Ngài. – Alleluia
PHÚC ÂM: Mc 3, 13-19
"Người gọi những
kẻ Người muốn gọi để họ ở cùng Người".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi và gọi
những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người. Người chọn mười hai vị để theo
Người, và sai các ông đi giảng và ban cho các ông quyền trừ quỷ. Mười hai vị ấy
là: Simon mà Người đặt tên là Phêrô, Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan là em
Giacôbê, (cả hai được Người đặt tên là Boanerges, nghĩa là con của sấm sét),
rồi đến Anrê, Philipphê, Bartôlômêô, Matthêu, Tôma, Giacôbê con ông Alphê,
Tađêô, Simon nhiệt tâm, và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm: (Mc 3,20-21)Vai trò của gia đình
Tin Mừng hôm nay mời gọi
chúng ta suy nghĩ về tương quan với Chúa Giêsu và gia đình của Ngài, để từ đó
rút ra những bài học thực tiễn về vai trò gia đình đối với con người.
Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn
lên trong một gia đình. 33 năm sống kiếp làm người, Ngài đã sống 30 năm với gia
đình. Hơn nữa, cũng như bất cứ một người Á Ðông nào, Chúa Giêsu rất xem trọng
những mối giây liên hệ thân thuộc: trong ba năm rao giảng công khai, Ngài vẫn
tìm dịp trở về thăm làng cũ, và giữa lúc Ngài bận bịu với sứ vụ công khai, bà
con thân thuộc của Ngài vẫn tìm đến thăm Ngài. Quả thật, Chúa Giêsu xem trọng
những liên hệ máu mủ và tình bà con xóm giềng, Ngài quí trọng gia đình; Ngài đề
cao sự thánh thiêng và bất khả phân ly của giây hôn phối. Tuy nhiên, Chúa Giêsu
không lập gia đình; trong ba năm thi hành sứ vụ công khai, Ngài sống xa gia
đình, không nhà, không cửa.
Như vậy, đối với Chúa Giêsu,
trên cõi đời này, gia đình cũng như mọi thứ định chế khác của loài người đều
không phải là những giá trị tuyệt đối. Chỉ có một giá trị tuyệt đối, đó là con
người, bởi có con người mới có một vận mệnh vĩnh cửu. Tất cả đều hiện hữu vì
con người. Trong Kinh Tin Kính, Giáo Hội tuyên xưng: "Vì loài người chúng
tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trờ xuống thế". Như vậy, ngay cả
mầu nhiệm Nhập Thể cũng là vì con người. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố rằng Ngài
đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ; nếu Con Thiên Chúa nhập thể là
để phục vụ con người, thì huống chi những định chế của xã hội loài người. Tất
cả đều hiện hữu vì con người: gia đình cũng như xã hội hiện hữu vì con người,
chứ không phải con người vì gia đình và xã hội.
Từ cái nhìn trên đây của Chúa
Giêsu về gia đình, chúng ta có thể thấy được vai trò của gia đình và một cách
cụ thể mục đích của việc giáo dục trong gia đình. Trong tuyển tập "Giới
Luật Yêu Thương", Ðức Cha Bùi Tuần đã có một phân tích sâu sắc về mục đích
của việc giáo dục gia đình, Ngài viết:
"Các bậc cha mẹ muốn
biết xưa nay mình nhằm mục đích gì trong việc giáo dục con cái, thì hãy xét xem
ta thường muốn gì, chờ đợi gì ở con cái. Có phải muốn chúng nên giàu sang
không? Có phải chờ đợi ở chúng một lợi lộc vật chất chăng? Không thiếu những
cha mẹ nhắm cái đó khi giáo dục con cái. Những hy vọng đó không phải là xấu,
nhưng chắc chắn không phải là chính mục đích mà cha mẹ phải nhắm để đưa con cái
mình đi tới. Mục đích chính đó là gì?"
Mục đích đó là giúp chúng nên
người với tất cả ý nghĩa cao đẹp của nó. Mà nên người trước hết là thực hiện
đầy đủ ý nghĩa câu nói quen thuộc: "Con người, đầu đội trời, chân đạp
đất"... Chân đạp đất là thái độ phải thắng dẹp những lôi cuốn tội lỗi thế
tục, là đạp lên trên những gì làm cho mình ra hèn như cát bụi, là đạp lên trên
những gì đưa ta xuống đất, xuống địa ngục. Nếu chân đạp đất chỉ những sự phàm
trần, thì đầu đội trời chỉ những sự siêu phàm. Ðầu đội trời chi thái độ vươn
lên những gì cao thượng, đầu đội trời chỉ sự cố gắng phóng mình tới lý tưởng xa
vời, đầu đội trời chỉ sự hướng tâm con người về mục đích ở tận bên kia thế
giới, đầu đội trời chỉ nỗ lực băng mình lên cao để tìm về quê hương trên trời.
Những suy tư của Ðức Cha Bùi
Tuần gợi lại cho chúng ta câu nói của Chúa Giêsu với cha mẹ Ngài khi hai Ðấng
gặp lại Ngài trong Ðền Thờ Yêrusalem: "Cha mẹ không biết con phải lo việc
Cha con sao?" Ðầu đội trời chính là lo việc Cha trên trời, là hướng về
trời cao, là sống cho những giá trị vĩnh cửu. Nên người thực sự là sống đúng ý
nghĩa ba chữ "đầu đội trời", và đó phải là mục đích của giáo dục gia
đình, bất cứ hành động nào đi ngược mục đích ấy đều là phản giáo dục.
Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta tự vấn lương tâm xem đâu là những giá trị đích thực mà chúng ta đang
theo đuổi và muốn truyền đạt cho người khác. Nguyện xin Ðấng là Ðường, là Sự
Thật và là Sự Sống soi sáng và hướng dẫn chúng ta.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Thứ Bảy Tuần 2 TN, Năm
lẻ
(Dt 9,2-3.11-14 ; Mc
3,20-21)
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tình yêu
vô biên của Chúa Giêsu
Khi
yêu, con người làm những việc bị người khác coi là điên khùng; chẳng hạn, đứng
chờ người yêu dưới mưa, hay sẵn sàng chết vì người mình yêu. Nhưng đối với
người đang yêu, nó được thúc đẩy phải biểu lộ để chứng tỏ tình yêu. Chính Chúa
Giêsu đã từng rửa chân cho các Tông-đồ và căn dặn các ông cũng phải rửa chân
cho nhau. Ngài cũng đã nói với các ông: “không có tình yêu nào lớn lao cho bằng
tình của người chết vì yêu.” Ngài không chỉ nói, nhưng đã vác Thập Giá lên Đồi
Golgotha để chết cho con người, để chứng tỏ tình yêu của Ngài.
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung trong những biểu lộ tình yêu của Chúa Giêsu dành cho
con người. Trong Bài Đọc I, tác-giả Thư Do-Thái so sánh máu của Chúa Giêsu đổ
ra để xóa tội cho con người với máu của chiên bò rảy trên con người của Cựu
Ước. Nếu máu chiên bò có thể cất đi tội cho con người, huống hồ gì là máu của
Con Thiên Chúa! Trong Phúc Âm, vì quá yêu thương dân chúng, Chúa Giêsu và các
môn đệ làm việc không ngơi nghỉ đến nỗi không có giờ ăn uống. Thân nhân của
Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Máu của Đức Kitô đổ ra có sức thanh tẩy hiệu quả hơn máu của chiên
bò.
1.1/
Lều Hội Ngộ và Lều của Đức Kitô: Sau khi đã so sánh phẩm trật Thượng Tế và lễ
vật hy sinh, tác giả Thư Do-Thái muốn so sánh nơi chốn mà Thượng Tế dâng lễ
vật. Lều Hội Ngộ, nơi mà các Thượng Tế dâng lễ hy sinh trong Ngày Đền Tội mỗi
năm, được dựng nên bởi con người theo kiểu mẫu Thiên Chúa mặc khải cho Moses.
Lều này chỉ là hình bóng của một thực tại, Lều lớn và hòan hảo hơn, không do
bàn tay con người xây dựng và không thuộc về thế giới này, nhưng do chính Thiên
Chúa tạo dựng.
(1)
Lều Hội Ngộ: Trong
Cựu-Ước, Lều này được cấu trúc theo mô hình mà Thiên Chúa đã mặc khải cho
Moses. Tác giả mô tả vắn tắt như sau: “Lều này được gọi là Nơi Thánh, có cây
đèn bảy ngọn, có bàn và bánh dâng tiến. Đằng sau bức màn thứ hai, có một cái
lều gọi là Nơi Cực Thánh.” Các tư tế có thể vào Nơi Thánh để dâng lễ vật hàng
tuần; nhưng chỉ có Thượng Tế mới được vào Nơi Cực Thánh, mỗi năm một lần, để
dâng lễ vật cho mình và cho dân.
(2)
Lều lớn và hòan hảo hơn: “Nhưng Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới
tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo
hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ
tạo này.” Có học-giả cho rằng, Lều này chính là thân xác Chúa Giêsu, nhưng thân
xác Chúa Giêsu được cưu mang và thành hình bởi Đức Mẹ, một con người. Lối giải
thích hợp lý hơn cho Lều này chính là con người Chúa Giêsu, kết hợp bởi cả
thiên tính và nhân tính, như Thánh Ambrosio nói: “Bàn thờ tượng trưng thân thể
Chúa Kitô, và thân thể của Chúa Kitô ở trên bàn thờ” (GLCG trưng Ambrosio,
Sacer. 4, 7). Hiểu như thế, Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế, vừa là Lễ Hy Sinh, vừa
là Bàn Thờ.
1.2/
Máu của Đức Kitô và máu của chiên bò: Tác giả đã so sánh lễ hy sinh của Cựu Ước với
Lễ Hy Sinh của Thượng Tế Giêsu; giờ đây, tác giả so sánh về hiệu quả của máu đổ
ra của hai lễ hy sinh này. Trong Cựu Ước, máu đổ ra là máu của chiên, dê, bò;
trong Tân Ước, máu đổ ra là chính máu của Thượng Tế Giêsu, Người Con của Thiên
Chúa. Máu của Đức Kitô đem lại cho con người những hiệu quả sau:
(1)
Sự vững bền:
Máu súc vật phải đổ mỗi lần con người phạm tội. Máu Đức Kitô đổ một lần là đủ:
“Người chỉ đổ máu một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho
chúng ta.”
(2)
Hiệu quả:
Theo truyền thống Do-Thái, máu súc vật chỉ có thể lấy đi những tội phạm vì vô
tình; những tội cố ý phạm, không máu súc vật nào có thể lấy đi được. Máu của
Đức Kitô vì là máu của tự nguyện, của yêu thương, của Con Thiên Chúa, có thể
tha thứ tất cả các tội: “Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác
bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho
thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết
mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn
toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những
việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.”
2/
Phúc Âm: Chúa Giêsu và các môn đệ quên mình để lo cho dân chúng.
2.1/
Lòng yêu thương của Chúa Giêsu dành cho con người: “Người trở về nhà và
đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được.”
Những việc này xảy ra là vì Chúa Giêsu và các môn đệ quá thương dân chúng. Nếu
Chúa Giêsu không muốn những điều này xảy ra, Ngài chỉ cần đình chỉ việc chữa
lành hay lánh đi một nơi hẻo lánh, là giải quyết được vấn đề. Chỉ có tình yêu
mới thúc đẩy Chúa Giêsu và các môn đệ vào hòan cảnh này; tuy vậy, các ngài vẫn
vui vẻ phục vụ.
2.2/
Thân nhân không thể hiểu nổi những gì Chúa Giêsu làm: “Thân nhân của Người
hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.” Theo thói
thường, người không yêu không thể hiểu nổi lý lẽ của tình yêu. Các thân nhân
của Chúa Giêsu không thể nào hiểu nổi tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha
và cho con người. Theo họ, cuộc sống như Chúa Giêsu đang sống là một điên khùng
và thất bại, vì:
(1)
Lang thang khắp nơi, nay đây mai đó, không có nghề nghiệp gì nhất định; trong khi theo họ,
con người phải có mái nhà an tòan và nghề nghiệp vững chắc để sinh sống.
(2)
Kết bạn với những người nghèo khổ và thất học; trong khi theo họ, phải có kiến thức
và địa vị cao trọng trong xã hội.
(3)
Dám đương đầu với quyền lực của giới cai trị tôn giáo như Biệt-phái,
Kinh-sư, Cao-niên. Theo họ, làm như thế là tự mang án tử cho mình.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
-
Nhìn vào những gì Chúa Giêsu đã, đang, và sẽ làm cho con người, chúng ta nhận
ra tình yêu của Ngài dành cho chúng ta.
-
Không ai dám hy sinh tính mạng cho người khác; họa chăng có người dám chết vì
người công chính. Đức Kitô đã chết cho chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân.
-
Vì Đức Kitô đã yêu thương và hy sinh tất cả cho chúng ta, chúng ta không được
ích kỷ để chỉ biết sống cho mình; nhưng phải yêu thương và hy sinh cho người
khác như Đức Kitô đã dạy chúng ta.
Linh mục
Anthony Đinh Minh Tiên OP
Thánh Timôthê và Titô (26/01)
Sứ điệp: Chúa cho con người được chia sẻ công việc của
Chúa: công cuộc loan báo Tin mừng. Chúng ta cần tạ ơn Chúa vì vinh dự lớn lao
này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Lời Chúa hôm
nay cho con thấy nỗi lòng của Chúa. Mang trong lòng sứ mạng cứu độ, Chúa trăn
trở biết bao khi bao tâm hồn đang cần được giải thoát như đất khô cần nước, như
trái chín cần thu hoạch, như lúa vàng cần gặt hái. Chúa phải thốt lên: “Lúa
chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Lúa đã chín mà thiếu thợ gặt thì
lúa rụng, lúa hư. Lúa rụng, lúa hư thì người nông phu nào mà chẳng xót
xa! Chúa mong con cái Chúa là bàn tay nối dài của Chúa để ôm ấp mọi người; Chúa
mong con cái Chúa như chiếc loa phóng to thêm lời yêu thương của Chúa cho nhiều
người được nghe, Chúa mong con tim của chúng con đong đầy tình yêu Chúa để
chuyển đến cho bao trái tim đang cằn khô tình yêu.
Chúa đang cần và rất cần đến con người tiếp tay
với Chúa. Thánh Phaolô rồi đến thánh Titô, thánh Timôthê và bao người đã nên
thợ gặt thiêng liêng cho Chúa. Hôm nay, cũng với lời thiết tha khi xưa, Chúa
lại nói với con: “Lúa chín đầy đồng mà thợ
gặt thì ít”. Thế giới hơn sáu tỉ người hôm nay là cánh đồng lúa
rộng lớn gấp vạn lần thế giới ngày xưa đó. Điều đó càng làm cho Lời Chúa kêu
gọi thêm vạn lần khẩn thiết. Không biết con có động lòng thao thức với Chúa hay
không? Không biết con có sẵn sàng nối gót Phaolô, nối gót Timôthê và Titô chia
sẻ sứ mạng loan báo Lời Chúa cho thế giới hay không?
Lạy Chúa, xin cho con cảm nhận được rằng: Chúa
mời gọi con tham gia sứ mạng đó là vinh dự cho con, vì con được chia sẻ công
việc của Con Đức Chúa Trời. Nhờ cảm nhận đó, con sẽ biết tạ ơn Chúa. Cũng nhờ
đó mà con biết vị trí của mình để khiêm tốn và trông cậy vào Chúa khi làm việc
tông đồ: “thắng không kiêu và thua chẳng nản”. Amen.
Ghi nhớ :"Lúa chín đầy đồng
mà thợ gặt thì ít".
www.phatdiem.org
THỨ BẢY TUẦN II MÙA QUANH NĂM
Thánh Timôthê và Thánh Titô
Lc 10, 1 - 9
Thánh Timôthê và Thánh Titô
Lc 10, 1 - 9
1.Ghi nhớ: "Lúa chín đầy đồng mà mà thợ gặt thì ít.
Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về" (Lc 10,2).
2.Suy niệm: Việc tông đồ là
việc của Chúa, là việc qui tụ mọi người nhận biết và yêu mến Chúa. Người kitô
hữu là người thợ gặt, là người tông đồ được Chúa sai đến trong thời đại. Vì
thế, chúng ta phải luôn ý thức điều đó, để cầu nguyện, để cộng tác và để làm
theo ý Chúa trong chức vụ của mình. Trong đời sống đã qua, tôi có ý thức nhiệm
vụ tông đồ không? Tôi sẽ làm gì trên cánh đồng truyền giáo ngày nay?
3.Sống Lời Chúa: Siêng năng rước
Chúa để Chúa luôn làm chủ hành động và cuộc đời tôi.
4.Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con được tự do hoàn toàn để
con có thể tập trung vào sứ mạng Chúa trao. Amen.
www.giaophanvinhlong.net
26/01/13 THỨ BẢY TUẦN 2
TN
Th. Timôtê và Titô, giám mục
Lc 10,1-9
Th. Timôtê và Titô, giám mục
Lc 10,1-9
ĐƯỢC GỌI ĐỂ ĐƯỢC SAI ĐI
"Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con
vào giữa bầy sói" (Lc 11,3)
Suy niệm: Chúa gọi 72 môn đệ và sai các ông
từng hai người một đi trước chuẩn bị cho Người đến. Nhiệm vụ không đơn giản
chút nào vì không được mang theo những dụng cụ mà người hoạt động như vậy thông
thường cần phải có. Đi truyền giáo đâu có phải là cuộc dạo chơi lý thú, đi du
lịch hay đi làm đặc phái viên của một tổ chức. Đi rao giảng Tin Mừng là một
cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm như “chiên con vào giữa bầy sói.” Dù vậy, các môn
đệ không bơ vơ vì Đấng sai họ đi hằng ở với họ, để nâng đỡ, khích lệ. Thành
công của sứ vụ không đến từ nỗ lực của con người mà trước hết từ Thiên Chúa, vì
Ngài muốn mọi người được nhận biết Ngài. Một khi các môn đệ thi hành ý muốn ấy
là các Ngài sẽ thành công, bằng không chỉ là thất bại.
Mời Bạn: Bạn đã được chọn để làm chứng cho
Nước Chúa giữa trần gian: trong môi trường làm việc, trong gia đình… Bạn đã
trang bị cho mình những phương tiện nào: tiền bạc, của cải vật chất hay là
nhiệt tình làm cho Tin Mừng của Chua được mọi người biết đến?
Chia sẻ: Khi được sai đi đến với người khác
bạn phản ứng thế nào? – Vui vẻ hay tìm cách thoái thác bằng nhiều lý do được
coi là chính đáng?
Sống Lời Chúa: Truyền giáo là sự sống
còn của Giáo Hội trần thế, là đòi hỏi thiết yếu của người Kitô hữu. Hãy đặt ra
cho mình một quyết tâm truyền giáo trong Năm Đức Tin này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy ban
cho chúng con trở nên những môn đệ nhiệt thành loan báo Nước Thiên Chúa.
www.5phutloichua.net
Vào nhà, vào thành phố
Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật,
một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình. Chúng ta sẽ rao giảng gì cho
97% dân Châu Á mà phần đông đã tin vào một Ðấng Cứu Ðộ?
Suy niệm:
Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế giới nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%. Cánh đồng lúa chín mênh mông đang cần thợ
gặt. Ðức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài
muốn đến,
nhiều căn nhà, nhiều thành phố
Ngài muốn đặt chân. Ngài cần những
người đi trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ giữa Ngài với con người. Khoa học càng tiến bộ,
cuộc sống càng văn minh thì càng có nhiều lãnh vực mới Ðức Giêsu cần vào.
Ðưa Ngài vào thật là một thách đố
cho chúng ta. Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm. Nhưng nếu
chúng ta được Ngài sai vào trước, thì thế nào cuối cùng Ngài cũng vào được. Nếp sống cao ở
thành thị vừa gây cản trở, vừa cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa
Ngài vào. Hãy chuẩn bị cho Ngài vào thành phố của bạn, vào trường
học, sân vận động, vào xí nghiệp, công ty... Hãy chuẩn bị để Ngài
vào từng nhà, gặp từng người. Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc đó. Ðâu là khuôn
mặt của người được sai hôm xưa? Hiền lành như chiên giữa bầy sói. Khó nghèo
thanh bạch, không túi tiền, giầy dép, bao bị. Khiêm tốn đón nhận sự
giúp đỡ về nhà ở cơm ăn. Tôn trọng tự do tha nhân, chấp nhận bị từ chối.
Người Châu Á hôm nay dễ đón nhận
người tông đồ sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư, sống nhân từ,
phục vụ. Cuộc sống của họ phải tỏa hương thơm của thế giới mai
sau,
phải
có khả năng nâng con người lên Ðấng Tuyệt Ðối. Ðâu là đóng góp của
người được sai hôm xưa? Vừa chữa người đau yếu và trừ quỷ, vừa loan báo về triều
đại Thiên Chúa gần đến. Việc làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc
làm.
Cả
hai đều đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc.
Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới
bệnh tật, một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình. Chúng ta sẽ
rao giảng gì cho 97% dân Châu Á mà phần đông đã tin vào một Ðấng Cứu Ðộ?
Ðức
Giêsu đem đến cho nhân loại quà tặng đặc biệt nào? Chúng ta phải tập
trình bày sứ điệp Kitô giáo, nên cũng phải học nhiều nơi các tôn giáo Á
Châu.
Các
giám mục Malaysia, Singapore và Brunei đã liệt kê những gì có thể học được nơi
họ.
Học
cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người Hồi giáo. Học suy niệm và chiêm
niệm nơi người Ấn giáo. Học từ bỏ của cải và trọng sự sống nơi người Phật tử. Học thái độ
thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi đạo Khổng. Học sự đơn sơ, khiêm
tốn nơi người theo đạo Lão.
Càng học, ta càng dễ giới thiệu Ðức
Giêsu, và càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng
con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy
dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng
con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui, như người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn
thân. Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa
đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm
Hồn Lên Tháng Giêng
26 THÁNG GIÊNG
Nạn
Thất nghiệp – Một Tai Ương Xã Hội
Con người luôn luôn là
yếu tố quan trọng nhất trong mọi quá trình lao động, từ khởi sự cho đến hoàn
thành. Vì thế, trình độ văn minh của một dân tộc phản ảnh nơi chính thái độ của
họ đối với những người yếu kém trong xã hội, những người gặp khó khăn trong vấn
đề việc làm, những người phải đương đầu với tình trạng thiếu hay không có việc
làm. Thật vậy, một trong những bi kịch của thời đại chúng ta là tình trạng có quá
nhiều người thất nghiệp, nhất là những người trẻ. Chúng ta phải làm gì đây
trước tình hình này?
Cần phải nhận ra rằng
tình trạng ì do bắt buộc (nghĩa là muốn hoạt động nhưng không được hoạt động)
là một sự dữ . Nó tạo ra một sự ngưng trệ có chiều hướng làm tê liệt chính niềm
hy vọng của người ta. Những ước mơ và lý tưởng của người ta bị đe dọa, người ta
trở thành quờ quạng, lóng ngóng. Người trẻ, trong trường hợp này, nhận thấy
mình bị tước mất cơ hội xây dựng gia đình. Rồi, hậu quả xảy ra là những suy bại
khôn lường về đạo đức và tâm lý. Quả là một tình trạng đòi chúng ta phải dành
quan tâm một cách khẩn trương.
Tôi muốn nhắc đi nhắc
lại rằng “tình trạng thất nghiệp – trong bất luận trường hợp nào – cũng đều là
một sự dữ, và đến một mức nào đó, nó có thể trở thành một tai họa thực sự cho
xã hội” (Laborem exercens 8). Thất nghiệp là một ‘nạn dịch”. Dịch bệnh này phát
triển trong những cơ thể ốm yếu, suy nhược. Khi một xã hội cảm thấy mình đứng
trước sự đe dọa của nạn dịch này, xã hội ấy cần phải nghiêm túc xem lại ‘sức
khỏe’ của mình.
Chúng ta cần sử dụng
mọi phương tiện để khảo sát và nghiên cứu vấn đề hệ trọng này – sao cho có thể
tìm ra một giải pháp. Chẳng hạn, khoa xã hội học và kinh tế học chắc chắn có
thể giúp ta hiểu rất nhiều về tình trạng thất nghiệp trong ánh sáng của những
sự thay đổi lớn lao về công nghệ – là điều đang dẫn tới những thay đổi về điều
kiện làm việc trong thời hiện đại của chúng ta.
Trong công cuộc tìm
kiếm những giải pháp, chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng con người là yếu tố thứ
nhất mà chúng ta phải quan tâm. Sự đóng góp của con người là – và mãi mãi vẫn
là – yếu tố cốt lõi cho sự tiến bộ đích thực. Không có một máy móc nào – dù
tinh vi tới đâu đi nữa – có thể thay thế cho trí tuệ của con người.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by
Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 26-01
Thánh Timôthêô và
Thánh Titô Giám mục; 2Tm 1, 1-8; Lc 10, 1-9.
LỜI SUY NIỆM: “Sau đó, Chúa chỉ định
bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất
cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.” (Lc 10,1).
Ngoài Mười Hai Tông Đồ
của Chúa mà chúng ta đều đã thuộc tên. Tin Mừng còn cho chúng ta biết Chúa
Giêsu còn có một nhóm tông đồ khác gồm Bảy Mươi Hai người và giờ đây Chúa sai
họ đi vào các nơi mà Ngài sẽ đến. Điều này giúp cho chúng ta thấy được về vấn
đề nhân sự không bao giờ cho là đủ, luôn phải đào tạo liên tục lớp này nhóm nọ,
trong mọi lứa tuổi, để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của Tin Mừng. Đồng thời khi sử
dụng, người quản lý phải có niềm tin vào những nhân sự đã được đào tạo để sai
đi. Và khi sai đi, thì phải sai từng hai người một đi với nhau trong cùng một
công tác, để nói lên sự gắn bó với nhau, có thêm sự khôn ngoan minh mẫn khi
phải giải quyết công việc, để đem lại thành quả tốt đẹp nhất.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương
Thánh Nhân
Ngày 26-01:
Thánh TIMÔTÊÔ Và TITÔ
GIÁM MỤC
Thánh TIMÔTÊÔ (thế kỷ
I)
Là con của người cha
Hilạp và người mẹ Do thái, thánh TIMÔTÊÔ đã được theo đạo vào năm 47 khi thánh
Phaolô giảng đạo tại Lystra miền tiểu Á trong cuộc bách hại dữ dội khiến thánh
Phaolô bị mém đá đến gần chết (Cv 14,6-19) Trong cuộc viếng thăm lần thứ hai
vào năm 50 thánh Phaolô đã chọn Ngài như người bạn đồng hành thay thế cho Marcô
(Cv 13,13.15,38) và cùng với Silas lo việc truyền giáo tại Trung Á (Cv 16,1).
Như thế, Timotêô đã
chứng kiến việc rao giảng Tin Mừng đầu tiên cho Âu châu. Từ đó Ngài thường được
sách Công vụ các sứ đồ và các thánh thư nhắc đến như một trong các "tông
đồ" hay thừa phái thánh Phaolô giữ lại hoặc sai đi quan sát các cộng đoàn
Kitô hữu đã được thiết lập. Khoảng năm 51 Ngài cũng ký tên với thánh Phaolô
trong các thư gửi tín hữu Thessalonica và chính Ngài đã từ Côrintô mang thư đến
cho cộng đoàn mới trở lại đạo.
Năm 57 Ngài trở lại để
mang thư thứ hai gửi các tín hữu Côrintô và năm sau, Ngài lại cùng với thánh
Phaolô gửi thư chào Giáo hội Rôma. Cuối cùng khi Phaolô bị điệu về Roma,
Timoteo vẫn còn ở bên cạnh Ngài, ký tên vào các thư gửi đi vào khoảng năm 62
cho dân Philêmon, dân Côlosê và Philippe (Ph 2,20)
Năm 65 hình như Phaolô
được thả và có dịp thi hành dự định rao giảng Tin Mừng ở thế giới tây phương.
Vắng mặt ở miền Đông. Thánh Phaolô vãn liên kết với các cộng đoàn Kitô hữu, dầu
không lên kết với một cộng đoàn nào với tư cách giám mục cả. Timotêô thì ước
hẹn với Á Châu và đặt địa điểm ở Ephesô. Ở đây Ngài nhận được hai lá thư của
Phaolô, một lá thư từ Macêdonia khoảng năm 65 và lá thứ khác khoảng hai nămsau
gửi từ Roma, là nơi Phaolô bị giam lần thứ hai.
Chính nhờ những lá thư
này mà chúng ta biết được nhiều về Timotêô. Chúng thường đề cập đến nguy hiểm
mà các Giáo hội ở Á châu phải đương đầu, nhưng chúng cũng đưa ra ánh sáng tính
khí mà con người Phaolô đã để lại chống đỡ với nguy hiểm. Rõ ràng là có tính
nhút nhát, e dè, nhưng Ngài cũng đủ nhiệt tâm trong công việc, đến nỗi cần được
nhắc nhở phải quan tâm tới sức khỏe của mình. Ngài cũng biết rõ những đau khổ
phải chịu để bảo vệ đức tin (2Tm 3,12) và những lời khuyên thánh Phaolô lặp lại
không được gợi lên, bởi rằng Timotêô yếu đuối, nhưng đúng hơn vì biết rằng ngày
cùng của mình đã gần, và rồi những người trợ giúp mình sẽ phải kề vai vác lấy
gánh nặng một mình. Cuối cùng Phaolô chỉ còn biết nhắc đến ước nguyện của mình
là Timotêô hãy giữ "đạo lý", đức hạnh, dự định, lòng tin, đại lượng,
mến yêu, kiên nhẫn" (Tm 3,10) như Ngài đã học được. Phaolô gọi Timotêô đến
an ủi mình trong những giờ phút cuối cùng, lời gọi chứng tỏ hùng hồn rằng
Timotêô là con rất thân yêu của thánh Phaolô.
Tân ước còn có một ghi
chú nữa về Timotêô trong thư Philip.13,23 trong đó có ghi nhận rằng: Phaolô
được thả ra khỏi cảnh tù tội lần 2 khoảng năm 67 và tác giả muốn có Timotêô
tháp tùng về Giêrusalem.
Một truyền thống cho
rằng thánh Timotêô đã ở lại Ephêsô cho tới hết đời. Sách "Công vụ thánh
Timotêô" thế kỷ IV mô tả cái chết của Ngài như là bị ném đá và bị đánh đập
cho đến chết, nhưng tài liệu quá ít nên không rõ được rằng điều đó có đúng
nguồn hay không.
Constantinople cho
rằng: mình giữ được các di tích của thánh nhân và lễ kinh nhớ Ngài được cử hành
này 26 tháng giêng, tiếp liền ngày kính nhớ thầy mình.
Thánh TITÔ (thế kỷ I)
Sinh ra là lương dân,
thánh Titô đã được thánh Phaolô cải hóa và được gọi là "người con chân
thành của tôi trong sự thông hiệp với đức tin". Titô nhận được những sứ
mệnh khó khăn. Ngài được thánh tông đồ gửi tới dân Côrintô để tổ chức giáo đoàn
và thu tiền quyên cúng ủng hộ Giáo hội ở Gierusalem.
Thánh Phaolô trong một
bức thư đã bộc lộ lòng yêu quý sâu xa đối với người bạn đời của mình: "Tâm
trí tôi không thảnh thơi chút nào vì xa cách bạn Titô đi Côrintô một lần nữa để
sửa chữa những bất hoà và thánh Titô đã mang lại cho Ngài những tin tức tốt đẹp
hơn.
Thánh Titô lãnh trách
nhiệm tổ chức giáo đoàn ở đảo Crêta. Ơ đó Ngài nhận thư mang danh mình, thánh
tông đồ truyền: "Hãy nói với các vị cao niên phải tiết độ đàng hoàng điềm
đạm, lành mạnh về đức tin, đức mến và kiên nhẫn... hạng thiếu niên cũng vậy,
hãy truyền dạy họ phải biết ở điềm đạm. Trong mọi sự anh em hãy tỏ ra là gương
mẫu về đức hạnh, tinh toàn và đoan trang trong giáo huấn (Tt 2,2-10).
Thánh Titô qua đời
khoảng năm 105.
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
26 Tháng Giêng
Quốc Khánh Của Australia
Hôm nay 26 tháng 01 là ngày quốc khánh
của người Australia.
Ngày
26/01/1788, lá cờ của nước Anh lần đầu tiên được cắm trên lãnh thổ của
Australia, đánh dấu đợt định cư đầu tiên của 730 người. 730 cựu tù nhân này đã
được coi như là thủy tổ của đa số người dân Australia này nay.
Ðối
với chính phủ Anh thời bấy giờ, việc lưu đày các tù nhân qua một vùng đất xa lạ
là một biện pháp giúp giải quyết vấn đề ứ đọng tại các nhà tù trong nước. Nhưng
đối với 730 người lần đầu tiên của Australia này, thì đây là cơ hội để làm lại cuộc đời. Dù
muốn dù không, người dân Australia chính hiệu ngày nay không thể phủ nhận được
sự kiện là quốc gia của họ đẫ được lhai sinh do những con người mà xã hội muốn
xua đuổi cho rảnh tay.
Ngày
nay, Australia được xếp vào hạng những nước tiên tiến về mọi mặt. Nhưng có lẽ
họ không thể quên được công ơn xây dựng của cha ông họ, dù tông tích của họ có
là một quá khứ xấu xa đến đâu.
Câu chuyện lập quốc của nước Australiacó
thể giúp chúng ta hiểu được phần nào hai chữ Quan Phòng trong Kitô giáo của
chúng ta. Lời của thánh Phaolô là một xác quyết về sự quan phòng ấy: nơi nào có
tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào.
Lịch sử của dân Israel và lịch sử ơn
cứu rỗi cũng cho chúng ta thấy một chuỗi những vấp ngã của con người và một
chuỗi những can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Mỗi lần con người phạm tội là mỗi
lần Thiên Chúa ban ơn như một khởi điểm cho một công trình mới tốt đẹp hơn.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ hai Thánh
Timôtê và Titô, hai người con tinh thần và cộng sự viên gần gũi của thánh
Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại ngày hôm qua.
Cũng giống như Thánh Phaolô,
Timôtêmang hai dòng máu Hy Lạp và Do Thái. Do Thái xem Ngài như một đứa con
ngoại hôn. Nhưng cái tư thế bị ruồng rẫy đó đã khiến cho Timôtê trở thành gạch
nối giữa Tin Mừng và văn minh của những dân tộc ở ngoài Do Thái giáo. Trong 15
năm sát cánh bên cạnh Thánh Phaolô để phục vụ các cộng đoàn Ephêsô, Timôtê đã
để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ.
Cũng giống như Phaolô và Timôtê,
Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo
Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật.
Ôn lại cuộc đời của ba vị Thánh
thuộc thế giới dân ngoại này, chúng ta thấy động tác lạ lùng của ơn Chúa. Mọi
người, dù thấp hèn đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng trong chương trình cứu rỗi
của Chúa. Mọi người đều có thể là trung gian nhờ đó ơn Chúa được thông ban cho
người khác. Thế giới không được cứu rỗi nhờ những gì chúng ta làm, mà nhờ những
gì Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng ta.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét