Trang

Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

11-08-2013 :(1) CHÚA NHẬT XIX MÙA THƯỜNG NIÊN năm C

Chúa Nhật 19 Thường Niên - Năm C
(Phần I)


BÀI ĐỌC I:  Kn 18, 6-9
"Như Chúa đã làm hại đối thủ thế nào, Chúa cũng đã làm cho chúng tôi được vẻ vang như vậy".

Trích sách Khôn Ngoan.
Chính đêm ấy, cha ông chúng ta đã biết trước, để biết chắc mình đã tin tưởng vào lời thề nào mà được can đảm. Dân Chúa đã mong đợi sự giải thoát những người công chính và sự tiêu diệt kẻ thù. Vì như Chúa đã làm hại đối thủ thế nào, Chúa cũng kêu gọi để làm cho chúng tôi được vẻ vang như vậy.
Vì những con cái thánh thiện của các tổ phụ tốt lành đã lén lút tế lễ, và đồng tâm thiết lập luật thánh thiện, ấn định rằng những người công chính sẽ đồng hưởng vinh nhục, may rủi đều nhau; như vậy là họ đã xướng lên trước bài ca tụng của các tổ phụ.  Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:  Tv 32, 1 và 12. 18-19. 20 và 22
Đáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).

1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa; ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Phúc thay quốc gia mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. - Đáp.
2)  Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Ngài, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Ngài, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Đáp.
3)  Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Đấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài. - Đáp.

BÀI ĐỌC II:  Dt 11, 1-2, 8-19
"Ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Đấng sáng lập".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt.
Nhờ đức tin, Abraham đáp lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người, sống trong lều trại, cũng như Isaac và Giacóp, những kẻ đồng thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Đấng sáng lập.
Nhờ đức tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà tin rằng Đấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người, mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số như sao trên trời và như cát bãi biển.
Chính trong đức tin mà tất cả những kẻ ấy đã chết trước khi nhận lãnh điều đã hứa, nhưng được nhìn thấy và đón chào từ đàng xa, đồng thời thú nhận rằng mình là lữ khách trên mặt đất. Những ai nói những lời như thế, chứng tỏ rằng mình đang đi tìm quê hương. Giá như họ còn nhớ đến quê hương dưới đất mà họ đã lìa bỏ, chắc họ có đủ thời giờ trở về. Nhưng hiện giờ họ ước mong một quê hương hoàn hảo hơn, tức là quê trời. Vì thế, Thiên Chúa không ngại để họ gọi mình là Thiên Chúa của họ, vì Người đã dọn sẵn cho họ một thành trì.
Nhờ đức tin, khi bị thử lòng, Abraham đã dâng Isaac. Ông hiến dâng con một mình, ông là người nhận lãnh lời hứa, là người đã được phán bảo lời này: "Chính nơi Isaac mà có một dòng dõi mang tên ngươi". Vì ông nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền làm cho kẻ chết sống lại, do đó, ông đã đón nhận con ông như một hình ảnh.  Đó là lời Chúa.

Hoặc bài vắn này:  Dt 11, 1-2, 8-12

Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt.
Nhờ đức tin, Abraham đáp lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người, sống trong lều trại, cũng như Isaac và Giacóp, những kẻ đồng thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Đấng sáng lập.
Nhờ đức tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà tin rằng Đấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người, mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số như sao trên trời và như cát bãi biển.  Đó là lời Chúa.

ALLELUIA:  Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống: không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

PHÚC ÂM:   Lc 12, 32-48
"Các con hãy sẵn sàng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con. Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó.
"Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Phêrô thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn". Đó là lời Chúa.

Hoặc bài vắn này:   Lc 12, 35-40

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".  Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Tỉnh thức và cảnh giác

Hẳn chúng ta còn nhớ giáo huấn của Lời Chúa trong Chúa nhật trước. Các bài Thánh Kinh hôm đó nhắc nhở chúng ta đang khi sinh sống ở trần gian đừng quên nghĩ đến tương lai và định mệnh cuối cùng của mình. Như vậy Lời Chúa hôm nay rõ ràng muốn tiếp tục giáo huấn chúng ta theo phương hướng ấy.
Bài sách Khôn ngoan cho chúng ta thấy con cái Israel vì đã được báo trước về tương lai nên đã bình tĩnh xử sự trong hiện tại như thế nào? Và thư Hipri nêu cao gương sáng của Abraham khi đã tin vào tương lai thì vững vàng tiến bước trên đường trần gian làm sao? Cuối cùng trong bài Tin Mừng Ðức Giêsu dạy chúng ta phải làm gì đang khi chờ đợi ngày Chúa trở lại? Nếu chúng ta muốn tìm hiểu lại các bài Kinh Thánh hôm nay theo diễn tiến thời gian, thì chúng ta hãy bắt đầu với thư Hipri, rồi đến bài sách Khôn ngoan, và sau hết chúng ta sẽ đọc lại bài Tin Mừng.

1. Bài Thư Hipri
Chúng ta biết thư Hipri là một bản văn đầy tính cách an ủi. Tác giả muốn khuyến khích các tín hữu của Chúa đang gặp khủng hoảng về đức tin. Chương 11 mà hôm nay chúng ta trích đọc một đoạn về Abraham, trình bày gương sáng đức tin của các tổ phụ, để có "cả đám mây nhân chứng lớn lao dường ấy quanh ta, thì cả ta nữa ta hãy... nắm lấy kiên nhẫn, chạy vào trận tuyến chờ ta, đăm nhìn lên Ðấng khơi nguồn và viên thành đức tin là Ðức Giêsu" (12,1-2).
Nhưng trước hết tác giả đã muốn định nghĩa đức tin là gì và khẳng định đó là nhân đức chung của mọi tổ phụ. Hơn nữa các người được vinh quang như ngày nay, hoàn toàn nhờ ở đức tin.
Vậy "tin là cách chiếm hữu điều còn trong hy vọng, là phương nhận thức các thực tại người ta không thấy". Các tổ phụ tin khi họ chắc chắn rằng các điều Chúa đã hứa cho họ về tương lai sẽ xảy đến cho họ và các điều vô hình Người nói với họ đều có thực.
Abraham là người đầu tiên có một đức tin như vậy. Chúa nói với ông ở đất Haran: "Hãy đi khỏi xứ sở ngươi... đến đất Ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn". Abraham tin vào lời đó và đã ra đi, chẳng hiểu sẽ đi đến chỗ nào, nhưng chắc chắn Chúa sẽ hướng dẫn mình đến đất sẽ trở thành quê hương xứ sở của mình và mình sẽ có con đàn cháu đống ở đó. Chính niềm tin đã đưa ông lên đường; và cũng chính niềm tin đã khiến ông không dừng lại lấy nơi nào làm quê hương không phải là nơi Chúa sẽ chỉ cho. Do đó, ở đâu và qua chỗ nào, ông cũng luôn sống trong lều vải, cũng như Isaac và Giacóp con cháu ông sau này, luôn luôn đợi ngày được xây đô thị cư ngụ vĩnh viễn theo ý Chúa sắp đặt.
Ðang khi ấy từ ngày này qua ngày khác, tháng trước qua tháng sau, năm cũ qua năm mới, Abraham bình tĩnh nhưng không khỏi nóng ruột muốn biết Chúa sẽ thực hiện Lời Chúa thế nào để ông có con đàn cháu đống làm nên một dân đông nhiều như sao trên trời như cát ngoài biển. Lời hứa này có lẽ còn khó tin hơn cả lời hứa về đất đai, vì cả Sara bạn ông và chính ông đều đã già nua tuổi tác. Dù vậy Abraham vẫn tin. Ông vẫn một mực tin vào Lời Chúa, cả khi Người bảo đem Isaac vừa lớn lên giết đi để tế lễ Người. Ông giơ tay sẵn sàng đem giết đứa con độc nhất đang khi vẫn ý thức một cách chắc chắn rằng miêu duệ mình sẽ không sức nào đếm nổi. Lòng tin thật lạ lùng. Nó là động lực của những hành động phi thường không thể nào hiểu thấu. Nó là bình an vững bền cho tâm hồn con người đang lữ hành trần gian. Nó mở cửa đời sau cho người ta bước vào một cách bình thản.
Tác giả thư Hipri hôm nay viết: "Thể theo lòng tin, các người ấy đã chết hết thảy mà không lĩnh được các điều đã hứa, nhưng chỉ nhìn xa xa và với chào". Các người ấy ở đây không những là Abraham và Sara, mà còn là Isaac và Giacóp, là Môsê và hết thảy các tổ phụ. Sách Ðệ Nhị Luật kể, Chúa đã đưa Môsê lên núi Nêbô. Người chỉ cho ông thấy tất cả đất hứa ở đằng xa. Con cái Israel sẽ vào, nhưng chính ông sẽ không được đến đất ấy (34,1-4).
Abraham và hết thảy các tổ phụ một cách nào đó cũng như Môsê. Họ chỉ được thấy đất hứa và tương lai dân tộc ở đàng xa, tức là trong niềm tin. Nhưng như vậy cũng đã đủ là lẽ sống cho họ. Họ tin vào Lời Chúa và lời hứa của Người. Họ từ bỏ mọi sự khác để sống phù hợp với niềm tin ấy. Nếu họ đã nản chí thì họ đã trở về quê hương cũ, nơi họ xuất phát và khởi hành. Nhưng vì tin và tiếp tục tin, họ luôn coi mình là lữ khách và kiều dân ở mọi nơi chưa phải là đất hứa. Và họ coi tất cả mọi sự không thuộc về Lời Hứa đều không quan trọng.
Thái độ này là điều mà phụng vụ muốn khuyên chúng ta hôm nay, chúng ta hãy đi trên đường đời như Abraham và các tổ phụ. Hãy nhìn Lời Hứa ở đàng xa và với chào. Hãy để cho tương lai và định mệnh ấy đưa chúng ta lên đường và cất bước không nao núng trong khi vui cũng như lúc âu sầu. Ðức tin đã cho chúng ta một hướng đi, thì trong những ngày u tối nhất chúng ta vẫn thấy sáng sủa; và khi gặp những cản trở to lớn, chúng ta vẫn không sờn lòng. Ðang khi ấy chúng ta đừng quên có "cả một đám mây nhân chứng lớn lao ở quanh ta" và có thể nói đang cùng ta tiến bước. Ðó không phải chỉ là gương sáng của tiền nhân mà còn là Hội Thánh. Dân Chúa đang cuốn ta cùng đi. Bài sách Khôn ngoan có thể giúp chúng ta suy nghĩ thêm về điểm này.

2. Bài Sách Khôn Ngoan
Những chương cuối cùng của tác phẩm này suy nghĩ về các biến cố trong việc xuất hành của con cái Israel ra khỏi Ai Cập. Và đoạn chúng ta đọc hôm nay ngẫm suy về chính đêm lịch sử đã giải thoát người Do Thái. Ðêm này, các tổ phụ đã được biết trước. Không những Chúa đã báo trước cho Abraham (Khởi nguyên 15,13-14) mà chính Môsê mới đây cũng bảo cho con cái Israel biết (Xh 12,21-28). Họ chỉ biết, nếu họ có niềm tin. Họ có tin vào Chúa và lời của Người, họ mới chờ đợi cái đêm hôm ấy. Niềm tin đây là niềm tin của tất cả cộng đồng, chứ không phải là niềm tin của từng cá nhân nữa. Tất cả cộng đồng con cái Israel đêm nay sống một niềm tin chung. Toàn thể dân Chúa chờ đợi đêm nay để thấy các thánh được cứu độ và thù địch bị diệt vong. Thế nên, họ hội họp nhau, dâng lễ vật vượt qua, thi hành các thánh chỉ, nhất trí một lòng cùng chung phúc may và hiểm họa, biểu hiện niềm tin duy nhất bằng cách cất tiếng hát.
Thực ra tác giả Khôn ngoan đã không hoàn toàn chỉ mô tả chính đêm Vượt qua. Ông đã nhìn vào lễ nghi Vượt qua ở thời ông để diễn lại đêm lịch sử nguyên thủy. Các ông đọc lại lịch sử càng cho chúng ta thấy ý nghĩa phong phú cứu độ của biến cố Xuất hành. Và chúng ta sung sướng ghi nhận những suy nghĩ của ông.
Với ông chúng ta thấy rằng con cái Israel đã được giải thoát nhờ niềm tin, một niềm tin vững vàng căn cứ nguyên vào Lời Chúa. Niềm tin này toàn dân phải sống. Hết thảy phải hội họp nhau trong đêm ấy, phải chắc chắn hành động cứu độ sắp xảy đến. Phải thi hành mọi chỉ thị của Chúa, phải nhất trí đồng hội đồng thuyền sẵn sàng chịu chung phúc họa.
Niềm tin này thật ra trong đêm lịch sử đầu tiên đã không được hoàn toàn như vậy. Hôm ấy con cái Israel chưa có kinh nghiệm và chưa thấy cánh tay mạnh mẽ của Chúa... Chính từ ngày thấy Chúa giải thoát dân bằng cánh tay hùng mạnh, người ta mới có kinh nghiệm và khuyến khích để tin vào những lần giải cứu khác mà Chúa nói là sẽ còn kỳ diệu hơn nữa. Tác giả sách Khôn ngoan là một trong những người tin mạnh mẽ vào hành động cứu độ của Chúa trong tương lai. Ông viết lại đêm xuất hành thời Môsê, tô điểm cho nó bằng niềm tin của ông, để khuyến khích con cái Israel mỗi khi ăn lễ Vượt qua và mỗi khi trông chờ ơn cứu độ, phải có niềm tin vững vàng, niềm tin tập thể, niềm tin Chúa sẽ cứu cộng đồng trong đó có mình.
Do đó nếu bài thư Hípri lấy gương Abraham để khuyến khích mỗi người chúng ta luôn luôn tiến bước về tương lai với niềm tin vững chắc, thì với bài sách Khôn ngoan này, phụng vụ muốn nhắc nhở chúng ta đặt niềm tin tương lai vào sự gắn bó với tập thể là Hội Thánh.
Dân Chúa hãy cử hành các buổi lễ Vượt qua là mầu nhiệm thánh thể trong một niềm tin chung. Dân Chúa mỗi khi gặp nhau, hãy một lòng một ý tiến về tương lai. Niềm tin tập thể đã giải cứu con cái Israel thế nào thì sẽ giúp dân mới vượt qua huy hoàng hơn nữa. Chúng ta không tiến về tương lai một mình, nhưng cùng với toàn thể nhân loại được cứu độ. Chúng ta phải cất cao bài hát của các tổ phụ, tức là nói lên niềm tin vững vàng phấn khởi vào Thiên Chúa và Lời Hứa của Người.
Nhưng nói như vậy có lẽ vẫn chưa cụ thể. Bài Tin Mừng Luca hôm nay truyền lại cho chúng ta giáo huấn rõ ràng hơn của Chúa.

3. Bài Tin Mừng Luca
Thoạt đầu Chúa nói với tất cả các môn đệ, tức là với hết thảy mọi người tin Chúa. Về sau Chúa nói riêng với các tông đồ tức là với những người có trách nhiệm trong Hội Thánh.
Với tất cả mọi người, Ðức Giêsu có một lời khích lệ âu yếm, Người nói: "Ðừng sợ, hỡi đàn chiên nhỏ bé, vì Cha các ngươi đã khấng ban nước Trời cho các ngươi". Lời nói vắn tắt nhưng rất thâm thúy. Nó có sức an ủi vì khêu lên niềm tin vững vàng. Nó cho chúng ta thấy rõ Chúa thấu suốt hoàn cảnh hiện tại của chúng ta..., nhưng Người cũng khẳng định thân phận của chúng ta rất tốt đẹp.
Hiện tại chúng ta là những con chiên nhỏ, vừa nhỏ vừa ít ỏi, vừa nhỏ vì yếu thế. Hội Thánh luôn luôn như vậy vừa ít số vừa không có thế lực. Thường khi chỉ là con thuyền nhỏ trong cơn bão táp trần gian. Nhưng Chúa bảo đừng sợ vì Chúa Cha đã khấng ban Nước Trời cho chúng ta.
Hơn nữa, Hội Thánh đang là chính Nước Trời ấy có sự sống phong phú của Thiên Chúa và nắm vững mọi phương tiện cứu rỗi. Những ai tin như vậy sẽ thấy bình an và vững vàng trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Tuy nhiên đức tin không phải chỉ là cái nhìn bình an. Nó là khởi điểm và là động lực. Nó đã làm cho Abraham lên đường và giúp ông luôn luôn cất bước cho đến hết cuộc đời. Nó đã khiến con cái Israel tập họp trong đêm xuất hành để vượt qua. Nó cũng phải đưa chúng ta vào hành động.
Vì thế Chúa nói với tất cả các môn đệ: Các ngươi hãy xắn áo đai lưng và đèn chong sáng, tức là cả đêm ngày luôn ở tư thế làm việc và sẵn sàng. Người Do Thái mặc áo dài lụng thụng, nên khi làm việc vừa phải sắn lên, vừa phải đai lại.
Ðó cũng còn là thái độ Chúa đòi khi họ ăn lễ Vượt qua (12,11). Nó nói lên ý nghĩa sẵn sàng. Còn khi nói phải chong đèn sáng, dĩ nhiên có ý tưởng bảo phải tỉnh thức và cảnh giác; nhưng cũng có ý nói: Tất cả chúng ta đã là con cái sự sáng, con cái của ban ngày, nên luôn luôn phải làm việc và làm việc trong sáng. Chúng ta cũng có thể nhớ lại lễ nghi rửa tội trong đó có việc trao nến sáng để nhắc nhở con cái Chúa phải nên như ánh sáng thế gian và phải giữ đèn sáng đi đón Chúa.
Ở đây, Chúa cũng gợi lên ý tưởng này. Người tự ví mình như người chủ đi ăn cưới chẳng biết lúc nào về. Phúc cho đầy tớ nào còn thức để mở cửa ngay cho chủ khi ông vừa về tới nhà. Nhưng Chúa không phải là người chủ thường...
Chẳng người chủ nào làm như Người đã làm và sẽ làm. Người sẽ cho đầy tớ Người là chúng ta ngồi vào bàn ăn và Người sẽ đi dọn bữa cho chúng ta. Với bất cứ người nào sẵn sàng mở cửa khi Chúa gõ, Người cũng sẽ đi vào nhà linh hồn người ấy, ban máu thịt, ân sủng và Lời Người cho họ làm lương thực và Người cũng sẽ dùng bữa ăn tại nhà người ấy.
Và không những được thêm ơn, những tâm hồn sẵn sàng đón Chúa như vậy còn được đảm bảo chẳng khi nào mất ơn. Kẻ trộm vào nhà sao được khi người trong nhà tỉnh thức? Chúa dùng toàn kiểu nói và hình ảnh thông thường để chúng ta dễ hiểu ý Người. Nhưng chúng ta không được dừng lại ở hình ảnh và kiểu nói. Còn phải đi xa hơn để thấy thái độ tỉnh thức mà Chúa căn dặn ở đây chính là sự cởi mở, nhậy cảm và là một thứ linh tính và giác quan và những điều có hệ đến Nước Trời, tức là đến Chúa và Hội Thánh, đến ơn cứu độ của Người hằng muốn ùa vào trong đời sống của chúng ta qua các biến cố to nhỏ hằng ngày. Chỉ khi nào người ta giữ tâm hồn cởi mở và nhạy cảm đối với những gì có thể làm tăng ơn Chúa và mở rộng Nước Người, lúc đó họ mới là con người sắn áo đai lưng và chong đèn sáng, họ mới có tư thế con người làm việc và sẵn sàng.
Một đức tin như vậy mới sống động và tích cực. Nó mới giống đức tin của Abraham và của cộng đồng dân Chúa nói trong các bài Kinh Thánh nói hôm nay.
Riêng đối với những người có trách nhiệm trong Hội Thánh Chúa muốn căn dặn qua câu trả lời cho Phêrô. Họ phải tỏ ra quản lý trung thực và khôn ngoan. Không những phải tỉnh thức và sẵn sàng đón chủ trở về, mà trong khi chờ đợi còn phải phục vụ gia nhân cho tươm tất đầy đủ; xả kỷ, yêu thương chứ không trục lợi, gắt gỏng, tàn ác. Kẻ biết rõ ý chủ mà không thi hành sẽ bị loại bỏ và coi như phường bất tín, tức là ra khỏi sản nghiệp dành cho những người có niềm tin. Còn ai hiểu biết ý chủ ít hơn, sẽ không bị phạt nặng bằng.
Thiết tưởng Chúa nói như vậy cũng đã đủ cho chúng ta suy nghĩ. Người luôn trung tín giữ mọi điều Người đã hứa. Không lời hứa nào đầy đủ hạnh phúc hơn Lời Người đã nói với chúng ta trong đức tin. Chính khi gọi chúng ta tin Người, Người đã hứa ban cho chúng ta mọi sự. Abraham đã nhận thấy như vậy và đã tin. Và vì tin ông đã có một đời sống tích cực như thế. Con cái Israel cũng đã tin lời Chúa như thế và đã thi hành chỉ thị của Người. Họ đã được Người đưa vào hứa địa, nơi chảy sữa và mật.
Ðến lượt chúng ta có cả một đám mây nhân chứng lớn lao dường ấy quanh ta, thì cả chúng ta nữa, chúng ta cũng hãy chạy vào trận tuyến chờ ta...! Và lời thư Hípri nói tiếp: "Chúng ta hãy đăm đăm nhìn lên Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn và viên thành đức tin".
Chúng ta hãy nhìn lên Người trong mầu nhiệm Thánh Thể này, Người chứng tỏ một niềm tin lớn lao dường nào khi ra đi chịu chết. Người làm lễ vượt qua của Người với đầy lòng tin, hoàn thành niềm tin của Abraham khi ra đi và của con cái Israel khi xuất hành... Người khơi đức tin lên nơi chúng ta để dự lễ rồi chúng ta sống đạo, sống đức tin, nhạy cảm với mọi sự có hệ đến phần rỗi của mọi người và tìm phục vụ trong yêu thương chứ không tìm ích kỷ trong hại người.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 19 Thường Niên, Năm C


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin tưởng và trung thành giữ Lời Thiên Chúa.

Có nhiều người tin vào câu nói: “Phải thấy mới tin; tin mà không thấy là tin dị đoan” mà chẳng cần kiểm chứng gì cả. Có nhiều điều sai trái trong câu này. Thứ nhất, khi một người nói tin, là anh tin vào điều anh chưa thấy; nếu đã thấy rồi thì không cần phải tin nữa. Ví dụ, chẳng ai nói: “Tôi tin là tôi đã tìm được số bạc mà tôi đã đánh mất;” nhưng chỉ nói “Tôi đã tìm được số bạc mà tôi đã đánh mất.” Thứ hai, khi một người nói: “tin mà không thấy là tin dị đoan” là một điều hàm hồ, vì có những điều người đó vẫn tin mặc dù không thấy. Ví dụ, chẳng ai thấy hơi thở, nhưng nếu thấy một người đang sống, anh phải tin là người ấy có hơi thở; hay chẳng ai thấy dòng điện chạy, nhưng chẳng ai dám đưa tay sờ vào ổ điện.

Các bài đọc hôm nay dẫn chứng niềm tin vào Thiên Chúa không phải là dị đoan; nhưng là niềm tin có kiểm chứng bằng những lời Thiên Chúa hứa và các việc Ngài làm. Trong bài đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan lặp lại lời hứa ban Đất Hứa của Thiên Chúa cho các tổ phụ. Ngài bắt đầu thực hiện trong đêm ấy, khi Ngài đưa dân ra khỏi miền đất nô lệ của Ai-cập, lang thang trong sa mạc 40 năm, và sau cùng cho họ định cư trong Đất Hứa, “vùng đất chảy sữa và mật.” Trong bài đọc II, sau khi đã cho một định nghĩa chính xác về niềm tin, tác giả Thư Do-thái dẫn chứng bằng những ví dụ lịch sử cho thấy những lời Thiên Chúa hứa và những việc Thiên Chúa làm luôn tương xứng với nhau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ phải tin tưởng và tỉnh thức chuẩn bị cho Ngày Thiên Chúa đến, Ngày mà họ sẽ được lãnh nhận tất cả những gì Thiên Chúa hứa ban cho các đầy tớ trung thành và khôn ngoan.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Đêm ấy đã được báo trước cho cha ông chúng con.

Đêm Vượt Qua là một biến cố vĩ đại mà không người Do-thái nào không biết, vì họ phải cử hành mỗi năm theo như luật Đức Chúa truyền. Mỗi khi cử hành biến cố này, họ nhắc nhở cho nhau uy quyền và tình thương của Đức Chúa dành cho họ, để họ biết sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa. Mỗi khi con cái Israel quên Đức Chúa và các Lề Luật của Ngài, Đức Chúa truyền cho các nhà lãnh đạo và các ngôn sứ nhắc nhở cho dân chúng nhớ lại biến cố này, để biết quay trở lại và tin vào Ngài.

1.1/ Đêm Vượt Qua của dân tộc Do-thái: Đức Chúa đã báo trước cho ông Moses và ông Aaron biết những gì xảy ra trong đêm ấy. Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vào tất cả các nhà của người Ai-cập để tàn sát tất cả các con đầu lòng của loài người cũng như loài vật; nhưng các thiên thần sẽ không vào những nhà nào có máu bôi trên cửa, mà ông Moses đã bí mật nói cho toàn dân phải làm khi giết con chiên Vượt Qua.

1.2/ Những gì đã xảy ra trong đêm ấy: Sự thật đã xảy ra như thế. Khi thấy các con đầu lòng của người Ai-cập bị tiêu diệt, vua Pharaoh và toàn dân đã phải xin ông Moses ra lệnh cho dân Do-thái phải tức khắc rời bỏ đất Ai-cập. Rồi khi vua Pharaoh đổi ý đuổi theo để bắt dân Do-thái trở lại, toàn bộ chiến xa và quân đội của nhà vua đã bị nhận chìm trong Biển Đỏ. Khi con cái Israel chứng kiến tất cả những cảnh tượng xảy ra trong đêm đó, họ nhận ra uy quyền và tình thương của Thiên Chúa dành cho họ, và họ hát lên những bài ca để ca tụng Thiên Chúa. Từ đó đến nay, họ vẫn giữ truyền thống cử hành trọng thể Lễ Vượt Qua mỗi năm, bằng việc giết con chiên tinh tuyền để ăn với bánh không men và rau đắng. Sự kiện này muốn nhắc nhở cho con cái Israel biết khi Đức Chúa hứa điều gì, Ngài sẽ làm; cho dẫu những điều Ngài hứa vượt quá khả năng bà sự tiên liệu của con người.

2/ Bài đọc II: Các tổ phụ tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín.

2.1/ Định nghĩa đức tin: Tác giả Thư Do-thái định nghĩa đức tin như sau: “Đức tin là điều chính yếu (hupostasis) của những gì ta hy vọng, là sự xác tín cho những điều ta không thấy.” Chúng ta có thể chia định nghĩa này làm hai để phân tích.

(1) Đức tin là điều chính yếu (hupostasis) của những gì ta hy vọng: Chữ chính yếu đây được dùng như bản thể khi nói Đức Kitô đồng bản thể với Đức Chúa Cha. Đức tin và đức cậy đi đôi với nhau, cái gì là chính yếu của đức tin thì cũng là như vậy của đức cậy. Đức tin là một sự thuyết phục của lý trí làm cho con người tin tưởng Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã hứa. Sự tin tưởng này mạnh đến độ làm cho con người cảm thấy tâm hồn được vui vẻ và bình an.

(2) Nó là sự xác tín cho những điều ta không thấy: Đức tin chứng minh cho lý trí những thực tại mà không thể hiểu bởi trí khôn con người. Đức tin là một sự đồng ý chắc chắn của linh hồn về những mạc khải thần linh và những gì liên quan đến chúng. Tuy nhiên, đức tin và lý trí không mâu thuẫn nhau, nếu một người nhận ra lý trí con người có giới hạn của nó. Điều con người không hiểu không có nghĩa là điều ấy không có, nhưng vì trí khôn con người yếu kém chưa hiểu được điều đó. Ví dụ, cắt nghĩa triết học cho học sinh tiểu học.


Hơn nữa, đức tin là một trong ba nhân đức đối thần; gọi là đối thần vì có đối tượng là Thiên Chúa hay những sự thuộc về Thiên Chúa. Con người chỉ có thể hiểu những đối tượng vật chất trong thế giới con người. Con người tự mình không có khả năng để tin vào Thiên Chúa, nên họ cần được sự trợ giúp của Thiên Chúa qua mạc khải và ơn thánh, để họ có thể tin vào Ngài.

2.2/ Hai ví dụ về đức tin của tiền nhân: Thiên Chúa không để con người phải vật lộn với đức tin, nhưng Ngài ban cho con người trí khôn để hiểu biết lịch sử của những người đã đặt niềm tin vào Ngài. Tác giả Thư Do-thái dẫn chứng cho độc giả rất nhiều niềm tin của các tổ phụ trong quá khứ; trình thuật hôm nay chỉ đề cập đến hai tổ phụ.

(1) Đức tin của tổ phụ Abraham: Theo truyền thống của Do-thái cũng như Ả-rập, tổ phụ Abraham là người rất nghiêng về lý trí. Truyền thống Do-thái kể: Abraham không thể thờ lạy thần mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao, vì tất cả đều mọc lên rồi lặn xuống theo qui luật của Đấng Tạo Dựng chúng. Truyền thống Hồi-giáo kể: Cha của Abraham là Terah, ông không chỉ thờ 12 thần, mỗi thần cho một tháng, mà còn có cả một xưởng để làm các thần. Ngày kia có một bà mang đồ ăn đến cúng cho các thần. Abraham lấy một cây gậy đánh bể tất cả các thần, rồi đặt cây gậy vào tay một thần to lớn. Khi cha ông trở về hỏi lý do tại sao các thần bị đập bể, ông chỉ vào một thần còn sót lại và nói với cha: chính thần này vì ham ăn nên đã đập vỡ các thần kia. Khi cha ông bảo là chuyện không thể xảy ra, ông liền nói với cha đừng thờ và đừng bán các thần đó nữa.

Abraham có một niềm tin vững mạnh vào Thiên Chúa đến nỗi Ngài bảo gì, ông làm như vậy.

(2) Đức tin của tổ mẫu Sarah: Việc có con trong lúc cả Abraham và Sarah đã trên 90 tuổi là điều không thể đối với con người. Bà đã bật cười khi bà nghe người khách hứa với Abraham: “Độ rày sang năm, Sarah vợ ông sẽ cưu mang cho ông một con trai” (Gen 18:12), vì bà nghĩ bà không còn rung cảm gì khi nghĩ đến chuyện chăn gối nữa, chứ đừng nói tới việc có con. Đức Chúa sửa dạy bà: “Nào có điều kỳ diệu nào vượt sức Đức Chúa?”

Thế mà mọi chuyện đã xảy ra đúng như lời Đức Chúa hứa. Mùa Xuân năm sau, Đức Chúa trở lại thăm, và ông bà đã có một người con trai. Ông Abraham được 100 tuổi khi sinh đứa con là Isaac. Hai ông bà đặt tên cho con là Isaac, tiếng Do-thái có nghĩa là “nụ cười.” Bà Sarah nói: “Thiên Chúa đã làm cho tôi cười; tất cả những ai nghe biết sẽ cười tôi." Bà còn nói: "Ai dám báo trước cho ông Abraham rằng Sarah sẽ cho con bú? Thế mà tôi đã sinh cho ông một con trai, khi ông đã về già!" (Gen 21:6-7).

3/ Phúc Âm: "Đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.”

Lời hứa ban Nước Trời cho các môn đệ đước Chúa Giêsu nhắc lại nhiều lần; vì thế, các tín hữu không thể sống như không có Nước Trời. Họ phải sống đời này với cặp mắt luôn hướng về đời sau. Họ không được tích trữ của cải đời này, nhưng phải biết dùng nó cho các công cuộc bác ái, để tích trữ cho họ kho tàng không hư nát trên trời, “một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá.” Chúa Giêsu liệt kê hai điều kiện để được chấp nhận vào làm công dân Nước Trời.

3.1/ Phải tỉnh thức chờ đợi ngày Chúa đến.

Làm sao có thể tỉnh thức mà chờ đợi mọi lúc? Chúa Giêsu trả lời: Hãy luôn sống như thể chủ đến bất cứ lúc nào. Một ví dụ cụ thể giúp chúng ta hiểu điều này là khẩu hiệu “Sắp Sẵn” và cách huấn luyện của phong trào Hướng Đạo. Các em được huấn luyện về mọi chuyên môn như: mưu sinh thoát hiểm, cứu thương, nấu ăn, bơi lội... Mục đích là để các em luôn có những kiến thức và khả năng này trong mình, để khi phải đương đầu với những nguy hiểm xảy ra, các em biết giải quyết làm sao. Trên bước đường thiêng liêng cũng thế, các tín hữu phải tập luyện và phát triển tất cả các nhân đức mà Kinh Thánh dạy như ba nhân đức đối thần tin, cậy, mến; bốn nhân đức trụ khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ; cùng tất cả các nhân đức khác; nhất là đừng mang một tội trọng nào trong người cả, khi nỡ phạm phải tìm dịp xưng ngay.

Trình thuật hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta ngày Chúa đến không nhất thiết là Ngày Tận Thế, có thể là ngày cuối cùng của đời mình; vì ngày chúng ta chết có khác gì ngày tận thế của cuộc đời chúng ta đâu.

3.2/ Phải trung thành phục vụ trong khi chờ đợi Chúa đến.

Ông Phêrô hỏi: "Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?" Chúa Giêsu đáp: "Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc?” Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, tất cả mọi người đều ở trong vai trò lãnh đạo, chỉ khác là là lãnh đạo nhiều người hay ít người thôi. Các cha mẹ lãnh đạo các con của mình, linh mục lãnh đạo giáo xứ, Đức Giáo Hoàng lãnh đạo cả hoàn cầu. Lãnh đạo theo cách thức của Thiên Chúa là phải hy sinh và phục vụ; chứ không phải lạm dụng quyền hành để bắt người khác phục vụ, hay để áp đảo những người dưới quyền mình. Mọi quyền hành đến từ Thiên Chúa và họ sẽ phải chịu trách nhiệm với Ngài.

Sau cùng, Chúa Giêsu nói về sự thưởng phạt và trách nhiệm. Ai chu toàn bổn phận sẽ được thưởng, ai không chu toàn sẽ bị phạt. Người đã được học biết chịu trách nhiệm nặng hơn người không biết. Ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Không một điều gì là không thể đối với Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ giới hạn Ngài vào sự suy nghĩ và cách thức của con người.

- Chúng ta cần phải xác tín những gì Thiên Chúa hứa Ngài sẽ thực hiện. Nếu Ngài đã hứa ban Nước Trời cho những kẻ tin tưởng và làm theo ý Ngài muốn, Ngài sẽ thực hiện. Điều quan trọng là chúng ta phải luôn tỉnh thức và trung thành phục vụ anh/chị/em.


Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

11/08/13 CHÚA NHẬT TUẦN 19 TN – C 
Lc 12,32-48

NHƯ NGƯỜI TÔI TỚ TRUNG TÍN
“Anh em hãy thắt đai lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay.” (Lc 12,35-36)
Suy niệm: Một triết gia nọ nói rằng “Con người sinh ra để chết”. Chúng ta không nghĩ như ông, vì con người sinh ra ở đời để sống, cái chết chỉ là một khoảnh khắc chấm dứt sự sống, chứ không phải là cùng đích của kiếp người. Cái chết chắc chắn sẽ đến với từng người, nhưng lại đến cách bất ngờ, rất bất ngờ. Trong cuộc sống, để tránh những điều bất ngờ, chúng ta thường có sự chuẩn bị trước: binh lính tập trận, lính cứu hỏa thực tập chữa cháy… Trong bài Tin Mừng, để giúp ta chuẩn bị trước bất ngờ của sự chết, để khi sự chết đến, ta khỏi bất ngờ, Chúa làm như một người chủ đi vắng. Ta hãy có tư thế sẵn sàng như người đầy tớ ban đêm đợi chủ trở về, không phải với tâm trạng sợ sệt, nhưng tin tưởng và hy vọng. Chủ về bất cứ giờ nào cũng hài lòng vì thấy người tôi trung đang chu toàn nhiệm vụ.
Mời Bạn: Đừng chia cuộc sống thành những giây phút có Chúa hiện diện và Chúa đi xa. Bạn lúc nào cũng đang sống, đang làm việc dưới cái nhìn yêu thương chăm sóc của Chúa.
Sống Lời Chúa: Dù học hành tại trường, lao động tại xí nghiệp, buôn bán giữa chợ đời, thư giãn nơi giải trí, nghỉ ngơi tại gia đình, hãy luôn nhớ rằng mình đang hoạt động trong Chúa, theo tinh thần của con cái trung tín với Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con trưởng thành như những con người tự do thật sự, vì thế, Chúa ẩn mình mặc dù vẫn hiện diện bên chúng con. Xin cho chúng con luôn trung tín và sẵn sàng theo tinh thần của Chúa. Amen.



5. Ngày mai không bao giờ đến


Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên Viên Thủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp mở ra đóng vào được.
Khách đến chơi trông thấy cười nhạo nói rằng:
- Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?
Nhà sư trả lời:
- Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời chẳng biết đến cái chết là gì… Mỗi khi có việc không vừa ý, tôi cầm lấy quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên tâm trong tâm hồn ngay.
Thật là hiếm, những con người luôn ngẫm suy về cái chết của chính mình, và còn hiếm hơn nữa, những con người xem cái chết như người bạn đồng hành, giúp họ vượt qua những nỗi chán chường trong cuộc sống như nhà sư Viên Thủ Trung trong câu chuyện trên đây. Phần nhiều, người ta bôn ba để kiếm sống, họ lo thu tích cho nhiều của cải, vội vã thụ hưởng những thú vui trần tục, họ sống như thể sẽ không bao giờ phải chết.
Tin Mừng hôm nay nhắc họ hãy “tỉnh thức và sẵn sàng”. Tỉnh thức như người đầy tớ trung tín đợi chủ về, như người khôn ngoan canh chừng tên đạo tặc; sẵn sàng như người quản lý khôn ngoan biết làm theo ý chủ.
Tỉnh thức không phải là không ngủ, mà là ngủ trong thức tỉnh.
Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm theo ý chủ trong khi đợi chờ.
Tỉnh thức không phải là nôn nao sốt ruột, mà lắng nghe tiếng gõ cửa với đèn sáng trong tay.
Chính khi nhận ra mình đang mê muội, tức là lúc bắt đầu tỉnh thức. Các thánh thường nhận mình mỏng dòn yếu đuối, nên các ngài luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Có một điều làm cho người ta rất đỗi hoang mang, là Chúa sẽ đến thật bất ngờ: “Vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12,40). Người sẽ đến “bất ngờ như kẻ trộm”. Kẻ trộm đến không bao giờ gửi thư báo trước, vì vũ khí của anh ta là sự bất ngờ. Chúa không có ý chơi xấu chúng ta, cũng không lợi dụng lúc chúng ta lơ là thì Người đến. Thật ra, Chúa chỉ nhắc nhở chúng ta hãy luôn tỉnh thức. Đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi phúc trường sinh. Đừng mê mải thú vui trần gian mà quên đi hạnh phúc Nước Trời.
Nói cho cùng, việc Chúa đến bất ngờ là một biến cố vui mừng chứ đâu phải là bất hạnh. Chỉ bất hạnh cho những kẻ không khôn ngoan, không tỉnh thức, không trung thành với bổn phận. Còn đối với những ai tỉnh thức và trung thành thì việc Chúa đến bất ngờ lại là một ‘bất ngờ thú vị’.
Chẳng ai biết Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nhưng chắc chắn cuộc hẹn phải có. Chẳng ai biết giờ chết của mình lúc nào, nhưng chắc chắn giờ ấy sẽ đến. Chỉ sợ chúng ta có một ảo tưởng hết sức nguy hiểm này, đó là nghĩ rằng mình vẫn còn thời gian. Cái ngày kinh hoàng nhất của một đời người là mình tưởng còn ‘ngày mai’ để chuẩn bị, nhưng lại phải đối diện với một thực tế rất đỗi phũ phàng là “ngày mai” ấy không bao giờ đến.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con trở nên những đầy tớ trung tín và khôn ngoan của Chúa.
Xin nhắc chúng con luôn tỉnh thức và sẵn sàng, để chúng con không phải bàng hoàng khi Chúa bất ngờ đến gõ cửa. Amen.

Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Tám

11 THÁNG TÁM

Thiên Chúa Đã Yêu Thế Giới Đến Nỗi …

“Thế giới ở đây là thế giới của con người, thế giới ấy, người Kitôhữu tin là đã được tình yêu của Đấng Tạo Hóa tác thành và bảo trì. Thế giới ấy, đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi, nhưng, nhờ Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại mà bẻ gãy uy quyền của Thần Dữ, đã được giải thoát để thay hình đổi dạng theo dự định của Thiên Chúa mà tiến tới sự viên mãn” (MV 2).

Định nghĩa ấy gồm tóm toàn bộ giáo thuyết về sự quan phòng, hiểu như kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, hoặc hiểu như sự hoàn thành chung cục của vũ trụ. Điều này đặc biệt đúng đối với thế giới con người theo như “được tiền định trong Đức Kitô”, Đấng là trung tâm và là nguồn gốc của mọi sự.

Bằng cách này, Vatican II làm cho sắc bén giáo huấn tín lý của Công Đồng Vatican I: “Thiên Chúa gìn giữ và điều khiển mọi loài Ngài đã dựng nên với sự quan phòng của Ngài, từ chân trời này tới chân trời kia (Kn 8,1). ‘Tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Ngài’ (Dt 4,13), ngay cả những gì xảy ra thông qua sáng kiến tự do của tạo vật” (Dei Filius, DS 3003).

Ngay từ đầu, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng tập chú đến một vấn đề vừa liên quan với chủ đề của chúng ta ở đây vừa bức thiết với con người hiện đại: Bằng cách nào sự phát triển của Nuớc Thiên Chúa và sự phát triển của thế giới có thể hòa điệu với nhau?

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 11-8
Chúa Nhật XIX Thường Niên
Kn 18, 6-9, Dt 11, 1-2.8-19; Lc 12, 32-48


LỜI SUY NIỆM: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12,32)

Chúa Giêsu kêu mời tất cả mọi tín hữu của Ngài phải tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Tất cả đời sống của chúng ta đã được chính Thiên Chúa quan tâm và Ngài ban phát những ân huệ cần thiết giúp cho cuộc sống của chúng ta nên tốt. Nên Chúng ta đừng có sợ, đừng quá bận tâm đến của cải ở đời này. Luôn biết thân phận, đang là người được nhận lãnh ân sủng của Ngài một cách nhưng không. Nên bản thân mình cũng cần biết cho đi một cách nhưng không. Cần phải chia sẻ cho người nghèo những gì mình đang nhận lãnh. Đây là những việc làm đẹp lòng Thiên Chúa, và sẽ được Ngài ân thưởng Nước của Ngài cho chúng ta.


Mạnh Phương


Gương Thánh nhân

Ngày 11/08: Thánh CLARA
Đồng Trinh (1193 - 1253)


Thánh Clara sinh năm 1193 tại Assisi miền Umbria. Thuộc dòng họ danh gái Offreducciô. Người ta nói thánh nữ sinh ra với nụ cười trên môi và không bao giờ thấy Ngài khóc. Ngài dành nước mắt để tưới chân Chúa Giêsu chịu đóng dinh. Nghe biết một thanh niên giàu có đã trở nên người nghèo thành Assisi, người thiếu nữ danh giá cảm kích trước mẫu gương của thánh nhân. Trong khi gia đình nhắm cưới gả cho nàng, thì nàng chỉ nhắm đến cuộc sống sám hối khiêm hạ. Sau khi nghe bài giảng của thánh nhân, Ngài đã đi tới quyết định.

Khi ấy thánh Clara 18 tuổi. Vào ngày Lễ Lá, 18 tháng 3 năm 1212, thánh nữ ăn mặc sang trọng tới nhà thờ chính tòa dự lễ. Theo thói quen, các bà tiến lên nhận lá từ tay Đức giám mục. Hôm ấy Clara quá xúc động, khiến chính đức giám mục phải rồi ghế đưa lá đến cho Ngài. Chiều về, Ngài đã cùng với một người bạn lén bỏ nhà theo lối cửa hậu rồi theo ánh đuốc tới gặp thánh Phanxicô tại Porsiuncola...

Giai thoại thật cảm động, một cô gái 18 sang trọng đã bỏ tất cả những gì là quen thuộc và an toàn để đi theo Đấng vô hình, còn Phaxicô 30 tuổi không có lấy một xu dính túi đã nhận lấy trách nhiệm về cả tinh thần lẫn vật chất đối với cô. Giữa đêm xuân trong rừng cây và dưới ánh đuốc của đoàn anh em. Clara buông xõa mái tóc huyền trên bàn thờ cho Phanxicô cắt bỏ. Hành động hoàn toàn ngoại lệ và không với một chút quyền hạn theo giáo luật. Phanxicô đã lãnh bản ly dị của Clara đối với thế gian, rồi gởi đi vào một nữ tu viện Benedicto gần đó.

Biến cố nổ lớn làm cả thành phố xúc động. Thế gian kết án Clara. Ông Monaldo, cậu thánh nữ đến nhà dòng bắt thánh nữ về, nhưng Ngài ôm cứng chân bàn thờ quyết chọn Chúa mà thôi. Phanxicô dẫn thánh nữ tới một nữ tu tu viện Bênêdictô khác, cùng với em của mình là Anê. Sau cùng Phanxicô thiết lập cho Clara và cộng đoàn đã tăng số một tu viện tại San Damianô, nơi đây bà Ortolanta, mẹ của thánh nữ cũng nhập dòng. Trong một thời gian cộng đoàn độc lập như những người hành khất đầu tiên. Phanxicô viết cho cộng đoàn một bản luật sống vắn gọn, đòi kỷ luật gắt gao và chay tịnh khắc khổ.

Dầu vậy, Clara con người đi xa hơn cả ước muốn của thánh Phanxicô. Năm 1215 Phanxicô đặt Clara làm tu viện trưởng và có lẽ đã trao cho Ngài một bản luật dòng thánh Bênêdictô. Nhưng một mục chương nói rằng sự đơn sơ và nhiệt tình của chị em khiến cộng đoàn tăng số rất nhanh.

Vào những năm cuối đời thánh Phanxicô, mọi liên hệ với San Đômianô bị gián đoạn. Câu chuyện hay về bữa ăn tối với Clara không được chính xác lắm. Nhưng cơn đau cuối cùng Phanxicô đã được Clara cho trú ngụ trong một mái chòi bằng lá cây ở cổng tu viện Damianô, nơi Phaxicô trước tác bài ca mặt trời. Ngài ban phép lành cuối cho Clara rồi về Porziuncola và qua đời tại đó. Ngài cũng xin anh em đưa xác về Assisi qua ngã San Đamianô. Thánh Clara và chị em tiếp rước và có dịp chiêm ngưỡng các vết thương ở tay và chân Ngài.

Clara thực hiện đúng lý tưởng của người nghèo thành Assisi. Đức Innôcentê III đã đích thân ban phép cho Ngài được giữ đức nghèo khó tuyệt đối. Nhưng Đức Grêgôriô IX nguyên là hồng y Ugôlinô đã muốn cải sửa luật cho phép nhà dòng có đất đai nhà cửa. Clara cưỡng lại và năm 1228 đã được hưởng đặc ân như sở nguyện. Ngài đã thưa với Đức Grêgôriô: - Thưa Đức Cha, xin tha tội cho chúng con, nhưng đừng tha cho con khỏi theo lời Chúa.

Năm 1247, một lần nữa đức Innocentê IV kiểm soát lại luật thánh Phanxicô, muốn sống đời khó nghèo truyệt đối. Luật này được Đức Innocente chấp thuận vội vã, hai ngày trước khi thánh nữ qua đời. Năm 1893 người ta tìm thấy sắc chỉ nguyên thủy trong mộ thánh nữ.

Cuộc sống còn được ghi nhớ bởi cuộc tàn phá năm 1241 của vua Frêdêrico II, nhờ lời cầu nguyện đắc lực của Ngài. Trong cơn bệnh của Ngài, Đức hồng y Rainalđô, tức là đức giáo hoàng Alexandrô sau này, đã đến trao mình Chúa và khuyên nhủ thánh nữ, thánh nữ trả lời: - Từ khi nếm thử chén đắng và cuộc tử nạn của Chúa, con thấy không còn gì làm con đau đớn nữa.

Sau khi chúc lành cho các nữ tu đến thăm, Ngài nói với mình: - Hãy an tâm, ngươi đã theo đúng đường, cứ tin tưởng vì Chúa tạo thành đã thánh hiến và không ngừng gìn giữ ngươi, đã yêu ngươi với tình mẹ thương con, ôi lạy Chúa xin chúc tụng Chúa vì đã dựng nên con.

Thánh nữ qua đời ngày 11 tháng năm 1253 và năm 1255 được tôn phong hiển thánh.


(daminhvn.net)


11 Tháng Tám

Cô Bạn Của Thánh Phanxicô Assisi



Một trong những cuốn phim có giá trị diễn tả về cuộc đời của thánh Phanxicô thành Assisi mới được thực hiện cách đây vài năm đa thi vị hóa vai trò của Clara, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay. Ðạo diễn của cuốn phim đã giới thiệu Clara qua hình ảnh một nữ tài tử trẻ đẹp với mái tóc vàng óng ả, thích tung tăng chạy nhảy giữa cánh đồng hoa hướng dương chạy dài mút mắt.
Trong thực tế, quãng đời thanh xuân của Clara đã cống hiến nhiều chi tiết có thể được sử dụng làm chất liệu để quay phim. Vào tuổi trăng tròn 15, Clara đã từ chối kết hôn vì tâm hồn của nàng bị xúc động mãnh liệt qua lời rao giảng có chiều sâu của Phanxicô. Từ đó cho đến lúc Clara trút hơi thở cuối cùng, Phanxicô là một người bạn tinh thần, một cha linh hướng của nàng.
Lúc lên 18 tuổi, Clara thoát ly gia đình và trong một buổi lễ đơn sơ cử hành vào đêm, nàng đã cởi bỏ những xiêm y đắt tiền để mặc lấy một chiếc áo dòng bằng vải thô, đã thay chiếc dây nịt quý giá bằng một sợi dây thắt lưng đơn sơ và đã để cho Phanxicô cắt mái tóc óng ả của mình tượng trưng cho tinh thần từ bỏ.
Khi một số thiếu nữ khác cùng một chí hướng, kể cả Agnes, em gái của Clara, theo chân nàng vào tu viện, họ đã bắt đầu một cuộc sống nghèo nàn, khổ hạnh và ẩn dật, cắt đứt mọi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Họ đi chân không, ngủ trên nền nhà, không ăn thịt và giữ thinh lặng hầu như hoàn toàn. Ðó là những dấu hiệu bên ngoài biểu lộ ý hướng bên trong của họ muốn sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm như Ðức Giêsu đã dạy.
Ðế sống cuộc đời từ bỏ, các nữ tu dòng thánh Clara khước từ quyền sở hữu của bất cứ của cải nào, kể cả với tính cách là của chung.
Nhu cầu lương thực hằng ngày được giải quyết bằng của bố thí. Khi Ðức Thánh Cha khuyên họ giảm bớt cách thực hành sống nghèo cách tuyệt đối như vậy, Clara đã khẳng khái trả lời: "Thưa Ðức Thánh Cha, chúng con cần cha tha tội, chứ chúng con không mong ước cha tha chúng con khỏi những bổn phận phải giữ để trung tín dõi theo chân Chúa Giêsu".
Trong bốn bức tường tu viện tại San Ðamianô gần Assisi, Clara ân cần chăm sóc các bệnh nhân, khiêm nhượng hầu bàn và rửa chân cho các nữ tu sau khi họ đi cầu thực trở về và dành nhiều thời giờ để tâm hồn chìm sâu trong kinh nguyện. Các nữ tu đồng thời thuật lại rằng: Khi Clara cầu nguyện xong, mặt chị chiếu sáng làm chói mắt mọi người.
Trong 27 năm cuối đời, Clara bị đau ốm luôn, nhưng chị đã thu hút được nhiều Giám Mục, Hồng Y, kể cả các giáo chủ đến để tham khảo ý kiến của chị.


(Lẽ Sống)

11-8
Thánh Clara
(1194-1253)


T
hánh Clara là thiếu nữ xinh đẹp của một gia đình giầu có ở Assisi. Khi mười tám tuổi, được khích động bởi một bài giảng của Thánh Phanxicô Assisi, ngài cương quyết noi gương các tu sĩ Phanxicô, thề sống khó nghèo, tận hiến cho Thiên Chúa. Gia đình ngài hoảng sợ, dùng võ lực ép buộc ngài phải trở về nhà; nhưng một đêm kia, trong một hành động vừa có tính cách khôn khéo và vừa có ý nghĩa, ngài lẻn ra khỏi nhà qua "cánh cửa người chết" (cánh cửa nhỏ để khiêng người chết ra ngoài), và đến với các tu sĩ Phanxicô. 
Trong một nhà nguyện nhỏ bé ở ngoại ô, Thánh Phanxicô đã cắt mái tóc của Clara và trao cho thánh nữ chiếc áo nâu thô kệch làm chiếc áo dòng. Sau đó, thánh nữ sống với các nữ tu dòng Bênêđíctô cho đến khi có thêm sự gia nhập của các phụ nữ khác, trong đó có cả người mẹ goá bụa của ngài và các phụ nữ thuộc gia đình quý tộc ở Florence.
Cộng đoàn nhỏ bé ấy dần dà được biết đến dưới tên Các Chị Em Hèn Mọn (các tu sĩ Phanxicô là Anh Em Hèn Mọn). Khi tu hội được thành lập, Thánh Phanxicô đề nghị Clara làm bề trên, nhưng ngài từ chối cho đến khi được hai mươi mốt tuổi. Các nữ tu trong dòng tận tụy trong việc cầu nguyện, chăm sóc bệnh nhân và thi hành việc bác ái cho người nghèo và người bị ruồng bỏ.
Họ sống theo một quy luật khắc khổ hơn bất cứ nữ tu hội nào khác trong thời ấy, và tuyệt đối khó nghèo, cả về phương diện cá nhân cũng như cộng đoàn. Họ đi chân đất, không có giường, mà nằm trên các khúc gỗ được kết lại và chăn mền là vỏ cây gai dệt thành. Gió mưa tha hồ lọt qua các vết nứt ở mái nhà cũng như vách gỗ. Họ ăn rất ít và không bao giờ ăn thịt. Thực phẩm của họ là tất cả những gì xin được. Bất kể sự khắc khổ của đời sống, những người theo Thánh Clara lại là những thiếu nữ xinh đẹp nhất Assisi và lúc nào họ cũng có niềm vui vì được sống gần Thiên Chúa. 
Thật vậy, Thiên Chúa đã gìn giữ họ khỏi sự nguy hiểm khi bọn lính hung dữ đến tấn công Assisi và dự định bố ráp tu viện này trước hết. Lúc ấy, dù đang đau nặng, Thánh Clara đã gắng gượng quỳ xuống trước cổng, tay nâng Mình Thánh trong mặt nhật và ngài cầu xin, "Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ các nữ tu mà con không thể nào bảo vệ nổi." Sau đó, dường như có tiếng trả lời: "Ta sẽ luôn gìn giữ họ," và đồng thời ngay lúc ấy, quân lính cảm thấy vô cùng sợ hãi và họ chạy tán loạn.
Thánh Clara làm bề trên tu viện trong bốn mươi năm mà hai mươi chín năm ngài luôn đau yếu. Nhưng lúc nào ngài cũng vui vẻ vì cho rằng đó là sự phục vụ Thiên Chúa. Nhiều người cho rằng các nữ tu đau yếu là vì quá khắc khổ. Ngài nói, "Họ nói chúng tôi quá nghèo khổ, nhưng một tâm hồn có được Thiên Chúa vĩnh cửu thì có thực sự nghèo hay không?"
Thánh Clara từ trần ngày 11 tháng Tám 1253. Chỉ hai năm sau, ngài đã được Ðức Giáo Hoàng Alexander IV phong thánh.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét