CHÚA NHẬT 25/8/2013
Chúa Nhật 21 Thường Niên
(Phần I)
BÀI ĐỌC I: Is 66, 18-21
"Chúng dẫn tất cả
anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Đây Chúa phán: "Ta đã biết các việc làm và tư tưởng của
chúng; Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: chúng sẽ đến và nhìn thấy
vinh quang của Ta. Ta sẽ đặt nơi chúng một dấu lạ, Ta sẽ sai một số trong những
người được giải thoát đến các dân ngoài biển, bên Phi châu và Lyđia, là những
dân thiện xạ, đến Ý-đại-lợi và Hy-lạp, đến những hòn đảo xa xăm, đến với những
kẻ chưa nghe nói về Ta, và chưa thấy vinh quang của Ta. Chúng sẽ rao giảng cho
các dân biết vinh quang của Ta, sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến
như của lễ dâng cho Chúa, họ cỡi ngựa, đi xe, đi võng, cỡi la, cỡi lạc đà, đến
núi thánh của Ta là Giêrusalem, khác nào con cái Israel mang của lễ trong chén
tinh sạch vào nhà Chúa, Chúa phán như thế. Trong những dân đó, Ta sẽ chọn các
tư tế, các thầy Lêvi: Chúa phán như vậy".ĐVì chưng lời Chúa rằng: Cũng như
Ta tạo thành trời mới, đất mới đứng vững trước mặt Ta thế nào, thì dòng dõi
ngươi và danh tánh các ngươi sẽ vững bền như vậy". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 116, 1. 2
Đáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
1)
Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người. - Đáp.
2)
Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của
Chúa tồn tại muôn đời. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Dt 12, 5-7, 11-13
"Chúa sửa dạy ai là
kẻ Người yêu mến".
Trích
thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em,
như nói với những người con rằng: "Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa
sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con; vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người
yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con". Trong khi được sửa dạy,
anh em hãy bền chí. Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con
nào mà cha không sửa phạt. Ngày nay, hẳn ai cũng coi việc sửa dạy là nỗi buồn
khổ, hơn là nguồn vui, nhưng sau này, nó sẽ mang lại hoa quả bình an công chính
cho những ai được sửa dạy. Vì thế, anh em hãy nâng đỡ những bàn tay bủn rủn và
những đầu gối rụng rời. Đường anh em đi, anh em hãy bạt cho thẳng, để người què
khỏi bị trẹo chân, nhưng được an lành.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
Alleluia,
alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy yêu mến người
ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 13, 22-30
"Người ta sẽ từ
đông chí tây đến dự tiệc trong nước Chúa".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy
vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một
số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy
cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà
không vào được. Khi chủ nhà đã vào và đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng
ngoài mới gõ cửa mà rằng: 'Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi'. Chủ sẽ trả lời
các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi từ đâu tới'. Bấy giờ các ngươi mới nói
rằng: 'Chúng tôi đã ăn uống trước mặt ngài và ngài đã giảng dạy giữa các công
trường chúng tôi'. Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các
ngươi tự đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta'.
Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước
Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến
răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước
Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người
trước hết sẽ nên sau hết". Đó là lời
Chúa.
SUY NIỆM: Gò mình hơn vào
con đường hẹp
Ngày
lễ Ðức Mẹ hồn xác lên trời hẳn còn để lại nhiều âm vang trong tâm hồn chúng ta.
Chúng ta cứ giữ lấy hình ảnh về Ðức Mẹ lúc này đang hạnh phúc ở trên trời, để
hiểu rõ các bài đọc Kinh Thánh hôm nay. Bài sách Isaia không mô tả trước hạnh
phúc chung cuộc dành cho mọi dân tộc đó sao? Ðể đạt được hạnh phúc ấy, tức là
được vào Nước Trời, bài Tin Mừng hôm nay nói chúng ta phải đi qua cửa hẹp. Và
kiểu nói này được bài thư Hípri giải thích để chúng ta biết đi qua cửa hẹp tức
là chấp nhận đi vào con đường nhiều thử thách và phấn đấu.
Ðó
là những quan niệm không lạ lùng gì; nhưng phải đem ra thực hành và vì thế cần
được suy nghĩ thấu đáo. Chúng ta hãy bắt đầu với bài sách Isaia, rồi bài Tin Mừng
và cuối cùng đến bài thư Hípri.
1. Chúa Hứa Ban Nước Trời
Ðoạn
sách Isaia hôm nay chấm hết tác phẩm dầy những 66 chương mang tên một vị đại
tiên tri. Nhiều người coi nó như phần phụ lục, mãi sau này mới được đính vào
toàn bộ tác phẩm đã được viết từ lâu. Ðiều ấy không quan trọng, vì đàng nào đây
cũng là một đoạn sách thánh, một chương Lời Chúa, có giá trị mạc khải dẫn dắt đời
sống chúng ta.
Chúa
mở ra trước mắt chúng ta chân trời của thời kỳ cánh chung, tức là sau hết. Người
không phải chỉ là Chúa của một dân tộc hay của riêng những kẻ giữ đạo của Người.
Ngay từ câu đầu tiên trong đoạn sách hôm nay, Người đã khẳng định chính Người
linh động tư tưởng và hành động của các dân tộc. Và như vậy Người làm chủ lịch
sử.
Lịch
sử này sẽ kết thúc ra sao, thì đây là Lời Chúa: "Ta sẽ đến thâu họp tất cả
các nước và các tiếng nói. Chúng sẽ đến và sẽ thấy vinh quang của Ta". Lời
nói rõ ràng, chắc chắn, không cần mảy may chú thích. Chúng ta tin vào định mệnh
tốt đẹp của các dân tộc. Thiên Chúa đã hứa, đã muốn dân của mọi thứ ngôn ngữ
chung cuộc sẽ được nhìn thấy vinh quang của Chúa. Kiểu nói này có nghĩa rằng họ
sẽ được hân hoan, hạnh phúc khi Chúa đến trong vinh quang. Chính ánh sáng của
Người sẽ xua đuổi mọi u sầu đen tối ra khỏi họ. Hình bóng sự chết cũng sẽ phải
lui đi. Và sự sống mới, sự sống bắt nguồn từ ánh sáng vinh quang của Chúa sẽ
làm cho mọi loài được sống lại. Chúng ta có thể nghĩ đến quang cảnh của một buổi
sáng. Ánh sáng mặt trời tỏa ra đến đâu, đêm tối lui đi đến đó và tất cả tạo vật
được hồi sinh trong hạnh phúc. Hình ảnh này giúp chúng ta hiểu Lời Chúa vừa
tuyên bố: mọi dân tộc sẽ nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa để được sống mới mẻ
và trường cửu.
Nhưng
Chúa sẽ thâu nạp các dân tộc lại bằng cách nào? Theo một kiểu trình bày rất
quen thuộc trong giáo huấn của các tiên tri, ở đây Isaia nói rằng: Chúa sẽ đặt
một dấu hiệu giữa các dân tộc để họ nhìn thấy mà đến. Ông không nói rõ dấu hiệu
nào. Nhưng ai đọc Kinh Thánh nhiều và nhất là biết tác phẩm của ông thì dấu hiệu
mà Chúa sẽ đặt lên làm cờ hiệu cho các dân tộc nhìn thấy để đến chiêm ngưỡng
vinh quang của Chúa là Giêrusalem và núi Sion khi được Thiên Chúa viếng thăm và
được rực sáng trong ánh sáng vinh quang của Người, là dân còn sót lại sau thử
thách luyện lọc, là Hội Thánh Chúa Kitô, là chính Ðức Kitô vinh hiển phục
sinh... Từ ngày cây Thánh giá được dựng lên trên một quả đồi ở Sion và
Giêrusalem, Thiên Chúa đã đặt một dấu hiệu giữa các dân tộc để chiếu giãi ánh
vinh quang của Người cho họ được nhìn thấy.
Tuy
nhiên chưa đủ. Chúa còn sai những người trong số dân còn sót lại sau thử thách
tinh luyện mà ở đây tác giả gọi là những kẻ "thoát nạn", đi đến các
nước. Tức là Chúa sẽ sai các thánh của Người đến với các dân tộc, để những tông
đồ này nói cho mọi dân về Chúa, để những kẻ chưa bao giờ thấy vinh quang của
Chúa, thì nay được thấy và được sống.
Không
phương trời nào không được Chúa sai tông đồ đến. Cả những đảo xa xôi nhất và những
miền rừng rú mà thổ dân còn sống bằng nghề cung tên. Bất cứ nơi nào cũng sẽ được
nghe nói về Chúa và thấy vinh quang của Người. Các dân tộc sẽ trở nên như anh
em của người rao giảng Phúc Âm. Họ sẽ tuôn về với Chúa như các đoàn người tiến
về Giêrusalem. Họ đi cáng, đi lạc đà, đi đủ mọi thứ phương tiện. Họ giống như
các người Do Thái đang mang lễ dâng lên bàn thờ. Hơn nữa, Chúa còn chọn trong
đoàn người đang tiến lên đó những tư tế và Lêvi mới cho Người.
Chắc
hẳn khi viết câu này, Isaia có lẽ chỉ nghĩ đến các người Do Thái kiều cư nơi
dân ngoại tiến về Giêrusalem vào các dịp lễ. Và trong bọn họ sẽ có những kẻ được
chọn làm tư tế. Nhưng vì lời Isaia là lời tiên tri, nên chúng ta có thể hiểu tất
cả theo mạc khải của Chúa Giêsu. Và chúng ta sung sướng nghĩ rằng các lời tiên
tri của sách Isaia quả thật hướng lòng trí chúng ta về thời cánh chung. Thiên
Chúa chọn Ðức Giêsu với thánh giá và Hội Thánh của Người làm cờ hiệu cho các
dân tộc. Người sai các tông đồ mới đã thoát nạn thế gian và tội lỗi đến nói với
các nước về Chúa và Tin Mừng cứu độ. Các dân tộc sẽ hân hoan đứng lên tiến về với
Chúa. Người làm cho họ trở nên vương quốc tư tế của Người...
Một
viễn tượng như vậy không làm nức lòng chúng ta sao? Ðó thật là những "lời
an ủi", danh từ mà người ta vẫn dùng để nói về các lời Isaia trong các
chương sau cùng nơi tác phẩm của ông. Tuy nhiên vẫn có những người đọc sách
thánh mà không hiểu. Họ không dám tin hoàn toàn vào Lời Chúa. Não trạng ấy Ðức
Giêsu đã bắt gặp khi Người đang hành trình truyền giáo, như bài Tin Mừng hôm
nay kể. Chúng ta hãy xem Người dạy dỗ như thế nào?
2. Người Ta Phải Ði Vào Ðường
Hẹp
Tác
giả Luca không nói rõ cho chúng ta biết hôm ấy là ngày nào và Ðức Giêsu đang ở
chặng đường nào. Chỉ biết Người đang rảo qua các làng mà dạy dỗ và hành trình
lên Giêrusalem. Tác giả Luca dùng cuộc đi đường này để thuật lại những Lời Chúa
giáo huấn cho các môn đệ và cho tất cả chúng ta trên đường đi về Nước Trời. Tác
giả cho có một người đến hỏi Chúa: "Thưa Ngài, có ít người được cứu thôi
phải không?". Người hỏi ấy là ai, chúng ta không cần biết. Ông ta nói lên
tâm trạng của một số người và có thể nói của nhiều người nữa. Thời bấy giờ -
cũng như thời nay - người ta hay tranh luận với nhau xem số người được cứu nhiều
hay ít vì trong mạc khải có chỗ nói Chúa sẽ cứu các dân tộc, nhưng cũng có chỗ
viết: Ơn cứu độ chỉ dành cho những kẻ thoát nạn. Người ta tranh luận với nhau
như thế để làm gì? Nếu cuối cùng chẳng phải chỉ là để thỏa mãn tính tò mò? Hoặc
hơn nữa, để có một lời hứa lạc quan, tránh cho người ta phải nỗ lực phấn đấu?
Ðức
Giêsu hiểu não trạng ấy. Người không để ai lợi dụng mình. Ở đây cũng như ở mọi
chỗ khác, khi thấy người ta tò mò muốn biết về tương lai để sống ỷ lại, Ðức
Giêsu vẫn từ chối trả lời. Về số người được cứu rỗi, cũng như về ngày giờ cứu độ,
và về chỗ ngồi bên hữu hay bên tả Nước Trời, tất cả những điều ấy nằm trong bí
mật của Thiên Chúa. Người không cho biết kẻo chúng ta trở nên những kẻ thụ động.
Lời hứa cho chúng ta đã rõ ràng, phương hướng cứu rỗi đã được đề ra; được rỗi
hay không cũng còn tùy ở mỗi người. Ðức Giêsu chỉ có thể thương người ta bằng
cách giới thiệu đường lối cứu độ rõ ràng hơn. Thế nên Người bảo: "Hãy chiến
đấu để qua cửa hẹp mà vào".
Lời
nói này đã được xác định thêm trong câu Người nói tiếp: "Một khi gia chủ dạy
khóa cửa rồi và các ngươi đứng ngoài gõ cửa... xin mở... thì sẽ được đáp lại;
Ta không biết các ngươi từ đâu đến".
Như
vậy, chúng ta có thể hình dung Nước Trời như là nhà của Chúa. Lúc này cửa nhà ấy
đang mở để chúng ta vào. Nhưng nó hẹp. Người ta phải cố gắng mà lách vào; kẻo
khi chủ nhà đứng lên và đóng cửa lại, không ai còn vào được nữa. Chúng ta có thể
hình dung hơn nữa: Nước Trời là nhà Chúa đang mở tiệc cưới. Người ta phải mau
mau đi qua cửa hẹp mà vào, kẻo đến khi khai tiệc, cửa sẽ đóng lại và không ai
ra vào nữa.
Nhưng
vẫn có những kẻ sẽ không vào được. Họ là ai? Ở đây tác giả Luca nói: đó là những
người đã ăn uống ở trước mặt Chúa và đã thấy Người đi lại giảng dạy nơi phố xá
của họ, nhưng vẫn làm điều tàn ác. Ðó là người Do Thái đồng hương, đồng thời với
Ðức Giêsu mà không đổi đời theo lời Người giảng dạy. Họ sẽ bị xua đuổi ra khỏi
nhà đang có các tổ phụ và các tiên tri vui hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Họ sẽ
bị tống ra ngoài, nơi sẽ có khóc lóc và nghiến răng; đang khi ấy những kẻ bên
Ðông bên Tây, tức là dân ngoại lại được vào dự tiệc Nước Trời. Há chẳng chứng
nghiệm lời ca dao tục ngữ này sao? Có những người cuối sẽ lên đầu hết và có những
kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết? Không phải hết mọi người trước hết được nghe Lời
Chúa, tức là người Do Thái đều bị xua đuổi. Nhưng có những kẻ trong bọn họ vì
không thi hành Lời Chúa nên sẽ bị đuổi ra, để nhường chỗ cho những người cuối hết,
là dân ngoại nghe Lời Chúa sau dân Do Thái mà trở lại. Những người lương dân ấy
sẽ lên trước hết trong Nước Thiên Chúa.
Ðiều
này đã đúng ngay thời Ðức Giêsu, vì đang khi rất nhiều người Do Thái không tin
Người, thì có những kẻ lương dân lại được lòng tin. Nhưng điều ấy còn rõ ràng
hơn nữa ở thời Luca, vì đang khi các dân ngoại chen chúc nhau đi vào Hội Thánh,
phần lớn người Do Thái vẫn có thái độ thù nghịch. Vì sao?
Ðức
Giêsu đã nói: Vì họ không chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào. Cửa hẹp đây, dĩ
nhiên là các đòi hỏi của đức tin. Nhưng chúng ta sẽ có lý hơn khi nhớ chính Ðức
Giêsu đã tự nói mình là cửa chiên. Ai muốn được cứu độ phải tin vào Người và đi
qua Người, qua mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Người, để đến với Chúa Cha. Người
Do Thái không tin ở Người nên ở ngoài Hội Thánh là nhà Chúa; đang khi các dân tộc
thực hiện lời sách Isaia, thấy Ðức Giêsu và Hội Thánh của Người là cờ hiệu
Thiên Chúa, đã dựng lên để cứu thế, đang chen chúc nhau đi vào Nước Trời.
Nhưng
trong kế hoạch cứu độ, những gì dân Chúa đã sống, từng Kitô hữu cũng phải kinh
nghiệm. Và vì thế ai ai cũng phải chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào sản nghiệp
Chúa đã hứa ban cho các dân tộc. Và cửa hẹp của chúng ta, theo lời thư Hípri,
là những thử thách hàng ngày.
3. Chúng Ta Phải Tu Chỉnh Lại
Quả
vậy, đời sống con người quá nhiều đau thương, đời sống Kitô giáo lại thêm nhiều
thử thách khác, vì đức tin con người không biết lướt thắng đau thương sẽ thất bại;
và người Kitô hữu không vượt qua được thử thách sẽ mất sản nghiệp Nước Trời mà
Chúa đã hứa ban.
Ðộc
giả của thư Hípri đang gặp thử thách. Tác giả viết thư này để an ủi và khích lệ
họ. Người đã nại đến gương sống đức tin của các tổ phụ; đặc biệt Người đã bảo họ
hãy ngắm nhìn Ðức Giêsu trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh. Những thử thách họ
đang chịu chưa đến nỗi làm cho phải đổ máu mà! Hãy còn là những chiến đấu nhỏ
thôi. Và như vậy, họ nên nhớ lại lời sách châm ngôn: "...Chúa thương ai,
Người muốn sửa dạy; con nào Người nhận, Người mới cho đòn".
Thật
ra, mới nghe, chúng ta có thể coi thường một lời an ủi như thế. Nó phản ánh một
kinh nghiệm thông thường: con người lớn lên cần phải giáo dục và giáo dục đòi sửa
dạy. "Vì còn gì là con, kẻ người cha không dạy?". Nhưng điều rất tự
nhiên trong gia đình lại khó được chấp nhận ở môi trường khác. Và đó là cảm tưởng
của chúng ta những khi gặp đau khổ. Chúng ta thấy Chúa không an ủi được chúng
ta. Chúng ta phàn nàn vì sao Ngài không chăm sóc chúng ta hơn? Tác giả thư
Hípri nghĩ rằng: Chính những lúc ấy chúng ta đã quên Chúa là Cha. Người đã chọn
chúng ta giữa muôn muôn người làm con cái Người. Thế thì Người phải sửa dạy
chúng ta hơn. Chúng ta phải gặp thử thách hơn những người khác. Không như vậy,
làm sao có thể nói chúng ta là con cái Chúa? Và nếu Chúa không sửa dạy, thì làm
sao, chúng ta có thể lớn lên làm người trong đời sống Kitô hữu?
Ðàng
khác bị sửa dạy thì trước mặt không vui nhưng sau này sẽ thấy lợi ích. Ðây cũng
còn là một kinh nghiệm loài người. Nhưng tác giả Hípri đã hướng dẫn chúng ta
suy nghĩ sang bình diện đạo đức. Ông nói: Lợi ích của sửa dạy là hoa quả bình
an công chính. Con cái Chúa có thể cảm thấy mau lẹ hơn con cái loài người; vì
có thể nói ngay khi chấp nhận thử thách người Kitô hữu đã thấy nó như mầu nhiệm
tử nạn chứa chấp mầu nhiệm phục sinh, đang khi con cái trong nhà có thể chưa
mau mắn nhận ra lợi ích của việc cha mẹ sửa dạy. Các tín hữu khi chấp nhận đau
khổ với tinh thần đạo đức sẽ thấy ngay được bình an công chính.
Nói
như vậy có phải để chúng ta ao ước thử thách không? Tác giả thư Hípri không đi
quá xa như vậy. Ông rất chân thực, và chỉ đưa ra một câu kết luận: chúng ta hãy
dùng thử thách để chạy thẳng tắp trên đường đạo đức, chứ đừng đi dệu dạo nữa.
Ông muốn nói, vì chúng ta còn hai lòng và chưa hoàn toàn trong đời sống thánh
thiện, nên Chúa gởi thử thách đến sửa dạy. Chúng ta hãy tỉnh ngộ đi vào đường
ngay. Thử thách sẽ sinh ra bình an công chính. Chúng ta sẽ thành thân hơn và đạt
tới những điều Chúa hứa.
Người
đã hứa tương lai và đời sống tốt đẹp cho chúng ta như bài sách Isaia đã nói.
Người còn xác định phải qua cửa hẹp để vào hạnh phúc. Những thử thách gặp phải
trong đời sống đạo đức nhắc nhở chúng ta gò mình hơn vào con đường hẹp. Chúng
ta chấp nhận, sẽ thấy hạnh phúc.
Giáo
huấn này không phải chỉ rõ trong Lời Chúa hôm nay, nhưng còn cụ thể hơn nữa
trong mầu nhiệm Thánh Thể.
Ở
đây, chúng ta cử hành lễ Vượt qua của Ðức Giêsu, để kết hợp với cuộc tử nạn của
Người, chúng ta mong đạt được các hiệu quả của việc Người phục sinh. Chúng ta
phải có tinh thần muốn đi vào con đường hẹp trong thánh lễ này là dâng mình và
dâng đời sống làm hy lễ cho Thiên Chúa. Chúng ta có thể không thực hành tinh thần
ấy sau khi dâng lễ sao? Ngược lại, chắc chắn chúng ta sẽ có tinh thần đi vào
con đường hẹp nhiều hơn để được vào Nhà Chúa và bàn tiệc của Người sau này cùng
với tất cả các dân tộc.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Chúa Nhật
21 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Isa 66:18-21;
Heb 12:5-7, 11-13; Lk 13:22-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự cần thiết
của kỷ luật và hình phạt.
Kỷ
luật và hình phạt có cần thiết trong việc giáo dục con người không? Nhiều người
nghĩ không cần, vì con người có tự do, có khôn ngoan, và trưởng thành đủ để biết
cách cư xử; chỉ một điều cần là cắt nghĩa cho con người biết nẻo chính đường
ngay. Nhiều người khác cho rất cần vì con người không luôn hành động theo những
gì mình biết là tốt, vì còn mang tính yếu đuối xác thịt trong mình. Lịch sử và
kinh nghiệm cho thấy con người không luôn làm những điều họ biết là tốt lành,
nhưng lại làm những điều họ biết là dữ. Tất cả các quốc gia trên thế giới hiện
nay đều có những luật lệ và hình phạt cho những ai vi phạm luật lệ.
Các
bài đọc hôm nay muốn nêu bật sự quan trọng của sửa phạt và kỷ luật. Trong bài đọc
I, ngôn sứ Isaiah nhận ra tầm quan trọng của biến cố lưu đày. Nó giúp những người
còn sót lại nhận ra tội lỗi và quay trở lại với tình thương Thiên Chúa. Nó cũng
giúp cho ơn cứu độ được mở cho mọi người ở khắp nơi trên thế giới, chứ không giới
hạn trong vòng của dân tộc Do-thái nữa. Trong bài đọc II, tác giả Thư Do-thái
xác tín việc sửa dạy bởi Thiên Chúa là điều cần thiết để mọi người được lãnh nhận
ơn cứu độ. Nếu Thiên Chúa không sửa phạt, con người sẽ có nguy cơ xa lìa Thiên
Chúa đời đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu xác nhận: Nước Trời không phải dễ vào;
nhưng chỉ dành cho những ai sống theo những đòi hỏi của Tin Mừng. Người tín hữu
trên danh hiệu hay người tín hữu thích sống cuộc đời dễ dãi và buông thả sẽ
không được vào Nước Trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Ta sẽ đặt giữa họ một dấu hiệu và sai những kẻ sống sót của họ đến
các dân tộc.
1.1/
Ơn cứu độ chỉ dành cho những ai được tinh luyện và được mở rộng đến mọi người.
Biến
cố mất nước và lưu đày xa quê hương phải xảy ra, vì con cái Israel đã lìa xa
Thiên Chúa để chạy theo thờ phượng các thần của ngoại bang và không tuân giữ những
luật lệ của Ngài, mặc dù các ngôn sứ đã cảnh cáo trước nhiều lần. Nếu Thiên
Chúa không sửa phạt, họ sẽ chết trong tội của họ. Việc Thiên Chúa sửa phạt con
cái Israel là để tinh luyện họ, chứ không phải để tiêu diệt, dù những kẻ cứng
lòng vẫn phải chết trong tội của họ. Khi sống cực khổ nơi lưu đày, một số còn
sót lại giữa họ nhận ra tội lỗi của họ và tình yêu của Thiên Chúa dành cho họ,
nên đã quay trở về với tình thương đích thực và được cứu thoát.
Biến
cố lưu đày cũng là một dấu chỉ để ơn cứu độ được lan tràn tới mọi dân tộc trên
địa cầu. Ngôn sứ Isaiah có lẽ là người đầu tiên Thiên Chúa cho nhận ra tính phổ
quát của ơn cứu độ. Thiên Chúa không chỉ cứu thoát dân tộc Do-thái mà còn dùng
những người Do-thái sống sót để mang Tin Mừng cứu độ đến cho mọi dân tộc. Khi
những người này đã nhận ra tình thương của Thiên Chúa, họ sẽ trở thành những
người loan báo cho tình thương của Ngài.
Những
địa danh được nhắc đến hôm nay “Tarshish, Put, Lut, Tuval, Giavan” là những nơi
xa lạ, chỉ được đề cập đến lần đầu tiên trong Sách Sáng Thế 10:2-6. Tất cả những
dân tộc này chưa hề được nghe nói đến Đức Chúa và chưa hề thấy vinh quang của
Ngài; nhưng họ cũng sẽ được đón nhận Tin Mừng cứu độ và rao giảng Tin Mừng này
cho các dân tộc khác.
1.2/
Cách thức thờ phượng Thiên Chúa sẽ đổi khác:
(1)
Lễ phẩm dâng tiến Thiên Chúa không còn là chiên dê nữa, nhưng là những con người
tin yêu Thiên Chúa. Đức Chúa phán: “giống như con cái Israel mang lễ phẩm trên
chén dĩa thanh sạch đến Nhà Đức Chúa, người ta cũng sẽ đưa tất cả những anh em
các ngươi thuộc mọi dân tộc về làm lễ phẩm tiến dâng Đức Chúa - đưa bằng ngựa,
xe, võng cáng, lừa và lạc đà - về trên núi thánh của Ta là Jerusalem.”
(2)
Người làm việc trong Đền Thờ: không còn giới hạn trong dân tộc Do-thái và chi tộc
Lêvi nữa, vì “trong bọn họ, Ta sẽ chọn lấy một số làm tư tế, làm thầy Lêvi - Đức
Chúa phán như vậy.”
Tất
cả những gì được tiên báo bởi ngôn sứ Isaiah đã trở thành hiện thực khi Đức Kitô
đến, tuy Jerusalem trên trời vẫn là trung tâm điểm của mọi dân tộc, nhưng việc
thờ phượng Thiên Chúa mở rộng khắp nơi, chứ không còn giới hạn trong Thành
Jerusalem của người Do-thái nữa.
2/
Bài đọc II: Đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách.
2.1/
Cần thiết của việc sửa dạy:
Dạy
dỗ và sửa phạt là hai yếu tố cần thiết của việc giáo dục, vì con người không
luôn nhận ra điều tốt lành từ điều sai trái, và không luôn làm những điều tốt
phải làm. Khi người cha phải sửa phạt con, ông không làm vì ghét bỏ hay để thỏa
mãn cơn giận của ông, nhưng vì thương yêu nên ông không muốn con ông phải hứng
chịu những đau khổ nặng hơn, hay để đề phòng nguy hiểm của cái chết sẽ xảy đến
trong tương lai.
Sửa
dạy là dấu chứng tỏ tình yêu của người cha đối với con mình; không chịu sửa dạy
chứng minh sự vô trách nhiệm của người cha. Nhiều người con đã oán hận cha vì
đã không chịu sửa dạy họ khi còn nhỏ, để giờ đây họ bị lâm vào tình trạng tứ đổ
tường hay phải chịu giam cuộc đời trong nơi lao tù.
Thánh
Phaolô khuyên nhủ các tín hữu Do-thái phải nhớ những điều này khi chịu đau khổ:
“Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì
Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho
roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với
anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa
dạy?”
2.2/
Hậu quả của việc sửa dạy: Chúng ta có thể chia làm hai:
(1)
Hậu quả gần: Người
con có thể tức giận và ghét cha ngay lúc bị sửa dạy, vì con người không thích bị
giam mình trong kỷ luật và hình phạt; nhưng thích tự do và dễ dãi.
(2)
Hậu quả xa: Người
con sẽ mang ơn cha khi học hành thành đạt và gặt hái được nhiều thành công
trong cuộc đời.
Thánh
Phaolô cắt nghĩa: “Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy
buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa
trái là bình an và công chính.”
Trên
bước đường lên trọn lành, đau khổ là điều không thể thiếu cho các tín hữu, vì:
(1)
Đau khổ làm con người trở nên mạnh mẽ trong niềm tin vào Thiên Chúa: Lửa thử
vàng, gian nan thử nhân đức. Nếu không có đau khổ, làm sao một người chứng minh
đức tin của họ vào Thiên Chúa. Mỗi lần chịu đau khổ, người tín hữu sẽ cảm thấy
đức tin vào Thiên Chúa ngày càng mạnh hơn.
(2)
Đau khổ cơ hội để tập luyện các nhân đức: Khi con người phải sống trong đau khổ,
con người dễ gia tăng đức ái, vì họ biết thông cảm với những ai cùng hoàn cảnh,
ví dụ: chịu bệnh. Đau khổ cũng giúp con người rèn đức kiên nhẫn, người kiên trì
trong đau khổ sẽ dễ thành công...
(3)
Đau khổ chữa lành các vết thương phần hồn là tội lỗi: Khi phải chịu đau khổ,
con người có thời gian để hồi tâm, nhận ra tội lỗi, và ăn năn trở lại để được
Thiên Chúa tha thứ.
Vì
thế, các tín hữu: “Hãy khuyên nhủ nhau chịu đựng đau khổ trên tiến trình trở
nên trọn lành... hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh
mẽ. Hãy sửa đường cho thẳng mà đi, để người què khỏi trật bước và hơn nữa, còn
được chữa lành.”
3/
Phúc Âm: Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào.
3.1/
Vào Nước Trời dễ hay khó? Có ít nhất 3 câu trả lời:
(1)
Có nhiều người cắt nghĩa vì Thiên Chúa là Cha nhân từ, không muốn một người con
nào phải hư đi, nên sai Con Một của Ngài đổ máu để tha thứ mọi tội lỗi cho con
người, nên họ kết luận: Thiên Chúa sẽ cứu tất cả mọi người. Đây là thuyết “cứu
độ phổ quát” (Universalism). Giáo Hội kết án học thuyết này, vì tuy ơn cứu độ
được dâng tặng cho mọi người, nhưng không phải mọi người đều đón nhận. Thiên
Chúa sẽ không cứu những người không muốn được cứu, vì làm như thế là vi phạm tự
do của họ.
(2)
Nhiều người khác cho chỉ cần “tin” vào Đức Kitô là đủ, như thánh Phaolô dạy
trong Thư Rôma và Thư Galat. Các việc tốt lành của con người không có sức mạnh
để đem lại ơn cứu độ nên con người chẳng cần phải “làm.” Nếu họ chịu đọc hai
Thư này cách chính xác và khách quan, họ sẽ thấy thánh Phaolô đòi cả đức tin lẫn
việc làm.
(3)
Nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự khó khăn của việc vào Nước
Trời như: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên
Chúa.” “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác Thập Giá của mình hằng
ngày mà theo.” Hay trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu trả lời: “Hãy chiến đấu
để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm
cách vào mà không thể được.” Nói cách khác, nếu một người không sống theo những
đòi hỏi của Tin Mừng, người ấy sẽ không được cứu độ.
Con
người có khuynh hướng thích dễ dãi nên dễ chấp nhận hai giả thuyết (1) và (2);
nhưng họ phải cẩn thận vì họ sẽ phải trả giá cho việc “đánh bạc” này. Mỗi người
chỉ có một cuộc đời để sống, vì nói như Phúc Âm hôm nay: “một khi chủ nhà đã đứng
dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói:
"Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!” Ông sẽ bảo anh em: "Các anh đấy
ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!””
3.2/
Vào Nước Trời không chỉ dựa trên việc biết Chúa hay biết những gì Ngài dạy.
Bấy
giờ anh em mới nói: "Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và
ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.” Nhưng ông sẽ đáp
lại: "Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả
những quân làm điều bất chính!”
Kitô
hữu chỉ trên danh hiệu hay chỉ sống đạo bằng những hình thức hời hợt bên ngoài sẽ
không bao giờ đạt được ơn cứu độ. Câu trả lời của ông chủ không đề cập đến việc
biết ông; nhưng nhấn mạnh đến việc “làm” điều bất chính.
Ơn
cứu độ cũng không dựa trên việc có địa vị này hoặc có uy quyền khác, nhưng được
mở rộng cho tất cả những người thành tậm thiện chí tin tưởng nơi Thiên Chúa và
thực thi những điều Ngài dạy. Vì thế, chúng ta đừng quá tự mãn với quyền lực,
danh vọng, địa vị, và tiền của đời này, vì "có những kẻ đứng chót sẽ lên
hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Không có gì quan trọng hơn là đạt được cuộc sống đời sau, chúng ta đừng để bất
cứ điều gì ngăn cản chúng ta đạt được mục đích này.
-
Thiên Chúa là Cha nhân từ sẽ dùng mọi cách để chúng ta được sống đời đời với
Ngài, trong đó cả việc sửa phạt, chúng ta hãy khôn ngoan để nhận ra, vâng lời
làm theo, và biết sửa trị các lỗi lầm.
-
Danh xưng Kitô hữu không đủ cho chúng ta đạt tới Nước Trời; nhưng chúng ta cần
phải đáp ứng những đòi hỏi của Tin Mừng. Chúng ta đừng dễ rơi vào bẫy của ma quỉ
để chọn lựa những đạo nào đòi hỏi việc giữ luật ít, hay không cần giữ luật, hay
chỉ cần giữ đạo tại tâm.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
25/08/2013 CHÚA NHẬT TUẦN 21 TN – C
Lc 13,22-30
CHIẾN ĐẤU QUA ĐƯỢC CỬA HẸP
“Hãy chiến đấu để qua được cửa
hẹp mà vào... vì có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” (Lc 13,24)
Suy niệm: Sinh viên không vào đại
học cách thong thả như bước vào công viên, vận động viên không bước lên bục
cao lãnh huy chương như dạo chơi trên
bãi biển. Để đạt những mục tiêu ấy, vô vàn mồ hôi, nước mắt và cả những giọt
máu đã đổ ra. Trong cuộc đời, không có mục tiêu đỉnh cao nào không đòi hy sinh.
Nói theo ngôn ngữ của Tin Mừng, là phải chiến đấu để qua được cửa hẹp. Tuy
nhiên, không phải Nước Trời có cửa hẹp, mà chính trái tim ta. Thiên Chúa, Đấng
là Tình Yêu và Vương Quốc của Ngài không thể đi vào trái tim ta vì sự hẹp hòi
do bản chất ích kỷ của ta. Để đón nhận Thiên Chúa tình yêu, ta phải từ bỏ những
lớp vỏ coi mình là trung tâm, lột bỏ đi những vỏ bọc tự mãn, tự kiêu, dẹp bỏ mọi
tự ái đối kháng với tình thương. Đó là lý do tại sao Nước Trời luôn đòi nỗ lực
và hy sinh.
Mời Bạn: Vượt qua cửa hẹp của
trái tim ấy qua muôn vàn hy sinh “rướm máu” hằng ngày để sống đời ơn gọi tu trì
trung thành, đời gia đình hạnh phúc, nghề nghiệp lương thiện hay những nghĩa cử
anh hùng âm thầm nhằm phục vụ người khác, dấn thân cho thiện ích chung, cho Tin
Mừng được loan báo. Bạn có sẵn lòng thực hiện không?
Sống Lời Chúa: Tôi tập chiến đấu để qua
được cửa hẹp bằng cách sẵn sàng thực hiện những hành vi anh hùng âm thầm hầu phục
vụ người thân, cho giới hay hội đoàn, hội dòng của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ
Chúa đã nâng đỡ chúng con trên hành trình Nước Trời. Xin cho chúng con quyết
tâm đi qua cửa hẹp mà đón nhận Nước Trời, qua việc chiến đấu liên lỉ với con
người ích kỷ của mình. Amen.
Cửa
hẹp
Suy Niệm
Cuộc đời thật ra gồm nhiều cửa hẹp.
Cửa hẹp khi thi vào đại học.
Cửa hẹp khi đi xin việc làm.
Cửa hẹp khi muốn đưa trái banh vào lưới.
Sống là phấn đấu bước qua nhiều cửa hẹp.
Cửa càng hẹp, càng phải cố gắng nhiều.
Cửa hẹp mà vào được mới quý.
Nếu thiên đàng có cửa,
thì hẳn vào cửa thiên đàng chẳng phải như dạo chơi.
“Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp” (Lc 13,24),
vì “cửa hẹp dẫn đến sự sống” (Mt 7,14).
Cửa hẹp khi thi vào đại học.
Cửa hẹp khi đi xin việc làm.
Cửa hẹp khi muốn đưa trái banh vào lưới.
Sống là phấn đấu bước qua nhiều cửa hẹp.
Cửa càng hẹp, càng phải cố gắng nhiều.
Cửa hẹp mà vào được mới quý.
Nếu thiên đàng có cửa,
thì hẳn vào cửa thiên đàng chẳng phải như dạo chơi.
“Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp” (Lc 13,24),
vì “cửa hẹp dẫn đến sự sống” (Mt 7,14).
Chiến đấu ở đây là chiến đấu với chính mình,
với cái tôi cồng kềnh của mình,
nặng nề vì những vun vén cá nhân,
phình to vì tự hào và tham vọng.
Thật ra cửa vào sự sống không hẹp
nhưng hẹp vì cái tôi của tôi to quá.
Cần nỗ lực liên tục để giữ cho cái tôi nhỏ lại,
khiêm hạ trước Thiên Chúa, cởi mở trước anh em.
Cần có một cái tôi như trẻ thơ
mới được vào Nước Trời (Mt 18,3).
Cái tôi của chúng ta luôn có khuynh hướng bành trướng
nhờ thu tích nơi mình tri thức, tiền bạc, khả năng.
Cả kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức, chức vụ,
cũng có thể làm cái tôi xơ cứng và khép lại.
Ðể “người lớn” trở nên hồn hậu như trẻ thơ,
cần phải biến đổi và tự hạ (x. Mt 18,3-4).
Ðây thật là một cuộc chiến với chính mình.
Khi hủy mình ra không, ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp.
với cái tôi cồng kềnh của mình,
nặng nề vì những vun vén cá nhân,
phình to vì tự hào và tham vọng.
Thật ra cửa vào sự sống không hẹp
nhưng hẹp vì cái tôi của tôi to quá.
Cần nỗ lực liên tục để giữ cho cái tôi nhỏ lại,
khiêm hạ trước Thiên Chúa, cởi mở trước anh em.
Cần có một cái tôi như trẻ thơ
mới được vào Nước Trời (Mt 18,3).
Cái tôi của chúng ta luôn có khuynh hướng bành trướng
nhờ thu tích nơi mình tri thức, tiền bạc, khả năng.
Cả kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức, chức vụ,
cũng có thể làm cái tôi xơ cứng và khép lại.
Ðể “người lớn” trở nên hồn hậu như trẻ thơ,
cần phải biến đổi và tự hạ (x. Mt 18,3-4).
Ðây thật là một cuộc chiến với chính mình.
Khi hủy mình ra không, ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp.
Nhiều người Do Thái đến chậm, khi cửa đã đóng.
Họ gõ cửa và đòi vào.
Họ tưởng thế nào mình cũng có một chỗ nơi bàn tiệc,
bởi lẽ mình đã từng ngồi đồng bàn với Ðức Giêsu,
và đã nhiều lần nghe Ngài giảng dạy.
Tiếc thay, tương quan đó lại quá hời hợt
đến độ Chúa phải lên tiếng nói với họ:
“Ta không biết các anh từ đâu đến!”
Chúa cũng có thể nói với chúng ta như vậy,
dù chúng ta đã dự lễ, rước lễ, nghe giảng, tĩnh tâm…
Chúa vẫn không quen biết chúng ta
vì chúng ta chẳng để cho Ngài đi vào đời mình.
Chúng ta vẫn là những người xa lạ trước mắt Chúa.
Họ gõ cửa và đòi vào.
Họ tưởng thế nào mình cũng có một chỗ nơi bàn tiệc,
bởi lẽ mình đã từng ngồi đồng bàn với Ðức Giêsu,
và đã nhiều lần nghe Ngài giảng dạy.
Tiếc thay, tương quan đó lại quá hời hợt
đến độ Chúa phải lên tiếng nói với họ:
“Ta không biết các anh từ đâu đến!”
Chúa cũng có thể nói với chúng ta như vậy,
dù chúng ta đã dự lễ, rước lễ, nghe giảng, tĩnh tâm…
Chúa vẫn không quen biết chúng ta
vì chúng ta chẳng để cho Ngài đi vào đời mình.
Chúng ta vẫn là những người xa lạ trước mắt Chúa.
Ðời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục.
Chiến đấu để qua cửa hẹp nhờ bỏ cái tôi ích kỷ.
Chiến đấu để vào trước khi cửa đóng lại.
Cứu độ là một ơn Chúa ban,
nhưng ta phải nỗ lực mới dám đưa tay đón nhận.
Ước gì chúng ta đừng tự hào vì đã biết Chúa,
nhưng phải làm sao để Chúa biết ta và reo lên:
“Ðây là đầy tớ tốt lành và trung tín.”
Chiến đấu để qua cửa hẹp nhờ bỏ cái tôi ích kỷ.
Chiến đấu để vào trước khi cửa đóng lại.
Cứu độ là một ơn Chúa ban,
nhưng ta phải nỗ lực mới dám đưa tay đón nhận.
Ước gì chúng ta đừng tự hào vì đã biết Chúa,
nhưng phải làm sao để Chúa biết ta và reo lên:
“Ðây là đầy tớ tốt lành và trung tín.”
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn
Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Tám
25 THÁNG TÁM
Một Kế Hoạch Hoạt Động Mục
Vụ
Đâu là ý
nghĩa của cuộc họp Thượng Hội Đồng bất thường 1985? Hai mươi năm sau ngày bế mạc
Công Đồng, thật hữu ích – hay đúng hơn, thật cần thiết – việc nhìn lại chiều hướng
của Giáo Hội. Điều này càng đặc biệt đúng bởi vì chúng ta đã chứng kiến một số
xu hướng hay những giải thích về Vatican II có thể dẫn chúng ta đi lạc ra khỏi
con đường đã được Công Đồng hoạch định cho chúng ta.
Và đó chính
là chỉ nam căn bản cho kỳ Thượng Hội Đồng, một biến cố thu hút rất nhiều sự chú
ý của giới truyền thông và chiếm được sự quan tâm lớn lao của công luận. Như
tôi đã nhấn mạnh vào dịp bế mạc kỳ Thượng Hội Đồng, tinh thần tập thể của các
giám mục được biểu lộ một cách đặc biệt đậm nét trong tiến trình của kỳ Thượng
Hội Đồng.
Trong biến cố
quan trọng này, chúng ta đã trông thấy Giáo Hội – qua các giám mục – đã qui tụ
lại để tái xác nhận công cuộc to lớn của Công Đồng Vatcan II. Hai mươi năm sau
khi Vatican II bế mạc, các giám mục tụ họp lại để xem xét các kết quả của Công
Đồng, để xem Giáo Hội đã triển khai những sáng kiến và những chỉ dẫn của
Vatican II như thế nào suốt hai thập kỷ qua. Chúng ta nhận thấy cần phải dừng lại
để suy tư – nhờ đó có thể đánh giá một cách khách quan tình trạng của Giáo Hội
trong ánh sáng của Lời Chúa và với sự giúp đỡ của ơn Chúa.
Chúng ta đã
qui tụ lại với sự tỉnh thức mới mẻ trong Thánh Thần để chúng ta có thể nhận ra
“các dấu chỉ của thời đại” và phác họa một kế hoạch hoạt động mục vụ dựa theo tinh
thần hàm chứa trong các văn kiện Công Đồng. Chúng ta muốn nhận ra những gì mình
đã thực sự đạt được và những bước nào còn phải được xúc tiến để thực hiện công
cuộc lớn lao này của Giáo Hội.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô
II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Gương
Thánh nhân
Ngày
25/8 - Thánh LUY
(1214
- 1270)
Thánh
Luy sinh ngày 25 tháng 4 năm 1214. Cha Ngài là vua Luy VIII và mẹ Ngài là bà
Blanche de Castille. Ngài được rửa tội tại Poissy. Để ghi nhớ ơn phúc rửa tội,
Ngài thường ký tên là Luy de Poissy.
Ngay
từ tuổi ấu thơ, Luy đã được hấp thụ từ nơi người mẹ thánh thiện và đầy nghị lực
một nền giáo dục hoàn hảo. Chúng ta sẽ còn nhớ mãi lời khuyên mà người mẹ đạo đức
đã nói với con mình: - Con ơi, mẹ yêu con trên hết mọi sự, nhưng mẹ thà thấy
con chết ngay bây giờ trước mặt mẹ, còn hơn thấy con phạm một tội trọng mất
lòng Chúa.
Năm
Luy lên 12 tuổi vua cha từ trần, sau 3 năm trị vì. Ngài lên nối ngôi cha. Vì từ
nhỏ tuổi mẹ Ngài nắm quyền nhiếp chính. Để bảo đảm, vị thái hậu tinh tế này đã
đưa con tới Reims để được phong vương ngày 01 tháng 12 năm 1226. Nhưng điều bà
tiên đoán đã xảy ra. Nhiều lãnh Chúa đã chống lại quyền cai quản của thái hậu.
Họ không tới dự lễ phong vương. Trong hoàn cảnh này, thái hậu Blanche đã tỏ ra
có tâm hồn cương nghị, quyết đương đầu với mọi thử thách. Cũng trong thời gian
đầy sóng gió này, ưu tư lớn lao nhất của bà là huấn luyện lòng đạo đức cho người
con yêu quí của mình.
lên
20 tuổi, Luy vâng lời mẹ kết hôn với quận công Marguerite miền Provence. Quận
công cũng là người nổi tiếng về lòng đạo đức, tinh thần và sắc đẹp. Châm ngôn của
nàng là:
-
Hoàng hậu của trần gian nhưng là tớ nữ của trời cao.
Năm
sau, khi tới tuổi trưởng thành, Luy lãnh lấy quyền cai quản quốc gia. Những người
nặng tinh thần thế tục, nghĩ rằng một khi thoát ách của thái hậu, Luy sẽ thông
minh theo nếp sống lạc thú xa hoa. Họ lầm. Vua thánh Luy lại càng tỏ ra đạo đức
hơn. Hàng ngày Ngài trung thành đọc kinh nhật tụng, tham dự thánh lễ và thăm viếng
các nhà thương. Ngoài những ngày giữ chay theo luật buộc, Ngài ăn chay suốt mùa
vọng, mọi thứ sáu trong năm và mọi ngày vọng mừng Đức Mẹ.
Có
người kêu trách nếp sống đạo đức của Ngài, lấy lẽ rằng nó làm hại cho việc nước.
Thánh nhân trả lời: - Nhiều người kỳ cục quá, họ cho việc siêng năng cầu nguyện
của ta là một trọng tội và rồi họ sẽ chẳng nói năng gì nếu ta để giờ đi săn bắn
vui chơi.
Đi
đôi với lòng đạo đức, vua thánh Luy còn bày tỏ lòng thương người một cách đặc
biệt. Mỗi chiều thứ bảy, Ngài có thói quen rửa chân cho một số người nghèo khổ
tật bệnh và mời họ ăn cơm do chính Ngài thủ tiếp. Vị đại thần bực bội vì thói
quen này. Một lần kia Ngài hỏi ông: - Một là bị phong cùi, hai là phạm một tội
trọng ngươi chọn đàng nào ?
Viên
quan trả lời : - Hạ thần thích 30 tội trọng hơn là bị cùi
Và
vua trả lời : - Ngươi dại dột quá, nhà ngươi không biết rằng: còn có một bệnh
nào ghê tởm bằng tội trọng, vì phạm tội trọng thì giống hệt như quỉ sứ.
Lòng
quảng đại của Vua Luy còn lan rộng tra ngoài biên giới quốc gia. Vua Baudoin
II, hoàng đế Contantinôple xin vua Luy trợ giúp và để đền ơn, ông đã biếu cho
thánh Luy những báu vật liên quan đến cứu thế, như mão gai mà quân lính đã đội
đầu Chúa Giêsu.
Thần
dân dưới quyền vua thánh thiện được hưởng an bình thịnh vượng. Dầu vậy ngay vào
năm 1242, Hugues de Lusingan nổi loạn, chống lại nhà vua, với sự trợ giúp của đứa
con ghẻ là Henry III, vua nước Anh Vua Luy tỏ ra là một người có khả năng lãnh
đạo, Ngài đã dẹp tan cuộc nổi loạn với chiến thắng ở Taillebourg.
Cùng
với chí can trường, vua Luy còn triệu tập đoàn binh thánh giá hai năm sau đó.
Cuộc xuất chinh mang lại thành quả ban đầu với chiến thắng tại Damietta, miền
Châu thổ sông Nil. Nhưng vào tháng 4 năm 1250 Ngài trở thành kẻ chiến bại và bị
bắt làm tù binh. Được thả, thánh nhân qua Palestina cho đến khi mẹ Ngài qua đời
ngày 26 tháng 11 năm 1252, Ngài mới trở về tiếp tục công cuộc trị nước.
10
năm sau, vua Luy xuất chinh lần thứ hai. Tháng 7 năm 1270 Ngài cùng binh sĩ từ
Aigues Mortes tới Africa. Nhưng ít tuần sau đó, Ngài mắc bệnh đậu lào và qua đời
tại Tunis ngày 15 tháng năm 1270. Một đời sống với Chúa, thánh Luy đã chết
trong bình an với lời nguyện dâng mình: - Con tiến vào nhà Chúa, con sẽ tôn thờ
Chúa trong thánh điện Ngài và con sẽ tôn vinh danh Chúa.
(daminhvn.net)
25 Tháng Tám
Giấc Mơ Của Một Thi Sĩ
Thi sĩ Sully Prudhomme, người Pháp đã có lần tưởng tượng ra
một giấc mơ như sau:
Ông mơ thấy một nhà nông bảo ông hãy cầm cày lấy đất, trồng
lấy lúa, gặt lấy thóc, làm lấy gạo mà ăn. Ông mơ thấy người thợ dệt bảo ông hãy
đánh lấy chỉ, dệt lấy áo mà mặc. Ông mơ thấy người thợ nề bảo ông hòa lấy vữa,
xây lấy nhà mà ở. Còn gì nữa? Ông đã thấy mọi người bỏ ông, xa lánh ông, để ông
trơ trọi với cảnh vật. Ông kinh hãi. Ông kêu cầu, khẩn hứa nhưng chỉ thấy mãnh
thú xuất hiện trên đường.
Có lẽ không có bao nhiêu người đã mơ
giấc mơ nói trên. Nhưng chắc chắn nhiều người chỉ nghĩ đến mình, tưởng rằng một
mình có thể sống giữa vũ trụ, không cần đến ai, không cần ai giúp đỡ.
Không ai là một hòn đảo. Chúng ta đều
bị ràng buộc với mọi người, chúng ta đổi công việc của chúng ta với công việc của
người khác, chúng ta phụng sự người vì người đã phụng sự chúng ta.
Nhưng chúng ta không chỉ sống trong
tình liên đới về mặt vật chất. Con người còn liên đới nhau về mặt hạnh phúc và
đau khổ. Không ai hạnh phúc một mình và không ai một mình có thể chịu nổi sự
đau khổ. Nhờ người, ta mới vui và nhờ người, ta mới trút bớt những cơ cực của
ta. Thế giới này quá nặng khiến một người có thể mang nổi và sự khổ cực của vũ
trụ quá lớn cho một trái tim.
(Lẽ Sống)
25-8
Thánh Louis của Pháp
(1226-1270)
Khi đăng quang làm vua
nước Pháp, Louis thề hứa sẽ sống như một người được Thiên Chúa xức dầu, đối xử
với người dân như một hiền phụ và là tướng công của Vua Hòa Bình. Dĩ nhiên, các
vua khác cũng phải thi hành như vậy. Nhưng Thánh Louis khác biệt ở chỗ ngài
thực sự nhìn đến bổn phận làm vua dưới con mắt đức tin. Sau những xáo trộn của
hai triều đại trước, ngài đã đem lại hoà bình và công bằng trong nước.
Ngài được tôn vương lúc
12 tuổi, khi cha ngài từ trần. Mẹ ngài cầm quyền trong thời gian khi ngài còn
nhỏ. Ðến lúc 19 tuổi, ngài kết hôn với Marguerite ở Provence. Ðó là một hôn
nhân hạnh phúc, bất kể tính tình kiêu căng và náo động của bà hoàng hậu. Họ có
đến 10 người con.
Khi 30 tuổi, vua Louis
"vác thập giá" cho đoàn thập tự chinh. Ðạo quân của ngài chiếm Damietta
ở sông Nile nhưng sau đó không lâu, vì bệnh kiết lị và thiếu tiếp viện, họ bị
bao vây và bị bắt. Vua Louis và đạo quân được trả tự do bằng cách giao lại
thành phố Damietta và nộp một số tiền chuộc. Ngài ở lại Syria trong bốn năm.
Mọi người thán phục ngài
với tư cách của một thập tự quân, nhưng có lẽ công trạng lớn lao hơn của ngài
là những lưu tâm về sự công bằng trong nền hành chính. Ngài đặt ra các quy tắc
cho các viên chức chính quyền, mà sau đó trở thành những chuỗi luật cải tổ.
Ngài thay thế hình thức xét xử đầy bạo lực bằng việc điều tra các nhân chứng,
và nhờ ngài thúc giục, việc ghi chép lại các chi tiết trong toà được bắt đầu.
Vua Louis luôn luôn tôn
trọng quyền bính của đức giáo hoàng, nhưng ngài bảo vệ quyền lợi của hoàng gia
chống với các giáo hoàng và từ chối không công nhận bản án của Ðức Innôxentê IV
chống với hoàng đế Frederick II.
Vua Louis là người tận
tụy cho dân chúng, ngài thành lập các bệnh viện, thăm viếng người đau yếu, và
cũng giống như quan thầy của ngài là Thánh Phanxicô, ngài chăm sóc ngay cả
những người bị bệnh cùi. Bởi sự thánh thiện và cá tính của ngài, vua Louis đã
đoàn kết nước Pháp thời bấy giờ, với đủ loại người -- tướng công, dân thành
thị, nông dân, linh mục và các hiệp sĩ. Trong nhiều năm, quốc gia này sống trong
an bình.
Vào năm 1267, lo lắng vì
những cuộc tấn công mới của người Hồi Giáo vào Syria, vua Louis dẫn đầu cuộc
thập tự chinh khác, khi ấy ngài đã 41 tuổi. Chỉ trong vòng một tháng, đạo quân
bị tiêu hao nhiều vì bệnh tật, và chính vua Louis đã từ trần ở đất ngoại quốc
khi 44 tuổi. Ngài được phong thánh vào 27 năm sau.
Lời Bàn
Thánh Louis là người có
ý chí mạnh mẽ và kiên quyết. Lời của ngài thực sự đáng tin, và sự can trường
của ngài thật đáng kể. Ðiều đặc biệt nhất là ngài tôn trọng bất cứ ai mà ngài
gặp, nhất là những "người bé mọn của Thiên Chúa." Ðể chăm sóc
dân chúng, ngài xây dựng nhà thờ, thư viện, nhà thương và cô nhi viện. Ngài
cũng đối xử với các hoàng tử một cách thành thật và công bằng. Ngài hy vọng
cũng sẽ được đối xử tương tự bởi Vua các vua, là Người mà ngài đã dâng hiến
cuộc đời, gia đình và quê hương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét