Thứ Sáu Ngày 16/08/2013
Thứ Sáu Tuần 19 Mùa Thường Niên Năm Lẻ
BÀI ĐỌC I: Gs 24, 1-13
"Ta đã đem tổ phụ
các ngươi từ Mêsôpôtamia về, đã dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập, đã đem các ngươi
vào đất nước".
Trích
sách ông Giosuê.
Trong những ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi tộc lại ở
Sikem, rồi gọi các kỳ lão, các thủ lãnh gia tộc, quan án, sĩ quan đến, và họ đứng
trước mặt Thiên Chúa. Giosuê liền nói với toàn dân như thế này:
Chúa là Thiên Chúa Israel phán rằng: Thuở xưa tổ tiên các ngươi
là Tharê, cha của Abraham và Nacor, đã ở bên kia sông, và đã thờ các thần ngoại.
Bấy giờ Ta đã đem Abraham, tổ phụ các ngươi, từ bên kia sông và đã dẫn đưa ông
vào đất Canaan. Ta lại làm cho con cháu ông trở nên đông đúc, đã ban cho ông được
Isaac. Ta lại ban cho Isaac được Giacóp và Êsau. Trong hai người này, Ta đã ban
cho Êsau miền núi Sêir làm sản nghiệp. Còn Giacóp và con cái thì xuống Ai-cập.
Sau đó, Ta đã sai Môsê và Aaron, và trừng phạt Ai-cập bằng những
phép lạ. Rồi Ta đã dẫn các ngươi và cha ông các ngươi ra khỏi Ai-cập, và các
ngươi đã đi tới Biển. Người Ai-cập đuổi theo cha ông các ngươi với chiến xa
binh mã cho đến Biển Đỏ. Bấy giờ con cái Israel kêu cầu Chúa và Người đã khiến
sự tối tăm ngăn giữa các ngươi và quân Ai-cập, và làm cho biển tràn ra mà vùi lấp
chúng. Chính mắt các ngươi đã thấy tất cả những gì Ta đã làm ở Ai-cập, rồi các
ngươi đã ở lâu trong hoang địa.
Sau đó, Ta đã đưa các ngươi vào xứ Amorê, bên kia sông Giođan.
Chúng đã giao chiến với các ngươi và Ta đã trao chúng trong tay các ngươi. Các
ngươi đã chiếm được đất đai của chúng, và Ta đã tiêu diệt chúng trước mặt các
ngươi. Rồi Balac, con Sêphor, vua xứ Moab, dấy lên giao chiến với Israel. Vua ấy
đã cho mời Balaam, con của Bêor, đến để chúc dữ các ngươi. Ta không muốn nghe
Balaam. Nhưng trái lại Ta đã dùng nó chúc phúc cho các ngươi và Ta đã cứu các
ngươi thoát khỏi bàn tay nó.
Sau đó, các ngươi đã qua sông Giođan và đến Giêricô, dân thành
này, cũng như các người Amorê, Phêrêsê, Canaan, Hêthê, Gergêsê, Hêvê, Giêbusê,
đã giao chiến với các ngươi. Nhưng Ta đã trao chúng trong tay các ngươi. Ta đã
cho ong bò vẽ đi trước các ngươi, và Ta đuổi hai vua xứ Amorê ra khỏi các địa hạt
của họ mà không cần nhờ đến cung kiếm của các ngươi. Ta đã ban cho các ngươi một
vùng đất mà các ngươi không mất công đánh chiếm. Ta đã cho các ngươi được ở những
thành mà các ngươi không phải xây cất, Ta đã cho các ngươi những vườn nho và vườn
ôliu mà các ngươi không vun trồng. Đó
là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 135, 1-3. 16-18. 21-22 và 24
Đáp: Bởi đức từ bi Người muôn
thuở.
Hoặc đọc: Alleluia.
1)
Hãy ca ngợi Chúa, vì Người hảo tâm, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Hãy ca ngợi
Thiên Chúa của chư thần, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Chỉ mình Người làm những
việc kỳ diệu vĩ đại, bởi đức từ bi Người muôn thuở. - Đáp.
2)
Người đã dẫn đưa dân Người qua sa mạc, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã
đánh dẹp các đại vương đế, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã giết các vua
quyền thế, bởi đức từ bi Người muôn thuở. - Đáp.
3)
Người đã ban đất chúng để làm gia sản, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Làm gia sản
của Israel tôi tớ Người, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã giải thoát
chúng ta khỏi quân thù địch, bởi đức từ bi Người muôn thuở. - Đáp.
ALLELUIA: 1 Ga 2, 5
Alleluia,
alleluia! - Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt
hảo nơi người ấy. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 19, 3-12
"Vì lòng chai đá của
các ngươi mà Môsê đã cho phép các ngươi rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có
như vậy".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, có những người biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử
Người rằng: "Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?" Người đáp:
"Nào các ông đã chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài
người có nam có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết
hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một thân xác? Cho nên họ không còn là hai,
nhưng là một thân xác. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không
được phân ly". Họ hỏi lại: "Vậy tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn
mà cho rẫy vợ?" Người đáp: "Vì lòng chai đá của các ông mà Môsê đã
cho phép các ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy. Tôi bảo các ông
rằng: Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác, thì phạm tội ngoại tình.
Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại tình".
Các môn đệ thưa Người rằng: "Nếu sự thể việc vợ chồng là
như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ". Người đáp: "Không phải mọi người
hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn
nhân từ lòng mẹ sinh ra, có những hoạn nhân do người ta làm nên, và có những
người vì Nước Trời, tự trở thành hoạn nhân. Ai có thể hiểu được thì hiểu".
Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Vấn Ðề Ly Dị
Vào
thời Chúa Giêsu, dựa trên luật Môsê được ghi lại trong sách Tl 14, 1-4, thì mọi
trường phái giải thích luật đều phải nhìn nhận việc ly dị, nhưng có điểm khác
nhau về lý do ly dị. Trường phái Hillel cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, còn
trường phái Shammai gắt gao hơn, chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình
mà thôi. Những người Biệt phái đến chất vấn Chúa Giêsu như được ghi lại trong
Tin Mừng hôm nay, không phải về việc có được phép ly dị hay không, nhưng về lý
do của việc ly dị: họ muốn Chúa Giêsu phải chọn một trong hai lập trường: hoặc
cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, hoặc chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại
tình.
Trong
câu trả lời, Chúa Giêsu không theo lập trường của con người, không đứng về nhóm
nào, nhưng Ngài kêu gọi trở về với chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa khi
tạo dựng con người: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được
phân ly". Ðời sống hôn nhân và gia đình giữa người nam và người nữ là một
định chế do chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng con người, chứ không do
con người thiết định. Môsê cho phép ly dị vì chiều theo lòng dạ chai đá của dân
chúng, chứ ngay từ đầu không có như vậy.
Chứng
kiến cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái, các môn đệ phản ứng:
"Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì thà đừng lấy vợ còn hơn".
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu cho các ông biết là cần phải có ơn Chúa, con người
mới có thể hiểu rõ ơn gọi cao cả của đời sống hôn nhân cũng như của đời sống độc
thân trinh khiết vì Nước Trời. Bậc sống độc thân hoặc lập gia đình, không phải
thuần túy tùy thuộc ý định con người, nhưng là một ơn ban đến từ Thiên Chúa. Nếu
không tin có Thiên Chúa và bị ảnh hưởng của tinh thần thế tục, con người sẽ
không hiểu giá trị cũng như không thể sống trọn vẹn ơn gọi độc thân hoặc lập
gia đình. "Ai có thể hiểu được thì hiểu", ơn ban của Thiên Chúa tùy
thuộc tự do của con người. Con người thời nay đã lạm dụng tự do để quyết định
những điều nghịch lại chương trình của Thiên Chúa. Con người đã trần tục hóa cả
bậc độc thân lẫn bậc hôn nhân và gia đình. Tất cả đều được phép, kể cả việc hai
người cùng phái tính được luật pháp cho phép sống với nhau như vợ chồng, để rồi
tình thương của cha mẹ đối với con cái trong trường hợp nào cũng bị hạ thấp.
Người
Kitô hữu chúng ta đừng để mình bị cám dỗ chạy theo tâm thức trần tục. Giải pháp
cho vấn đề không phải là luật lệ do con người đặt ra, nhưng là tình thương, là
trở về với Thiên Chúa và chương trình nguyên thủy của Ngài khi tạo dựng con người.
Ðiều này đòi hỏi nhiều cố gắng hy sinh, nhưng đó là bí quyết để con người sống
trọn ơn gọi của mình và đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng ta đừng sợ cố gắng hy
sinh, bởi vì Thiên Chúa sẽ trợ giúp chúng ta, nếu chúng ta mở rộng tâm hồn đón
nhận Ngài và để Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Xin
Chúa canh tân tình yêu chúng ta, cho tình yêu chúng ta hòa nhập vào tình yêu thần
thiêng của Chúa, để chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của chúng ta theo đúng chương
trình của Chúa.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 19 TN1
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Sống trung
thành với ơn gọi của mình.
Có
nhiều lý do con người vịn vào để từ chối giữ lòng trung thành: tại không biết,
tại hoàn cảnh, tại gia đình, tại người khác, tại yếu đuối ... Nhưng Thiên Chúa
dạy: Để chu toàn hai giới răn "mến Chúa, yêu người," con người phải
trung thành với Thiên Chúa và với tha nhân trong mọi trạng huống của cuộc đời.
Con người dễ dàng trung thành lúc vui vẻ, hạnh phúc, bình an; nhưng những lúc
khó khăn hoạn nạn mới chứng tỏ tình yêu trung thành của con người. Thánh M.
Kolbe mà chúng ta mừng hôm nay, đã chứng tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa và tha
nhân bằng cách tình nguyện chết thay cho một chàng thanh niên để anh có thể sống
và chăm sóc vợ con của anh.
Các
Bài Đọc hôm nay đưa ra những lý do tại sao con người cần phải trung thành với
Thiên Chúa và với tha nhân. Trong Bài Đọc I, ông Joshua triệu tập tất cả con
cái Israel lại để nhắc nhở cho họ biết sự trung thành của Thiên Chúa qua những
gì Ngài đã làm cho tổ tiên và dân tộc Israel. Mục đích là để họ nhận ra tình
yêu của Thiên Chúa và sống trung thành với Ngài. Trong Phúc Âm, những người
Pharisees đến hỏi Chúa về việc có được ly dị vợ vì bất cứ lý do gì hay không?
Chúa Giêsu trả lời cách tuyệt đối: không được; vì đó là thánh ý của Thiên Chúa
ngay từ ban đầu. Ngoài ra, Chúa Giêsu cũng muốn nói tới sự trung thành trong đời
sống độc thân vì Nước Trời: vì yêu Chúa và tha nhân, có những người tình nguyện
hy sinh cả cuộc đời cho phần rỗi linh hồn của tha nhân.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Vì Thiên Chúa đã luôn trung thành, anh em cũng phải trung thành với
Ngài:
Ông
Joshua quy tụ mọi chi tộc Israel ở Shechem, và nhắc nhở cho toàn dân biết tất cả
những gì Thiên Chúa đã làm cho dân tộc họ:
(1)
Những gì Ngài đã làm cho các tổ-phụ Abraham, Isaac và Jacob: Đây là ba Tổ phụ của con
cáiIsrael. Bắt đầu với Abraham, Thiên Chúa chọn ông khi ông chưa biết Thiên
Chúa và vẫn đang thờ kính các thần ngoại. Ngài chọn ông và hứa sẽ ban hai điều:
con cái đông đúc như sao trên trời dù ông hiếm hoi, và cho ông xem miền Đất Hứa,
nơi mà con cháu ông sẽ chiếm hữu và sinh sống sau này. Điều thứ nhất được khơi
mào khi Thiên Chúa ban cho ông Isaac trong lúc tuổi già. Từ đó, Ngài đã ban cho
Isaac sinh ra hai giòng tộc lớn là Jacob và Esau. Ngài cho Esau chiếm hữu núi
Seir. Còn Jacob và các con thì xuống Ai-cập.
(2) Những gì Ngài đã làm
cho Moses và con cái Israel: Khi Giuse bị bán sang Ai-cập, Thiên Chúa quan phòng để ông Giuse
đưa cha và tất cả anh em sang Ai-cập để tránh nạn đói lớn đang xảy ra thời đó.
Khi con cái Israel bị đối xử tàn nhẫn như nô lệ bên Ai-cập, Thiên Chúa đã truyền
cho Moses và Aaron lãnh đạo dân ra khỏi Ai-cập bằng những uy quyền qua việc
gieo rắc bảy tai ương và đưa dân vượt qua Biển Đỏ.
(3)
Những gì Ngài đã chuẩn bị cho dân chúng trước khi vào Đất Hứa: Ta đã đem các ngươi vào
đất người Amorites. Chúng ở bên kia sông Jordan. Chúng đã giao chiến với các
ngươi, nhưng Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Các ngươi đã chiếm đất của
chúng, và Ta đã tiêu diệt chúng trước mắt các ngươi.
(4)
Những gì Ngài đã làm cho con cái Israel trong Đất Hứa: "Các ngươi đã qua
sông Jordan và tớiJericho. Những người làm chủ Jericho giao chiến với các
ngươi: Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Ta đã thả ong bầu bay đi trước các
ngươi; chúng đuổi hai vua Amorites đi cho khuất mắt các ngươi; chính ong bầu chứ
không phải cung kiếm của các ngươi đã đuổi chúng.
Kết
luận: Với
chiến thắng Jericho va những chiến thắng sau này, Thiên Chúa đã hoàn tất lời hứa
thứ hai là đem dân vào Đất Hứa mà Ngài đã hứa với Abraham: ''Ta ban cho các
ngươi đất các ngươi đã không vất vả khai phá, những thành các ngươi đã không
xây mà được ở, những vườn nho và vườn ô-liu các ngươi đã không trồng mà được
ăn." Khi nhắc nhở những điều này, ông Joshua muốn cho con cái Israel thấy
tình yêu và lòng trung thành của Thiên Chúa: Ngài luôn thực hiện những gì Ngài
hứa dù con cái Israel luôn cứng lòng phản bội Ngài. Ông Joshua mong muốn dân nhận
ra để rồi họ biết trung thành yêu thương và giữ các Lề Luật của Ngài, như chúng
ta sẽ nghe ngày mai.
2/
Phúc Âm: Thiên Chúa ban ơn thánh đủ để con người trung thành trong ơn gọi của
mình.
2.1/
Trung thành trong ơn gọi gia đình: Trước tiên, chúng ta cần biết một ít kiến thức về hôn nhân và lề
luật liên quan đến ơn gọi gia đình và sự ly dị của người Do-thái. Người Do-thái
coi trọng việc kết hôn vì qua đó, họ giữ lệnh truyền của Thiên Chúa: "Hãy
sinh sôi cho đầy mặt đất." Vì thế, kết hôn là một bổn phận phải làm, trừ
những người muốn đình hoãn việc kết hôn để học hỏi Lề Luật. Về vấn đề ly dị,
Sách Đệ Nhị Luật viết: "Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với
nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng
có điều gì chướng (indecency,ervat trong MT, askemon trong LXX), thì sẽ viết
cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà" (Deut
24:1). Từ indecency rất mơ hồ và có hai nghĩa chính: (1) không thích hợp; và
(2) những hành vi vô luân. Có hai trường phái chính cắt nghĩa chữ này như sau:
Trường phái bảo thủ Shammai hiểu từ này có nghĩa "ngoại tình;" người
chồng chỉ có thể ly dị vợ mình vì lý do vợ ngoại tình mà thôi. Trường phái cấp
tiến Hillel hiểu theo nghĩa thứ nhất: tất cả những gì người chồng thấy không xứng
đáng nơi người vợ: không biết nấu nướng, đầu xù tóc rối nơi công cộng, mạ lỵ chồng...
Rabbi Akiba còn đi xa hơn: nếu chồng không còn thấy nét quyến rũ nơi vợ mình nữa.
Với sự hiểu biết đó, có mấy người Pharisees đến gần Đức Giêsu để thử Người. Họ
nói: "Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?"
Chúa
đáp: "Các ông không đọc thấy điều này sao: "Thuở ban đầu, Đấng Tạo
Hoá đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: "Vì thế, người ta
sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như
vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên
Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly."" Trước hết, đây là
ý muốn và là nguyên lý sống của Thiên Chúa cho con người; điều mà con người phải
cố gắng giữ để nên trọn lành như Thiên Chúa, Đấng luôn trung thành với con người.
Họ
thưa với Người: "Thế sao ông Moses lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?"
Người bảo họ: "Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Moses đã cho phép các
ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu. Tôi nói cho các ông biết: Ngoại
trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại
tình." Thiên Chúa cũng như ông Moses quá hiểu sự cứng lòng của con người,
nên có những luật riêng để giải thoát con người khỏi những trường hợp khó khăn
ngoài ý muốn. Dù con người không đạt tới mức trọn lành như Thiên Chúa mong muốn,
ông Moses hay Giáo Hội cũng phải giúp con người vượt qua các khó khăn cách tốt
nhất có thể; nhưng không bao giờ như phái Hillel chủ trương.
2.2/
Trung thành trong ơn gọi độc thân vì Nước Trời: Các môn đệ thưa Người: "Nếu làm chồng
mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn."
Chúa
Giêsu lợi dụng cơ hội hay do Matthew sắp xếp, để đề cập tới những người sống
trong ơn gọi độc thân. Ngài đưa ra ba trường hợp: Thứ nhất, những người không
có khả năng để sống ơn gọi gia đình ngay từ lúc lọt lòng mẹ. Kế đến những người
không thể kết hôn vì bị người ta hoạn, như trường hợp các hoạn quan trong triều
đình. Sau cùng là những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời, những người hy
sinh để hoàn toàn dành thời giờ cho việc rao giảng Tin Mừng và cứu rỗi linh hồn
tha nhân. Đối với hạng người sau cùng này, Thiên Chúa ban ơn thánh đủ để họ có
thể trung thành với ơn gọi tu trì.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Để yêu thương Thiên Chúa và tha nhân, chúng ta cần phải trung thành với ơn gọi
của mình; nhất là trong những lúc đương đầu với thử thách và đau khổ của cuộc đời.
-
Khi Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên trọn lành, Ngài ban ơn thánh đủ để chúng
ta có thể làm chuyện đó. Chúng ta không làm được là tại chúng ta không sống bằng
sức mạnh của Thiên Chúa, vì quá lơ là với Thiên Chúa và với các Bí-tích Đức
Kitô đã thiết lập.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 19 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 19,3-12
* Đặt trong sơ đồ chung của Mt :
Các chương 19-23 (Từ hôm nay đến Thứ Tư tuần
21) tường thuật những việc xảy ra trong giai đoạn Chúa Giêsu và các môn đệ hành
trình từ Galilê tiến lên Giêrusalem. Đây là giai đoạn chuẩn bị cho cuộc chịu
nạn và phục sinh nên rất quan trọng. Ý tưởng lớn là triều đại Thiên Chúa đã đến
gần.
A. Hạt giống...
Vấn đề ly dị :
- Những người pharisêu đến gần Chúa Giêsu để thử
Ngài “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không ?” : Khi đó
có 2 lập trường : lập trường của trường phái Hillel thì rộng rãi, cho phép ly
dị một cách dễ dàng ; lập trường của trường phái Shammað thì khắt khe hơn, chỉ
chấp nhận ly dị trong rất ít trường hợp. Biệt phái biết vấn đề này gay go nên
đem ra gài bẫy Chúa Giêsu. Ngài trả lời thế nào cũng có thể bị kết án : hoặc
quá rộng rãi hoặc quá hẹp.
- Chúa Giêsu trả lời bằng cách trích hai đoạn
trong sách Sáng thế (St 1,27 2,24). Đó chính là những lời thiết lập định chế
đơn hôn và vĩnh hôn. Như thế, dứt khoát là không được li dị, bởi vì “Sự gì
Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.
- Những người pharisêu chưa chịu thua. Họ trích
một câu trong Đnl 24,1, nội dung là cho phép ly dị với điều kiện phải viết
chứng thư đưa cho người vợ bị ly dị.
- Chúa Giêsu nhận định về câu Đnl đó : bản chất
của nó không phải là lời thiết lập luật nhưng chỉ là lời cho phép chuẩn miễn
trong hoàn cảnh người dân còn lòng chai dạ đá, nghĩa là chưa nhận rõ ý Thiên
Chúa. Như thế trong quá khứ nếu có cho phép ly dị thì chỉ là chuẩn miễn thôi.
Sự chuẩn miễn không huỷ bỏ được định chế hôn nhân.
- Rồi Ngài lặp lại nguyên tắc hôn nhân bất khả ly
: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mình mà cưới vợ khác
là phạm tội ngoại tình”.
B.... nẩy mầm.
1. Bậc sống độc thân hoặc lập gia đình không phải
thuần tuý thuộc ý muốn con người nhưng là một ơn ban đến từ Thiên Chúa. Nếu không
tin có Thiên Chúa và bị ảnh hưởng của tinh thần thế tục, con người sẽ không
hiểu giá trị cũng như không thể sống trọn vẹn ơn gọi độc thân hoặc lập gia
đình. Người kitô hữu chúng ta đừng để mình bị cám dỗ chạy theo tâm thức trần
tục. Giải pháp cho vấn đề không phải là luật lệ do con người đặt ra nhưng là
tình thương, là trở về với Thiên Chúa và chương trình nguyên thuỷ của Ngài khi
tạo dựng con người ("Mỗi ngày một tin vui")
2. Một trong những đền thờ cổ nói lên tinh thần
của người Rôma thời xưa, đó là đền tờ dâng kính Nữ thần hòa giải. Khi hai vợ
chồng bất hòa, người ta khuyên họ đến trình diện nữ thần hòa giải. Nghi thức
rất đơn sơ : mỗi người có thể trình bày lý lẽ, phơi bày những bất công mà mình
phải gánh chịu trong đời sống gia đình. Nghi thức đòi hỏi hai người không được
nói cùng một lúc. Hễ ai ngắt lời người kia thì điều đó sẽ bị coi là phạm thánh.
Nghi thức này có sức mang lại những kết quả phi thường : sau khi trình bày xong
lý lẽ, rủa xả thậm tệ người phối ngẫu, hai vợ chồng thường làm hòa với nhau
trước mặt vị thần ("Mỗi ngày một tin vui")
3. “Sự gì mà Thiên Chúa đã liên kết thì loài
người không được phân ly.” (Mt 19,6)
“Rầm... ! ! !” Cái tivi, vật dụng cuối cùng bị
đập vỡ, tiếp đó là tiếng cãi vã, xô xát của hai vợ chồng. Những tiếng khóc đầy
sợ hãi của mấy đứa trẻ :
- Hu hu ! Ba má ơi đừng đánh nhau nữa ! ! !
- Hu hu ! Ba má ơi đừng bỏ tụi con !
Thì ra Ba má chúng sắp ly dị. Đó là tất cả những
gì mà tôi đang chứng kiến ở một gia đình hàng xóm.
Hôn nhân là một phép bí tích mà Thiên Chúa đã ban
tặng cho con người với đầy đủ tự do và trách nhiệm. Để sống yêu thương nhau
trong tình vợ chồng, sinh sản và giáo dục con cái trong nhiệm vụ làm cha làm
mẹ... Đây chính là cái đích thực của hôn nhân và trong cái đích thực đó con
người mới nhận ra được giá trị của tình yêu, của nhân cách chân thiện mỹ.
Thế nhưng trong cuộc sống vội vã hôm nay, con
người thường lao theo dòng chảy của nó. Họ yêu cuồng sống vội. Hôn nhân có khi
chỉ là một sự tính toán, đổi chác, tìm danh vọng và xác thịt... Hôn nhân khác
nào một cuộc chơi : thích thì lấy nhau không thích thì ly dị.
Lạy Chúa, xin cho tất cả những người đang sống
đời hôn nhân biết trân trọng và gìn giữ hôn ước mà họ đã cam kết ; và giây hôn
phối mà Chúa đã kết hợp, ràng buộc. (Hosanna)
Lm.carolo HỒ BẶC XÁI –
Gp.Cần Thơ
16/08/13 THỨ SÁU TUẦN 19 TN
Th. Têphanô Hungari
Mt 19,3-12
Th. Têphanô Hungari
Mt 19,3-12
KHIẾT TỊNH VÌ NƯỚC TRỜI
“Có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được
thì hiểu.”
(Mt 19,12)
Suy niệm: Nền
văn hóa hưởng thụ hôm nay không chỉ khuyến khích tiêu xài và lệ thuộc vào vật
chất, mà còn cám dỗ người thời đại quan niệm đơn giản tình dục như một thứ trò
chơi, một món hàng thuận mua vừa bán! Trào lưu tôn thờ bản năng tính dục cùng
với sự thờ ơ nơi mỗi người đang làm đảo lộn giá trị đạo đức của nhiều cá nhân
và gia đình, gây nên mọi thứ vi phạm luân lý và khinh thường đời sống độc thân.
Trong bối cảnh này, đời sống độc thân của các linh mục tu sĩ thật quý giá, vì
đời sống đó minh chứng họ muốn bước theo sát Chúa Kitô và cho thấy trước cuộc
sống mai sau. Như Đức Giêsu Kitô, Đấng tự nguyện sống đời độc thân để trọn vẹn
cho sứ mạng loan báo Tin Mừng giữa một xã hội xem đời sống độc thân, son sẻ là
đáng hổ thẹn, các linh mục tu sĩ cũng tự nguyện sống độc thân để nên giống Thầy
mình dành trọn cuộc đời mình phục vụ Tin Mừng. Trong cuộc sống mai sau người ta
sẽ không lấy vợ lấy chồng (Mc 12,25), những người sống đời thánh hiến đã tiên
báo cho cuộc sống mai sau đó bằng đời sống độc thân ngay ở đời này. Một cuộc
sống như thế không phải dễ hiểu, nhưng chỉ dành cho những ai được ơn để hiểu.
Mời Bạn: Trong
xã hội đề cao hưởng thụ này, bạn có cảm nghiệm được lời chứng của các linh mục
tu sĩ khi họ sống độc thân để theo sát Chúa và tự do phục vụ Tin Mừng không?
Bạn có cầu nguyện cho họ không?
Sống Lời Chúa: Cầu
nguyện và khích lệ các tu sĩ mỗi khi có dịp gặp gỡ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho các linh mục, tu sĩ của Chúa ơn trung thành
trong đời thánh hiến.
Một
xương một thịt
Hôn nhân không phải là một bản hợp đồng mà hai
bên được phép xé bỏ khi muốn. Chung thủy mãi mãi là chuyện khó đối với con người
thời nay.
Suy niệm:
“Sự gì Thiên Chúa đã phối
hợp, loài người không được phép phân ly.”
Lời của Đức Giêsu đã vang
vọng qua hai mươi thế kỷ,
và vẫn thường được chọn
để in trên thiệp cưới.
Phải chăng người ta ngầm
nhắc nhau rằng
ly dị là từ không nên có
trong từ điển của các đôi vợ chồng.
Tiếc thay số vụ ly hôn
nơi các Kitô hữu đã gia tăng đáng kể.
Sống với nhau đến đầu bạc
răng long trở thành một giấc mơ.
Trong xã hội Do thái giáo
thời Đức Giêsu,
người phụ nữ không được
bình đẳng với nam giới.
Người vợ là một thứ tài
sản của người chồng,
nên chỉ người chồng mới
có quyền ly dị vợ, có khi chỉ vì một lý do cỏn con.
Trước câu hỏi: “Chồng có
được phép ly dị vợ vì bất cứ lý do nào không?”
Đức Giêsu đã kiên quyết
nói không (c. 6).
Ngài bênh vực các bà vợ
bị áp chế.
Họ không phải là một món
hàng bỏ đi khi không cần hay không ưng.
Lập trường của Ngài đi
ngược với nền văn hóa và tôn giáo thời đó.
Điều này khiến chính các
môn đệ bị sốc (c. 10).
Hóa ra các ông vẫn cho
mình có quyền bỏ vợ khi họ muốn.
Người Pharisêu trích sách
Đệ Nhị Luật (24, 1)
để biện minh cho việc
được phép ly dị đúng theo Luật Môsê (c. 7).
Còn Đức Giêsu lại trích
sách Sáng Thế (2, 24)
để nhấn mạnh cho sự hiệp
nhất vĩnh viễn giữa đôi vợ chồng.
“Cả hai thành một xương
một thịt” không chỉ về mặt thân xác,
mà còn trở nên một lòng,
một ý, một ước mơ, một hành động.
Ngài khẳng định điều này
đã có từ thuở ban đầu (cc. 4. 8)
và nằm trong ý định
nguyên thủy của Thiên Chúa.
Việc Môsê cho phép ly dị
chỉ là một nhượng bộ tạm thời (c. 8).
Đức Giêsu đến để hoàn
chỉnh Luật Môsê
và khai mở ý muốn trọn
vẹn của Thiên Chúa về hôn nhân.
Hôn nhân không phải chỉ
là chuyện của hai người yêu nhau và lấy nhau.
Trong Lễ Cưới có sự hiện
diện của Thiên Chúa là Đấng phối hợp.
Ngài tiếp tục bảo vệ tình
yêu, cả khi hai người cùng muốn chia tay.
Hôn nhân không phải là
một bản hợp đồng
mà hai bên được phép xé
bỏ khi muốn.
Chung thủy mãi mãi là
chuyện khó đối với con người thời nay.
Khi thịnh vượng, lúc gian
nan, khi mạnh khỏe, lúc đau yếu,
khi buồn chán và thất
vọng về nhau, khi yếu đuối và vấp ngã,
khi đổ vỡ quá lớn tưởng
như không sao hàn gắn được,
khi đời sống vợ chồng
thành như hỏa ngục trần gian…
khi ấy người ta cần Thiên
Chúa để tiếp tục yêu thương và kính trọng nhau.
Xin bớt một chút ích kỷ
tự ái, thêm một chút khiêm hạ yêu thương,
bớt một chút tự do đam
mê, thêm một chút hy sinh tha thứ…
để gìn giữ tình nghĩa vợ
chồng như quà tặng mong manh của trời cao.
Cầu nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,
xin
Cha nhìn xuống
những
gia đình sống trên mặt đất
trong
những khu ổ chuột tồi tàn
hay
biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến
những
gia đình thiếu vắng tình yêu
hay
thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,
những
gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ
hay
vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục
vì
chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy
Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những
trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những
trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những
trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những
trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng
gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng
trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin
Cha sai Thánh Thần Tình Yêu
đem
đến hạnh phúc cho mỗi gia đình;
nhưng
xin cũng nhắc cho chúng con nhớ
hạnh
phúc luôn ở trong tầm tay
của
từng người chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy Niệm:
Ðức Giêsu khẳng định luật nguyên thủy của hôn
nhân là một vợ một chồng: "Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không
được phân ly". Thế mà con người ngày nay đang đi ngược với luật Chúa. Biết
bao cảnh gia đình tan rã, vợ chồng phân ly không ngừng diễn ra trên thế giới.
Ðiều đó cho thấy con người đang đánh mất dần ân sủng và hiệu quả của bí tích
Hôn Phối. Thật ra hôn nhân là một phép Bí tích ma Thiên Chúa ban tặng cho con
người với đầy đủ tự do và trách nhiệm. Để sống yêu thương nhau trong tình vợ
chồng, sinh sản và giáo dục con cái trong nhiệm vụ làm cha mẹ. Đây chính là
điểm trọng tâm của ý nghĩa trong bí tích hôn nhân trong đó con người thấy được
giá trị tình yêu, của nhân cách chân thiện mỹ. Tuy nhiên, trong cuộc sống vội
vã hôm nay, con người thường lao theo dòng chảy của nó. Đối với một số đông bạn
trẻ đang yêu cuồng, sống vội, hôn nhân có khi chỉ là một sự tính toán, đổi
chác, tìm lạc thú xác thịt, hôn nhân chỉ như một cuộc chơi, thích thì lấy,
không thích thì ly dị... Chúa Giêsu rất có lý khẳng định rằng:"Vậy điều gì
Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly."
Ðức Giêsu đồng thời cũng nhấn mạnh đến việc tự
nguyện sống độc thân trọn vẹn để phục vụ Nước Trời. Ðó chính là ơn gọi sống đời
dâng hiến, một ơn gọi cao quí Thiên Chúa ban riêng cho những người Chúa chọn.
Sống độc thân hay lập gia đình không thuần túy thuộc ý muốn của con người nhưng
là một ơn ban đến từ Thiên Chúa. Nếu không tin có Thiên Chúa và đồng thời bị
ảnh hưởng của tin thần thế tục con người sẽ không hiểu hết giá trị, cũng như
không thể sống trọn vẹn ơn sống độc thân hay lập gia đình.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa chúc phúc cho chúng con,
dù sống bậc hôn nhân, hay tu trì tận hiến. Trong ơn gọi mỗi người xin cho
chúng con biết ý thức rằng: Yêu thương là con đường của Chúa. ước gì mọi gia
đình chúng con sống hòa hợp để làm phát sinh những người con ích lợi cho xã
hội, cho Nước Trời. Xin cho tất cả những ai đang sống trong bậc hôn nhân biết
trân trọng và giữ gìn hôn ước mà họ đã cam kết. Xin cho các bậc tu trì biết
hoàn toàn hiến thân vì hạnh phúc muôn người, để danh Chúa được vinh sáng. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Tám
16
THÁNG TÁM
Cám
Dỗ Tự Mãn
Nhìn
con người trong thế giới hôm nay, ta thấy dường như hoàn toàn phi lý việc nghĩ
rằng con người làm chủ tuyệt đối trên trái đất này, hoặc nghĩ rằng vai trò làm
chủ ấy sẽ được triển khai với sự giúp đỡ của sự quan phòng thần linh. Thật là một
ảo tưởng hão huyền và nguy hiểm việc người ta tự xây dựng cuộc sống mình và biến
thế giới này thành một vương quốc chỉ phục vụ cho hạnh phúc của riêng mình và
chỉ dựa vào sức mạnh của riêng mình mà thôi. Đây là một cám dỗ lớn mà con người
hiện đại đang lún vào. Người ta quên rằng các qui luật tự nhiên đặt điều kiện
ngay cả trên nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp của chúng ta (MV
26-27).
Nhưng
thật dễ ngã vào cám dỗ tự mãn khi chúng ta từng bước chứng tỏ quyền làm chủ của
mình trên các sức mạnh của thiên nhiên. Chúng ta có thể tự mãn đến mức quên
Thiên Chúa và thậm chí thoán đoạt vai trò chính đáng của Ngài. Trong thời đại
chúng ta, sự táo tợn như thế xâm lăng vào trong lãnh vực khoa học, nơi mà có những
lúc xảy ra những hình thức khác nhau của sự lạm dụng về mặt sinh học, di truyền
học và tâm lý học. Hãy coi chừng. Nếu khoa học không qui phục qui luật luân lý
của Nước Thiên Chúa, nó có thể dẫn đến sự thống trị tàn nhẫn của con người trên
con người với những hậu quả vô cùng bi thảm.
Công
Đồng nhìn nhận sự cao cả của con người hiện đại, nhưng Công Đồng cũng nhận ra
những giới hạn của con người trong việc dàn xếp sự tự trị chính đáng của mọi vật
thụ tạo (MV 36). Các Nghị Phụ Công Đồng nhắc chúng ta nhớ đến chân lý về sự
quan phòng của Thiên Chúa, sự quan phòng nhằm giúp con người trong công cuộc
xây dựng thế giới và phục vụ lẫn nhau. Trong mối quan hệ này với Thiên Chúa
Cha, Đấng Sáng Tạo và Quan Phòng, con người có thể không ngừng khám phá lại căn
nguồn ơn cứu độ của mình. Chúng ta hãy đến với Cha và đừng mù quáng cậy dựa vào
sức mạnh và sáng kiến của riêng mình.
- suy tư 366
ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức
dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR
HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 16-8
Thánh Têphanô Hungari
Gs 24, 1-13; Mt 19, 3-12
LỜI SUY NIỆM: Trong câu chuyện về việc
ly-dị. Chúa Giêsu cho biết: “Tôi nói cho các ông biết: ngoại trừ trường hợp hôn
nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình” (Mt 19,9)
Đây là một ưu việt
trong hôn nhân Công Giáo. Ước mong sao mọi người Ki-Tô hữu chúng ta luôn trung
thành với giới luật này. Đây không những đem lại hạnh phúc cho hai phối ngẫu ,
mà còn là hạnh phúc cho con cháu sau này cũng như cả dòng tộc nội ngoại cả hai
bên. Mọi sự ly-dị sẽ kéo theo những hậu quả không lường trong tương lai, không
những cho gia đình bé nhỏ của riêng mình mà còn làm xấu đi toàn thể đời sống xã
hội.
Mạnh Phương
Gương Thánh nhân
Ngày 16-08
Thánh STÊPHANÔ,
Người Hungary (977 - 1038)
Người Hung, gốc từ Á Châu, đã tiến vào lập cư trên bờ sông
Danuble. Họ sống bằng chiến tranh cướp bóc, và dữ tợn như thú hoang. Vào đầu
thiên niên kỷ này, Geysa, con cháu dòng Attila cai trị họ.
Hầu tước Geysa cưới Sarolta, một thiếu nữ công giáo và dưới ảnh
hưởng của nàng, ông đã trở lại đạo công giáo. Nữ hầu tước rất nhiệt thành với đạo.
Tương truyền rằng thánh Têphanô đã báo cho bà biết rằng người con bà trông đợi
sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và sẽ tiêu diệt ngẫu tượng trong xứ.
Vì lòng sùng kính thánh tử đạo, bà thêm tên Têphanô vào sau tên
Vaik của con trẻ. Mười năm sau, Geysa xin thánh Ađalbert rửa tội cho con trẻ và
mời các nhà truyền giáo đến. Têphanô được trao cho các nhà thông thái và thánh
thiện giáo dục. 15 tuổi Ngài đã chia sẻ với cha trách nhiệm trị nước và 22 tuổi
Ngài kế nghiệp cha sau khi ông qua đời.
Lên cầm quyền chính, thánh Têphanô tìm thỏa hiệp với các lân
bang và hiến thân cải hóa toàn dân. Nhưng các lãnh Chúa theo ngẫu tượng bất mãn
vì việc phóng thích nô lệ đã coi dân Hungari là dân phản loạn. Têphanô chuẩn bị
chiến tranh bằng lời cầu nguyện và sám hối cùng thi hành việc bố thí. Trên kỳ
hiệu dẫn đầu binh đội, Ngài trưng hình thánh giá Martinô và Grêriô. Thắng trận
Ngài cho xây tại chỗ là Vesprem một tu viện kính thánh Martinô.
Để chinh phục các thần dân cứng cỏi Ngài chạy đến các tu sĩ
Cluny. Từ các tu viện, chính các tu sĩ mở mang văn hóa cho xứ sở do các trường
học cạnh tu viện. Thánh Têphanô còn đề ra một chương trình ngoạn mục, Ngài sai
sứ giả sang triều yết Đức giáo hoàng Sylvester III, xin nhận Hungari vào số các
quốc gia Kitô giáo và phong vương cho Ngài. Đức giáo hoàng gởi cho Ngài một triều
thiên và một thánh giá vàng, ban cho Ngài đặc ân dành cho các tông đồ. Thánh
Têphanô được công nhận là vua và tông đồ. Thánh Astrik đã phong vương cho vua
năm 1001.
Một thời gian sau Ngài đã hoàn thành được 10 giáo phận với một
tòa tổng giám mục tại Esztergem. Rất có lòng tôn sùng Đức Mẹ, Ngài xây một
thánh đường nguy nga kính Mẹ tại Székes-Féhéwaz.
Lòng bác ái của thánh Têphanô còn vượt ra ngoài biên giới
Hungari. Ngài thiết lập nhiều nhà thương và tu viện ở Roma, Constantinople và
Giêrusalem, cũng như các nhà cho khách hành hương Hungary. Trong lãnh thổ mình,
Ngài ra các sắc luật chống lại tội ác và lộng ngôn. Rất nghiêm
khắc với những người lỗi luật Chúa, Ngài lại rất nhân hậu đối với những bất
công Ngài lãnh chịu. Ngài ân cần săn sóc các người nghèo khổ, để hiểu rõ thực
trạng, Ngài hay tàng hình đi tìm kiếm họ. Một lần bọn ăn xin xô tới hành hạ
Ngài và cướp của. Tiếng đồn vang xa. Các lãnh chúa cười nhạo Ngài, nhưng Ngài
càng hiến thân cho người cùng khốn nhiều hơn nữa. Người ta nói rằng: Ngài được
ơn chữa bệnh và nói tiên tri. Đêm kia có tiếng bên trong giục Ngài sai người tới
tin cho dân vùng biên giới rút lui khỏi làng mạc của họ để khỏi bị tấn công. Sự
việc xảy tới, vì được báo trước kịp thời, dân chúng được cứu thoát.
Conrad, tấn vương Germany muốn xâm chiếm Hungary với một đội
quân hùng hậu. Têphanô truyền cho binh lính ăn chay cầu nguyện. Binh đoàn của
Conrad bị lạc giữa rừng cây, đầm lầy sông lạch, không thể tiếp tế được mà phải
lui binh. Têphanô toàn thắng mà không phải chiến đấu. Thánh vương ao ước thanh
bình, đã phải chiến đấu nhiều để bảo vệ thần dân. Ngài chiến đấu ở Balan, cùng
Balkan. Dầu chiến thắng Ngài không ngừng cầu nguyện cho dân khỏi thảm hoạ chiến
tranh. Thắng được hoàng tử Transyvania, Ngài thả tự do cho ông và chỉ đòi điều
kiện là ông cho phép các nhà truyền giáo đến xứ ông. Sự Thánh thiện của Têphanô
đã khuất phục được tất cả thủ địch lẫn những người thán phục Ngài.Các thử thách
lớn lao hoàn tất việc thánh hóa nhà vua. Ngài đã lập gia đình với nữ công tước
Gisèle, con gái vua Henry II, bá tước miền Bavière. Hoàng hậu Gisèle là người đạo
đức đã giúp vua Têphanô rất nhiều. Nhưng chẳng may con cái họ đều qua đời lúc
tuổi còn xanh. Còn một mình hoàng tử Emeric sẽ kế nghiệp cha nhưng lại tử nạn
trong một tai nạn lúc đi săn. Thánh Têphanô vượt cùng mọi đau đớn bằng cách nhiệt
tâm với bổn phận. Ngài đã chịu bệnh trong một thời gian dài, lại còn bị ghen
tương ám hại. Theo một tường thuật, các lãnh Chúa giận dữ và sự công thẳng của
Ngài đã tìm cách sát hại Ngài. Kẻ sát nhân lận dao trong áo lẻn vào phòng Ngài.
Nhưng khi vừa thấy Ngài hắn bỗng hối hận và tự thú ý định tội ác của mình. Vua
chỉ nói: hãy giải hòa với Chúa và đừng sợ bị tôi trả thù.
Ngày lễ Mông Triệu 15 tháng 8, thánh Têphanô qua đời và được mai
táng trong đền thờ Đức Bà ở Székes-Féhéwaz.
(daminhvn.net)
16
Tháng Tám
Anh Ấy Chưa Bao Giờ Trưởng Thành
Ngày 16/8 kỷ niệm ngày qua đời của Elvis Presley, ca sĩ được xem
như là thần tượng của nhạc Rock tại Hoa Kỳ trong thập niên 70.
Xuất thân từ một gia đình nghèo, lại mang tính nhút nhát, Elvis
thường trở thành trò cười cho bạn bè trong lớp. Nhưng luôn ôm ấp trong mình giấc
mơ trở thành ca sĩ, Elvis đã thắng được tính nhút nhát của mình để trở thành một
ngôi sao sáng chói trong nền âm nhạc Mỹ quốc...
Danh vọng và tiền bạc đến quá nhanh khiến Elvis không kịp chuẩn
bị cho mình một triết lý sống vững chắc. Anh mua cho người mẹ một ngôi biệt thự
lộng lẫy xa hoa. Cá nhân anh thì lại vung vãi tiền bạc trong không biết bao
nhiêu thú vui phù phiếm. Cuộc hôn nhân đầu tiên đã đổ vỡ, chỉ để lại cho anh
cay đắng buồn phiền...
Sự ái mộ của dân chúng dường như không đủ để lấp đầy khoảng trống
vắng quá lớn trong tâm hồn anh. Ma túy và các thứ thuốc an thần cũng không đủ
hiệu lực để xoa dịu bao nỗi khắc khoải trong anh...
Buổi sáng ngày 16/8/1977, sau một đêm thức trắng để đọc sách,
Elvis đã được tìm thấy trong phòng tắm của anh, mặt úp xuống sàn nhà, sau một
cơn chống trả mãnh liệt với tử thần... Anh đã tắt thở ngay sau khi được trở vào
bệnh viện.
Priscilla, người vợ đầu tiên của Elvis đã thốt lên như sau:
"Cái chết của Elvis khiến tôi nghĩ nhiều về chính cái chết của tôi... Tôi
chợt nhận ra rằng tôi cần phải chia sẻ với người khác nhiều hơn. Khi trở thành
một ngôi sao trong nền âm nhạc, Elvis còn quá trẻ để có thể biết cách sử dụng
tiền tài, danh vọng đang đến với anh. Anh chỉ là một nạn nhân. Anh bị hủy diệt
bởi chính những người ái mộ anh. Anh cũng là nạn nhân của chính hình ảnh mà anh
đã tự tạo ra. Anh chưa bao giờ sống như một người thực sự, anh chưa bao giờ trưởng
thành, anh chưa bao giờ ra khỏi cái vỏ ốc ấm áp của anh để cảm nghiệm được thế
giới bên ngoài".
Bảo rằng tiền bạc, danh vọng không làm cho con người hạnh phúc
có lẽ cũng bằng thừa. Biết bao nhiêu người đã đi tìm hạnh phúc trong của cải
chóng qua ở đời này, rốt cục, họ chỉ gặp thất vọng, chán nản ê chề... Thánh
Augustinô đã được coi như là một hiện thân của một cuộc tìm kiếm không ngừng.
Tìm kiếm hạnh phúc trong hiểu biết, tìm kiếm hạnh phúc trong khoái lạc v.v...,
tất cả chỉ để lại trong tâm hồn ngài nỗi trống vắng ê chề. Cuối cùng ngài đã
tìm ra chân lý: "Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho chính Chúa, tâm hồn con
chỉ ngơi nghỉ khi được yên nghỉ trong Chúa...".
Phải, chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy nỗi khao khát hạnh phúc
trong lòng người... Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để tìm kiếm Chúa
trong những cái chóng qua ở đời này. Giá trị cao cả nhất để chúng ta đeo đuổi
không phải là tiền của, danh vọng, nhưng chính là Chúa và những giá trị của Nước
Trời.
(Lẽ
Sống)
Thứ Sáu 16-8
Thánh Stêphanô ở Hung Gia Lợi
(975-1038)
G
|
iáo Hội thì phổ quát,
nhưng dáng vẻ bên ngoài thì luôn luôn bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa địa
phương--dù tốt hay xấu. Không có Kitô Hữu nào được coi là "nguyên
bản" cả; có người là Công Giáo Mễ Tây Cơ, hay Công Giáo Ba Lan, hay Công
Giáo Việt Nam. Dữ kiện này được nhận thấy hiển nhiên trong cuộc đời Thánh
Stêphanô, vị anh hùng dân tộc và quan thầy của nước Hung Gia Lợi.
Sinh trong một gia đình
ngoại giáo, ngài được rửa tội khi lên 10 cùng với cha của mình là thủ lãnh nhóm
Magyar, là những người khai phá đã đến Danube trong thế kỷ thứ chín. Khi 20
tuổi, ngài kết hôn với Gisela, người em của hoàng đế tương lai là Thánh Henry.
Khi kế vị cha mình, Stêphanô theo chính sách của một quốc gia Kitô Giáo vì các
lý do chính trị cũng như tôn giáo. Ngài triệt hạ được các cuộc nổi loạn của
giới quý tộc ngoại giáo và thống nhất người Magyar thành một tổ chức lớn mạnh
trong nước. Ngài đến Rôma để xin Giáo Hội phê chuẩn và cũng để xin đức giáo
hoàng phong ban tước vua cho mình. Vào lễ Giáng Sinh 1001, ngài được đội vương
miện.
Stêphanô đã thiết lập
một hệ thống thuế thập phân để hỗ trợ các nhà thờ và cha xứ, cũng như giúp đỡ
người nghèo. Cứ 10 thành phố thì một thành phố phải xây một nhà thờ và cấp
dưỡng cho một linh mục. Ngài bãi bỏ các tục lệ ngoại giáo với ít nhiều sự ép
buộc, và ra lệnh tất cả mọi người phải kết hôn, ngoại trừ giáo sĩ và tu sĩ. Ai
ai cũng có thể đến với ngài, nhất là những người nghèo.
Vào năm 1031, con trai
trưởng của ngài là thái tử Emeric từ trần và quãng thời gian kế đó đầy dẫy
những tranh chấp quyền kế vị. Ngay cả người cháu cũng mưu toan ám sát ngài.
Stêphanô từ trần năm 1038 và được phong thánh năm 1083.
Lời Bàn
Ðược trở nên thánh thiện
là có được lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân giống như Ðức Kitô. Ðức ái nhiều
khi phải mang bộ mặt lạnh lùng nghiêm khắc vì lợi ích của sự thiện. Ðức Kitô đã
lên án sự giả hình của người Pharisêu, nhưng khi từ trần, Người đã tha thứ cho
họ. Thánh Phaolô ra vạ tuyệt thông người loạn luân ở Côrintô "để có thể
cứu rỗi linh hồn" ông ta. Một số Kitô Hữu đã chiến đấu trong các cuộc Thập
Tự Chinh với một tinh thần cao thượng, bất kể các động lực bất chính của người
khác. Ngày nay, sau các cuộc chiến tranh vô nghĩa, và với những hiểu biết sâu
xa hơn về sự phức tạp của các động lực con người, chúng ta chùn bước trước bất
cứ bạo lực nào, về hành động hay "im lặng" đồng lõa. Sự phát triển
tốt đẹp này vẫn còn được tiếp tục khi người ta tranh luận rằng có thể nào một
Kitô Hữu trở nên người yêu hoà bình tuyệt đối hay đôi khi sự dữ phải bị tiêu
diệt bằng vũ lực.
Lời Trích
"Dù Giáo Hội đã
góp phần rất nhiều trong việc phát triển văn hóa, kinh nghiệm cho thấy, vì hoàn
cảnh, đôi khi thật khó để hài hòa văn hóa với giáo huấn của Giáo Hội.
"Những khó khăn này
không nhất thiết gây thiệt hại cho đời sống đức tin. Thật vậy, chúng có thể
khích lệ tâm trí để thấu hiểu đức tin cách chính xác hơn. Vì các cuộc nghiên
cứu và khám phá mới đây của khoa học, lịch sử và triết học đã nêu lên các vấn
đề mới có ảnh hưởng đến đời sống và đòi hỏi phải có các cuộc nghiên cứu mới về
thần học" (Hiến Chế Tín lý về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày
Nay, 62).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét