Thứ Sáu Ngày 02/08/2013
Thứ Sáu Tuần 17 Mùa Thường Niên Năm Lẻ
BÀI ĐỌC I: Lv 23, 1. 4-11. 15-16. 27.
34b-37
"Các ngươi phải kể
những ngày của Chúa là những ngày rất trọng thể và là ngày thánh".
Trích
sách Lêvi.
Chúa phán cùng Môsê rằng: "Đây là những ngày lễ của Chúa mà
các ngươi phải mừng lễ trong thời gian của nó. Chiều ngày mười bốn tháng Giêng
là Lễ Vượt Qua của Chúa; và ngày mười lăm tháng Giêng, là lễ trọng không men của
Chúa: Các ngươi sẽ ăn bánh không men trong bảy ngày. Ngày thứ nhất, các ngươi
phải kể là ngày rất trọng thể, và là ngày thánh, các ngươi không nên làm mọi việc
xác trong ngày ấy". Trong bảy ngày, các người phải thiêu hy lễ dâng lên
Chúa. Ngày thứ bảy là ngày trọng thể và là ngày thánh hơn, các ngươi không làm
việc xác nào trong ngày ấy".
Chúa lại phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy nói cùng con cái
Israel và bảo họ rằng: Khi các ngươi đã tiến vào đất Ta sẽ ban cho các ngươi,
và khi các ngươi gặt lúa, thì phải mang bó lúa đầu mùa đến cho tư tế, người sẽ
giơ bó lúa lên trước mặt Chúa để hôm sau ngày sabbat, người xin Chúa chấp nhận
cho các ngươi, và thánh hoá nó. Vậy các ngươi hãy tính từ hôm sau ngày sabbat,
là ngày các ngươi đã dâng bó lúa đầu mùa, các ngươi tính đủ bảy tuần, cho đến
ngày hôm sau cuối tuần thứ bảy, tức là năm mươi ngày, thì các ngươi phải dâng của
lễ mới cho Chúa. Ngày mùng mười tháng Bảy, là ngày đền tội rất trọng thể, gọi
là ngày thánh: trong ngày đó, các ngươi phải hãm dẹp tâm hồn, và dâng của lễ
toàn thiêu cho Chúa. Từ ngày mười lăm tháng Bảy sẽ mừng lễ Nhà Xếp kính Chúa
trong bảy ngày. Ngày thứ nhất sẽ gọi là ngày rất trọng thể và rất thánh, các
ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy. Và trong bảy ngày, các ngươi phải
dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa, ngày thứ tám cũng rất trọng thể và rất thánh,
các ngươi phải dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa, vì là ngày cộng đoàn tập họp,
các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy.
"Đó là những ngày lễ của Chúa mà các ngươi phải kể là những
ngày rất trọng thể và rất thánh, trong những ngày ấy, các ngươi phải dâng lên Chúa
lễ vật, của lễ toàn thiêu và lễ quán theo nghi lễ của mỗi ngày". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 80, 3-4. 5-6ab. 10-11ab
Đáp: Hãy reo mừng Thiên Chúa
là Đấng phù trợ chúng ta (c. 2a).
1)
Hãy hoà nhạc và đánh trống râm ran; dạo đàn cầm êm ái cùng với thất huyền. Hãy
rúc tù và lên mừng ngày trăng mới, trong buổi trăng rằm, ngày đại lễ của chúng
ta. -
Đáp.
2)
Vì đó là điều đã thiết lập cho Israel; đó là huấn lệnh của Thiên Chúa nhà
Giacóp. Người đã đặt ra luật này cho nhà Giuse, khi họ cất gót lên đường lìa xa
Ai-cập. -
Đáp.
3)
Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác; ngươi cũng đừng thờ tự một chúa tể
ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra ngoài
Ai-cập. -
Đáp.
ALLELUIA: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con
trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 13, 54-58
"Nào ông chẳng phải
là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?"
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta
trong hội đường, khiến người ta ngạc nhiên và nói rằng: "Bởi đâu ông này
được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác
thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa
chẳng phải là anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi
chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?" Và họ vấp phạm đến Người.
Nhưng Chúa Giêsu phán cùng họ rằng: "Không tiên tri nào mà
không được vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình". Người không làm nhiều
phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin.
Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Tâm Thức Thời Ðại
Dư
luận trong giới trí thức Âu Mỹ hiện nay đang nhắc nhiều đến cuốn sách bàn về
tương lai nhân loại với tựa đề: "Ngỡ Ngàng Trước Tương Lai", trong đó
tác giả nói về những thay đổi nhanh chóng hiện nay trên đời sống con người khiến
ông cảm thấy ngỡ ngàng. Theo tác giả thì tâm lý thường tình của con người thích
những khuôn sẵn có cho cuộc sống của mình nhờ đó con người dễ ổn định và dự liệu
cho những gì xảy ra. Tắt một lời, dù có khuynh hướng sống thay đổi nhưng tận
thâm tâm,con người sống và suy tưởng theo những khung sẵn có, và tệ hại hơn
theo điều mà chúng ta gọi là thành kiến.
Tâm
thức trên đây giúp chúng ta hiểu phần nào biến cố được trình thuật trong Tin Mừng
hôm nay, Chúa Giêsu trở về giảng dạy tại quê hương của Ngài là Nazareth, nhưng
dân chúng tại đây không tin nhận Chúa, bởi vì họ suy tưởng và hành động theo
thói quen, theo thành kiến. Họ đã quen với Chúa Giêsu như là con bác thợ mộc
Giuse sống giữa họ từ bao năm nay, do đó giờ đây phải nhìn Chúa và đón nhận
giáo huấn của Ngài với một tâm thức mới thì họ bị vấp phạm. Quả thật, như lời cụ
già Simêon đã nói trong biến cố dâng Chúa vào Ðền thánh: Chúa Giêsu luôn luôn
là dấu gợi lên chống đối; trực diện với Ngài, con người phải chọn lựa hoặc tin
nhận, hoặc chối từ.
Chúng
ta hãy xét lại xem đức tin của chúng ta hiện nay đối với Chúa Giêsu có còn sống
động hay đã trở thành một thói quen khô khan, nguội lạnh, chỉ vì quá quen thuộc
như dân làng Nazareth ngày xưa? Phải chăng cuộc sống của chúng ta đã trở thành
mù quáng hoặc nô lệ cho những thành kiến đến độ không còn tin nhận Chúa và
không còn bén nhạy trước tác động của ơn Chúa?
Xin
Chúa tha thứ cho thái độ lạnh nhạt của chúng ta. Xin ban Thánh Thần để chúng ta
nhìn thấy những dấu chỉ Chúa thực hiện trong đời sống và trong những biến cố hằng
ngày để chúng ta luôn tin nhận Chúa.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 17 TN1, Năm lẻ.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải sống những gì mình cử hành.
Kitô
Giáo không phải chỉ là niềm tin vào Thiên Chúa, được cử hành qua những nghi thức
trong thánh đường; nhưng niềm tin này phải được biểu lộ trong đời sống của các
Kitô hữu, như có một tác giả đã diễn tả "cuộc đời ta là Thánh Lễ nối
dài." Các nghi thức giúp chúng ta thấu hiểu những mầu nhiệm của Thiên Chúa
qua các biến cố lịch sử; để rồi chúng ta biết sống những mầu nhiệm đó trong đời
sống hằng ngày. Chỉ như thế, tôn giáo mới mang lại lợi ích cho con người.
Các
Bài Đọc hôm nay dẫn chứng nhu cầu cần thấu hiểu những gì con người cử hành trước
khi sống niềm tin đó. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Levi trình bày ý nghĩa và
những gì cần làm trong 4 ngày đại lễ của người Do-thái để thờ phượng Thiên
Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trở về quê để rao giảng và làm ích cho những
người đồng hương; nhưng họ đã vấp phạm vì Ngài ngay trong hội đường.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Bốn đại lễ của Đức Chúa và những điều dân chúng phải làm.
Đức
Chúa phán với ông Moses rằng: Đây là các đại lễ của Đức Chúa, các cuộc họp để
thờ phượng mà các ngươi phải triệu tập vào thời gian ấn định:
1.1/
Lễ Vượt Qua (Passover) và Lễ Bánh Không Men (Unleaven Bread):
(1)
Ý nghĩa: Hai
ngày lễ này gần nhau vì cùng chung một biến cố lịch sử để kỷ niệm ngày con cái
Israelđược Thiên Chúa giải thoát khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập.
+ Lễ Vượt Qua (Pasch): "Tháng thứ nhất,
ngày mười bốn trong tháng, vào lúc chập tối, là Lễ Vượt Quakính Đức Chúa."
Các thiên thần "vượt qua" những nhà có máu chiên bôi trên cửa, và con
cái Israel "vượt qua" Biển Đỏ ráo chân; trong khi quân đội của Pharao
bị nhận chìm trong biển.
+ Lễ Bánh Không Men (massôt): "Ngày mười lăm
tháng ấy là Lễ Bánh Không Men kính Đức Chúa. Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải
ăn bánh không men."
(2)
Những việc cần làm:
-
Ngày đầu tiên, các ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, các ngươi không được
làm một công việc nặng nhọc nào. Mục đích là để nhớ lại tình thương, uy quyền,
và cảm tạ Thiên Chúa.
-
Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải tiến dâng lễ hoả tế lên Đức Chúa. Ngày thứ
bảy, có cuộc họp để thờ phượng Ta, các ngươi không được làm một công việc nặng
nhọc nào.
-
Khi các ngươi vào đất Ta ban cho các ngươi, và gặt mùa ở đó, thì phải đem đến
cho tư tế một bó lúa, sản phẩm đầu mùa gặt hái của các ngươi. Mục đích là để tạ
ơn Thiên Chúa đã đưa dân vào Đất Hứa và chúc lành cho mùa màng đầu năm của họ.
-
Nó sẽ làm nghi thức tiến dâng trước nhan Đức Chúa để các ngươi được đoái nhận;
tư tế sẽ làm nghi thức tiến dâng hôm sau ngày Sabbath.
1.2/
Lễ Năm Mươi (Pentecost): còn được gọi là Lễ Tuần (Weeks)
(1)
Ý nghĩa: Bảy
tuần chẵn hay 50 ngày sau khi chấm dứt Lễ Bánh Không Men: "Từ hôm sau ngày
Sabbath, các ngươi phải tính bảy tuần, bảy tuần chẵn. Các ngươi phải tính năm
mươi ngày cho đến hôm sau ngày Sabbath, và các ngươi sẽ tiến dâng một lễ phẩm mới
lên Đức Chúa." Truyền thống mừng lễ này để kỷ niệm biến cố Thiên Chúa ban
cho con cái Israel Thập Giới qua ông Moses trên núi Sinai, 50 ngày sau biến cố
vượt qua Biển Đỏ.
(2)
Việc phải làm: Các
ngươi đem bó lúa đến để làm nghi thức tiến dâng. Các chi tiết khác được mô tả
rõ ràng trong (Lev 23:15-21).
1.3/
Ngày Xá Tội (Day of Atonement):
(1)
Ý nghĩa: "Ngày
mồng mười tháng bảy là Ngày Xá Tội." Mục đích là để xin Thiên Chúa tha thứ
các tội mà con cái Israel đã xúc phạm tới Ngài và với nhau.
(2)
Việc cần làm: Các
ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, phải ăn chay hãm mình và tiến dâng một lễ
hoả tế lên Đức Chúa. Chi tiết về lễ này, xin đọc Sách Levi, chương 16.
1.4/
Lễ Lều (sukkôt): còn được gọi là Booth, Tent, hay Tabernacle.
(1)
Ý nghĩa: Ngày
mười lăm tháng bảy là Lễ Lều kính Đức Chúa, trong vòng bảy ngày. Mục đích là để
cám ơn Thiên Chúa đã cho mùa màng thứ hai được kết quả tốt đẹp (nho và ôliu).
Truyền thống sau này kỷ niệm việc con cái Israel sống trong lều khi lang thang
suốt 40 năm trong sa mạc.
(2)
Việc phải làm:
+
Ngày đầu tiên, phải họp nhau để thờ phượng Ta, các ngươi không được làm một
công việc nặng nhọc nào.
+
Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải tiến dâng lễ hoả tế lên Đức Chúa. Ngày thứ
tám, các ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, và phải tiến dâng một lễ hoả tế
lên Đức Chúa: đó là một buổi họp long trọng, các ngươi không được làm một công
việc nặng nhọc nào. Chi tiết về lễ này, xin xem (Num 29:12-38).
2/
Phúc Âm: Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin.
2.1/
Người đồng hương Nazareth không tin vào Chúa: Để giúp người đồng hương có cơ hội tin vào
Ngài, Chúa Giêsu về quê và vào trong hội đường của họ để giảng dạy dân chúng.
(1)
Họ nhận ra lập tức sự khôn ngoan và uy quyền của Chúa: Họ sửng sốt và nói:
"Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế?" Nếu
cứ tìm hiểu lý do, họ có thể tiến tới chỗ tin Ngài là Con Thiên Chúa.
(2)
Phán đoán sai lầm: Nhưng họ để cho tính kiêu căng và ích kỷ chi phối phán đoán của
họ: "Ông ta không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà
Maria; anh em của ông không phải là các ông Giacôbê, Joseph, Simon và Judah
sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi
đâu ông ta được như thế? Và họ vấp ngã vì Người."
Họ
vấp ngã vì đã phán đoán không đúng đối tượng: thay vì phán đoán các dữ kiện
Chúa nói và làm, họ lại phán đoán gia cảnh, họ hàng, và các môn đệ của Ngài! Họ
nghĩ, một gia đình thợ mộc tầm thường không thể có con khôn ngoan và uy quyền
như thế, vì "con sãi chùa phải quét lá đa!"
2.2/
Bụt nhà không thiêng: Đức Giêsu bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở
chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi." Quá quen đưa đến
khinh thường hay "gần chùa gọi bụt bằng anh."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta không thể tách rời những gì chúng ta cử hành trong thánh đường với đời
sống của chúng ta ngoài thánh đường. Để sinh lợi ích, chúng ta phải đem ra áp dụng
trong cuộc đời những gì chúng ta đã cử hành trong thánh đường.
-
Chúng ta không thể chỉ là người công giáo ngày Chúa Nhật trong thánh đường và sống
như những người vô thần khi ra khỏi nơi thánh đó. Làm như thế, chúng ta chỉ là
những kẻ giả hình và thờ Thiên Chúa bằng môi miệng, còn lòng chúng ta thì xa
Chúa vạn dặm.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 17 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 13,54-58
* Đặt trong sơ đồ chung của Mt :
Với 7 dụ ngôn trong phần Diễn từ (13,1-52), Mt
đã đặt người ta trước một sự chọn dựa dứt khoát có đáp lại lời mời gọi gia nhập
Nước Trời hay không. Ai đáp lại thì được kể là môn đệ của Chúa Giêsu. Dần dần
những người môn đệ này làm thành một cộng đoàn nhỏ, một "giáo hội phôi
thai".
Sang phần tường thuật (13,53--16,12. Từ hôm
nay đến Thứ Tư tuần 18)), Mt cho thấy Chúa Giêsu huấn luyện từng bước cho cộng
đoàn giáo hội này để đưa họ đến Đức Tin. Radermakers đặt tên cho phần tường
thuật này là "hành trình đi đến đức tin của giáo hội".
Thực vậy trong phần này, ta thấy rõ cuộc hành
trình đưa đến Đức Tin. Hai thuật ngữ được Mt dùng nhiều trong phần này là TIN
và HIỂU.
A. Hạt giống...
Sau một thời gian hoạt động ở những nơi khác,
Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét và vào giảng dạy trong hội đường. “Sự khôn
ngoan và quyền làm phép lạ” của Ngài đã khiến cho những người đồng hương phải
ngạc nhiên. Nhưng sự ngạc nhiên này không dẫn họ đến đức tin, bởi còn một
chướng ngại ngăn cản, đó là xuất thân của Ngài : vì người ta biết quá rõ cha mẹ
anh em Ngài đều là những người nghèo hèn quê mùa cho nên người ta không tin
Ngài là Messia. Do người ta không tin, nên Chúa Giêsu không làm nhiều phép lạ.
B.... nẩy mầm.
1. Những người Nadarét đã ngạc nhiên và thán phục
Chúa Giêsu. Họ đã tiến đến gần tới đức tin. Nhưng rất tiếc, hành trình ấy đã bị
chận lại vì thành kiến. Họ nghĩ : một con người có cha mẹ và anh em là những kẻ
nghèo nàn và tầm thường như thế không thể nào là Đấng Messia được.
Có những thành kiến thật vô lý, thế nhưng người
ta vẫn để cho những thành kiến vô lý ấy ảnh hưởng đến mình.
Phải chăng nhiều lần tôi cũng đánh giá người khác
theo những thành kiến : Anh ấy, chị ấy không thể nào khá được ! Con người như
thế đó mà làm được cái gì !
2. “Nào ông ấy chẳng phải là con bác thợ mộc sao
?” : Trong số các thành kiến của chúng ta, có thứ thành kiến quái dị này là
“cha nào con nấy”, cha mẹ dở thì con không thể giỏi, cha mẹ xấu thì con không
thể tốt. Đành rằng, di truyền cũng có ảnh hưởng phần náo đó, nhưng không phải
là tất cả. Có biết bao tấm gương về những đứa con tài giỏi thánh thiện xuất
thân từ cha mẹ tầm thường và tội lỗi.
3. Một du khách mới đi Trung hoa về báo cáo rằng
giới trí thức Trung hoa tuyên bố : “Không, việc truyền giáo của quí vị
không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quí vị
mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố là đạo của chúng tôi là sai lạc.” Và một người
Á đông khác cũng nói : “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và
chấp nhận những gì mà các ông tin” Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà
còn hơn. (Góp nhặt)
4. “Ngài không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ
chẳng có lòng tin” : Phép lạ chỉ diễn ra vì lòng tin và với lòng tin của con
người. “Nếu chúng con có đức tin chỉ bằng hạt cát, chúng con có thể bảo quả núi
này dời xuống biển…”.
Xin ban thêm đức tin cho con.
5. “Chúa Giêsu về quê, giảng dạy dân chúng trong
hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói : “Ông ta không phải là con bác thợ
hay sao ? Mẹ ông không phải là bà Maria sao ?... Vậy bởi đâu ông ta được khôn
ngoan như thế ?” Và họ vấp ngã vì Người.” (Mt 13,54-57)
Lạy Chúa Giêsu, dân làng Na-da-rét đã không tin
vào Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các muôn đệ đã không tin vào Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người. Cũng có lúc con không tin có Chúa hiện diện
dưới hình bánh mong manh nơi một linh mục yếu đuối trong một Hôi Thánh có nhiều
bất toàn. Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng
con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin. Xin thêm đức tin cho chúng con để
khiêm tốn nhận ra Ngài tỏ mình thật bình thường trong cuộc sống. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI –
Gp.Cần Thơ
02/08/13 THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 17 TN
Th. Phêrô Giulianô Êma, linh mục
Mt 13,54-58
Th. Phêrô Giulianô Êma, linh mục
Mt 13,54-58
SỬNG SỐT VÀ TÔN VINH CHÚA
Chúa Giê-su về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ,
khiến họ sửng sốt và nói: ”Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những
phép lạ như thế ? Ông không phải là con bác thợ sao ?” (Mt 13,54)
Suy niệm: Nhiều
lần các sách Tin Mừng thuật lại dân chúng, và kể cả các môn đệ “sửng sốt” trước
lời giảng dạy và các phép lạ Chúa Giêsu thực hiện. Thế nhưng phản ứng tiếp theo
đó của mỗi người thì lại rất khác nhau. Có người thán phục Ngài như một “Đấng
có uy quyền” (Mc 1,22; Lc 4,32), và họ tôn vinh Thiên Chúa (Mc 2,12; Lc 5,26).
Nhưng cũng nhiều kẻ lại “cứng lòng” và họ “vấp ngã vì Ngài” (Mt 13,57). Họ nhận
ra quyền năng siêu việt của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu nhưng trớ trêu thay, họ
lại không chấp nhận được Ngài như một Thiên Chúa hạ mình, mặc lấy thân phận
người thân cận với con người như thế. Chúa Giêsu xác nhận lời chứng của các
ngôn sứ ứng nghiệm nơi Ngài: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì
cũng chỉ là ở chính quê hương mình, và trong gia đình mình mà thôi” (Mt 13,57).
Mời Bạn: Người
Do Thái thì như thế, còn bạn thì sao? Bạn có nhận ra công trình cứu độ của
Thiên Chúa nơi một Đấng Cứu Thế khiêm nhường, nghèo khó, chịu đóng đinh thập
giá để rồi bạn tôn vinh Thiên Chúa không? Bạn có nhận ra Ngài nơi những người
anh chị em bé mọn, nghèo hèn, bị ruồng bỏ để rồi bạn tôn vinh Thiên Chúa qua
việc chia sẻ và phục vụ họ không?
Sống Lời Chúa: Làm một việc phục vụ một người anh em bé mọn
đang sống gần bên bạn.
Cầu Nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Con Đức Mẹ Maria, con tin Chúa là Người như chúng con, nhưng đồng thời Ngài cũng là Chúa của chúng con. Amen.
Đức
Giêsu về quê
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp
hòi, để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.
Suy
niệm:
Sau
khi đã chịu phép Rửa, vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có
một ngày nào đó, Đức Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên
đường là bỏ lại ngôi làng Nadarét dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính
tại đây Ngài đã sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính
tại nơi này, Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nadarét
như một ngôi trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.
Tại
đây, Đức Giêsu đã là con bác thợ Giuse (c. 55),
và
đã trở thành thợ theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài
đã được dạy nghề và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức
Giêsu là một người thợ tại Nadarét, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài
biết đến cái vất vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức
Giêsu không thuộc giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao
động làm Ngài gần với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng
tại Nadarét, đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài
học được lối cầu nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức
Giêsu có khả năng thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi
một bông hoa, nơi chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình
thân của Con đối với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài
tìm ý Cha mỗi lúc và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.
Hôm
nay Đức Giêsu trở về làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài
vào lại hội đường quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không
rõ trước đây có lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng
lần này, khi trở về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức
Giêsu đã khiến dân làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai
lần họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một
câu hỏi rất hay, nếu được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu
hỏi này có thể đưa họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.
Tiếc
thay, dân làng Nadarét lại không quên được nghề nghiệp của cha Ngài.
Họ
nhớ rất rõ họ hàng gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ
có thể kể tên từng anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức
Giêsu là người mà họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm
sao con người bình thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm
sao từ ngôi làng Nadarét vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và
họ vấp ngã vì Đức Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái
biết gần gũi của họ về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến
họ không thể tiến sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người
đồng hương của Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?
Mỗi
con người là một mầu nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có
những mầu nhiệm lớn ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân
làng Nadarét đã không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng
ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để
thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân
làng Nadarét đã không tin Chúa
vì
Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các
môn đệ đã không tin Chúa
khi
thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều
kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ
vì Chúa sống như một con người,
Cũng
có lúc chúng con không tin Chúa
hiện
diện dưới hình bánh mong manh,
nơi
một linh mục yếu đuối,
trong
một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường
như Chúa thích ẩn mình
nơi
những gì thế gian chê bỏ,
để
chúng con tập nhận ra Ngài
bằng
con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho
chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường
giữa lòng cuộc sống.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu,
SJ
Suy niệm
Sau một thời gian hoạt động ở những nơi khác,
Chúa Giêsu trở về quê hương Nazareth và rao giảng trong hội đường. Bài Tin Mừng
hôm nay ghi lại câu chuyện Chúa Giêsu trở về thăm quê hương, nhưng bị những
người đồng hương từ chối. Vì sao? Thưa vì họ cho rằng Chúa Giêsu làm sao có thể
nói và làm được những điều hay ho trong khi Ngài chỉ xuất phát từ một gia đình
thợ mộc nghèo ở làng quê Nazaret. Họ cho rằng họ quá biết rõ Chúa Giêsu. Họ chỉ
cần nhìn vào cha mẹ, họ hàng, gia cảnh là biết Chúa Giêsu thế nào, không cần
phải nghe lời Ngài giảng. Chính thái độ cứng lòng của những người đồng hương
làm cho Chúa Giêsu khó chịu và thốt lên "Không tiên tri nào mà không được
vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình" . Thật vậy, ngôn sứ bị rẻ rúng nơi
quê hương mình vì ngôn sứ hiện diện để kêu gọi ăn năng sám hối theo ý Chúa,
trong khi những người đồng hương với ngôn sứ thì chỉ để ý tới cái gốc tầm
thường của ngôn sứ mà bỏ ngoài tai nhưng lời Ngài dạy. Thật vậy, trong cuộc
sống cũng vậy, nhiều khi chúng ta cũng có những thành kiến rất là vô lý. Đã có
nhiều sứ điệp bị bóp chết không phải vì sứ điệp đó có nhiều sai lầm, nhưng vì
đầu óc của người ta quá thành kiến với sứ giả đến nỗi sứ điệp không bao giờ có
được cơ hội đến với họ.
Giờ đây chúng ta hãy hình dung việc Chúa về
Nazareth giảng dạy cũng giống như việc chúng ta đi lễ hàng ngày hay hàng tuần.
Khi đi dự lễ chúng ta có thái độ nào? Có giống như những người đồng hương Chúa
không? Không ít người xem thánh lễ là nhàm chán vì quá quen thuộc ngày nào cũng
đi, nghi thức thì cũng vậy, cha sở thì có mấy điều mà cứ nói hoài không có gì
mới và họ đã xa dần đức tin. Chỉ vì thái độ cứng lòng tin của những người đồng
hương mà Chúa Giêsu không làm nhiều phép lạ ở quê nhà. Cũng vậy, khi chúng ta
tham dự thánh lễ mà chúng thiếu lòng tin, không chú tâm lắng nghe lời Chúa,
không có tinh thần thiết tha và trông cậy thì làm sao Chúa có thể ban cho chúng
ta những ơn lành cần thiết. Hãy nhớ rằng khi tham dự thánh lễ là chúng ta tụ
họp lại để thờ phượng và lắng nghe lời Chúa. Vì vậy hãy tham dự với tinh thần
khao khát và yêu mến, có như thế Thiên Chúa mới đến được với chúng ta và ban
cho chúng ta nhiều ơn lành cần thiết.
Qua bài tin mừng hôm nay mỗi người chúng ta hãy
xét lại xem: từ trước tới nay chúng ta tham dự thánh lễ với tinh thần nào? Có
tham dự thánh lễ với sự chủ động, tìm kiếm Chúa hay không? hay chỉ tham dự vì
luật buộc với những hình thức bên ngoài?
Lạy Chúa, xin Cho chúng con ý thức được giá trị
cuả thánh lễ. Xin cho chúng con luôn biết khao khát và chú tâm lắng nghe lời
Chúa mỗi khi tham dự thánh lễ. Xin Chúa soi sáng cho chúng con hiểu được những
giáo huấn của Ngài để đem ra thực hành trong cuộc sống. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Tám
2
THÁNG TÁM
Mầu
Nhiệm Của Sự Dữ Luân Lý
Bây
giờ chúng ta hãy xét đến sự dữ luân lý. Nói “sự dữ luân lý”, chúng ta có ý đề cập
đến các hình thức khác nhau của tội lỗi và những hậu quả của nó trên thế giới vật
chất của chúng ta. Thiên Chúa tuyệt đối không muốn thứ sự dữ này. Sự dữ luân lý
hoàn toàn đi ngược lại với thánh ý Thiên Chúa. Trong cuộc sống của con người và
trong thế giới, nếu sự dữ này xảy ra – và đôi khi xảy ra một cách hết sức
nghiêm trọng – thì đấy chỉ bởi vì Thiên Chúa quan phòng muốn bảo đảm duy trì sự
tự do của con người trong thế giới thụ tạo này.
Sự
tồn tại của sự tự do nơi tạo vật đồng nghĩa với sự tồn tại của con người và các
hữu thể tinh thần thuần túy – chẳng hạn các thiên thần. Sự tự do này là điều kiện
tất yếu để cho con người có thể đạt đến sự sung mãn của tạo vật và đáp lại kế
hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa. Để có được sự thiện trọn vẹn và sự sung mãn
trong tạo vật, cần phải có những hữu thể tự do – và đối với Thiên Chúa, điều
này có giá trị hơn nhiều so với tình trạng bi đát do các hữu thể ấy có thể lạm
dụng sự tự do đã được ban cho mình để chống lại Đấng Tạo Hóa. Như vậy, chúng ta
nhận ra rằng sự tự do của con người có thể dẫn đến sự dữ luân lý.
Từ
khả năng suy lý của mình cũng như từ mạc khải của Thiên Chúa, chúng ta chắc chắn
nhận hiểu rất nhiều về mầu nhiệm quan phòng thần linh – trong đó dù sự dữ không
phải là điều được tìm kiếm song cũng là điều được nhận chịu trong ý hướng tranh
thủ một sự thiện lớn hơn. Tuy nhiên, một sự nhận hiểu đầy đủ về mầu nhiệm sự dữ
luân lý chỉ có thể xảy đến với chúng ta xuyên qua Thập Giá khải thắng của Đức
Kitô.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên
tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Êusêbiô Vercellêsi, Thánh Phêrô Julianô Eymard linh mục
Lv 23,1. 4-11. 15-16.27. 34b-37; Mt 13, 54-58
LỜI SUY NIỆM: Người về quê, giảng dạy
dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được
khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế” (Mt 13,54)
Những người đồng hương
của Chúa Giêsu, họ tự cho là họ quá biết rõ về Ngài, Do đó họ đã ngạc nhiên về
những điều Ngài đã thực hiện nơi xa quê, và hôm nay họ còn ngạc nhiên về sự
khôn ngoan của Ngài tại quê nhà. Bởi họ đã tự mãn về sự hiểu biết của mình về
Ngài. Họ chỉ thắc mắc mà không muốn tìm hiểu thêm. Nên họ đã không nhận ra “và
họ đã vấp ngã vì Người” (c57). Điều này, chúng ta cũng đang mắc phải khi tự mãn
cho là chúng ta đã hiểu biết về Chúa về Giáo Hội; rồi không chịu tiếp tục học hỏi
Kinh Thánh, không soi mình vào trong Lời Chúa. Để nhận ra những gì mình đã thực
hiện và những gì là thiếu sót và chưa sống.
Mạnh Phương
Gương Thánh nhân
Ngày 02-08
Thánh EUSÊBIÔ VERCELLÊSI
Giám Mục (+371)
Thánh Eusêbiô sinh tại Sardinia trong một gia đình quí phái.
Nhưng trổi vượt sự sao sang giàu có trần thế. Ngài được vinh dự là con của một
người cha chịu chết vì đức tin dưới thời Diôclêtianô. Mẹ Ngài đã đưa hai người
con về sống tại Roma. Ngài được Đức giáo hoàng Eusêbiô rửa tội và lấy chính tên
mình đặt cho con trẻ.
Eusêbiô được nuôi dưỡng trong bầu khí đạo đức, Ngài theo học văn
chương và nghệ thuật. Gia nhập hàng giáo sĩ, Ngài được phong chức đọc sách.
Ngài được sai đi Vercelli và năm 345 được chọn làm giám mục tiên
khởi của giáo phận này. Xét rằng phương cách hữu hiệu nhất để thánh hóa các
linh hồn là phải có một hàng giáo sĩ được huấn luyện tử tế, Ngài thiết lập một
trường đào tạo linh mục. Cùng với nhóm môn sinh, Ngài sống đời ẩn tu ngay giữa
thành phố. Nhưng lời khuyên dạy đầy cảm kích đã làm cho Vercellêsi thay đồi hẳn.
Các tội nhân tìm về lãnh nhận các bí tích và nhiệt thành phụng sự Chúa.
Chịu bách hại vì đạo, cuộc đời Eusêbiô đã đạt tới vinh quang cao
cả. Khi ấy bè rối Ariô bành trướng mạnh mẽ, với sự bảo trợ của hoàng đế
Constantino. Eusêbiô mãnh liệt chống lại và đức tin không thể lay chuyển của
Ngài mang lại niềm an ủi cho Đức giáo hoàng chỉ định dẫn dầu phái đoàn các giám
mục đến gặp hoàng đế để bênh vực đức tin. Đầy nhiệt tâm Ngài thuyết phục được
hoàng đế triệu tập một công đồng.
Năm sau công đồng khai diễn tại Milan. Tại công đồng, hoàng đế
thúc bách các giám mục phải để cho Eusêbiô tham dự. Nhưng những người theo bè rối
Ariô ngăn cản. Cuối cùng Ngài được tham dự. Thấy phần đông theo lạc giáo, Ngài
trình biểu thức đức tin của công đồng Nicea, đòi mọi người ký nhận trước khi
bàn đến điều gì khác nữa. Bọn lạc giáo tức giận. Ngược lại, Ngài cương quyết
không chịu ký vào văn bản lên án thánh Athanasiô, vị giám mục chúng sợ nhất. Tức
giận chúng vận động hoàng đế đẩy Ngài đi Palestina.
Nơi lưu đầy, Eusêbiô chịu không biết bao nhiêu là điều cực khổ bởi
cách đối xử dã man của các địch thù, Ngài bị giam trong phòng tối, bị bỏ đói.
Khi biết rằng không thể bắt phục được con người sắt đá này, chúng còn trói chân
Ngài lại và lôi kéo Ngài qua các bậc thang nhiều lần. Theo lời thánh Hiêrônimô
kể lại, thánh nhân còn bị gởi đi Cappadocia và tới miền thượng Thébaide bên Ai
cập. Tại những nơi nầy thánh nhân còn chịu muôn vàn cực hình cho đến khi hoàng
đế Constantiô băng hà và được hồi hương.
Dầu vậy trên đường về theo lệnh Đức giáo hoàng, thánh Eusêbiô
còn phải ghé nhiều giáo đoàn để an ủi khích lệ các giáo hữu bị đau khổ bởi những
tàn phá của phái Ariô để lại, dàn xếp những tranh chấp nội bộ của một số giáo
đoàn.
Trở về Vercelli, thánh Eusêbiô được tiếp đón nồng nhiệt như một
vị anh hùng. Già cả và yếu sức, Ngài vẫn tận tụy phục vụ giáo phận cho đến khi
qua đời năm 371. Người ta tôn kính Ngài như vị thánh tử đạo, vì những đau khổ
mà Ngài đã chịu suốt những ngày lưu đày.
(daminhvn.net)
02 Tháng Tám
Nghệ Thuật Làm Lửa
Thời
xa xưa, tìm được cách làm ra lửa là cả một phát minh vĩ đại...
Có
một nhà phát minh nọ, sau khi đã tìm được nghệ thuật làm ra lửa đã đi từ bộ lạc
này sang bộ lạc khác để quảng bá phương pháp của mình. Có nhiều bộ lạc tiếp thu
phương pháp của ông mà không hề bày tỏ một dấu hiệu nào của lòng biết ơn. Nhưng
con người quảng đại này không màng đến chuyện người ta biết ơn hay phản bội. Niềm
hạnh phúc của ông là thấy được mỗi ngày càng có được nhiều người hưởng được sự
phát minh của ông.
Cũng
giống như những bộ lạc trước, bộ lạc cuối cùng mà ông mang đến nghệ thuật làm
ra lửa cũng hồ hởi đón tiếp ông. Nhưng không mấy chốc, các tư tế trong bộ lạc tỏ
lòng ghen tức, họ âm mưu sát hại ông để xóa bỏ mọi ảnh hưởng của ông. Sau khi
mưu sát ông, để đánh tan mọi nghi ngờ, các tư tế cho vẽ một bức chân dung của
ông và đặt trên bàn thờ. Trong mọi nghi thức tế tự, tên của ông được thành kính
nhắc đến như một đại ân nhân của bộ lạc. Các dụng cụ ông làm ra lửa cũng được
các tư tế cho đặt vào trong một chiếc hộp quý. Họ cũng rêu rao rằng bất cứ ai lấy
lòng tin mà chạm đến các báu vật ấy sẽ được chữa mọi bệnh tật.
Vị
Thượng tế của bộ lạc cũng nhận trách nhiệm biên soạn một tiểu sử của vị phát
minh ra lửa. Quyển tiểu sử ấy cũng trở thành một thứ sách Thánh trong đó gương
sáng, đời sống gương mẫu của vị đại ân nhân được ca tụng và đề ra như lý tưởng
cho mọi người noi theo. Các tư tế cũng tự nhận cho họ quyền được giải thích về
cuộc đời và các lời răn dạy của vị phát minh.
Để
đảm bảo tính cách tinh ròng của những lời răn dạy của vị phát minh, các tư tế
ra vạ tuyệt thông hoặc tử hình cho tất cả những ai không chấp nhận những lời giải
thích của họ. Dân chúng sợ hãi đến độ dần dà họ chỉ còn biết có những lưòi giải
thích của các vị tư tế và quên hẳn cả chính nghệ thuật làm ra lửa.
Câu
chuyện ngụ ngôn trên đây đã được một vị linh đạo nổi tiếng của Ấn Độ là linh mục
Anthony De Mello ghi lại trong các câu chuyện có nội dung giáo lý của cha. Qua
câu chuyện này, cha De Mello như muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng cái khuynh hướng
chung của những người có tôn giáo là dễ dàng quên đi chính cái cốt lõi của tôn
giáo. Con người dẽ bám vào những nghi thức bên ngoài của tôn giáo mà quên đi sứ
điệp thiết yếu của nó. Chiến tranh tôn giáo, sự bất khoan dung của các tín đồ đều
bắt nguồn từ khuynh hướng trên.
Người tín hữu Kitô chúng ta có lẽ cũng không thoát khỏi khuynh
hướng ấy. Chúng ta dễ bị cám dỗ nhìn vào đạo của chúng ta như một hệ thống của
những cơ cấu, của những nghi thức, của những điều phải tin, phải giữ, nhưng lại
quên đi cái cốt lõi của đạo chúng ta chính là tình yêu. Chúng ta sẵn sàng nhân
danh Chúa, nhân danh đạo lý để loại trừ, để bách hại người anh em bằng cách này
hay cách khác. Rốt cục cũng giống như bộ lạc cuối cùng trong câu chuyện ngụ
ngôn trên đây, lửa của yêu thương mà Chúa Giêsu đã mang đến, chúng ta đã dập tắt
đi để thay vào đó bằng những nghi thức thừa thãi trống rỗng. Chúng ta dễ dàng
thay thế đạo của yêu thương, đạo của Tin Mừng bằng đạo của hình thức, đạo của
giả hình...
Quên đi cốt lõi của Tin Mừng là Yêu Thương, chúng ta cũng loại bỏ
chính Chúa Kitô ra khỏi cuộc sống của chúng ta. Không chừng chúng ta cũng đang
đóng đinh Ngài một lần thứ hai. Lời Kinh của chúng ta sẽ chỉ là những tiếng kêu
trống rỗng, các nghi thức của chúng ta sẽ chỉ là những trò hề, nếu cuộc sống của
chúng ta chưa được thấm nhuần, tưới gội bằng Lửa của Yêu Thương mà Chúa Giêsu
đã mang đến cho chúng ta
(Lẽ
Sống)
Thứ Sáu 2-8
Thánh Eusebius ở Vercelli
(283?-371)
C
|
ó người nói nếu không có
lạc giáo Arian có lẽ thật khó để viết về cuộc đời của nhiều vị thánh tiên khởi.
(Nguyên lý căn bản của lạc thuyết Arian là từ chối thiên tính của Ðức Kitô và
bởi đó, họ cũng từ chối thiên tính của Chúa Thánh Thần). Thánh Eusebius là một
trong những vị bảo vệ Giáo Hội trong thời kỳ nhiều thử thách.
Sinh ở đảo Sardinia,
ngài là một thành viên của giáo sĩ Rôma và là giám mục đầu tiên của Vercelli
thuộc Piedmont. Ngài cũng là người đầu tiên kết hợp đời sống đan viện với đời
sống giáo sĩ, qua sự thành lập một cộng đoàn các tu sĩ trong giáo phận với sự
tin tưởng rằng phương cách tốt nhất để thánh hóa giáo dân là để họ nhìn thấy
các giáo sĩ được đào tạo trong một cộng đoàn nhân đức và sống động.
Ngài được Ðức Giáo Hoàng
Liberius sai đến gặp hoàng đế Constantius để thuyết phục nhà vua triệu tập một
công đồng nhằm giải quyết các khó khăn giữa Công Giáo và Arian. Khi công đồng
được triệu tập ở Milan, vì cảm thấy khối Arian đang thắng thế, mặc dù người
Công Giáo đông hơn nên Ðức Eusebius không đến tham dự, mãi cho đến khi chính
nhà vua ép buộc.
Khi nhà vua yêu cầu mọi
giám mục phải ký vào bản án để buộc tội Ðức Athanasius -- là người cương quyết
chống với lạc thuyết Arian -- Ðức Eusebius đã từ chối; thay vào đó, ngài đặt
Kinh Tin Kính lên bàn hội nghị và yêu cầu mọi người ký tên vào đó trước khi bàn
đến các vấn đề khác. Nhà vua dùng áp lực với Ðức Eusebius, nhưng ngài quả quyết
rằng Ðức Athanasius vô tội, và nhắc nhở hoàng đế rằng không thể dùng thế lực
ngoài đời để ảnh hưởng đến các quyết định của Giáo Hội. Lúc đầu nhà vua đe dọa
giết ngài, nhưng sau đó lưu đầy ngài đến Palestine. Ở đây, phe Arian kéo ngài
lê lết trên đường phố và giam ngài trong một căn phòng nhỏ, và sau bốn ngày
ngài tuyệt thực để phản đối họ mới thả ngài ra, nhưng được một ít lâu, họ lại
tiếp tục hành hạ ngài.
Ðức Eusebius phải tiếp tục
cuộc sống lưu đầy ở Tiểu Á và Ai Cập, cho đến khi tân hoàng đế cho phép ngài
trở lại giáo phận ở Vercelli. Ngài tham dự Công Ðồng Alexandria với Ðức
Athanasius và chấp thuận khoan hồng cho các giám mục trước đây theo phe Arian.
Ngài còn cộng tác với Thánh Hilary ở Poitiers để chống với lạc giáo Arian.
Lời Trích
"Ðể việc chăm
sóc các linh hồn có hiệu quả, các linh mục được yêu cầu sống chung trong một
cộng đoàn, nhất là những ai sinh hoạt trong cùng một giáo xứ. Nếp sống này
không những khích lệ giáo dân hoạt động tông đồ, mà còn là một gương mẫu của
lòng bác ái và sự hiệp nhất cho người tín hữu" (Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ
Mục Vụ của Giám Mục, 30).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét