Thứ Tư Tuần XVIII Thường Niên
BÀI ĐỌC I: Ds 13, 1-3a. 26 -- 14, 1.
26-29. 34-35
"Đất ngon lành họ
đã không thèm" (Tv 77, 24)
Trích
sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê (ở trong hoang địa
Pharan) rằng: "Ngươi hãy sai đàn ông, mỗi chi tộc một người (thuộc hàng
vương công trong chúng), đi xem đất Canaan mà Ta sẽ ban cho con cái
Israel".
Sau bốn mươi ngày, những người dò thám đất đi khắp miền, đoạn trở
về. Họ đi gặp Môsê, Aaron và toàn thể cộng đồng con cái Israel ở sa mạc
Pharan, tại Cađê. Và họ đã báo cáo với các ông và toàn thể cộng đồng, và cho
người ta thấy thổ sản đất ấy. Họ đã tường thuật và nói: "Chúng tôi đã vào
đất, nơi các ông sai chúng tôi đến, và thật là đất chảy tràn sữa và mật, và đây
là thổ sản đất ấy. Hiềm một nỗi là dân cư trong xứ hùng cường! Thành trì kiên cố
(và) lớn lắm, và chúng tôi đã thấy ở đó cả những con cháu Anaq. Có Amalec ở
vùng Namsa; có dân Hit-tit, Giơbusi và Amori ở trên núi; còn dân Canaan thì ở gần
biển và bờ sông Giođan".
Bấy giờ Caleb truyền cho dân nín bặt trước Môsê. Ông nói:
"Ta cứ lên chiếm đất ấy, vì ta sẽ thắng nổi nó!" Những người cùng lên
với ông đáp lại: "Ta không thể lên đánh dân ấy, vì nó mạnh hơn ta".
Và họ buông lời chê bai giữa con cái Israel về đất họ đã dò thám, họ nói:
"Đất chúng tôi đã băng qua để dò thám là đất làm tiêu diệt cả những người ở
trên ấy; dân chúng tôi đã thấy trong xứ toàn là những người vóc dạng. Chúng tôi
đã thấy ở đó những người khổng lồ (con cháu của Anaq thuộc hạng người khổng lồ).
Quay nhìn lại mình, thật chúng tôi chỉ như những con châu chấu, và trước mắt họ,
chúng tôi chỉ như thế đó".
Và toàn thể cộng đồng kêu la; họ lên tiếng, và đêm ấy toàn dân
la lối khóc lóc. (Họ trách móc Môsê và Aaron, và nói rằng: "(...) Phải chi
chúng tôi chết quách ở trong sa mạc này!").
Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: "Dân bạc ác này kêu
trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe tiếng kêu trách của con cái Israel. Ngươi
hãy nói với chúng rằng: Chúa phán: Ta hằng sống, như các ngươi đã nói, Ta đã
nghe, nên Ta sẽ làm cho các ngươi như vậy. Xác chết của các ngươi sẽ nằm trên rừng
vắng này. Tất cả các ngươi, tính từ hai mươi tuổi trở lên, đều đã kêu trách Ta.
Các ngươi đã xem thấy đất, trong bốn mươi ngày, (thì) một năm kể thay cho một
ngày; các ngươi mang lấy cái khổ của sự gian ác các ngươi, và sẽ biết sự thù
ghét của Ta: vì Ta đã phán thế nào, thì Ta sẽ làm cho dân bạc ác này dấy lên chống
lại Ta như vậy: nó sẽ hao mòn và chết trên rừng vắng này". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 105, 6-7a. 13-14. 21-22. 23
Đáp: Lạy Chúa, xin nhớ đến
chúng con (c. 4a).
1)
Chúng con đã phạm tội cũng như tổ phụ chúng con, chúng con đã làm điều gian ác
và ăn ở bất nhân. Tổ phụ chúng con khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những
việc lạ lùng của Chúa. - Đáp.
2)
Nhưng họ đã mau quên công việc của Chúa khi gia ân huệ cho dân Ngài, họ không
tin cậy vào định kế của Ngài. Họ chiều theo dục vọng ở nơi hoang địa, và thử
thách Thiên Chúa trong cõi cô liêu. - Đáp.
3)
Họ đã quên Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình, Đấng đã làm những điều trọng đại bên
Ai-cập, Đấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh
ngạc nơi Biển Đỏ. - Đáp.
4)
Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là Người Chúa chọn,
không đứng ra cầu khẩn với Người, để Người nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. - Đáp.
ALLELUIA: 1 Sm 3, 9
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có
lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 15, 21-28
"Này bà, bà có lòng
mạnh tin".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền
có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là
con Vua Đavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm".
Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người
mà rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu
mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà
Israel".
Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp
tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho
chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh
vụn từ bàn của chủ rơi xuống".
Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có
lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được
lành. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Sống Niềm Tin
Mahatma
Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Ðộ bằng con đường bất bạo động, đã
có lần tuyên bố: "Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người
Kitô hữu". Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền
tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.
Giáo
lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa
lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng.
Người ta thường nói: "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Ðôi khi
chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người
thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng
được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô,
nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người
Kitô hữu.
Trong
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là
một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là
trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết,
ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời
Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người
Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người
Do thái: "Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta".
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Ðền thờ,
và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối
và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức,
Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là
được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa".
Người
đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của
mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn
vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến
với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của
bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm
tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là
lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin
vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người,
đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người
gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong
một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu
hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Ðây là thời điểm để
họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận
thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm
nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi
nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của
mình.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 18 TN1, Năm Lẻ
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải kiên trì vượt qua
gian khổ mới hy vọng được thành công.
Nhiều
người thích được thành công, thích ngồi mơ mộng để dệt đời mình bằng những
tương lai huy hoàng rực rỡ, được trở nên những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử
hay ngoài xã hội; nhưng khi giật mình tỉnh giấc và phải đương đầu với những hy
sinh gian khổ, những mơ ước bị tan biến như bọt biển bị sóng đánh tan tành. Họ
quên đi một thực tế là ai cũng phaỉ trải qua những hy sinh gian khổ trước khi đạt
được những kết quả tốt đẹp.
Các
Bài Đọc hôm nay đưa ra hai thái độ tương phản của nhân loại. Trong Bài Đọc I,
con cái Israel thích thú khi nghe các thám tử tường thuật chuyến đi xem xét
tình hình Đất Hứa miền Canaan; nhưng khi nghe đến binh lính to lớn và thành trì
kiên cố của họ thì họ hết mong Đất Hứa, vì họ sợ phải trả giá bằng gian khổ và
chết chóc. Họ bắt đầu toa rập nhau và gào thét điệp khúc "chúng tôi muốn
trở về Ai-cập," để kêu trách Thiên Chúa và ông Moses. Trong Phúc Âm, người
đàn bà xứ Canaan muốn xin Chúa Giêsu chữa lành cho con gái bị quỉ ám. Mặc dù bị
thử thách nặng nề bởi các môn đệ và bởi Chúa Giêsu, Bà nhất định vượt qua mọi
thử thách để kiên trì van xin cho tới khi được. Chúa Giêsu phải ngạc nhiên trước
cách biểu lộ niềm tin này, nên đã ban cho Bà điều Bà xin.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Cho tới bao giờ cái cộng đồng hư đốn này cứ tiếp tục lẩm bẩm kêu
trách Ta?
1.1/
Lý do con cái Israel kêu trách Thiên Chúa: Hai mục đích Thiên Chúa muốn làm cho con cái Israel: thứ nhất,
Ngài muốn giải phóng con cái Israel khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập; thứ hai,
Ngài muốn đưa họ vào Đất Hứa mà Ngài đã hứa với các tổ-phụ của họ.
Để
chuẩn bị tinh thần, Đức Chúa phán với ông Moses: "Ngươi hãy sai người đi
do thám đất Canaan, đất mà Ta sẽ ban cho con cái Israel. Các ngươi sẽ sai đi mỗi
chi tộc một người và tất cả phải là kỳ mục trong dân." Sau bốn mươi ngày
do thám đất, họ trở về và tường thuật những gì mắt thấy tai nghe cho ông Moses
và toàn thể dân chúng. Muốn hiểu chi tiết những gì họ tường thuật, xin đọc Sách
Dân Số, chương 13 và 14. Một cách tổng quát, con cái Israel mắt sáng rỡ khi
nghe đến vùng đất tràn đầy sữa và mật, những chùm nho phải hai người khiêng;
nhưng mắt họ tối sầm lại khi nghe đến binh lính to lớn và thành trì kiên cố. Nỗi
lo sợ phải hy sinh gian khổ và có thể phải chết thắng vượt ước mơ được định cư
trong Đất Hứa, nên toàn thể cộng đồng lớn tiếng kêu la, dân chúng khóc lóc cả
đêm ấy. Họ muốn trở về Ai-cập hay ở lại trong sa mạc để chết cách an toàn!
Nghe
những tiếng kêu la than khóc, Đức Chúa lại phán với ông Moses và ông Aaron:
"Cho
tới bao giờ cái cộng đồng hư đốn này cứ tiếp tục lẩm bẩm kêu trách Ta? Ta đã nghe
thấy toàn những lời cằn nhằn, đám con cái Israel này cứ lẩm bẩm chống Ta."
1.2/
Hậu quả của việc than trách: Chúa truyền cho ông Moses và ông Aaron: "Ngươi hãy nói với
chúng: Ta thề - sấm của Đức Chúa - Ta sẽ xử với các ngươi như lời các ngươi kêu
thấu tai Ta. Trong sa mạc này, thây các ngươi sẽ ngã gục: trong các ngươi, tất
cả những người đã được kiểm tra đăng ký, từ hai mươi tuổi trở lên, mà đã cằn nhằn
chống Ta, Theo số ngày các ngươi đã đi do thám đất - bốn mươi ngày - mỗi ngày
tính là một năm, các ngươi sẽ phải gánh chịu tội ác của các ngươi bốn mươi năm,
và các ngươi sẽ biết Ta trừng phạt những kẻ bất tuân như thế nào.
Ta,
Đức Chúa, Ta đã phán; Ta quyết sẽ thi hành như thế cho toàn thể cộng đồng hư đốn
này đã cấu kết với nhau chống lại Ta. Trong sa mạc này chúng sẽ bị tiêu diệt và
sẽ chết hết."
Theo
những lời này, con cái Israel sẽ phải lãnh nhận những hậu quả như sau:
(1)
Họ phải sống lang thang trong sa mạc 40 năm, mặc dù từ Biển Đỏ, nơi họ xuất
hành khỏi Ai-cập chỉ mất khoảng ít ngày tới Đất Hứa. 40 ngày dọ thám trở thành
bản án 40 năm lưu đày trong sa mạc; và tất cả những thám tử phản động xúi giục
dân làm phản bị giết chết hết, ngoại trừ ông Caleb và ông Joshua, những người
không chống lại Thiên Chúa và Moses.
(2)
Thế hệ của họ (từ hai mươi tuổi trở lên) sẽ dần dần chết hết trong sa mạc theo
như lời họ than trách; mặc dù ông Moses đã hết lòng cầu xin Thiên Chúa tha thứ
cho họ.
(3)
Thế hệ con cháu của họ sẽ được vào hưởng Đất Hứa vì chưa chống lại Thiên Chúa.
2/
Phúc Âm: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy."
2.1/
Thái độ kiên trì của người đàn bà Dân Ngoại: Trong cuộc đời hành đạo, Chúa Giêsu rất ít
ra khỏi lãnh thổ của Palestine. Trình thuật hôm nay là một ngoại lệ, thánh
Matthew tường thuật: "Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về miền Tyre và Sidon, thì
này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: "Lạy Ngài
là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!"
Người
đàn bà Canaan này phải đương đầu với ít nhất 3 thử thách lớn như sau:
(1)
Nạn kỳ thị chủng tộc: Người Do-thái khinh thường những người Dân Ngoại, họ không muốn
có bất cứ liên hệ gì với Dân Ngoại cả. Bà phải can đảm lắm mới vượt qua được bức
tường kỳ thị chủng tộc này.
(2)
Các môn đệ coi Bà như một gánh nặng cần trút bỏ càng sớm càng tốt: Thấy Chúa Giêsu không
đáp lại một lời, các môn đệ thưa với Ngài: "Xin Thầy bảo Bà ấy về đi, vì
Bà ấy cứ theo sau chúng ta mà xin mãi!" Chúa Giêsu tỏ thái độ cho các môn
đệ và cho cả Bà: "Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà
Israel mà thôi."
(3)
So sánh Bà với chó: Đây có lẽ là một thử thách to lớn nhất về đức tin. Nhiều nhà chú
giải có khuynh hướng làm dịu lại bằng cách đề cập tới chó nhà hay chó con;
nhưng điều chính yếu là con người phải làm chứng cho đức tin cho dù bị xỉ nhục.
Hãy nghe lời Bà đối thoại với Chúa Giêsu:
-
Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!"
-
Người đáp: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó
con."
-
Bà ấy nói: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh
vụn trên bàn chủ rơi xuống."
2.2/
Sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu: Lời đối đáp của Bà nói lên một sự thật: mặc dù không được ăn
bánh dành cho con cái, nhưng "lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên
bàn chủ rơi xuống." Tuy Chúa Giêsu không trực tiếp rao giảng cho Dân Ngoại,
nhưng Ngài đang huấn luyện các môn đệ để làm việc đó. Trong Kế Hoạch Cứu Độ của
Thiên Chúa, Ngài muốn chọn dân Do-thái trước khi bành trướng ơn cứu độ đến tất
cả Dân Ngoại.
Vì
Bà biểu lộ đức tin cách vững chắc, nhiệt thành, và khôn ngoan; nên Đức Giêsu trả
lời Bà: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy."
Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải trải qua gian khổ trước khi đạt tới vinh quang Nước Trời. Nếu
chúng ta cùng chịu gian khổ với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng thống trị vinh quang
với Ngài.
-
Chúng ta phải nghe lời Đức Kitô để đi qua đường hẹp; vì đường rộng rãi thênh
thang chỉ dẫn tới diệt vong. Cuộc đời chúng ta có thể ví như cuộc đời con cái
Israel 40 năm trong sa mạc.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 18 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 15,21-28
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu đáp lại lời xin của một phụ nữ
Canaan. Có một số điểm đáng ta lưu ý :
1. Về thân phận của bà này : Bà là một người bị
xã hội do thái khai trừ vì bà vừa là phụ nữ vừa là người ngoại.
2. Về sự thử thách mà bà gặp phải : thân phận bị
khai trừ, Chúa Giêsu lại làm ngơ trước lời bà xin, lại còn nói nặng ví bà là
chó. Nhưng bà đã kiên trì vượt qua mọi thử thách ấy.
3. Kết quả : Chúa Giêsu khen bà “có lòng tin
mạnh”, và còn nói “bà muốn sao thì được vậy”.
B.... nẩy mầm.
1. Có thể khẳng định rằng không ai không gặp thử
thách về đức tin. Chính Chúa Giêsu muốn thế. Người phụ nữ này bị thử thách đức
tin rất nặng. Vậy khi đức tin ta bị thử thách, ta đừng nản lòng, vì đó là
chuyện phải có thôi, chẳng sớm thì muộn.
2. “Xin Thầy thương (mà ban ơn) để cho bà ấy về
đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi” :
- Ý nghĩa thái độ của các môn đệ : làm ơn không
phải vì thương mà vì để khỏi bị quấy rầy nữa. Phần Chúa Giêsu thì chẳng những
muốn ban thứ ơn mà bà xin, mà còn muốn ban thêm một ơn quý trọng hơn nữa là
chính đức tin.
- Khi tôi xin Chúa ơn gì mà Chúa chậm ban, tôi
hãy tự nghĩ : tôi muốn Chúa ban ơn cho nhanh để Chúa khỏi bị quấy rầy nữa, hay
thà chậm một chút nhưng được thứ ơn quý hơn ơn mà tôi xin.
3. “Muốn sao thì được vậy” : quả là một ơn ban vô
cùng to lớn. Ai mà không mong mình muốn sao được vậy. Chúa Giêsu sẵn lòng ban
cho ta ơn này miễn là chúng ta có đức tin mạnh.
4. “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném
cho lũ chó con” (Mt 15,26)
Đọc xong đoạn Phúc Âm, một bạn trong nhóm nói :
“Có những lúc mình cảm thấy Chúa thử thách mình quá đáng !” Tôi cũng đã có lúc
như vậy. Những lúc ấy tôi đã nổi giận, đã nghĩ : chẳng cần Chúa nữa. Và mỗi lúc
tôi càng cảm thấy thất vọng. Phải, tôi đã không có được sự tin tưởng, phó thác
của người đàn bà dân ngoại.
Lạy Chúa, Chúa thử thách để lòng tin của con mạnh
mẽ. Với lòng tin mạnh mẽ, con mới có thể làm được mọi điều thiện hảo. (Hosanna)
5. ‘Vâng lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những
mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống” : người phụ nữ này chẳng những có đức tin mà
còn có lòng khiêm tốn. Khi xin thì phải có sự khiêm tốn kèm theo. Xin người ta
và xin những thứ vật chất mà còn phải khiêm tốn, huống chi xin Chúa và xin
những ơn siêu nhiên.
6. Bấy giờ Chúa Giêsu đáp : “Này bà, lòng tin của
bà mạnh thật, bà muốn sao thì được như vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
(Mt 15,28)
Một lần nọ, tôi cùng nhóm bạn trò chuyện. Chúng
tôi nói về sự sống và cái chết. Câu chuyện mỗi lúc một căng thẳng, mọi người
tranh cãi kịch liệt. Khi tôi nói : “Con người chết đi mai mốt tới ngày tận thế
sẽ sống lại”, thì một số bạn bật cười và cười một cách diễu cợt. Tôi muốn biện
bạch cho lời nói của mình nhưng không thể vì họ còn mãi cười. Có điều làm tôi
rất buồn là thấy có cả những người đồng niềm tin với tôi cũng cười. Tôi không
hiểu vì sao họ cười, có lẽ vì bè bạn cười chăng, vì sợ quê lây với tôi hay vì
tự bản thân họ cho đó là phi lý... Niềm tin của chúng ta như thế có đúng chưa ?
Người đàn bà dân ngoại còn hơn tôi và bạn, một mình bà chạy đến với Chúa Giêsu
mà tuyên xưng niềm tin của mình cho dù xung quanh là những người xa lạ, chưa
quen hoặc chưa tin vào Chúa. Hình ảnh về người đàn bà dân ngoại và hình ảnh về
những người bạn ấy giúp tôi suy nghĩ lại niềm tin của chính mình. Tôi đang tin
vào ai hay tin vào cái gì ? (Hosanna)
Lạy Chúa, xin củng cố niềm tin của con, xin thêm
sức để con biết sống niềm tin ấy ở giữa anh em. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI –
Gp.Cần Thơ
07/08/13 THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 18 TN
Th. Xíttô II giáo hoàng và các bạn tử đạo
Mt 15,21-28
Th. Xíttô II giáo hoàng và các bạn tử đạo
Mt 15,21-28
NHẬN VÀ TRAO MÓN QUÀ GIÊSU
“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” (Mt 15,28)
Suy niệm: Tại Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2013 ở Rio de
Janerio, Đức giáo hoàng Phanxicô nói: “Tôi không có bạc cũng không có
vàng, nhưng tôi mang theo mình đồ quí giá nhất tôi từng nhận được: Chúa Giêsu
Kitô!” Sứ mệnh ngàn đời của Giáo Hội là mang Chúa Giêsu đến cho trần
gian. Nhưng phải có lòng tin chân thành khiêm tốn, người ta mới nhận ra Ngài là
quà tặng cao quí nhất. Người đàn bà xứ Canaan kêu xin Chúa Giêsu chữa cho đứa
con bị quỉ ám. Các môn đệ muốn đuổi bà về và chính Chúa cũng thử thách bà bằng
những lời thật sốc: “Không nên lấy bánh của con cái
mà ném cho chó.” Bất
chấp tất cả, bà vẫn kiên trì khiêm tốn kêu cầu. Đức tin đã làm cho bà trở thành
người con cái trên bàn tiệc ân phúc của Chúa Giêsu: con gái bà được lành bệnh.
Mời Bạn: Trong
thế giới duy vật muốn loại trừ Thiên Chúa này, người kitô hữu kiên trì giữ vững
niềm tin nơi Chúa Giêsu. Hãy tiếp nhận Ngài là Đấng đem lại ơn cứu rỗi và tìm
mọi cách để trao món quà cao quí nhất này cho anh em.
Chia sẻ: Tôi cầu nguyện với Chúa Giêsu thế nào: chân
thành và tha thiết hay chỉ hời hợt, theo nghi thức?
Sống Lời Chúa: Làm
một cử chỉ biểu lộ đức tin (làm dấu Thánh giá, chẳng hạn) trước khi làm bất cứ
việc gì.
Cầu nguyện: “Lạy Chúa xin ban cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì đang chờ ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được
yêu thương ngay giữa những sa mù của cuộc sống. Xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ sát đau thương của phận người, để dù bao thăng trầm dâu bể, con
cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người.”
Lòng
tin của bà lớn thật
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa,
tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.
Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.
Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.
Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.
Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.
Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.
tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.
Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.
Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.
Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.
Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.
Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.
Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin:
“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”
Người mẹ đau vì con của mình đau.
Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.
Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.
Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.
Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.
Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.
“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”
Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.
Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.
Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.
Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.
Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:
“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”
Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.
Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.
Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.
Chị không phải là chiên của nhà Israel.
Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,
vì Cha tôi chưa sai tôi đến.
“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”
Người mẹ đau vì con của mình đau.
Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.
Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.
Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.
Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.
Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.
“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”
Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.
Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.
Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.
Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.
Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:
“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”
Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.
Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.
Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.
Chị không phải là chiên của nhà Israel.
Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,
vì Cha tôi chưa sai tôi đến.
Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ.
Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,
và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.
Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.
Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.
Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:
“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);
khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).
Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.
Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.
Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,
vì tình yêu nối kết cả hai nên một.
Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ
dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.
Người đưa ra lời từ chối thứ hai
quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng:
“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”
Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.
Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.
Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.
Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.
Họ tự hào về tính ưu việt của mình
trong tư cách là Dân riêng của Chúa.
Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,
và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.
Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.
Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.
Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:
“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);
khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).
Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.
Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.
Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,
vì tình yêu nối kết cả hai nên một.
Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ
dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.
Người đưa ra lời từ chối thứ hai
quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng:
“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”
Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.
Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.
Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.
Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.
Họ tự hào về tính ưu việt của mình
trong tư cách là Dân riêng của Chúa.
Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu
Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.
Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa:
“Thưa Ngài đúng thế.
Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,
không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.
Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách
để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,
bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.
Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.
Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.
Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.
Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa:
“Thưa Ngài đúng thế.
Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,
không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.
Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách
để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,
bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.
Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.
Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.
Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà.
Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”
Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).
Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.
Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,
khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.
Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.
Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu,
và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.
Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…
Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”
Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).
Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.
Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,
khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.
Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.
Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu,
và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.
Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…
Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…”
Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.
Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà
chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt:
“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.
Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.
Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà
chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt:
“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.
Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó.
Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.
Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.
Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.
Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.
Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.
Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:
“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”
để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”
Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.
Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.
Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.
Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.
Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.
Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:
“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”
để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”
Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám.
Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.
Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.
Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.
Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,
tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng
và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.
Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.
Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.
Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.
Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,
tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng
và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.
Lời nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Ðấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Ðấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thương của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
qua những cọ xát đau thương của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy niệm
Lạy Chúa, bài Tin Mừng hôm nay diễn ra sau
phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người ăn (x.Mt 14,13-21). Vì
vậy ít nhiều người ta đã biết về danh tiếng của Chúa. Có người xem
Chúa như một người có khả năng làm phép lạ, thế thôi. Có người muốn
Chúa làm lãnh đạo của họ, để họ khỏi phải lo chuyện cơm ăn áo mặc.
Nhưng cũng có người tin nhận Ngài là Đấng Messia, còn tuyên xưng điều
đó nữa. Đó chính là người đàn bà Canaan. Bà ta đã tuyên xưng:
“Lạy Ngài là con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi” (Mt 15, 22). Người
đàn bà này là nhân vật làm nổi bật lên đức tin của người Kittô hữu,
vì vậy con quyết định tìm hiểu về bà.
Bà là một người đàn bà ngoại giáo, bị người
Do Thái xếp vào hạng ô uế. “Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđon. Thì
này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra” (Mt 15, 21-22).
Matthêu viết rất rõ ràng, người đàn bà này ở “miền ấy đi ra”. Có
nghĩa là bà ta đã mạnh dạn ra khỏi lãnh thổ dân ngoại để đến với
Chúa.
Sau khi van xin Chúa đến cứu đứa con gái
của mình bị quỷ ám, chẳng những Chúa không cho mà còn nói một điều
như thể xúc phạm đến bà ta: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà
ném cho lũ chó con” (Mt 15, 26). Tưởng đâu bà sẽ tự ái mà bỏ cuộc.
Nhưng không, bà đã nói một điều khiến Chúa Giêsu hết sức ngỡ ngàng:
“Lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt
15, 27). Với câu nói này chứng tỏ mặc dù bà ta là người đàn bà
ngoại giáo nhưng rất am hiểu Thánh Kinh. Theo Thánh Kinh thì đúng là
Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho tổ phụ Apraham, nhưng không chỉ dừng lại
ở đó, mà còn từ đó ban cho muôn dân. Vì vậy, bà ta ý thức mình
không phải là con cháu tổ phụ Apraham, nhưng ít ra cũng được “hưởng
ké” ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Chúa đã phải “đầu hàng” trước lòng tin
mạnh mẽ của người đàn bà này chứ không phải sự kiên trì của bà ta.
Nói như vậy không phải Chúa miễn cưỡng làm phép lạ cho con gái bà ta
được khỏi bệnh, nhưng đó là một sự vui mừng, một sự bất ngờ vì có
người đón nhận ơn cứu độ của Chúa một cách xứng đáng như vậy: “Này
bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào sẽ được như vậy”
(Mt15,28).
Nhìn lại bản thân con, con cũng là “dân
ngoại” được Chúa yêu thương ban ơn cứu độ. Nhưng đòi hỏi con phải biết
“ra khỏi” bóng đêm tội lỗi, ra khỏi những sự bất chính của con người
con mới có thể đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Người phụ nữ hôm
nay đã mạnh dan ra khỏi ranh giới của mình để đón gặp Chúa, thì con
cũng hãy biết bắt chước bà để “ra khỏi” con người cũ của con.
Bà là người ngoại giáo nhưng rất am hiểu
Thánh Kinh, chính nhờ Thánh Kinh mà bà đã biết được chương trình cứu
độ của Chúa. Con đã xem Thánh Kinh như kim chỉ nam cho cuộc đời của
mình chưa? Lạy Chúa, con thực sự chưa yêu mến Thánh Kinh, vì thử hỏi
một ngày con dành bao nhiêu thời gian cho Thánh Kinh? Thật xấu hổ vì
có những ngày con không có giây phút nào để tiếp cận với Thánh Kinh
hết, hoặc khi con đi tham dự thánh lễ thì con có dịp nghe qua vậy
thôi.
Lạy Chúa, chính lòng tin của người đàn bà
xứ Canaan đã cứu con gái của bà. Lòng tin đó được soi sáng nhờ bà
biết yêu mến Thánh Kinh. Xin cho con biết năng đọc, học hỏi, lắng nghe
và đem lời Chúa ra thực hành trong cuộc sống của mình, để nhờ đó,
con biết sống theo thánh ý của Chúa luôn luôn. Amen.
Hãy
Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Tám
7 THÁNG TÁM
Không Gì
Có Thể Tách Chúng Ta Ra Khỏi Tình Yêu Thiên Chúa
Thánh Tông Đồ Gia-cô-bê cũng diễn tả tương tự khi ngài dạy
các Kitôhữu thái độ đương đầu các thử thách với niềm vui và kiên nhẫn: “Anh em
hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như
anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì
anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên
hoàn hảo, không thiếu sót điều gì” (Gc 1,2-4).
Cuối cùng, trong Thư gửi các tín hữu Rôma, Thánh Phaolô so
sánh những đau khổ của con người và của vũ trụ với ‘cơn đau sinh nở’ của mọi
tạo vật. Ngài nhấn mạnh rằng đây là ’những tiếng rên siết’ của những ai lãnh
nhận Thần Khí như ‘ơn huệ mở đầu’ nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn
quyền làm con, nghĩa là ‘cứu chuộc thân xác chúng ta nữa’(Rm 8,22-23).
Rồi, Thánh Phaolô ghi nhận về đau khổ: “Chúng ta biết rằng
Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi cho những ai yêu mến Ngài, tức là cho
những kẻ được Ngài kêu gọi theo như ý Ngài định…” (Rm 8,28). Cũng trong văn
mạch này, ngài tuyên bố: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức
Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm
giáo?” (Rm 8,35).
Với cảm nhận sâu xa ấy về tình yêu và sự tốt lành của Thiên
Chúa trong Đức Kitô, Thánh Phaolô kết luận: “Tôi tin chắc rằng: dù sự chết hay
sự sống, dù thiên thần hay ma vương quỉ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất
cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác,
không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức
Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39).
Ở đây Thiên Chúa, Cha chúng ta đang yêu thương chúng ta đời
đời trong Đức Kitô. Ngài là người Cha dạy bảo chúng ta trong sự quan phòng yêu
thương của Ngài: “Con hãy kiên trì để cho Ta sửa dạy; Ta đối xử với con như con
cái. Thật vậy, có đứa con nào mà người Cha không sửa dạy?… Ta sửa dạy con vì
lợi ích của con, để con được thông phần vào sự thánh thiện của Ta” (Dt
12,7.10).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời
Chúa Trong Gia Đình
Ngày 07-8
Thánh Xystô II, giáo hoàng và các bạn tử đạo
Thánh Cajêtanô, linh mục
Ds 13,1-2.25-14, 1.26-29.34-35; Mt 15, 21-28
LỜI SUY NIỆM: Trong Câu
chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho người con gái của một bà người Ca-na-an. Kết
thúc câu chuyện Chúa Giêsu đã khen bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà
muốn sao thì sẽ được như vậy” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi. (Mt 15,28).
Qua câu chuyện, chúng ta biết được Chúa luôn dành mọi ân huệ một
cách ưu tiên cho con cái của Chúa. Có những điều chúng ta đang được hưởng mà
chúng ta vô tình, cứ cho đó là sự tự nhiên. Trong lúc đó người ngoài nhìn vào
chúng ta, đó là những đặc ân được ở trong sự quan tâm của Thiên Chúa. Họ thèm
khát, họ ước muốn chỉ cần những mãnh vụn của ân huệ đó, đã là hạnh phúc lắm
rồi. Ước gì mỗi một người trong chúng ta biết khiểm điểm mình lại với con mắt
đức tin, để nhận ra ân huệ Chúa đã ban cho, để tạ ơn và sống xứng đáng với
những ân huệ đó.
Mạnh Phương
Gương
Thánh nhân
Ngày 07-08
Thánh XISTÔ II
Giáo Hoàng và Các Bạn Tử Đạo
Ngày 30 tháng 8 năm 257, Đức Xystô lên ngôi Giáo
hoàng, kế vị Đức Stephanô I giữa lúc Giáo hội đang chìm trong con người bách
hại thời Valerianô. Pontiô, một phó tế của Thánh Cyprianô gọi Ngài là
"Linh mục nhân hậu hòa nhã". Ngài đã tránh được một cuộc ly khai khi
để cho các Giáo hội địa phương tự do theo thói quen rửa tội lại cho các người
theo lạc giáo.
Một năm sau thánh Cyprianô loan tin: Đức giáo
hoàng Systô đã bị xử tử đêm 6 tháng 8 cùng với 4 vị trợ tá (phó tế) của Ngài.
Các Kitô hữu Roma đã bị cảnh sát đột kích trong khi đang cử hành thánh lễ tại
hang toại đạo Callistô. Để khỏi bị bắt giam tất cả, Đức Xystô đã hiến mình chịu
chết. Ngài bị chặt đầu ngay tại ngai tòa giám mục cùng với 4 vị trong số 7 vị
trợ tá (phó tế) của Ngài là Gianuariô. Mahnô, Vicentê và Stêphanô. Hai vị khác
là Fêlicissimô và Agapitô đã bị bắt và bị chặt đầu cùng ngày tại hang toại đạo
Praetextato.
Cái chết vì đoàn chiên trong những cảnh thương
tâm như vậy đã khiến cho Đức Xystô được dân chúng tôn kính rộng rãi. Ngài được
mai táng trong hầm mộ giáo hoàng tại chính nơi Ngài chịu chết. Tuy nhiên di hài
của Ngài có lẽ đã được Đức Lêô IV (847 - 855) dời về thánh đường Xystô vẫn còn
được tôn kính cho đến ngày nay.
(daminhvn.net)
07
Tháng Tám
Con
Bọ Cạp Giữa Dòng Sông
Một
tín đồ Ấn giáo nọ xuống dòng sông Gange để thanh tẩy và cầu nguyện...
Ông
đang trầm mình giữa dòng sông thì bỗng đâu rác rưởi tấp lại dày đặc xung quanh
ông. Trong đống rác, một con bọ cạp đang chao đảo chới với giữa dòng nước. Sẵn
lòng khoan dung đối với thú vật, người tín đồ Ấn giáo mới chìa cánh tay ra để
cứu vớt con vật. Nhưng cánh tay ông vừa đưa ra đã bị con vật dùng chiếc vòi độc
của nó đốt lấy. Người đàn ông không mất kiên nhẫn, con vật càng hung hãn, ông
càng chịu đựng để nó dùng nọc độc chích liên hồi, miễn là cứu sống nó thoát
khỏi dòng nước đang cuốn trôi.
Có
người theo dõi cảnh tượng, mới trách người tín đồ như sau: "Ông mất giờ vô
ích. Nó là con bọ cạp, bản chất của nó chỉ là dùng nọc độc để chích mà
thôi".
Người
tín đồ Ấn giáo mới điềm nhiên trả lời: "Bản chất của con bọ cạp là dùng
nọc độc để chích, nhưng bản chất của con người là cứu vớt".
Chúng ta dễ có khuynh hướng phân biệt xã hội
thành hai loại người: xấu và tốt, bạn và thù... Kẻ xấu là người đáng xa lánh,
người thù thì phải oán căm sâu sắc... Chúa Giêsu đã đánh đổ mọi thứ óc
"biệt phái". Những kẻ bị xã hội loại ra bên lề đã được Ngài biến
thành bạn hữu, những kẻ đồng bàn. Ngài đã không nhìn người bằng những nhãn hiệu
có sẵn, mà chỉ bằng hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Trong cái nhìn ấy, hàng
rào giữa bạn và thù, giữa tốt và xấu sẽ được tháo gỡ giữa mọi người. Trong cái
nhìn ấy, tất cả mọi người đều có chung một danh xưng; đó là anh em của nhau...
(Lẽ
Sống)
Thứ Tư 7-8
Thánh Cajetan
(1480-1547)
V
|
ào năm 1523, Giáo Hội
trong tình trạng tiêu điều. Ðời sống tâm linh cần thiết của giáo dân không được
chăm sóc bởi rất đông các mục tử thiếu học thức và thiếu đạo đức, họ chỉ biết
đồng tiền mà không hoạt động gì cả. Khi các linh mục tốt lành và giáo dân chạy
đến các đấng có quyền để xin giúp đỡ, họ cũng chỉ gặp sự thờ ơ lãnh đạm của các
vị chủ chiên.
Một người Công Giáo tốt
lành phải phản ứng thế nào trước hoàn cảnh này? Tất cả chúng ta đều biết Luther
và một số người khác đã phản ứng bằng cách tách rời khỏi Giáo Hội Công Giáo khi
thỉnh cầu của họ không được lắng nghe.
Thánh Cajetan lại theo
một phương cách khác. Cũng như Luther, khi lưu tâm đến những gì họ được thấy
trong đời sống Giáo Hội, ngài đến Rôma năm 1523 -- không phải để trình lên đức
giáo hoàng hay đấng có quyền nhưng để gia nhập Hội A¨i Hữu Tình Yêu Thiên Chúa,
là một tổ chức nhỏ bé, bán chính thức, tận tụy trong công việc bác ái. Họ chăm
sóc người nghèo, người đau yếu, trẻ mồ côi và các tù nhân. Dần dà họ gây được
ảnh hưởng khắp nước Y¨.
Sau khi chịu chức linh
mục, năm 1518 Cajetan trở về quê nhà ở Vicenza khi mẹ ngài sắp từ trần. Ở đây,
ngài gia nhập Hội Dòng Thánh Giêrôme. Sau khi mẹ chết, ngài dùng tất cả tài sản
để cứu giúp người đau yếu, đồng thời sáng lập một hội dòng tương tự ở Venice,
là nơi ngài cổ võ đời sống tâm linh và chăm sóc người nghèo, người đau yếu
không chỉ bằng lời nói mà còn bằng gương mẫu anh hùng.
Năm 1523, ngài trở về
Rôma, với sự tiếp tay của các bạn thân trong hàng giáo phẩm, ngài quyết định
thành lập một tu hội dựa trên đời sống của các tông đồ, với hy vọng rằng đời
sống của các thánh sẽ khích lệ họ và người khác cố gắng sống một cuộc đời thánh
thiện vì Ðức Giêsu Kitô. Ðể hoàn thành mục đích này, họ nhắm đến đời sống luân
lý, học hỏi Kinh Thánh, rao giảng và chăm sóc mục vụ, giúp đỡ người bệnh tật,
và các nền tảng vững chắc của đời sống mục vụ. Tu hội mới này được gọi là Tu Sĩ
Dòng Theatine.
Dĩ nhiên, các linh mục
phóng túng và tham lam chẳng bao giờ đặt chân đến tu hội, nhưng Cajetan vẫn
kiên trì chịu đựng sự chống đối từ các giáo sĩ và giáo dân không muốn cải tổ.
Chính gương mẫu đời sống thánh thiện cũng như lời rao giảng của ngài mà nhiều
người đã hoán cải.
Kiệt quệ vì các khó khăn
trong Giáo Hội và ở quê nhà, Cajetan lâm trọng bệnh. Khi các y sĩ tìm cách
khiêng ngài từ chiếc giường gỗ thô thiển lên chiếc giường nệm êm ấm, Cajetan
thều thào, "Chúa Cứu Thế chết trên thập giá. Hãy để tôi được chết trên
tấm gỗ này." Ngài từ trần ngày 7 tháng Tám 1547.
Ngài được Ðức Giáo Hoàng
Clêmentê phong thánh năm 1671.
Lời Trích
Có lần Thánh Cajetan nói
với các anh em trong dòng, "Chúng ta cố gắng phục vụ Thiên Chúa qua sự
thờ phượng trong hội dòng này; nhưng trong bệnh viện, chúng ta mới có thể nói
là thực sự tìm thấy Ngài."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét