Trang

Thứ Ba, 6 tháng 8, 2013

07-08-2013 : THỨ TƯ TUẦN XVIII MÙA THƯỜNG NIÊN

Thứ Tư Tuần XVIII Thường Niên



BÀI ĐỌC I: Ds 13, 1-3a. 26 -- 14, 1. 26-29. 34-35
"Đất ngon lành họ đã không thèm" (Tv 77, 24)

Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê (ở trong hoang địa Pharan) rằng: "Ngươi hãy sai đàn ông, mỗi chi tộc một người (thuộc hàng vương công trong chúng), đi xem đất Canaan mà Ta sẽ ban cho con cái Israel".
Sau bốn mươi ngày, những người dò thám đất đi khắp miền, đoạn trở về. †Họ đi gặp Môsê, Aaron và toàn thể cộng đồng con cái Israel ở sa mạc Pharan, tại Cađê. Và họ đã báo cáo với các ông và toàn thể cộng đồng, và cho người ta thấy thổ sản đất ấy. Họ đã tường thuật và nói: "Chúng tôi đã vào đất, nơi các ông sai chúng tôi đến, và thật là đất chảy tràn sữa và mật, và đây là thổ sản đất ấy. Hiềm một nỗi là dân cư trong xứ hùng cường! Thành trì kiên cố (và) lớn lắm, và chúng tôi đã thấy ở đó cả những con cháu Anaq. Có Amalec ở vùng Namsa; có dân Hit-tit, Giơbusi và Amori ở trên núi; còn dân Canaan thì ở gần biển và bờ sông Giođan".
Bấy giờ Caleb truyền cho dân nín bặt trước Môsê. Ông nói: "Ta cứ lên chiếm đất ấy, vì ta sẽ thắng nổi nó!" Những người cùng lên với ông đáp lại: "Ta không thể lên đánh dân ấy, vì nó mạnh hơn ta". Và họ buông lời chê bai giữa con cái Israel về đất họ đã dò thám, họ nói: "Đất chúng tôi đã băng qua để dò thám là đất làm tiêu diệt cả những người ở trên ấy; dân chúng tôi đã thấy trong xứ toàn là những người vóc dạng. Chúng tôi đã thấy ở đó những người khổng lồ (con cháu của Anaq thuộc hạng người khổng lồ). Quay nhìn lại mình, thật chúng tôi chỉ như những con châu chấu, và trước mắt họ, chúng tôi chỉ như thế đó".
Và toàn thể cộng đồng kêu la; họ lên tiếng,‡ và đêm ấy toàn dân la lối khóc lóc. (Họ trách móc Môsê và Aaron, và nói rằng: "(...) Phải chi chúng tôi chết quách ở trong sa mạc này!").
Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: "Dân bạc ác này kêu trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe tiếng kêu trách của con cái Israel. Ngươi hãy nói với chúng rằng: Chúa phán: Ta hằng sống, như các ngươi đã nói, Ta đã nghe, nên Ta sẽ làm cho các ngươi như vậy. Xác chết của các ngươi sẽ nằm trên rừng vắng này. Tất cả các ngươi, tính từ hai mươi tuổi trở lên, đều đã kêu trách Ta. Các ngươi đã xem thấy đất, trong bốn mươi ngày, (thì) một năm kể thay cho một ngày; các ngươi mang lấy cái khổ của sự gian ác các ngươi, và sẽ biết sự thù ghét của Ta: vì Ta đã phán thế nào, thì Ta sẽ làm cho dân bạc ác này dấy lên chống lại Ta như vậy: nó sẽ hao mòn và chết trên rừng vắng này".  Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:  Tv 105, 6-7a. 13-14. 21-22. 23
Đáp: Lạy Chúa, xin nhớ đến chúng con (c. 4a).

1) Chúng con đã phạm tội cũng như tổ phụ chúng con, chúng con đã làm điều gian ác và ăn ở bất nhân. Tổ phụ chúng con khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những việc lạ lùng của Chúa. -  Đáp.
2) Nhưng họ đã mau quên công việc của Chúa khi gia ân huệ cho dân Ngài, họ không tin cậy vào định kế của Ngài. Họ chiều theo dục vọng ở nơi hoang địa, và thử thách Thiên Chúa trong cõi cô liêu. -  Đáp.
3) Họ đã quên Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình, Đấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Đấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Đỏ. -  Đáp.
4) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là Người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Người, để Người nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. -  Đáp.

ALLELUIA:  1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 15, 21-28
"Này bà, bà có lòng mạnh tin".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm".
Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel".
Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống".
Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.  Đó là lời Chúa.



SUY NIỆM : Sống Niềm Tin

Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Ðộ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: "Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu". Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.
Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Ðôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: "Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta". Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Ðền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa".
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Ðây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 18 TN1, Năm Lẻ

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải kiên trì vượt qua gian khổ mới hy vọng được thành công.

Nhiều người thích được thành công, thích ngồi mơ mộng để dệt đời mình bằng những tương lai huy hoàng rực rỡ, được trở nên những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử hay ngoài xã hội; nhưng khi giật mình tỉnh giấc và phải đương đầu với những hy sinh gian khổ, những mơ ước bị tan biến như bọt biển bị sóng đánh tan tành. Họ quên đi một thực tế là ai cũng phaỉ trải qua những hy sinh gian khổ trước khi đạt được những kết quả tốt đẹp.

Các Bài Đọc hôm nay đưa ra hai thái độ tương phản của nhân loại. Trong Bài Đọc I, con cái Israel thích thú khi nghe các thám tử tường thuật chuyến đi xem xét tình hình Đất Hứa miền Canaan; nhưng khi nghe đến binh lính to lớn và thành trì kiên cố của họ thì họ hết mong Đất Hứa, vì họ sợ phải trả giá bằng gian khổ và chết chóc. Họ bắt đầu toa rập nhau và gào thét điệp khúc "chúng tôi muốn trở về Ai-cập," để kêu trách Thiên Chúa và ông Moses. Trong Phúc Âm, người đàn bà xứ Canaan muốn xin Chúa Giêsu chữa lành cho con gái bị quỉ ám. Mặc dù bị thử thách nặng nề bởi các môn đệ và bởi Chúa Giêsu, Bà nhất định vượt qua mọi thử thách để kiên trì van xin cho tới khi được. Chúa Giêsu phải ngạc nhiên trước cách biểu lộ niềm tin này, nên đã ban cho Bà điều Bà xin.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Cho tới bao giờ cái cộng đồng hư đốn này cứ tiếp tục lẩm bẩm kêu trách Ta?

1.1/ Lý do con cái Israel kêu trách Thiên Chúa: Hai mục đích Thiên Chúa muốn làm cho con cái Israel: thứ nhất, Ngài muốn giải phóng con cái Israel khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập; thứ hai, Ngài muốn đưa họ vào Đất Hứa mà Ngài đã hứa với các tổ-phụ của họ.

Để chuẩn bị tinh thần, Đức Chúa phán với ông Moses: "Ngươi hãy sai người đi do thám đất Canaan, đất mà Ta sẽ ban cho con cái Israel. Các ngươi sẽ sai đi mỗi chi tộc một người và tất cả phải là kỳ mục trong dân." Sau bốn mươi ngày do thám đất, họ trở về và tường thuật những gì mắt thấy tai nghe cho ông Moses và toàn thể dân chúng. Muốn hiểu chi tiết những gì họ tường thuật, xin đọc Sách Dân Số, chương 13 và 14. Một cách tổng quát, con cái Israel mắt sáng rỡ khi nghe đến vùng đất tràn đầy sữa và mật, những chùm nho phải hai người khiêng; nhưng mắt họ tối sầm lại khi nghe đến binh lính to lớn và thành trì kiên cố. Nỗi lo sợ phải hy sinh gian khổ và có thể phải chết thắng vượt ước mơ được định cư trong Đất Hứa, nên toàn thể cộng đồng lớn tiếng kêu la, dân chúng khóc lóc cả đêm ấy. Họ muốn trở về Ai-cập hay ở lại trong sa mạc để chết cách an toàn!

Nghe những tiếng kêu la than khóc, Đức Chúa lại phán với ông Moses và ông Aaron:

"Cho tới bao giờ cái cộng đồng hư đốn này cứ tiếp tục lẩm bẩm kêu trách Ta? Ta đã nghe thấy toàn những lời cằn nhằn, đám con cái Israel này cứ lẩm bẩm chống Ta."

1.2/ Hậu quả của việc than trách: Chúa truyền cho ông Moses và ông Aaron: "Ngươi hãy nói với chúng: Ta thề - sấm của Đức Chúa - Ta sẽ xử với các ngươi như lời các ngươi kêu thấu tai Ta. Trong sa mạc này, thây các ngươi sẽ ngã gục: trong các ngươi, tất cả những người đã được kiểm tra đăng ký, từ hai mươi tuổi trở lên, mà đã cằn nhằn chống Ta, Theo số ngày các ngươi đã đi do thám đất - bốn mươi ngày - mỗi ngày tính là một năm, các ngươi sẽ phải gánh chịu tội ác của các ngươi bốn mươi năm, và các ngươi sẽ biết Ta trừng phạt những kẻ bất tuân như thế nào.

Ta, Đức Chúa, Ta đã phán; Ta quyết sẽ thi hành như thế cho toàn thể cộng đồng hư đốn này đã cấu kết với nhau chống lại Ta. Trong sa mạc này chúng sẽ bị tiêu diệt và sẽ chết hết."

Theo những lời này, con cái Israel sẽ phải lãnh nhận những hậu quả như sau:

(1) Họ phải sống lang thang trong sa mạc 40 năm, mặc dù từ Biển Đỏ, nơi họ xuất hành khỏi Ai-cập chỉ mất khoảng ít ngày tới Đất Hứa. 40 ngày dọ thám trở thành bản án 40 năm lưu đày trong sa mạc; và tất cả những thám tử phản động xúi giục dân làm phản bị giết chết hết, ngoại trừ ông Caleb và ông Joshua, những người không chống lại Thiên Chúa và Moses.

(2) Thế hệ của họ (từ hai mươi tuổi trở lên) sẽ dần dần chết hết trong sa mạc theo như lời họ than trách; mặc dù ông Moses đã hết lòng cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho họ.

(3) Thế hệ con cháu của họ sẽ được vào hưởng Đất Hứa vì chưa chống lại Thiên Chúa.

2/ Phúc Âm: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy."

2.1/ Thái độ kiên trì của người đàn bà Dân Ngoại: Trong cuộc đời hành đạo, Chúa Giêsu rất ít ra khỏi lãnh thổ của Palestine. Trình thuật hôm nay là một ngoại lệ, thánh Matthew tường thuật: "Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về miền Tyre và Sidon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: "Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!"

Người đàn bà Canaan này phải đương đầu với ít nhất 3 thử thách lớn như sau:

(1) Nạn kỳ thị chủng tộc: Người Do-thái khinh thường những người Dân Ngoại, họ không muốn có bất cứ liên hệ gì với Dân Ngoại cả. Bà phải can đảm lắm mới vượt qua được bức tường kỳ thị chủng tộc này.

(2) Các môn đệ coi Bà như một gánh nặng cần trút bỏ càng sớm càng tốt: Thấy Chúa Giêsu không đáp lại một lời, các môn đệ thưa với Ngài: "Xin Thầy bảo Bà ấy về đi, vì Bà ấy cứ theo sau chúng ta mà xin mãi!" Chúa Giêsu tỏ thái độ cho các môn đệ và cho cả Bà: "Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi."

(3) So sánh Bà với chó: Đây có lẽ là một thử thách to lớn nhất về đức tin. Nhiều nhà chú giải có khuynh hướng làm dịu lại bằng cách đề cập tới chó nhà hay chó con; nhưng điều chính yếu là con người phải làm chứng cho đức tin cho dù bị xỉ nhục. Hãy nghe lời Bà đối thoại với Chúa Giêsu:
- Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!"
- Người đáp: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con."
- Bà ấy nói: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống."

2.2/ Sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu: Lời đối đáp của Bà nói lên một sự thật: mặc dù không được ăn bánh dành cho con cái, nhưng "lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống." Tuy Chúa Giêsu không trực tiếp rao giảng cho Dân Ngoại, nhưng Ngài đang huấn luyện các môn đệ để làm việc đó. Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài muốn chọn dân Do-thái trước khi bành trướng ơn cứu độ đến tất cả Dân Ngoại.

Vì Bà biểu lộ đức tin cách vững chắc, nhiệt thành, và khôn ngoan; nên Đức Giêsu trả lời Bà: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy." Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta phải trải qua gian khổ trước khi đạt tới vinh quang Nước Trời. Nếu chúng ta cùng chịu gian khổ với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng thống trị vinh quang với Ngài.

- Chúng ta phải nghe lời Đức Kitô để đi qua đường hẹp; vì đường rộng rãi thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Cuộc đời chúng ta có thể ví như cuộc đời con cái Israel 40 năm trong sa mạc.


Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 18 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)


Mt 15,21-28

A. Hạt giống...
Chúa Giêsu  đáp lại lời xin của một phụ nữ Canaan. Có một số điểm đáng ta lưu ý :
1. Về thân phận của bà này : Bà là một người bị xã hội do thái khai trừ vì bà vừa là phụ nữ vừa là người ngoại.
2. Về sự thử thách mà bà gặp phải : thân phận bị khai trừ, Chúa Giêsu lại làm ngơ trước lời bà xin, lại còn nói nặng ví bà là chó. Nhưng bà đã kiên trì vượt qua mọi thử thách ấy.
3. Kết quả : Chúa Giêsu khen bà “có lòng tin mạnh”, và còn nói “bà muốn sao thì được vậy”.

B.... nẩy mầm.
1. Có thể khẳng định rằng không ai không gặp thử thách về đức tin. Chính Chúa Giêsu muốn thế. Người phụ nữ này bị thử thách đức tin rất nặng. Vậy khi đức tin ta bị thử thách, ta đừng nản lòng, vì đó là chuyện phải có thôi, chẳng sớm thì muộn.
2. “Xin Thầy thương (mà ban ơn) để cho bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi” :
- Ý nghĩa thái độ của các môn đệ : làm ơn không phải vì thương mà vì để khỏi bị quấy rầy nữa. Phần Chúa Giêsu thì chẳng những muốn ban thứ ơn mà bà xin, mà còn muốn ban thêm một ơn quý trọng hơn nữa là chính đức tin.
- Khi tôi xin Chúa ơn gì mà Chúa chậm ban, tôi hãy tự nghĩ : tôi muốn Chúa ban ơn cho nhanh để Chúa khỏi bị quấy rầy nữa, hay thà chậm một chút nhưng được thứ ơn quý hơn ơn mà tôi xin.
3. “Muốn sao thì được vậy” : quả là một ơn ban vô cùng to lớn. Ai mà không mong mình muốn sao được vậy. Chúa Giêsu sẵn lòng ban cho ta ơn này miễn là chúng ta có đức tin mạnh.
4. “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15,26)
Đọc xong đoạn Phúc Âm, một bạn trong nhóm nói : “Có những lúc mình cảm thấy Chúa thử thách mình quá đáng !” Tôi cũng đã có lúc như vậy. Những lúc ấy tôi đã nổi giận, đã nghĩ : chẳng cần Chúa nữa. Và mỗi lúc tôi càng cảm thấy thất vọng. Phải, tôi đã không có được sự tin tưởng, phó thác của người đàn bà dân ngoại.
Lạy Chúa, Chúa thử thách để lòng tin của con mạnh mẽ. Với lòng tin mạnh mẽ, con mới có thể làm được mọi điều thiện hảo. (Hosanna)
5. ‘Vâng lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống” : người phụ nữ này chẳng những có đức tin mà còn có lòng khiêm tốn. Khi xin thì phải có sự khiêm tốn kèm theo. Xin người ta và xin những thứ vật chất mà còn phải khiêm tốn, huống chi xin Chúa và xin những ơn siêu nhiên.
6. Bấy giờ Chúa Giêsu đáp : “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được như vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi. (Mt 15,28)
Một lần nọ, tôi cùng nhóm bạn trò chuyện. Chúng tôi nói về sự sống và cái chết. Câu chuyện mỗi lúc một căng thẳng, mọi người tranh cãi kịch liệt. Khi tôi nói : “Con người chết đi mai mốt tới ngày tận thế sẽ sống lại”, thì một số bạn bật cười và cười một cách diễu cợt. Tôi muốn biện bạch cho lời nói của mình nhưng không thể vì họ còn mãi cười. Có điều làm tôi rất buồn là thấy có cả những người đồng niềm tin với tôi cũng cười. Tôi không hiểu vì sao họ cười, có lẽ vì bè bạn cười chăng, vì sợ quê lây với tôi hay vì tự bản thân họ cho đó là phi lý... Niềm tin của chúng ta như thế có đúng chưa ? Người đàn bà dân ngoại còn hơn tôi và bạn, một mình bà chạy đến với Chúa Giêsu mà tuyên xưng niềm tin của mình cho dù xung quanh là những người xa lạ, chưa quen hoặc chưa tin vào Chúa. Hình ảnh về người đàn bà dân ngoại và hình ảnh về những người bạn ấy giúp tôi suy nghĩ lại niềm tin của chính mình. Tôi đang tin vào ai hay tin vào cái gì ? (Hosanna)
Lạy Chúa, xin củng cố niềm tin của con, xin thêm sức để con biết sống niềm tin ấy ở giữa anh em. (Hosanna)

Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp.Cần Thơ

07/08/13 THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 18 TN
Th. Xíttô II giáo hoàng và các bạn tử đạo
Mt 15,21-28

NHẬN VÀ TRAO MÓN QUÀ GIÊSU
“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” (Mt 15,28)
Suy niệm: Tại Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2013 ở Rio de Janerio, Đức giáo hoàng Phanxicô nói: “Tôi không có bạc cũng không có vàng, nhưng tôi mang theo mình đồ quí giá nhất tôi từng nhận được: Chúa Giêsu Kitô!” Sứ mệnh ngàn đời của Giáo Hội là mang Chúa Giêsu đến cho trần gian. Nhưng phải có lòng tin chân thành khiêm tốn, người ta mới nhận ra Ngài là quà tặng cao quí nhất. Người đàn bà xứ Canaan kêu xin Chúa Giêsu chữa cho đứa con bị quỉ ám. Các môn đệ muốn đuổi bà về và chính Chúa cũng thử thách bà bằng những lời thật sốc: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó.” Bất chấp tất cả, bà vẫn kiên trì khiêm tốn kêu cầu. Đức tin đã làm cho bà trở thành người con cái trên bàn tiệc ân phúc của Chúa Giêsu: con gái bà được lành bệnh.
Mời Bạn: Trong thế giới duy vật muốn loại trừ Thiên Chúa này, người kitô hữu kiên trì giữ vững niềm tin nơi Chúa Giêsu. Hãy tiếp nhận Ngài là Đấng đem lại ơn cứu rỗi và tìm mọi cách để trao món quà cao quí nhất này cho anh em.
Chia sẻ: Tôi cầu nguyện với Chúa Giêsu thế nào: chân thành và tha thiết hay chỉ hời hợt, theo nghi thức?
Sống Lời Chúa: Làm một cử chỉ biểu lộ đức tin (làm dấu Thánh giá, chẳng hạn) trước khi làm bất cứ việc gì.
Cầu nguyện: Lạy Chúa xin ban cho con đức tin vui tươi, hạnh phúc vì biết những gì đang chờ ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được yêu thương ngay giữa những sa mù của cuộc sống. Xin cho con đức tin cứng cáp qua những cọ sát đau thương của phận người, để dù bao thăng trầm dâu bể, con cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người.

Lòng tin của bà lớn thật


Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa,
tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại. 
Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.
Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.
Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.
Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.
Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.
Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin:
“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”
Người mẹ đau vì con của mình đau.
Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.
Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.
Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.
Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.
Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.
“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”
Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.
Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.
Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.
Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.
Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:
“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”
Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.
Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.
Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.
Chị không phải là chiên của nhà Israel.
Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,
vì Cha tôi chưa sai tôi đến.
Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ.
Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,
và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.
Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.
Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.
Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:
“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);
khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).
Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.
Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.
Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,
vì tình yêu nối kết cả hai nên một.
Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ
dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.
Người đưa ra lời từ chối thứ hai
quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng: 
“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”
Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.
Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.
Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.
Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.
Họ tự hào về tính ưu việt của mình
trong tư cách là Dân riêng của Chúa.
Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu
Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.
Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa: 
“Thưa Ngài đúng thế.
Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,
không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.
Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách
để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,
bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.
Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.
Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.
Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà.
Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”
Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).
Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.
Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,
khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.
Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.
Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu,
và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.
Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…
Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…”
Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.
Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà
chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt: 
“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.
Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó.
Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.
Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.
Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.
Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.
Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.
Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai: 
“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”
để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”
Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám.
Ám vì đủ  thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.
Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.
Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.
Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,
tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng
và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.
Lời nguyện:
Lạy Chúa, 
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, 
để con làm bật rễ khỏi lòng con 
những ích kỷ và khép kín. 
Xin cho con đức tin can đảm 
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, 
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt 
để con thấy được thế giới 
mà mắt phàm không thấy, 
thấy được Ðấng Vô hình, 
nhưng rất gần gũi thân thương, 
thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ. 
Xin cho con đức tin liều lĩnh, 
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, 
dám tiến bước trong bóng đêm 
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa, 
dám lội ngược dòng với thế gian 
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi, 
hạnh phúc vì biết những gì 
đang chờ mình ở cuối đường, 
sung sướng vì biết mình được yêu 
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp 
qua những cọ xát đau thương của phận người, 
để dù bao thăng trầm dâu bể, 
con cũng không để tàn lụi niềm tin 
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Suy niệm

Lạy Chúa, bài Tin Mừng hôm nay diễn ra sau phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người ăn (x.Mt 14,13-21). Vì vậy ít nhiều người ta đã biết về danh tiếng của Chúa. Có người xem Chúa như một người có khả năng làm phép lạ, thế thôi. Có người muốn Chúa làm lãnh đạo của họ, để họ khỏi phải lo chuyện cơm ăn áo mặc. Nhưng cũng có người tin nhận Ngài là Đấng Messia, còn tuyên xưng điều đó nữa.  Đó chính là người đàn bà Canaan. Bà ta đã tuyên xưng: “Lạy Ngài là con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi” (Mt 15, 22). Người đàn bà này là nhân vật làm nổi bật lên đức tin của người Kittô hữu, vì vậy con quyết định tìm hiểu về bà.

Bà là một người đàn bà ngoại giáo, bị người Do Thái xếp vào hạng ô uế. “Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđon. Thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra” (Mt 15, 21-22). Matthêu viết rất rõ ràng, người đàn bà này ở “miền ấy đi ra”. Có nghĩa là bà ta đã mạnh dạn ra khỏi lãnh thổ dân ngoại để đến với Chúa.

Sau khi van xin Chúa đến cứu đứa con gái của mình bị quỷ ám, chẳng những Chúa không cho mà còn nói một điều như thể xúc phạm đến bà ta: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15, 26). Tưởng đâu bà sẽ tự ái mà bỏ cuộc. Nhưng không, bà đã nói một điều khiến Chúa Giêsu hết sức ngỡ ngàng: “Lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 27). Với câu nói này chứng tỏ mặc dù bà ta là người đàn bà ngoại giáo nhưng rất am hiểu Thánh Kinh. Theo Thánh Kinh thì đúng là Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho tổ phụ Apraham, nhưng không chỉ dừng lại ở đó, mà còn từ đó ban cho muôn dân. Vì vậy, bà ta ý thức mình không phải là con cháu tổ phụ Apraham, nhưng ít ra cũng được “hưởng ké” ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Chúa đã phải “đầu hàng” trước lòng tin mạnh mẽ của người đàn bà này chứ không phải sự kiên trì của bà ta. Nói như vậy không phải Chúa miễn cưỡng làm phép lạ cho con gái bà ta được khỏi bệnh, nhưng đó là một sự vui mừng, một sự bất ngờ vì có người đón nhận ơn cứu độ của Chúa một cách xứng đáng như vậy: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào sẽ được như vậy” (Mt15,28).

Nhìn lại bản thân con, con cũng là “dân ngoại” được Chúa yêu thương ban ơn cứu độ. Nhưng đòi hỏi con phải biết “ra khỏi” bóng đêm tội lỗi, ra khỏi những sự bất chính của con người con mới có thể đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Người phụ nữ hôm nay đã mạnh dan ra khỏi ranh giới của mình để đón gặp Chúa, thì con cũng hãy biết bắt chước bà để “ra khỏi” con người cũ của con.

Bà là người ngoại giáo nhưng rất am hiểu Thánh Kinh, chính nhờ Thánh Kinh mà bà đã biết được chương trình cứu độ của Chúa. Con đã xem Thánh Kinh như kim chỉ nam cho cuộc đời của mình chưa? Lạy Chúa, con thực sự chưa yêu mến Thánh Kinh, vì thử hỏi một ngày con dành bao nhiêu thời gian cho Thánh Kinh? Thật xấu hổ vì có những ngày con không có giây phút nào để tiếp cận với Thánh Kinh hết, hoặc khi con đi tham dự thánh lễ thì con có dịp nghe qua vậy thôi.

Lạy Chúa, chính lòng tin của người đàn bà xứ Canaan đã cứu con gái của bà. Lòng tin đó được soi sáng nhờ bà biết yêu mến Thánh Kinh. Xin cho con biết năng đọc, học hỏi, lắng nghe và đem lời Chúa ra thực hành trong cuộc sống của mình, để nhờ đó, con biết sống theo thánh ý của Chúa luôn luôn. Amen.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Tám

7 THÁNG TÁM

Không Gì Có Thể Tách Chúng Ta Ra Khỏi Tình Yêu Thiên Chúa

Thánh Tông Đồ Gia-cô-bê cũng diễn tả tương tự khi ngài dạy các Kitôhữu thái độ đương đầu các thử thách với niềm vui và kiên nhẫn: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không thiếu sót điều gì” (Gc 1,2-4).
Cuối cùng, trong Thư gửi các tín hữu Rôma, Thánh Phaolô so sánh những đau khổ của con người và của vũ trụ với ‘cơn đau sinh nở’ của mọi tạo vật. Ngài nhấn mạnh rằng đây là ’những tiếng rên siết’ của những ai lãnh nhận Thần Khí như ‘ơn huệ mở đầu’ nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là ‘cứu chuộc thân xác chúng ta nữa’(Rm 8,22-23).
Rồi, Thánh Phaolô ghi nhận về đau khổ: “Chúng ta biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi cho những ai yêu mến Ngài, tức là cho những kẻ được Ngài kêu gọi theo như ý Ngài định…” (Rm 8,28). Cũng trong văn mạch này, ngài tuyên bố: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8,35).
Với cảm nhận sâu xa ấy về tình yêu và sự tốt lành của Thiên Chúa trong Đức Kitô, Thánh Phaolô kết luận: “Tôi tin chắc rằng: dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay ma vương quỉ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39).
Ở đây Thiên Chúa, Cha chúng ta đang yêu thương chúng ta đời đời trong Đức Kitô. Ngài là người Cha dạy bảo chúng ta trong sự quan phòng yêu thương của Ngài: “Con hãy kiên trì để cho Ta sửa dạy; Ta đối xử với con như con cái. Thật vậy, có đứa con nào mà người Cha không sửa dạy?… Ta sửa dạy con vì lợi ích của con, để con được thông phần vào sự thánh thiện của Ta” (Dt 12,7.10).

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 07-8
Thánh Xystô II, giáo hoàng và các bạn tử đạo
Thánh Cajêtanô, linh mục
Ds 13,1-2.25-14, 1.26-29.34-35; Mt 15, 21-28


LỜI SUY NIỆM: Trong Câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho người con gái của một bà người Ca-na-an. Kết thúc câu chuyện Chúa Giêsu đã khen bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi. (Mt 15,28).

Qua câu chuyện, chúng ta biết được Chúa luôn dành mọi ân huệ một cách ưu tiên cho con cái của Chúa. Có những điều chúng ta đang được hưởng mà chúng ta vô tình, cứ cho đó là sự tự nhiên. Trong lúc đó người ngoài nhìn vào chúng ta, đó là những đặc ân được ở trong sự quan tâm của Thiên Chúa. Họ thèm khát, họ ước muốn chỉ cần những mãnh vụn của ân huệ đó, đã là hạnh phúc lắm rồi. Ước gì mỗi một người trong chúng ta biết khiểm điểm mình lại với con mắt đức tin, để nhận ra ân huệ Chúa đã ban cho, để tạ ơn và sống xứng đáng với những ân huệ đó.


Mạnh Phương

Gương Thánh nhân
Ngày 07-08
Thánh XISTÔ II
Giáo Hoàng và Các Bạn Tử Đạo


Ngày 30 tháng 8 năm 257, Đức Xystô lên ngôi Giáo hoàng, kế vị Đức Stephanô I giữa lúc Giáo hội đang chìm trong con người bách hại thời Valerianô. Pontiô, một phó tế của Thánh Cyprianô gọi Ngài là "Linh mục nhân hậu hòa nhã". Ngài đã tránh được một cuộc ly khai khi để cho các Giáo hội địa phương tự do theo thói quen rửa tội lại cho các người theo lạc giáo.
Một năm sau thánh Cyprianô loan tin: Đức giáo hoàng Systô đã bị xử tử đêm 6 tháng 8 cùng với 4 vị trợ tá (phó tế) của Ngài. Các Kitô hữu Roma đã bị cảnh sát đột kích trong khi đang cử hành thánh lễ tại hang toại đạo Callistô. Để khỏi bị bắt giam tất cả, Đức Xystô đã hiến mình chịu chết. Ngài bị chặt đầu ngay tại ngai tòa giám mục cùng với 4 vị trong số 7 vị trợ tá (phó tế) của Ngài là Gianuariô. Mahnô, Vicentê và Stêphanô. Hai vị khác là Fêlicissimô và Agapitô đã bị bắt và bị chặt đầu cùng ngày tại hang toại đạo Praetextato.
Cái chết vì đoàn chiên trong những cảnh thương tâm như vậy đã khiến cho Đức Xystô được dân chúng tôn kính rộng rãi. Ngài được mai táng trong hầm mộ giáo hoàng tại chính nơi Ngài chịu chết. Tuy nhiên di hài của Ngài có lẽ đã được Đức Lêô IV (847 - 855) dời về thánh đường Xystô vẫn còn được tôn kính cho đến ngày nay.


(daminhvn.net)

07 Tháng Tám

Con Bọ Cạp Giữa Dòng Sông

Một tín đồ Ấn giáo nọ xuống dòng sông Gange để thanh tẩy và cầu nguyện...
Ông đang trầm mình giữa dòng sông thì bỗng đâu rác rưởi tấp lại dày đặc xung quanh ông. Trong đống rác, một con bọ cạp đang chao đảo chới với giữa dòng nước. Sẵn lòng khoan dung đối với thú vật, người tín đồ Ấn giáo mới chìa cánh tay ra để cứu vớt con vật. Nhưng cánh tay ông vừa đưa ra đã bị con vật dùng chiếc vòi độc của nó đốt lấy. Người đàn ông không mất kiên nhẫn, con vật càng hung hãn, ông càng chịu đựng để nó dùng nọc độc chích liên hồi, miễn là cứu sống nó thoát khỏi dòng nước đang cuốn trôi.
Có người theo dõi cảnh tượng, mới trách người tín đồ như sau: "Ông mất giờ vô ích. Nó là con bọ cạp, bản chất của nó chỉ là dùng nọc độc để chích mà thôi".
Người tín đồ Ấn giáo mới điềm nhiên trả lời: "Bản chất của con bọ cạp là dùng nọc độc để chích, nhưng bản chất của con người là cứu vớt".

Chúng ta dễ có khuynh hướng phân biệt xã hội thành hai loại người: xấu và tốt, bạn và thù... Kẻ xấu là người đáng xa lánh, người thù thì phải oán căm sâu sắc... Chúa Giêsu đã đánh đổ mọi thứ óc "biệt phái". Những kẻ bị xã hội loại ra bên lề đã được Ngài biến thành bạn hữu, những kẻ đồng bàn. Ngài đã không nhìn người bằng những nhãn hiệu có sẵn, mà chỉ bằng hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Trong cái nhìn ấy, hàng rào giữa bạn và thù, giữa tốt và xấu sẽ được tháo gỡ giữa mọi người. Trong cái nhìn ấy, tất cả mọi người đều có chung một danh xưng; đó là anh em của nhau...

(Lẽ Sống)

Thứ Tư 7-8
Thánh Cajetan
(1480-1547)

V
ào năm 1523, Giáo Hội trong tình trạng tiêu điều. Ðời sống tâm linh cần thiết của giáo dân không được chăm sóc bởi rất đông các mục tử thiếu học thức và thiếu đạo đức, họ chỉ biết đồng tiền mà không hoạt động gì cả. Khi các linh mục tốt lành và giáo dân chạy đến các đấng có quyền để xin giúp đỡ, họ cũng chỉ gặp sự thờ ơ lãnh đạm của các vị chủ chiên.
Một người Công Giáo tốt lành phải phản ứng thế nào trước hoàn cảnh này? Tất cả chúng ta đều biết Luther và một số người khác đã phản ứng bằng cách tách rời khỏi Giáo Hội Công Giáo khi thỉnh cầu của họ không được lắng nghe.
Thánh Cajetan lại theo một phương cách khác. Cũng như Luther, khi lưu tâm đến những gì họ được thấy trong đời sống Giáo Hội, ngài đến Rôma năm 1523 -- không phải để trình lên đức giáo hoàng hay đấng có quyền nhưng để gia nhập Hội A¨i Hữu Tình Yêu Thiên Chúa, là một tổ chức nhỏ bé, bán chính thức, tận tụy trong công việc bác ái. Họ chăm sóc người nghèo, người đau yếu, trẻ mồ côi và các tù nhân. Dần dà họ gây được ảnh hưởng khắp nước Y¨.
Sau khi chịu chức linh mục, năm 1518 Cajetan trở về quê nhà ở Vicenza khi mẹ ngài sắp từ trần. Ở đây, ngài gia nhập Hội Dòng Thánh Giêrôme. Sau khi mẹ chết, ngài dùng tất cả tài sản để cứu giúp người đau yếu, đồng thời sáng lập một hội dòng tương tự ở Venice, là nơi ngài cổ võ đời sống tâm linh và chăm sóc người nghèo, người đau yếu không chỉ bằng lời nói mà còn bằng gương mẫu anh hùng. 
Năm 1523, ngài trở về Rôma, với sự tiếp tay của các bạn thân trong hàng giáo phẩm, ngài quyết định thành lập một tu hội dựa trên đời sống của các tông đồ, với hy vọng rằng đời sống của các thánh sẽ khích lệ họ và người khác cố gắng sống một cuộc đời thánh thiện vì Ðức Giêsu Kitô. Ðể hoàn thành mục đích này, họ nhắm đến đời sống luân lý, học hỏi Kinh Thánh, rao giảng và chăm sóc mục vụ, giúp đỡ người bệnh tật, và các nền tảng vững chắc của đời sống mục vụ. Tu hội mới này được gọi là Tu Sĩ Dòng Theatine.
Dĩ nhiên, các linh mục phóng túng và tham lam chẳng bao giờ đặt chân đến tu hội, nhưng Cajetan vẫn kiên trì chịu đựng sự chống đối từ các giáo sĩ và giáo dân không muốn cải tổ. Chính gương mẫu đời sống thánh thiện cũng như lời rao giảng của ngài mà nhiều người đã hoán cải.
Kiệt quệ vì các khó khăn trong Giáo Hội và ở quê nhà, Cajetan lâm trọng bệnh. Khi các y sĩ tìm cách khiêng ngài từ chiếc giường gỗ thô thiển lên chiếc giường nệm êm ấm, Cajetan thều thào, "Chúa Cứu Thế chết trên thập giá. Hãy để tôi được chết trên tấm gỗ này." Ngài từ trần ngày 7 tháng Tám 1547.
Ngài được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê phong thánh năm 1671.
Lời Trích
Có lần Thánh Cajetan nói với các anh em trong dòng, "Chúng ta cố gắng phục vụ Thiên Chúa qua sự thờ phượng trong hội dòng này; nhưng trong bệnh viện, chúng ta mới có thể nói là thực sự tìm thấy Ngài."


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét