Trang

Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2013

25-08-2013 : (p2) CHÚA NHẬT XXI MÙA THƯỜNG NIÊN năm C

CHÚA NHẬT 25/8/2013
Chúa Nhật 21 Thường Niên
(Phần II)



Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật XXI Quanh Năm C ngày 25.8.2013
CHÚA NHẬT XXI QUANH NĂM C
Sách Tiên Tri Isaia 66. 18-21; Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Do Thái 12.5-7.11-13
và Phúc Âm Thánh Luca 13. 22-30

I.                   Giáo Huấn P.Â.:   
Số người được cứu độ bị hạn chế bằng:

Cửa hẹp: tức qui luật khắc khe không phải ai cũng có khả năng đáp ứng dễ dàng nhưng phải chiến đấu để có thể lọt qua.
Giờ giấc: Con người có thời gian để chiến đấu, để lập công vào nước Trời. Nếu cứ buông xuôi, thả lõng hay bê tha thì có lúc không còn kịp vì chủ nhà “đã đứng dậy, khóa cửa” và không tiếp nhận thêm người, dù người đó có lúc đã từng sốt sắng, đã từng ‘ăn uống trước mặt Ngài’.

II.        Vấn nạn P.Â.    
Có hỏa ngục không? Kinh Thánh nói gì về hỏa ngục?
Nhiều lần Chúa Giêsu nói về sự hiện hữu của hỏa ngục và những ai sẽ bị phạt trong hỏa ngục:
Phúc Âm Matthêô 5:22 "Tôi bảo thật anh em, bất cứ ai trong anh em giận ghét anh em mình thì đều có tội. Ai mắng anh em mình ‘đồ vô dụng!’ cũng đáng luận phạt trước tòa án. Còn ai bảo anh em mình “ngu ngốc!” thì đáng bị phạt trong hỏa ngục.
 Phúc Âm Matthêô 10:28 "Đừng sợ những ai chỉ giết được thân xác mà không làm gì được linh hồn; nhưng hãy sợ người có thể tiêu diệt cả xác và hồn
Phúc Âm Matcô 9:43-47 "Nếu tay anh em gây dịp tội cho anh em, hãy chặt bỏ! Tốt hơn nếu chỉ có một tay mà vào nước thiên đàng còn hơn lành lặn hai tay mà bị phạt trong lửa hỏa ngục không bao giờ tắt! Nếu chân anh em gây dịp tội, hãy chặt bỏ, thà một chân mà vào nước thiên đàng còn hơn hai chân mà phải vào hỏa ngục. Nếu mắt gây dịp tội cho anh em, hãy móc mắt mà quăng, thà có một mắt mà vào nước thiên đàng còn hơn đầy đủ hai mắt mà vào hỏa ngục…”
Đan cử vài câu chuyện có thật về hỏa ngục được kể bởi Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt như sau:
Thánh Francesco De Geronimo (1642-1716), hay cũng gọi là ''Di Girolamo'', một vị thánh nổi tiếng vào thế kỷ 18. Thánh Girolamo là một linh mục dòng Tên, sinh tại Taranto, nhưng hoạt động tông đồ và qua đời tại Napoli, miền Nam nước Ý. Mục vụ nổi bật nhất của ngài là giảng các tuần đại phúc. Vào thời kỳ ấy, các buổi giảng thuyết thường diễn ra nơi các đường phố, tại các công viên, giữa các quảng trường, hay trong các khu vực có những nhà điếm. Mục đích của thánh nhân là mời gọi mọi người hồi tâm thống hối, trở về cùng Thiên Chúa và sống ngay chính.
Một hôm, thánh Gêrônimô giảng trước đám đông, kéo đến nghe ngài nơi quảng trường thành phố Napoli. Gần đó, trong căn nhà có cửa sổ nhìn xuống quảng trường, có một phụ nữ trắc nết sinh sống. Với chủ đích quấy phá và lấn át tiếng nói của vị thánh, bà cất tiếng la hét ầm ĩ và múa máy lung tung. Mọi lời khuyến cáo bà im đi, đều vô hiệu. Thánh Geronimo đành bỏ dở buổi giảng thuyết hôm ấy.
Ngày hôm sau, thánh nhân trở lại chỗ cũ. Ngạc nhiên vì thấy cửa sổ phòng bà kia đóng kín mít, thánh nhân hỏi lý do tại sao. Người ta cho ngài biết, bà ta đã bất ngờ qua đời trong đêm. Thánh nhân liền nói: "Chúng ta hãy đi xem bà”. Một số đông đi theo ngài và trông thấy xác bà còn nằm sóng soài dưới đất .. Như được linh hứng, thánh nhân cất tiếng hỏi:
 "Hỡi Catarina, nhân danh Chúa, hãy nói cho mọi người đang có mặt đây biết, bà đang ở đâu”.
Tức khắc, đôi mắt người quá cố hé mở, đôi môi động đậy. Rồi bằng một giọng khàn khàn, khủng khiếp, bà trả lời: "Ở trong Hỏa Ngục .. Tôi bị trầm luân trong Hỏa Ngục đời đời kiếp kiếp!” Mọi người hiện diện toát mồ hôi lạnh, dựng tóc gáy!. Lúc xuống cầu thang, thánh Gêronimo lẩm nhẩm lập lại: "Trong Hỏa Ngục mãi mãi .. Ôi Thiên Chúa công minh, đáng sợ biết là chừng nào!”
Đa số những người chứng kiến cảnh tượng hãi hùng đó, không muốn trở về nhà, trước khi xét mình kỹ lưỡng, thành tâm thống hối và sốt sắng lãnh nhận bí tích Giải Tội.
Linh mục Francesco De Geronimo được Đức Giáo Hoàng Pio 7 (1800-1823) tôn phong chân phước ngày 2-5-1806 và được Đức Giáo Hoàng Gregorio 16 (1831-1846) nâng lên hàng hiển thánh ngày 26-5-1839. Trong hồ sơ xin phong thánh cho ngài, ghi lại chứng từ của một người như sau: "Con có mặt trong biến cố kinh hoàng ấy. Nhưng con không biết trình bày ra sao, diễn tả như thế nào cho đúng tâm tình của con cũng như của mấy người khác. Con chỉ biết nói rằng, cứ mỗi lần có dịp đi ngang quảng trường và trông thấy cánh cửa sổ ấy, con như còn nghe rõ ràng tiếng nói khàn khàn khủng khiếp: "Trong Hỏa Ngục .. Tôi bị trầm luân đời đời trong Hỏa Ngục!”.
Câu chuyện khác xảy ra tại Roma, mấy ngày trước lễ Truyền Tin vào năm 1873. Nơi căn nhà của các cô gái làng chơi, tức các cô gái hành nghề mại dâm, có một cô gái bị thương nơi tay. Vết thương ban đầu tưởng nhẹ, nhưng bỗng trở nặng cách bất ngờ. Cô gái được đưa vào nhà thương và qua đời ngay đêm hôm ấy. Trong cùng đêm đó, nơi căn nhà mại dâm, một cô gái khác, không hay biết gì về điều xảy đến cho bạn mình ở nhà thương. Nhưng cô cất tiếng hét ầm ĩ, gây xáo trộn trong nhà và làm náo động các căn nhà chung quanh. Không ai làm cho cô im được. Người ta phải gọi cảnh sát đến can thiệp. Sau cùng, cô kể cho mọi người nghe như sau. Người bạn gái qua đời ở nhà thương, hiện về với thân mình rực lửa và nói với cô rằng:
"Tôi bị trầm luân muôn kiếp trong Hỏa Ngục. Vậy nếu cô không muốn bị cùng số phận như tôi, hãy tức khắc rời bỏ cái chốn nhơ nhớp này và trở về cùng Thiên Chúa!”.
Kể xong, cô đứng ngồi không yên và mong cho trời mau sáng, để dọn đồ ra khỏi nhà. Mọi người ngỡ ngàng và càng kinh ngạc hơn nữa, khi sáng sớm hôm sau, nhận tin cô gái bị thương nơi tay, đã qua đời trong đêm ấy tại nhà thương.

Về phần bà chủ căn nhà mại dâm, bà kinh hoàng đến độ, lâm trọng bệnh. Nghĩ tới cuộc hiện về của cô gái khốn khổ bị rơi xuống Hỏa Ngục, bà liền hồi tâm và ăn năn thống hối. Bà xin rước linh mục đến để nhận lãnh các Bí Tích. Giáo quyền cử một linh mục thánh thiện. Đó là đức ông Sirolli, cha sở nhà thờ "San Salvatore in Laura”. Trước sự hiện diện của nhiều nhân chứng, đức ông Sirolli bắt buộc bệnh nhân phải công khai phản cung các lời bà đã xúc phạm chống lại Đức Giáo Hoàng. Bà cũng phải long trọng từ bỏ việc điều hành căn nhà mại dâm nhục nhã này. Bệnh nhân khiêm tốn thi hành mọi đòi buộc của vị linh mục. Bà sốt sắng nhận lãnh các Bí Tích sau cùng và trút hơi thở trong ơn nghĩa Chúa. Toàn thể dân thành Roma đều biết và kể cho nhau nghe biến cố có một không hai ấy.

Chúa dựng nên con người để cứu độ con người.
Chúa sinh xuống làm người để cứu độ con người.
Chúa lập Giáo Hội, ban các bí tích để mang ơn cứu độ cho con người. Tại sao còn có chuyện hỏa ngục để trừng phạt nhân loại hay cửa hẹp để hạn chế người được cứu độ?

Xin trích dẫn những nghiên cứu công phu dưới đây từ Catholic Digest để chúng ta có một hiểu biết chính xác về hỏa ngục: Hỏa ngục, một hiện thực trong các tôn giáo. Vào hỏa ngục hay bị phạt trong hỏa ngục là sự chọn lựa tự do của con người. Thiên Chúa là Thiên Chúa cứu độ, Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài không định cho ai xuống hỏa ngục cả.

Hỏa ngục được tìm thấy trong các tôn giáo lớn nhỏ khác nhau.
Theo Do thái giáo, ý niệm Hades là nơi dành cho các vong hồn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ. Nhưng kể từ thế kỷ thứ 19, khi ông Moses Mendelssohn, một triết gia người Ðức có ảnh hưởng lý luận rằng hình phạt đời đời là không hợp với lòng thương xót của Thượng Ðế, ý tưởng về hoả ngục theo nghĩa đen đã bị bác bỏ phần lớn. Ðồng thời một nhà thông thái vào thế kỷ thứ 12 tên là Moses Maimonides dạy rằng việc nhắc đến hoả ngục trong Kinh Thánh phải được hiểu một cách hình tượng. Ngoại trừ Do thái giáo thuộc ngành Chính thống, niềm tin vào sự sống đời sau hầu như biến mất khỏi đạo Do thái ngày nay.
Ðối với Hồi giáo, hoả ngục là một hố lửa dưới một cây cầu hẹp mà mọi linh hồn phải bước qua để vào thiên đàng. Những ai mà Allah (Thượng Ðế) xét rằng không xứng thì rơi xuống hố lửa và phải chịu hình phạt thể lý đời đời ở một trong 7 tầng hoả ngục. Kinh Koran sử dụng hình ảnh như Kinh Thánh để diễn tả về hoả ngục: "hồ lửa," "chiếc giường thiêu đốt khổ sở" nơi người độc ác và những kẻ vô đạo phải chịu đau khổ không dứt và chỉ được uống thứ "nước sôi hôi hám."
Theo Ấn Ðộ giáo, linh hồn trên đường đầu thai phải trải qua một trong 21 hoả ngục để đốt cháy nghiệp báo. Một khi được thanh luyện, linh hồn đó được luân hồi ở một trạng thái cao hơn ở cuộc sống kế tiếp. Những linh hồn nào mà nghiệp báo không quá xấu có thể đầu thai trở lại thành con vật. Chẳng hạn, một người ăn trộm thịt có thể đầu thai thành một con kên kên, một tên trộm ngũ cốc biến thành con chuột. Những linh hồn nào mà nghiệp báo quá xấu xa trở thành những loại đồ vật. Người độc ác nhất bị kết án ở hoả ngục thấp nhất nơi họ có thể bị nấu trong những vạc dầu sôi hay bị quạ xâu xé thịt.
Phật giáo, như Ấn Ðộ giáo, cũng nói về một số hoả ngục như những chặng dừng trong hành trình của một người tiến về niết bàn. Theo Phật giáo vì con người không có linh hồn, năng lực nghiệp quả người đó được luân hồi từ cõi sống này qua cõi sống khác. Theo Phật giáo truyền thống, có 7 loại hoả ngục nóng rực với những phòng hành hình, một hố lửa, và một bãi lầy chờ đợi những ai làm điều ác. Theo Phật giáo Tây Tạng, có 8 hoả ngục lạnh lẽo với những hoả ngục ngoài cùng dành cho những ai ít tội.
Theo Lão giáo, người chết được gửi về một trong những Phật cảnh, đến núi ở của các vị bất tử, hay đi đến một trong những hoả ngục.
Trong khi một số tôn giáo bộ lạc ở Á châu và Phi châu tin vào án phạt hoả ngục, đa số các tôn giáo của người dân bản xứ ở Bắc Mỹ không tin vào điều này. Mặc cho có những sự khác biệt, các tôn giáo cùng chia sẻ niềm tin chung ở chỗ một số tội ác quá nặng nề không thể trừng phạt thích đáng nơi cõi đời này và do đó phải có một hình phạt sau cái chết.
Hỏa ngục theo Công Giáo: Mùa hè năm 1999, tạp chí La Civilta Catolica của Dòng Tên ở Ý mà các bài đăng thường được xem là có sự chuẩn thuận của Toà Thánh đã có một bài bình luận về đề tài hoả ngục trong đó tác giả cho rằng hoả ngục không phải là một nơi chốn nhưng là tình trạng của một người chịu đau khổ vì không có Chúa. Vài ngày sau đó, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô trong một buổi triếu yết chung tại Vatican đã phát biểu rằng: "Thay vì là một nơi chốn, hoả ngục chỉ tình trạng những người tự tách rời mình vĩnh viễn ra khỏi Thiên Chúa trong sự tự do của họ." Ðể diễn tả tình trạng này, Ðức Thánh Cha nói rằng, Kinh Thánh "dùng ngôn ngữ biểu tượng" minh hoạ trong biển lửa những ai tự loại trừ chính mình ra khỏi sổ hằng sống và như thế gặp phải cái chết thứ hai."
Ðức Thánh Cha không có ý loại bỏ nọc độc của hoả ngục. Tuy vậy, ngày nay khi hình ảnh hoả ngục thường được gợi lên trong các trang tranh vẽ của trẻ em thay vì được rao trên bục giảng, nhận xét của Ðức Gioan Phaolô II về hoả ngục nhằm mục đích lấy lại và cập nhật hoá tín lý về hoả ngục mà đã bị lãng quên từ lâu để từ đó có thể giúp cho người tín hữu sống đạo đức hơn. Theo sử gia Martin Marty, giáo sư danh dự của Ðại học Thần học Chicago và là một chuyên viên về lịch sử Giáo hội: "Nếu Ðức Thánh Cha gợi lên hình ảnh hoả ngục với những ngọn lửa và một con quỷ màu đỏ với cái chĩa ba, người ta sẽ không lấy làm quan tâm lắm đâu vì giống như là tranh biếm hoạ."
Dù sao đi nữa, quan điểm về hình ảnh hoả ngục mang tính cách biểu tượng đi đôi với quan điểm của đa số dân chúng ngày nay. Một cuộc thăm dò dư luận gần đây của Tuần báo U.S. News & World Report cho thấy ngày nay có nhiều người Mỹ tin vào hoả ngục hơn là trong những năm 1950 hay ngay cả 10 năm về trước. Nhưng như Ðức Thánh Cha, đa số nghĩ hoả ngục là "tình trạng hiện hữu thống khổ"hơn là một nơi chốn thật sự.
Hoả ngục ăn sâu trong giáo huấn của Do thái giáo và Kitô giáo. Trong thời Kinh thánh sơ khởi, các quan niệm về hoả ngục không rõ ràng cho lắm. Chẳng hạn, bản văn Do thái của các sách Khởi nguyên, Các Vua quyển 1, Thánh vịnh, và Gióp, đề nghị là tất cả những ai qua đời, cả người công chính lẫn người độc ác, đều được gửi xuống một thế giới âm u gọi là Sheol một chỗ như Hades của huyền thoại cổ Hy lạp có nghĩa là "âm phủ," nơi không có vui cũng không có hình phạt. Ví dụ, trong sách Khởi nguyên, tổ phụ Giacóp tin rằng Giuse con mình đã chết nên than khóc: "Ta sẽ để tang con ta mà xuống âm phủ với nó" (St 37:35).
Vào thế kỷ thứ 2 trước khi Chúa Giêsu sinh ra, khi Kinh Thánh Do thái được dịch sang tiếng Hy lạp, từ Hades thay thế Sheol trong Kinh thánh Hy lạp, và trong sự suy nghĩ của dân chúng hai ý niệm này hòa lẫn với nhau. Sau này, khi một số thành phần trong đạo Do thái bắt đầu tin vào kết cuộc phục sinh của người chết, Hades không còn là nơi "trung lập" nhưng trở thành chốn tạm dung của những linh hồn người độc ác mà thôi (Kn 4:19) còn người công chính về thẳng thiên đàng chờ đợi thân xác phục sinh. Còn hình phạt của hoả ngục trong thời này được trình bày rất gợi hình qua ý niệmGehenna. Chữ Gehenna là tiếng Hy lạp lấy gốc từ tiếng Do thái Gehinnom để chỉ về Thung lũng hoang vắng Hinnom ở phía nam Giêrusalem, nơi có những cuộc sát tế con người cho các thần xứ Canaan (2 V 23:10) và sau này dùng để chỉ một nơi lửa không hề tắt và sâu bọ không hề chết đồng thời cũng là nơi các thây ma phản loạn với Thiên Chúa được những người hành hương lên Giêrusalem chứng kiến (Is 66:24).
Qua thời Tân Ước, các tác giả Sách Thánh vẫn sử dụng sự hiểu biết về hoả ngục theo truyền thống đạo Do thái. Từ Gehenna xuất hiện 11 lần trong Phúc Âm Nhất Lãm. Cách nói và hình ảnh truyền thống về hoả ngục như lửa, sự tăm tối, giòi bọ, tiếng rống, nghiến răng, v.v... (Mt 3:12; 5:22; 5:29ff; 10:28; 13:42, 50; 18:9; 23:15,33: Mk 9:43ff; Lc 13:28).
Riêng Phúc Âm theo Thánh Gioan mặc dầu không dùng từ Gehenna vẫn nói về hình phạt bằng sự phán xét và tối tăm. Nhưng trên hết, hình phạt là bị gạt ra ngoài sự sống viên mãn ban bởi Người Con (Ga 2:19; 8:24; 10:28).
Thánh Phaolô cũng diễn tả ý tưởng hình phạt đời đời nhưng không có hình ảnh cụ thể như trong các sách khác của Tân Ước. Thánh Phaolô nói về sự hủy diệt đời đời, bị xua đuổi khỏi mặt Thiên Chúa (2 Tx 1:9; Rm 9:22; Phi 3:19). Thư gửi giáo đoàn Rôma có nói đến "gian truân, quẫn bách trên mạng mọi người làm sự dữ" (Rm 2:9).
Trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan hình ảnh về hoả ngục mãnh liệt hơn. Những ai bị xét là không xứng đáng sẽ bị "quăng vào vũng lửa diêm sinh, đó là cái chết thứ hai" (Ga 21:8). Còn trong thư thứ hai của Thánh Phêrô, thế giới u ám tối tăm là phần dành riêng cho người ác độc (2 Pr 2:17). Thư của Thánh Giuđa sử dụng hình ảnh xiềng xích đời đời, nơi tối tăm, lửa thiêu đời đời (Gđ 6-7).
Nhiều vị Giáo Phụ tiên khởi trong đó có Thánh Giêrôm cho rằng hoả ngục là nơi người dữ sẽ chịu phạt hình cảm giác đau đớn. Dẫu vậy, linh mục Origen ở Alexandria (thế kỷ thứ 3) và Thánh Grêgôry Nyssa (thế kỷ thứ 4) cho rằng hoả ngục là nơi đau khổ về mặt thiêng liêng hơn là về mặt thể lý, tức là sự dày vò và xa cách Thiên Chúa. Vào thế kỷ thứ 5, Thánh Âugustinô đưa ra giải pháp trung dung bằng cách cho rằng đau khổ trong hoả ngục bao gồm cả phần thiêng liêng lẫn giác quan, một ý niệm vẫn còn phổ biến ngày nay.
Trong khi đa số các Giáo Phụ dạy rằng mục đích của hoả ngục là trừng phạt người tội lỗi không biết ăn năn hối cải, Origen chủ trương hoả ngục có tính cứu chữa nghĩa là trong hoả ngục người tội lỗi nhất còn có thể phục hồi và cuối cùng cũng được về cùng Chúa trên nước thiên đàng. Quan điểm này của Origen bị Giáo Hội bác bỏ ở Công đồng Constantinople năm 543. Và trong khi một ít thần học gia thời bấy giờ tin rằng người tội lỗi rồi cũng bị diệt vong, đa số cho là những hình phạt thống khổ trong hoả ngục không bao giờ dứt.
Vào đầu thế kỷ 14, hình ảnh về hoả ngục với những tầng khác nhau dưới mặt đất cùng với các cảnh tra tấn rùng rợn đã in sâu vào trí tưởng tượng của dân chúng qua tác phẩm Divine Comedy ("Tấn hài kịch thần thánh") của thi sĩ Dante người Ý. Hai trăm năm sau đó, giới lãnh đạo Cải Cách Tin Lành bác bỏ những lối diễn tả kinh khiếp về hoả ngục trong hội hoạ và văn chương. Trong khi Martin Luther và Gioan Calvin nhìn đến hoả ngục như là một nơi chốn thật sự, họ tin rằng những tra tấn khốc liệt chỉ mang tính tượng hình. Hai người cho rằng, nỗi đớn đau khốn cùng nhất người trong hoả ngục là sự kinh hoàng và hoàn toàn thất vọng vì phải đời đời xa cách Thiên Chúa.
Tuy nhiên, vào thế kỷ 17 và thế kỷ 18, quan niệm về hoả ngục như là một nơi mà người dữ phải chịu đau khổ về thể xác và thiêng liêng trở lại trong đầu óc quần chúng. Nhưng rồi đến thế kỷ 19 và thế kỷ 20, ý tưởng phạt đời đời trong chốn hoả ngục bị bác bỏ.
Có thể nói rằng thế kỷ 20 gần như sắp chứng kiến cái chết của hoả ngục khi vị có nhiệm vụ giảng dạy cả trong Công Giáo lẫn Tin Lành thích thú với những đề tài làm cho tinh thần con người phấn chấn hơn. Vào thập niên 1960, mối đe doạ hình phạt đời đời trong lửa hoả ngục đối với người không biết ăn năn sau khi qua đờihầu như không còn nữa. Việc giảng dạy về hoả ngục trong các trường thần học hầu như không có. Ðồng thời, trong khi đa số những cuộc thăm dò dư luận cho thấy đa số người Mỹ tin là có hoả ngục, hầu như không có ai nghĩ là mình sẽ đi đến đó. Một vài năm trước đây, nhà sử học Marty của Ðại học Chicago có nhận xét rằng "hoả ngục biến mất mà không có ai chú ý cả."
Khi trình bày quan điểm của mình về hoả ngục, Ðức Gioan Phaolô II làm rõ giáo huấn lâu đời của Hội thánh Công Giáo mặc dầu ít được nhấn mạnh trong thời đại ngày nay: Hình phạt chính của hoả ngục là vĩnh viễn xa rời Thiên Chúa, nơi Ðấng mà con người mới có thể tìm thấy sự sống và hạnh phúc (GLCG 1035). Giáo lý Công Giáo dạy rằng: "Chết trong tội trọng mà không sám hối và không đón nhận tình thương đầy từ bi của Thiên Chúa, có nghĩa là sẽ mãi mãi lìa xa Chúa do sự tự do lựa chọn của ta. Và từ ‘hoả ngục’ được dùng để chỉ tình trạng ly khai cách chung cuộc khỏi mối hiệp thông với Thiên Chúa và các thánh trên trời" (GLCG 1033). Và trong khi giáo lý ghi lại những đoạn Tân Ước đề cập đến hình phạt hoả ngục như "lửa đời đời" (GLCG 1034), Ðức Thánh Cha mô tả những đoạn này như là "hình ảnh" được sử dụng một cách tượng hình và do đó phải được giải thích một cách đúng đắn.
Hơn nữa, Ðức Gioan Phaolô II còn tuyên bố rằng hoả ngục "không phải là một hình phạt do Thiên Chúa áp đặt từ bên ngoài" nhưng là hậu quả đương nhiên do người tội lỗi không ăn năn sám hối chọn lựa sống xa Thiên Chúa. Chúng ta không nên xem Thiên Chúa như là một ông vua độc tài tàn bạo thích trả thù. Ngược lại, Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài muốn mọi người được cứu rỗi nhưng Ngài lại không cưỡng bức ý chí tự do của họ. Có người còn lập luận xa hơn nữa, cho rằng hoả ngục là hình phạt dành cho người từ chối ân sủng của Thiên Chúa đến giây phút cuối đời, do đó họ không thể nào có hạnh phúc nếu được cho lên thiên đàng đi nữa. Lý do, bởi vì chối bỏ và ghét Chúa nên thiên đàng đối với họ cũng chỉ là hoả ngục mà thôi. Như thế, chúng ta phải tự nhắc nhở rằng chính chúng ta nếu từ chối ân sủng Chúa, chúng ta sẽ tự ký bản án hoả ngục cho chính mình. Tuy vậy, theo lời Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chúng ta nên chú ý đến điều này, đó là: "Ý tưởng hoả ngục không được gây ra nỗi lo âu hay nản lòng" nhưng là "một sự nhắc nhở cần thiết và lành mạnh về giá trị tự do."
Trong các bài giảng thuyết ở trường và nhà thờ, Cha Steven Happel, Khoa trưởng Phân khoa Nghiên cứu Tôn giáo của Ðại học Công Giáo Hoa Kỳ tại thủ đô Washington D.C., cho hay ngài nói về hoả ngục "qua thực trạng tự cô lập chính mình và hoàn toàn hướng về bản thân mà không có quan hệ với ai cả. Ðối với tôi, đây là một ẩn dụ mạnh mẽ về sự tách rời với Thiên Chúa. Là một người rao giảng, tôi thấy điều này có hiệu quả hơn là nói về những ngọn lửa vật tính."
Cũng theo các học giả, đối với nhiều người Kitô hữu sống ở các thế kỷ đầu tiên, hình ảnh khủng khiếp về hoả ngục chắc hẳn đã có hiệu lực trong việc làm cho người ta nhận ra hậu quả kinh hồn do việc chối bỏ Thiên Chúa. Liệu mối răn đe về hoả ngục có thực sự làm người ta sống đạo đức hơn không? Cha Reese nhận xét rằng, ở một mức độ phát triển sơ khởi, với trẻ em chẳng hạn, việc thưởng phạt có thể giúp chúng chọn lựa cho đúng về mặt luân lý, nhưng với thiếu niên và người lớn thì ít có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, Cha Reese cũng nhìn nhận: "Có những lúc chúng ta trở lại hành vi sơ khởi khi chúng ta giận dữ muốn làm hại người nào đó. Nếu lúc đó ý niệm hoả ngục giữ ta khỏi làm điều ác này thì chúng ta thấy điều đó hẳn là có ích lắm chứ!"
Một điều cũng cần nên biết là mặc dầu Giáo Hội Công Giáo có tuyên phong các thánh, tin tưởng rằng những vị này đang vui hưởng hạnh phúc đời đời cùng với Thiên Chúa, Giáo Hội không hề tuyên bố chính thức danh tính một cá nhân nào đang sống trong cảnh hoả ngục hay không mặc dầu hành vi ác độc của người đó khiến cho cả thế giới phỉ nhổ. Cho dù đó là một nơi chốn hay là một tình trạng, hoả ngục để lại dấu ấn lâu dài trong đời sống tôn giáo. Và cho dù có người vẫn thích giữ hình ảnh lửa lưu huỳnh thiêu đốt dữ dội, hoặc đi tìm kiếm những cách giải thích mới, hoặc có những người muốn bác bỏ hoả ngục cho đó là sự tưởng tượng của người thuộc giới bình dân, thì chắc chắn những hình ảnh mạnh mẽ về hoả ngục vẫn tiếp tục đi suốt lịch sử loài người như là một nhắc nhở quyết liệt về thực tại tội ác và hậu quả ghê gớm của nó. Ðồng thời, từ đó, con người học biết sử dụng chính đáng sự tự do Thiên Chúa ban cho để đón nhận thay vì từ chối ân sủng của Ngài để rồi ra sức hoạt động vinh danh Ngài cũng như phục vụ không biết mệt mỏi cho tha nhân. (Theo Catholic Digest, Feb. 2001- Phán xét và hỏa ngục.)
Giải thích thêm: Ai lái xe cũng phải tuân theo luật đi đường: phải nịt người vào ghế, phải chạy theo tốc độ được qui định, không được uống rượu và lái xe, tuân hành tuyệt đối luật dừng hoàn toàn khi gặp bản dừng hay đèn đỏ…. Nhiều người bất tuân luật lệ và bị phạt vì không giữ luật lưu thông? Tại sao? Tại họ xui hay tại cảnh sát giao thông khó tính hay tại xã hội bày ra luật lệ lưu thông?
Không! Những người lỗi luật giao thông nầy đã chấp nhận lưu thông, nhưng không chấp nhận tuân hành luật giao thông nên hậu quả là bị phạt. Hình phạt nầy là do người lỗi luật chọn. Điều nầy cũng giống như hỏa ngục hay cửa hẹp trong bài Phúc Âm hôm nay. Cửa hẹp không có nghĩa là Chúa hẹp hòi muốn hạn chế số người vào nước thiên đàng, nhưng ‘cửa hẹp’ cho thấy là người ta không chịu khép mình vào những luật lệ Chúa đã ra, thí dụ: chớ giết người, chớ trộm cắp hay chớ làm chứng gian. “Chủ nhà đứng lên và khóa cửa” cũng chỉ là cách diễn tả về những giới hạn mà con người phải theo: Thời gian sống là để lập công đền tội… Nhưng có nhiều người đã phí phạm cả cuộc đời mình trong bê tha trụy lạc. Đến lúc cuối đời, họ không còn kịp để ăn năn sám hối. Họ đã từ chối nước thiên đàng.
Nên hỏa ngục là tình trạng tội, tình trạng chối bỏ ân sủng Chúa. Hỏa ngục là nơi hay tình trạng không có Chúa. Gia đình xào xáo, tranh chấp, giết hại nhau thì gọi là cảnh hỏa ngục. Không có Chúa, không có tình thương thì là hỏa ngục. Sống trong tình trạng mất ân thánh sủng, trình trạng có tội trọng là tình trạng xa Chúa và chọn ma quỉ, chọn hỏa ngục. Không cần phải chết rồi mới vào hỏa ngục. Phạm tội trọng là đã chọn hỏa ngục. Không tôn thờ Chúa là làm tôi mà quỉ. Nơi nào có ma quỉ, nơi đó là hỏa ngục.

III.      Thực hành P.Â.:
1)     Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào!”

Tôi hiểu cửa hẹp là những giới răn Chúa và những luật lệ Hội Thánh giúp chúng ta kiện toàn bản thân và đạt được tiêu chuẩn để nhận được ơn cứu độ là hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng mai sau. Chúng ta phải “chiến đấu” tức phải buộc mình tuân giữ những lề luật Chúa truyền để có thể dáp ứng tiêu chuẩn được cứu rỗi.

Đời sống luôn đi liền với cửa hẹp, với những qui luật cuộc sống. Người đàn ông có những qui luật sống của đàn ông. Người phụ nữ có những qui luật tâm sinh lý của phụ nữ. Người ta cố gắng sống bất cần qui luật. Người ta cố gắng dẹp những cửa hẹp mà họ cho là hà khắc và bất nhân. Nhưng không thể được! Muốn sống phải thở, phải hô hấp! Đó là qui luật.  Muốn vào nước trời phải phấn đấu, phải kính Chúa yêu người để lọt vào cửa hẹp.

2)     “Chủ nhà đứng lên và khóa cửa!”

Quan điểm thần học của Phúc Âm Thánh Luca hướng về cánh chung khi đề cập đến Cửa hẹp và cửa đã khóa. Quan điểm thực tế cuộc sống cũng có cửa hẹp, và những qui luật phải theo, cũng như thời gian để đào luyện bản thân. Quan điểm cánh chung về cửa hẹp hay cửa đã khóa để nói lên những qui luật để vào nước trời. Cửa hẹp và cửa đã khóa trong cuộc sống hàng ngày chính là những qui luật sống và làm việc mà tôi buộc phải tuân theo. Muốn vào nước trời phải qua cửa hẹp. Muốn thành công trong đời thường cũng phải có những qui luật khách quan và chủ quan mà ai cũng phải chiến đấu để vượt qua. Phúc âm thực tế biết bao!

Lm. Phêrô Trần thế Tuyên 

 
Cửa nào Chúa đã đi qua

Một buổi sáng náo nhiệt, người đàn bà sang trọng đi chiếc xe hơi bóng láng, lóng lánh như kim cương tới cửa thiên đàng. Nghe tiếng còi điện lừng vang, thánh Phêrô vội vã mở cửa dẫn vào. Khi vị thánh giữ cửa thiên đàng chỉ cho bác tài xế của bà một toà nhà đồ sộ, thì bà sung sướng nghĩ thầm: “Bác tài mà còn được ở một toà nhà nguy nga tốt đẹp như thế! Còn tôi chắc phải được một dinh thự sang trọng lộng lẫy đến chừng nào”. Và bà ta xoa tay vui sướng.
Ngờ đâu khi bác tài đi rồi, thánh Phêrô lại chỉ vào một túp lều lụp xụp ở góc vườn và nói:
- Đó là nhà của bà.
Người nhà giàu hoảng hốt, choáng váng đầu óc:
- Nhà của tôi đó thật sao? Không, tôi không thể nào sống trong một căn lều tồi tàn xấu xí như thế được!
Thánh Phêrô vân vê chòm râu bạc, trả lời giữa hai cái nháy mắt.
- Thưa bà, với vật liệu bà đã gởi lên cho tôi xưa nay, tôi chỉ làm được có ngần ấy thôi
“Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”(Lc 13,30). Đó là bất ngờ đau đớn cho “những kẻ đứng đầu”. Họ là những người được Chúa ban cho giàu có, nhưng lại sống trong ích kỷ, chỉ biết thu vén cho mình những của cải đời này, mà không biết chia sẻ trao ban như luật yêu thương Chúa dạy. Chính tài sản đã làm họ vướng víu nên không thể qua “cửa hẹp”mà vào được Nước Trời.
Những kẻ đứng đầu”có thể là những ai được Chúa ban cho địa vị, chức quyền, khôn ngoan, nhưng lại sống trong huênh hoang tự đắc. Thay vì dùng ơn lành Chúa ban để nâng đỡ anh em, phục vụ cộng đoàn, họ lại nuôi dưỡng tham vọng cá nhân. Chính cái tôi cồng kềnh đã làm họ vướng víu nên không thể qua “cửa hẹp”mà vào được Nước Trời.
Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24). Nếu Chúa đã bảo hãy “chiến đấu”tức là phải nỗ lực cố gắng thật nhiều, phải vất vả gian nan thật lâu, thì mới vượt qua được cửa “hẹp”. Nếu Chúa đã nhắc đến “cửa hẹp”thì phải hiểu là chỉ có những trẻ thơ mới được vào được dễ dàng. Chúa phán: “Ai không tiếp nhận Nước Trời như một trẻ nhỏ thì không được vào”(Lc 18,17).
Cửa hẹp dẫn đến sự sống”(Mt 7,14), “cửa hẹp”đưa vào bàn tiệc Nước Trời, nhưng không phải lúc nào cửa cũng mở. Sẽ đến giờ “chủ nhà đứng dậy và khóa cửa lại”(Lc 13,25) thì không cách gì, không lý lẽ chi để cửa mở ra lại. Đó chính là lúc vô cùng bất hạnh cho những kẻ đến trễ: những kẻ mải mê tìm của cải danh vọng, thú vui phù du mà quên đi hạnh phúc vĩnh hằng; những kẻ cậy dựa vào đạo giòng, vào các việc lành đã làm, vào tài đức đã đắc thủ mà quên đi Đấng mà họ phải kiếm tìm, để sống thân mật, để dâng hiến và để yêu mến Người với tất cả trái tim.
Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang; cửa tiền tài, sắc dục, hư danh; cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói: “Ta không biết các anh từ đâu đến”(Lc 13,27).
Lạy Chúa, cửa hẹp thường rất khó vào, nên chẳng mấy người muốn bước qua; nhưng cửa hẹp lại là cửa Chúa đã đi qua, và chỉ qua đó chúng con mới tìm được Chúa.
Xin cho chúng con biết luôn cố gắng, quyết tâm bước vào cửa hẹp, cho dù phải rướm máu hy sinh, cho dù phải bỏ lại những gì mình ưa thích, vì chỉ có Thiên Chúa mới là phần thưởng và là niềm hạnh phúc của chúng con. Amen.
Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Lectio: Chúa Nhật XXI Thường Niên (C)
Chúa Nhật, 25 Tháng 8, 2013
Cánh cửa hẹp và ơn gọi các dân ngoại  
Lc 13:22–30


1.  Bài Đọc

a)  Lời nguyện mở đầu

Lạy Cha, chúng con đến trước nhan thánh Người, bởi vì chúng con không biết làm thế nào để thưa chuyện cùng Cha, xin Cha hãy giúp chúng con dùng những lời mà Đức Giêsu, con Cha, đã công bố thay cho chúng con.  Xin Cha hãy giúp chúng con biết lắng nghe những lời nhắn gửi nghịch lý trong bài Tin Mừng này:  “Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được”.  Đây là lời mà Cha đã lập lại cho những ai lắng nghe Tin Mừng của con Cha.  Xin Cha hãy giúp chúng con hiểu thấu.  Để chúng con có thể đọc và suy gẫm những lời của Cha, để chúng con có thể cảm thấy như có ngọn lửa đốt cháy trong lòng chúng con.  Chúng con khẩn cầu Cha, xin hãy ban Thần Khí Cha cho chúng con.  Và lạy Đức Maria, Mẹ của chiêm niệm, xưa Mẹ đã giữ những Lời và các sự kiện của Chúa Giêsu trong trái tim Mẹ trong một thời gian dài, xin hãy ban cho chúng con biết suy gẫm Lời Chúa, biết lắng nghe và để các lời ấy thấm nhập vào trong lòng của chúng con.
b)  Phúc Âm:

22 Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem.  23 Có kẻ hỏi Người rằng:  “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?”  Nhưng Người phán cùng họ rằng:  24 “Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp; vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được.  25 Khi chủ nhà đã vào và đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng:  ‘Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi.’  Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng:  ‘Ta không biết các ngươi từ đâu tới.’ 26 Bấy giờ các ngươi mới nói rằng:  ‘Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường chúng tôi.’  27 Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng:  ‘Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới.  Hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta!’  28 Khi ấy các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng.  29 Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa.  30 Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên sau hết.”
                                                                                                                                                                                          
c)  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Để lắng nghe một cách nhiệt thành tiếng nói của Thiên Chúa, chúng ta cần sự thinh lặng và nội tâm an tĩnh.  Chúng ta cần tạo ra trong tim của chúng ta “một góc tâm yên tĩnh, nơi chúng ta có thể liên lạc được với Thiên Chúa” (thánh E. Stein) và có thể thiết lập được mối cảm thông sâu xa giữa chúng ta và Lời Chúa.  Nếu chúng ta không đứng trước mặt Thiên Chúa trong thinh lặng, trong thinh lặng và ngắm nhìn dung nhan Người, chúng ta sẽ nắn nót lên những ngôn từ nhưng chúng ta sẽ không nói được gì cả.

2.  Suy Gẫm

a)  Chìa khóa dẫn đến bài Tin Mừng:

Bài Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này được tìm thấy trong phần thứ hai của Phúc Âm theo thánh Luca nơi thành Giêrusalem, đối tượng của cuộc hành trình hiện hữu và thần học của Chúa Giêsu, được đề cập đến nhiều lần trong đó ba đoạn sau đây là một phần của chương trình phụng vụ sau lễ Phục Sinh:  Lc 9:51 (Chúa Nhật XIII Thường Niên, năm “C”), Lc 13:22-30 (Chúa Nhật XXI Thường Niên, năm “C”), và Lc 17:11 (Chúa Nhật XXVIII Thường Niên, năm “C”).  Việc công bố một cuộc hành trình, được đặt tại phần đầu của sách Phúc Âm, giúp người đọc ghi nhớ rằng họ cũng đang trên một cuộc hành trình hướng về Giêrusalem cùng với Chúa Giêsu.  Cuộc hành trình hướng về thành thánh là chủ đề chạy suốt toàn bộ phần thứ hai của sách Phúc Âm (Lc 9:51 – 19:46) và hầu hết những gì được nói đến được trình bày bằng các động từ của sự chuyển dịch giới thiệu với người đọc về Chúa Giêsu và các môn đệ Người như những người hành hương hay những người có cuộc sống rày đây mai đó.  Cuộc hành trình của Đức Giêsu hướng về thành thánh không chỉ nói theo nghĩa của một cuộc hành trình thuộc về địa dư, mà còn tương ứng với một cuộc hành trình thần học và tâm linh.  Cuộc hành trình loại này cũng liên quan đến các môn đệ và độc giả của Tin Mừng:  đi trên “cuộc hành trình” của Chúa Giêsu làm cho chúng ta giống như những người du mục có nhiệm vụ là đi rao giảng Tin Mừng.

Trên cuộc hành trình này, Đức Giêsu phải đối diện với các cuộc xung đột với thế giới người Do-Thái, và trong đoạn Phúc Âm Luca 13:10-30 bao gồm ba phân đoạn:  13:10-17 (việc chữa lành người phụ nữ tàn tật), 18-21 (dụ ngôn hạt cải và nắm men trong bột) và trong các câu 22-30 (bài giảng về cửa hẹp).  Đoạn cuối này là đoạn Tin Mừng phụng vụ Lời Chúa cho chúng ta trong Chúa Nhật này.  Nó bắt đầu với cuộc hành trình như là một bối cảnh cho Lời của Chúa Giêsu khi Người “đi rảo qua các đô thị và làng mạc … vừa giảng dạy” (câu 22).  Đó là đặc tính của thánh sử Luca khi viết về sứ vụ của Chúa Giêsu như là một cuộc hành trình.


Giờ đây, ở một giai đoạn trên cuộc hành trình hướng về Giêrusalem này, có người đã đặt một câu hỏi với Chúa Giêsu: bao nhiêu người sẽ được cứu rỗi?  Câu trả lời của Đức Giêsu không hề đề cập đến con số bao nhiêu người sẽ được cứu rỗi nhưng chứa đựng một sự thúc đẩy và một lời cảnh cáo, “cố gắng”, chỉ về một thái độ giả định:  “vào bằng cửa hẹp”.  Hình ảnh này nhắc nhớ lại trong tâm trí của các môn đệ và cộng đoàn của Luca về nhu cầu cần phải giải quyết mối bận tâm của họ với sự ràng buộc nặng nề mà cuộc hành trình đức tin đòi hỏi.  Ngay sau đó, Chúa Giêsu đưa ra lời giảng dạy đích thực và thích hợp với dụ ngôn liên đới tới hình ảnh cánh cửa hẹp, dụ ngôn về người chủ nhà khi đã vào nhà rồi đóng cửa lại, sẽ không cho phép bất cứ một ai bước vào (câu 25).  Chi tiết này gợi đến trong tâm trí về đoạn kết của dụ ngôn mười người trinh nữ trong Phúc Âm Mátthêu 25:10-12.  Những ví dụ này cho chúng ta biết rằng thì giờ sắp gần hết khi chúng ta phải dấn thân để nhận được ơn cứu rỗi trước khi cánh cửa đóng lại vĩnh viễn và không thay đổi.

Sự chia sẻ làm việc ngay cả trong thời gian mới bắt đầu hình thành đời sống cộng đoàn, giống như tại bữa tiệc ly của Chúa (“chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài”) và sự công bố Lời Chúa (“Ngài đã giảng dạy tại các quảng trường của chúng tôi”), nếu không được hỗ trợ bằng một sự cam kết suốt đời thì không sao tránh khỏi nguy cơ bị kết án chỉ trích.  Phúc Âm Luca muốn trình bày Chúa Giêsu như một người đang tham dự bàn tiệc với những người đã mời Người, nhưng không phải tất cả những ai ngồi cùng bàn với Chúa sẽ tự động có quyền được ơn cứu độ mà Người đã công bố qua hình ảnh của một bữa tiệc.  Cũng thế, nghe lời Người giảng dạy không có nghĩa là bảo đảm tự động sẽ được cứu rỗi. Thực ra, theo thánh Luca, lắng nghe Lời Chúa Giêsu là một điều kiện thiết yếu để trở nên môn đệ Người, nhưng đó không phải là điều kiện đủ.  Các môn đệ cần phải thực hiện việc cam kết đi theo Thầy, tuân giữ các lời giảng dạy của Người và mang lại hoa trái qua sự kiên trì (Lc 8:15).

Những ai không thể vào qua cửa hẹp trước khi nó được đóng lại được gọi là “những kẻ làm điều tội lỗi”:  họ là những người đã không tự quyết tâm thực thi kế hoạch của Thiên Chúa.  Tương lai của họ được trình bày một cách bóng bảy với sự miêu tả không được cứu rỗi của họ:  “Lúc ấy sẽ chỉ có khóc lóc và nghiến răng” (câu 28).

Một điều thú vị là việc ám chỉ các bậc tổ phụ trong kinh thánh (Abraham, Isaac, Giacóp) và tất cả các ngôn sứ: các vị này sẽ bước vào và sẽ là một phần của nước Thiên Chúa.  Nếu đối với các người cùng thời với Chúa Giêsu điều khẳng định này có thể xem như khẳng định rằng ơn cứu rỗi là đặc quyền của người Do-Thái; đối với cộng đoàn Kitô hữu của Luca, đó cũng là một lời cảnh báo không nên nghĩ rằng việc cứu rỗi là một chuyện đương nhiên.  Vương quốc mà Chúa Giêsu công bố trở thành nơi các môn đệ gặp gỡ và đến “từ đông chí tây, từ bắc chí nam” (câu 29).  Lời giảng dạy của Chúa Giêsu nói về một sự cứu rỗi năng động có liên quan đến toàn thể nhân loại và một cách đặc biệt về những người nghèo khó và bệnh tật (Lc 14:15-24).  Thánh sử Luca, hơn các thánh sử khác, nhạy cảm với việc công bố một ơn cứu độ cho toàn thế giới và nói về Chúa Giêsu như là một sự bày tỏ về lời giao ước ơn cứu độ không chỉ riêng cho dân Do-Thái, mà cho tất cả mọi người.  Lời khẳng định cuối cùng đến như là một dấu hiệu về điều kiện của ơn cứu độ đã thay đổi:  “có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên sau hết” (câu 30).  Lời khẳng định này cho thấy Thiên Chúa đã không hài lòng và làm xáo trộn các cơ chế của luận lý loài người: không có ai chắc mẩm về một vị thế đã đạt được, nhưng tất cả mọi người được mời gọi để lắng nghe liên tục vào làn sóng của Tin Mừng.

b)  Một vài câu hỏi gợi ý:

i)  Cánh cửa hẹp của ơn cứu rỗi nhắc nhớ chúng ta về sự cần thiết cho tất cả mọi người cam kết được nhận lãnh ân sủng này.  Hình ảnh không nói rằng Thiên Chúa muốn tạo khó khăn để có được ơn cứu rỗi, nhưng nó nhấn mạnh vào việc đồng trách nhiệm của mọi người, nam cũng như nữ, nỗ lực cụ thể tham gia vào cam kết này để có được ơn cứu rỗi.  Theo thánh Cyprianbước qua cửa hẹp có nghĩa là một sự biến đổi:  “Có ai lại không muốn được biến đổi trở nên giống hình ảnh Chúa Kitô càng sớm càng tốtkhông?”  Hình ảnh của cánh cửa hẹp là biểu tượng của việc biến đổi mà người tín hữu đã cam kết qua một tiến trình chậm và nỗ lực bản thân để tôi luyện chính mình và được hun đúc bởi Tin Mừng.  Nói đúng hơn, những ai không muốn cam kết chính mình cho bất cứ liên hệ đối ứng nào với Thiên Chúa, với tha nhân và với thế gian thì có nguy cơ bị diệt vong.  Thông thường, chúng ta có khuynh hướng đi qua cáccửa khác, trông dường như dễ dàng hơn và hữu dụng hơn, giống như những người ích kỷ, tránh né tình bạn với Thiên Chúa và liên hệ với tha nhân.  Bạn đã cam kết để xây dựng những mối liên hệ chưa hay bạn có ý định trở thành kẻ ích kỷ?  Bạn có tin rằng ơn cứu rỗi được ban cho bạn qua chiều kích quan hệ hiệp thông với Thiên Chúa và những người khác không?

ii)  Ơn cứu rỗi thì dành cho tất cả.  Mọi người đều có thể đạt được ơn ấy, nhưng đó là một món quà từ Chúa Giêsu đòi hỏi một câu trả lời xác thực và từ riêng mỗi cá nhân chúng ta.  Trong lời giảng dạy của Chúa Giêsu, chúng ta không thấy việc xử dụng bất kỳ một lời lẽ đe dọa nào để làm cho người ta nhận thức về ơn cứu rỗi, mà chỉ có một lời mời gọi để được nhận thức một cách đầy đủ về một cơ hội hạn hữu và không thể thay đổi của món quà của lòng thương xót và cuộc sống trước Thiên Chúa và được đối diện với Người.  Cuộc sống của bạn đang hướng tới điều gì và hướng tới ai?  Bạn sẽ xử dụng sự tự so của bạn như thế nào?  Bạn có sẽ tiếp nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để đồng chịu trách nhiệm cho sự cứu rỗi của bạn không, hay là bạn đã quy hàng để bị đào thải và diệt vong?

iii)  Nếu chúng ta xem xét câu hỏi của một người đã hỏi Chúa Giêsu:  “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?”  Không ai có thể nghĩ mình là người được đặc quyền.  Ơn cứu độ thuộc về tất cả và tất cả được mời gọi để nhận lãnh.  Cánh cửa của ơn cứu rỗi có thể sẽ bị đóng lại đối với những người mong đợi bước vào với hành ký cồng kềnh của những mâu thuẫn cá nhân.  Bạn có cảm thấy ước muốn bước vào và là một phần của “đám đông vô hạn từ đông chí tây sẽ ngồi tại bàn của nước Thiên Chúa” không?  Và nếu bạn cảm thấy mình là phần tử rốt hết (nhỏ bé, chất phác, tội lỗi, bị áp bức ….) nếu bạn sống với tình yêu và niềm hy vọng, hãy đừng tuyệt vọng.  Đức Giêsu nói rằng kẻ rốt hết sẽ trở nên trước hết.
                                             
3.  Cầu Nguyện

a)  Thánh Vịnh 117:1-2

Muôn nước hỡi, nào ca ngợi CHÚA!
Ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người!

Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt,
lòng thành tín của Người bền vững muôn đời.
Ngợi khen Chúa!

b)  Lời nguyện kết:

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con cảm nghiệm được cuộc sống của Lời Chúa mà chúng con đã nghe; đã vỡ; chúng con nài xin Chúa, những gút thắt của sự lưỡng lự của chúng con, những ngụy biện, những “nếu như” và “giá mà” của chúng con đã ngăn trở chúng con không nhập vào ơn cứu rỗi thông qua cánh cửa hẹp.  Giả dụ rằng chúng con có thể tiếp nhận mà không sợ hãi, không quá nhiều nghi ngờ, Lời Chúa mời gọi chúng con tự cam kết chính mình và làm việc sốt sắng với cuộc sống đức tin của chúng con.  Lạy Chúa, nguyện xin qua Lời Chúa chúng con đã nghe Chúa Nhật này, ngày của Chúa, nguyện xin chúng con không bị ràng buộc bởi sự bảo đảm sai lầm về ơn cứu rỗi của chúng con và nguyện xin Lời Chúa mang lại cho chúng con niềm vui, sức mạnh, thanh tẩy, và cứu rỗi chúng con.  Và lạy Đức Maria, gương mẫu cho những ai lắng nghe và gương mẫu của sự im lặng, xin Mẹ giúp chúng con được sinh động và chân thật, để hiểu rằng, theo như Lời Chúa, bất cứ điều gì khó khăn sẽ trở nên dễ dàng, bất cứ điều gì mờ mịt sẽ trở nên sáng sủa.  

4. Chiêm Niệm

Chiêm niệm là cao điểm của bài đọc Kinh Thánh sau khi đã suy gẫm và cầu nguyện.  Chiêm niệm để nhập vào, qua việc lắng nghe Lời Chúa, trong một mối quan hệ đức tin và tình yêu với Thiên Chúa, Đấng là sự sống và là sự thật và Người đã mặc khải cho chúng ta dung nhan Người qua Đức Kitô.  Lời Chúa lộ mở ra khuôn mặt ẩn náu trong mỗi trang của Kinh Thánh.  Nó đủ để nhìn trong sự ngưỡng mộ, được mở ra dưới ánh sáng, hãy để nó thấm nhập vào chúng ta.  Đó là kinh nghiệm xuất thần trước vẻ đẹp và sự tốt lành.  Hãy nối dài đời sống hằng ngày của bạn với môi trường này về kinh nghiệm thông tri với Thiên Chúa bằng việc lắng nghe Lời Người, và giữ gìn hương vị của vẻ đẹp trong cuộc đối thoại với những người khác trong bất cứ công việc nào bạn làm.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét