Thứ Tư Tuần XX Thường Niên
Tl 9,6 (Abimelech thảm sát các anh em của mình) |
BÀI ĐỌC I: Tl 9, 6-15
"Đang khi Chúa ngự
trị giữa chúng tôi, các ngươi đã nói:
'Xin cho một vua cai trị chúng tôi'".
Trích
sách Thủ Lãnh.
Khi ấy, mọi người Sikem và tất cả các gia tộc thành Mêllô tụ họp
lại, rồi kéo nhau đến gần cây sồi ở Sikem, và tôn Abimêlech lên làm vua.
Khi ông Giotham nghe tin ấy, liền đi lên đứng trên đỉnh núi
Garizim, lớn tiếng kêu lên rằng: "Hỡi người Sikem, hãy nghe ta, để Thiên
Chúa cũng nghe các ngươi. Các cây cối đều đến xức dầu phong một vị vua cai trị
chúng, và nói cùng cây ôliu rằng: 'Hãy đi cai trị chúng tôi'. Cây ôliu đáp lại
rằng: 'Chớ thì ta có thể bỏ việc sản xuất dầu mà các thần minh và loài người
quen dùng, để được lên chức cai trị cây cối sao?' Các cây cối nói cùng cây vả rằng:
'Hãy đến cầm quyền cai trị chúng tôi'. Cây vả trả lời rằng: 'Chớ thì ta có thể
bỏ sự ngọt ngào của ta, bỏ hoa trái ngon lành của ta, để được lên chức cai trị
các cây cối khác sao?' Các cây cối nói với cây nho rằng: 'Hãy đến cai trị chúng
tôi'. Cây nho đáp rằng: 'Chớ thì ta có thể bỏ việc cung cấp rượu, là thứ làm
cho Thiên Chúa và loài người được vui mừng, để được lên chức cai trị các cây cối
khác sao?' Tất cả những cây cối nói với bụi gai rằng: 'Hãy đến cai trị chúng
tôi'. Bụi gai trả lời rằng: 'Nếu các ngươi thật lòng đặt ta làm vua các ngươi,
thì các ngươi hãy đến nghỉ dưới bóng ta. Nhưng nếu các ngươi không muốn thì sẽ
có lửa từ bụi gai phát ra thiêu huỷ các cây hương nam núi Liban'". Đó là lời
Chúa.
ĐÁP CA: Tv 20, 2-3. 4-5. 6-7
Đáp: Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng (c. 2a).
1)
Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua xiết bao
hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin, Chúa
chẳng chối từ.- Đáp.
2)
Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng
trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người
vua, oai nghiêm với huy hoàng. - Đáp.
3)
Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn muôn
thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được
hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan. - Đáp.
ALLELUIA: Tv 118, 135
Alleluia,
alleluia! - Xin Chúa tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con
những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 20, 1-16a
"Hay mắt bạn ganh tị,
vì tôi nhân lành chăng".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng:
"Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình.
Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông
sai họ đến vườn của ông.
"Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng
không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: 'Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ
trả công cho các ngươi xứng đáng'. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín,
ông cũng trở ra và làm như vậy.
"Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ
đứng đó, thì bảo họ rằng: 'Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như
thế?' Họ thưa rằng: 'Vì không có ai thuê chúng tôi'. Ông bảo họ rằng: 'Các
ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta'.
"Đến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: 'Hãy gọi những
kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết'.
Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên
những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ
lãnh mỗi người một đồng. Đang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: 'Những
người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt
ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?' Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ
rằng: 'Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận
với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến
sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn
ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?'
"Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ
nên sau hết". Đó là lời Chúa
.
SUY NIỆM : Lòng Quảng Ðại Của
Thiên Chúa
Dụ
ngôn Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài cho dân chúng được các nhà
chú giải xếp thành hai loại: tỷ dụ và dụ ngôn. Loại tỷ dụ là thể văn mà toàn bộ
những chi tiết đều mang ý nghĩa nòng cốt, còn các chi tiết phụ chỉ làm cho câu
truyện thêm thú vị và khiến người đọc quan tâm chú ý đến ý chính mà thôi.
Câu
truyện về những người thợ vào làm vườn nho của chủ là một dụ ngôn. Chủ đề chính
của dụ ngôn là mối liên hệ của con người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng.
Trong
lúc các Rabbi Do thái thường tính toán phần thưởng Thiên Chúa ban cho mọi việc
lành, thì cách tính toán sòng phẳng theo công bình giao hoán này hoàn toàn bị dụ
ngôn làm đảo lộn, vì nếu chúng ta tính với Chúa, Ngài sẽ tính với chúng ta, và
chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc và chúng ta sẽ là kẻ thiệt
thòi.
Chúa
Giêsu đã dùng dụ ngôn để cảnh cáo người Do thái không nên so đo, phân bì với
người tội lỗi hay người ngoại giáo được ơn Chúa trở lại và thừa hưởng Nước Trời,
bởi vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không do lòng quảng đại của Chúa, chứ
không do lòng đạo đức hay công nghiệp của con người. Câu trả lời của Chúa Giêsu
cho những kẻ phàn nàn kêu trách nêu bật lòng quảng đại của Thiên Chúa:
"Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi
một quan sao; cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào
làm sau chót này cũng được bằng bạn, tôi không có quyền được tùy ý sử dụng của
cải tôi sao?". Thiên Chúa đối xử tốt với mọi người, Ngài ban ơn cho mọi
người chỉ vì lòng thương của Ngài mà thôi. Còn con người thì dễ bị cám dỗ, ghen
tỵ, hẹp hòi, muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Chúng
ta hãy xét xem mình đã có thái độ nào đối với người khác, nhất là khi thấy họ
được sự lành? Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tính ghen tỵ và cho chúng ta sống
quảng đại với mọi người.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 20 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Judg 9:6-15; Mt
20:1-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự khác biệt giữa Vua Trời
và vua chúa trần gian
Vua
chúa trần gian trước khi được lên ngôi hứa hẹn rất nhiều với dân chúng, nhưng một
khi đã lên ngôi rồi, họ quên hết những gì đã hứa với dân chúng, hay nếu có thi
hành, cũng chẳng được bao nhiêu. Trái lại, Thiên Chúa trung thành giữ tất cả những
gì Ngài hứa với con người, cho dẫu con người không trung thành với những gì họ
hứa. Hơn nữa, Ngài luôn tìm cách để giúp đỡ những người nghèo khó, tội lỗi, hay
yếu kém hơn.
Các
Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa Thiên Chúa và các nhà lãnh
đạo trần thế. Trong Bài Đọc I, Abimelech trở về quê hương để vận động những người
đồng hương tôn mình lên làm vua, vì ông biết họ có khuynh hướng chọn những người
đồng hương để có thể nhờ vả sau này. Một khi đã được làm vua, Abimelech quên hết
ân nghĩa và thẳng tay trừng trị những người đã tôn ông lên làm vua. Trong Phúc
Âm, Chúa Giêsu ví Nước Trời như một gia chủ mướn thợ vào làm vườn nho của mình.
Ông thỏa thuận với thợ lương công nhật là một đồng một ngày. Sau đó, ông trở ra
và kêu gọi nhiều thợ nữa vào làm vườn nho với những giờ khác nhau. Chiều đến,
khi trả công, các người làm việc sớm than trách vì ông trả những người đến làm
sau bằng họ. Gia chủ tuyên bố ông đã công bằng trả cho họ những gì ông và họ đã
thỏa thuận; họ không có quyền ngăn cản ông thương xót và rộng lượng cho những
người làm việc sau.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Hãy nghe tôi đây, thì Thiên Chúa cũng sẽ nghe các người.
1.1/
Lý do dân chúng Shechem tôn Abimelech lên làm vua: Abimelech là con của Thủ
Lãnh Gideon với một nàng hầu mà chúng ta đã đọc ngày hôm qua. Gideon có nhiều vợ
nên có rất nhiều con, tất cả hơn 70 người. Mẹ của Abimelech sinh ra ở Shechem.
Đó là lý do Abimelech trở về quê hương để thuyết phục những người đồng hương
tôn ông nên làm vua, với những lời lẽ như sau: "Xin bà con hỏi các thân
hào Shechem xem điều nào tốt cho các vị: để cho 70 người, tức là tất cả các con
ông Gideon (Jerubbaal) cai trị các vị; hay để một người cai trị các vị mà thôi?
Xin các vị nhớ cho tôi là anh em ruột thịt của quí vị."
Abimelech
rất khôn lanh vì biết dân chúng sẽ vì tình đồng hương mà tôn ông nên làm vua với
hy vọng sẽ được hưởng những lợi nhuận sau này. Bấy giờ tất cả thân hào Shechem
cùng toàn dân Bethmillo họp lại, kéo đến tôn Abimelech lên làm vua, bên cạnh
cây sồi trước bia đá ở Shechem. Abimelech dùng tiền thâu được của đồng hương
Shechem, thuê du đãng đi giết các anh em cùng cha của mình tại Ophrah, tất cả
là 70 người trên cùng một tảng đá; chỉ có Jotham là người con út của Gideon
thoát khỏi.
1.2/
Ông Jotham vạch trần nguy hiểm của việc tấn phong này: Khi người ta báo tin ấy
cho ông Jotham, ông liền lên đứng trên đỉnh núi Gerizim, cất tiếng gọi và nói với
những người kia rằng: "Hỡi các thân hào Shechem! Hãy nghe tôi đây, thì
Thiên Chúa cũng sẽ nghe các người." Sau đó, ông kể cho họ nghe một dụ ngôn
về các cây cối đã lên đường đi xức dầu phong một vua cai trị chúng. Dụ ngôn được
dùng để chỉ nói lên một điều quan trọng mà thôi. Trong dụ ngôn này, Jotham muốn
ám chỉ vị vua đó chính là Abimelech, và cây cối chính là dân chúng ở Shechem.
Abimelech được ví như một "bụi gai," có nghĩa là một người không xứng
đáng và không tài đức, chỉ được tôn làm vua sau khi cây cối đã bị tất cả các
cây khác từ chối lời mời làm vua. Jotham báo trước tai hại mà người Shechem sẽ
phải lãnh nhận từ Abimelech, khi bụi gai nói với các cây cối: "Nếu quả thật
các ngươi xức dầu phong ta làm vua cai trị các ngươi, thì hãy tới nương náu dưới
bóng ta; bằng không, lửa sẽ bốc ra từ bụi gai và sẽ thiêu rụi các cây bá hương
Lebanon!" Sau khi Abimelech lên làm vua, ông đã thẳng tay trừng trị dân
thành Shechem và họ cũng toa rập với nhau để chống lại ông.
2/
Phúc Âm: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn.
2.1/
Dụ ngôn các thợ làm vườn nho: Chúa Giêsu nói: "Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa
tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình."
(1)
Lương công nhật là một đồng: Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai
họ vào vườn nho làm việc.
(2)
Thợ vào làm những giờ khác nhau: Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở
không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào
vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng." Họ liền đi. Khoảng giờ
thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy.
(3)
Lý do tại sao vào làm trễ: Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác
đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?"
Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi." Ông bảo họ: "Cả các anh nữa,
hãy đi vào vườn nho!" Những người này chỉ làm có một tiếng đồng hồ mà
thôi.
2.2/
Cách trả lương của gia chủ: Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: "Anh gọi thợ
lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người
vào làm trước nhất." Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại,
và lãnh được mỗi người một quan tiền.
(1)
Phản ứng của các thợ làm trước nhất: Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh
nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa
cằn nhằn gia chủ: "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại
coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả
ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt."
(2)
Phản ứng của gia chủ: Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: "Này bạn, tôi
đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền
sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau
chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt
về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?"
(3)
Áp dụng của dụ ngôn: Nhiều nhà chú giải đã áp dụng dụ ngôn này cho:
+ Người Do-thái và Dân Ngoại:
Mặc dù người
Do-thái được Thiên Chúa chọn trước, nhưng ơn cứu độ được phân phối đồng đều cho
cả người Do-thái lẫn Dân Ngoại.
+ Người đạo gốc và tân tòng: Người đạo gốc, cho dù
đã theo Chúa lâu năm, cũng được Chúa thưởng đồng đều như người tân tòng mới trở
lại đạo, dù chỉ một ngày.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thiên Chúa luôn trung thành với những gì Ngài hứa. Chúng ta hãy đặt trọn vẹn niềm
tin tưởng nơi Ngài. Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế chẳng cứu nổi ai như
Abimelech.
-
Chúng ta đừng áp dụng tiêu chuẩn trần gian cho Chúa. Hãy để Chúa là Thiên Chúa
khi Ngài rộng lượng thi ân cho tất cả mọi người.
-
Thiên Chúa luôn công bằng, nhưng cũng rất nhân từ và khoan dung. Chúng ta trông
cậy vào lòng nhân từ của Thiên Chúa hơn là đòi hỏi Ngài phải công bằng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 20 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 20,1-16a
A. Hạt giống...
Dụ ngôn những thợ làm vườn nho. Điểm nhấn mạnh
của dụ ngôn này là 2 lối suy nghĩ khác nhau về cách trả lương của ông chủ :
- Lối suy nghĩ của một số thợ làm nhiều giờ : làm
nhiều thì phải được trả công nhiều.
- Lối suy nghĩ của ông chủ : ông trả công vì
thương (nhưng không hại đức công bình), cho nên kẻ làm ít giờ cũng được trả
nhiều bằng kẻ làm suốt ngày.
Hai cách suy nghĩ trên phản ánh hai quan niệm
khác nhau của người do thái và của Chúa Giêsu :
- Người do thái làm việc đạo đức đề tính công với
Chúa. Họ nghĩ họ làm càng nhiều thì Chúa phải ban ơn cho họ càng nhiều.
- Đối với Chúa Giêsu : Thiên Chúa ban ơn cho ta
không phải vì công lao của ta mà vì tình thương của Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Lý lẽ của tình thương nhiều khi không song
hành với lý lẽ của công bằng. Trong gia đình, cha mẹ lo cho con cái không phải
theo lý lẽ công bằng, theo đúng công lao của chúng, nhưng theo lý lẽ tình
thương. Có thể một đứa con bệnh tật yếu đuối chẳng làm gì được cho gia đình
nhưng lại được chăm sóc nhiều hơn. Nếu cha mẹ trong gia đình mà cư xử với con
cái theo lý lẽ của công bình thì không biết con cái sẽ ra sao ?
Chúa cũng cư xử với chúng ta như thế. Nếu Chúa xử
theo công bình thì không biết chúng ta sẽ ra sao ?
2. Nếu tôi là người thợ làm từ giờ thứ nhất, tôi
không nên ganh tị với những người làm từ giờ thứ 11 (những người lương trở lại
sau, những người hấp hối mới ăn năn tội). Trái lại tôi phải nghĩ rằng mình hạnh
phúc hơn họ vì đã được biết Chúa, ở với Chúa và làm việc cho Chúa lâu hơn họ.
3. Mỗi khi tôi bị cám dỗ viện lẽ công bình để
ganh tị với người khác, tôi hãy nghĩ đến câu Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì
ai nào đứng vũng được !”. Nhờ Chúa cư xử bằng tình thương chứ không cư xử theo
công bình mà tôi mới có thể đứng vững. Tôi phải xin Chúa giúp tôi cư xử với mọi
người hơn lẽ công bình, vươn tới tình thương.
4. Một người do thái nọ qua đời. Sau khi khám
nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng nghĩa y học, và
đã cấp giấy chứng thực để chôn cất. Giữa lúc chuẩn bị hạ huyệt, người ta bỗng
nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, người ta rất đỗi ngạc
nhiên khi thấy kẻ chết sống lại. Thế nhưng vị chủ trì nói với kẻ chết sống lại
như sau : “Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo
giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực là người chết. Vậy chúng tôi cứ
thi hành theo đúng nhận định của bác sĩ.” Nói xong ông truyền đóng nắp quan tài
lại và tiếp tục chôn.
Câu chuyện trên đây có lẽ muốn chế diễu tính máy
móc, cứng nhắc của nhiều người khi tuân giữ các lể luật tôn giáo cũng như khi
cư xử với nhau. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Mấy người sau chót làm có một giờ, thế mà ông
lại coi họ ngang hàng với chúng tôi, là những người đã làm việc nặng nhọc cả
ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,12)
Trời quá oi bức, cái quạt bàn trong nhà thờ hôm
nay lại trục trặc rồi. Nó vẫn quạt mát nhưng lại đứng lì một chỗ mà không quay
xung quanh được.
Một người lên xoay nó về phía mình. Chưa đầy hai
phút một người khác chạy lên, và tiếp tục xoay nó. Thế rồi một lúc sau một
người khác nữa lại chạy lên. Bây giờ tiếng xầm xì nổi lên và người ta bắt đầu
tranh chấp. Bỗng từ phía dưới một người lên tiếng : “Tốt hơn, hãy tắt cái quạt
máy đi !” Và họ chỉ yên lặng sau khi quạt máy đã tắt hẳn.
Tôi suy nghĩ và tự hỏi : Tại sao đến với Chúa mà
người ta vẫn còn tranh chấp, ganh tị ? Nhưng dường như cuộc sống con người
thường như vậy. Khi tính ích kỷ đã lấn át, cái tôi ngự trị, người ta chỉ còn
nghĩ đến mình, thu vén mọi lợi ích cho mình mà quên đi nhu cầu của tha nhân.
Lạy Chúa, Tình yêu Chúa vượt qua mọi tính toán,
xin cho con có một tình yêu như Ngài, để con không dừng lại ở quyền lợi, nhưng
dừng ở chính những con người để biết yêu thương. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI –
Gp.Cần Thơ
21/08/13 THỨ TƯ TUẦN 20 TN
Th. Piô X, giáo hoàng
Mt 20,1-16a
Th. Piô X, giáo hoàng
Mt 20,1-16a
CÔNG BẰNG VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT
“Phải chăng vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?” (Mt 20,15)
Suy niệm: Những người thợ làm vườn nho được ông chủ trả
tiền công theo giá đã thỏa thuận từ trước. Ông chủ không làm gì bóc lột hay lỗi
đức công bằng với họ cả. Thế nhưng họ lại ghen tức trước việc ông đối xử tốt
bụng với người đến làm giờ sau cùng. Đúng lý ra lòng thương xót giúp duy trì sự
công bình, và sự công bình là bước đầu để chứng tỏ lòng thương xót. Nhưng trong
dụ ngôn này lại xảy ra việc xung đột về quyền lợi, sự cố đáng tiếc ấy do lòng
ghen tị của những người thợ đến trước, không muốn thấy ai hơn mình. Đó cũng là
thói xấu cố hữu của chúng ta: quyền lợi thì tranh đấu cho bằng được, còn bổn
phận thì thoái thác.
Mời Bạn: Chúng
ta thường đòi hỏi công bằng, nhưng xử sự công bằng quá mức “một một, hai hai”
có thể dẫn đến thái độ lỗi đức bác ái. Vì bác ái, lắm khi ta phải “chín bỏ làm
mười.” Nếu ông chủ chia tỷ lệ tiền theo số giờ mà người đến sau phải nhận thì
anh ta có gì mang nuôi gia đình ngày hôm ấy, buộc lòng ông chủ phải đối xử với
anh bằng lòng thương xót. Ông đâu có gì sai trái ở điểm này.
Chia sẻ: Không
phải chúng ta thường xin lòng thương xót của Thiên Chúa nhiều hơn là xin Ngài
xử sự công bình với ta đó sao?
Sống Lời Chúa: Tôi
ngắm nhìn tấm lòng thương xót của Thiên Chúa và tập vui với người vui, chứ
không ganh tị, ghen ghét với người hơn mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con là những kẻ tội lỗi, vì
nếu Chúa cứ xử sự công bình với chúng con thì nào ai đứng vững trước tôn nhan
Ngài! Amen.
Vì tôi tốt bụng
Thiên Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc
trong vườn nho. Người còn thấy cả thời gian chờ. Nhiều khi chờ còn mệt hơn làm
việc.
Suy
niệm:
Sau
khi anh thanh niên giàu có từ chối lời mời của Đức Giêsu
ông
Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:
“Chúng
con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?”
Thầy
Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả lời khá dài.
Họ
sẽ được xét xử các chi tộc Ítraen, được gấp trăm về mọi sự,
và
nhất là được hưởng sự sống đời đời (Mt 19, 27-30).
Như
thế ở đây Nước Trời được coi như một phần thưởng,
một
sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh.
Các
môn đệ cho đi, và rồi họ sẽ được lại.
Bài
Tin Mừng hôm nay nằm ngay sau câu chuyện trên.
Dưới
một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau,
nhưng
bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa.
Thiên
Chúa không phải chỉ là Đấng công bằng,
thưởng
công cho những gì chúng ta đã vất vả cố gắng.
Người
còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương.
Dụ
ngôn về “người thợ giờ thứ mười một” cho thấy điều đó.
Thật
ra phải gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ông chủ độ lượng”.
Trong
thế giới thời Đức Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng
và
trả công cho thợ buổi chiều theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).
Lương
công nhật là một quan tiền (denarius),
tiền
này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản.
Dụ
ngôn hôm nay có nhiều nét khác thường mà không có lời giải thích.
Ông
chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn người, thay vì viên quản lý.
Những
người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6)
lại
không được ông chủ thấy và mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều lần.
Chỉ
nhóm thợ đầu tiên mới được thuê với tiền công rõ ràng,
còn
ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ công bằng” (c.4).
Cuối
cùng ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm đầu và cuối.
Dụ
ngôn này trở nên hết sức khác thường
với
việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước.
Những
người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều)
cả
ngày làm có một tiếng, được trả một quan tiền.
Điều
này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm,
“đã
làm việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).
Nhưng
rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền.
Chúng
ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ
để
xem họ sẽ sửng sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.
Có
lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy.
Phản
ứng này cũng là phản ứng giận dữ của người anh cả
khi
biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.
Đối
với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công.
Bất
công nằm ở chỗ làm nhiều, làm ít, nhận lương như nhau.
Nhưng
ông chủ không cho đây là một sự bất công,
vì
ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những
câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất,
những
câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa.
“Tôi
muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14).
Tôi
muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh:
đó
là ước muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa.
Tình
thương của Người phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối,
người
làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít.
“Chẳng
lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn
với
tài sản của tôi sao?” (c. 15).
Thiên
Chúa giàu sang nên có quyền rộng rãi thi ân cho kẻ Người muốn.
Chẳng
ai có thể bắt Người phải đối xử công bình theo kiểu con người.
Chẳng
ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng (c.12).
“Hay
mắt của anh xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15).
Con
mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù không đáng,
ghen
tỵ với may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người khác.
Đức
Giêsu khẳng định mình là người tốt lành,
đặc
biệt trong cách cư xử của Người đối với những tội nhân.
Anh
trộm lành trên thập giá cũng là người thợ giờ thứ mười một.
Anh
được hưởng những gì mà người khác phải nỗ lực cả đời.
Nói
cho cùng, vấn đề không phải là đáng hay không đáng.
Chẳng
ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh.
Hạnh
phúc Nước Trời là một ơn ban
hơn
là một sự trả công hay phần thưởng.
Thiên
Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng có tính mua bán của con người.
Người không
phải là nhà buôn, nhưng là người cha tốt lành.
Cha
thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời.
Thậm
chí đứa hư hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn.
Ông
chủ vườn nho thương cả những người
đứng
ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn.
Có
thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?
Người
thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn nho của ông chủ?
Chắc
chẳng được bao nhiêu.
Nhưng
anh ấy đã đứng chờ suốt ngày.
Thế
giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một,
“những
người không được ai mướn” (c.7),
những
người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt ngày, suốt đời,
những
người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được trả lương ra
sao.
chỉ
biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Những
người này khác với những người làm từ sáng,
biết
chắc mình sẽ được trả công một quan tiền.
Dụ
ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hĩ.
Nhưng
chắc là đã có những tiếng reo.
Thiên
đàng đầy ắp những tiếng reo như thế,
kinh
ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân…
Chẳng
có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên
vì
thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ,
quá
nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng.
Người
ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người
mà
ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được.
Thiên
Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho.
Người
còn thấy cả thời gian chờ.
Nhiều
khi chờ còn mệt hơn làm việc.
Đừng
cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên Chúa,
Đấng
hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ,
vì
lòng tốt của Ngài không sao hiểu được.
Hãy
vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ.
Chúng
ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha đang vui.
Hãy
đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa.
Như
thế chúng ta cũng sẽ thay đổi cách cư xử với anh em.
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin
cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ
đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ
thấy Chúa hiện diện
và
hoạt động trong đời con.
Sống
giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin
cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép
kín và nghi ngờ.
Xin
dạy con sự hiền hậu
để
con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin
dạy con sự khiêm nhu
để
con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối
cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui
tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh
phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Giá
Trị Và Nhân Phẩm Con Người (Mt
20,1-16a)
Qua câu chuyện ngụ ngôn về người chủ vườn và các công nhân
làm vườn nho, Chúa Giêsu đã diễn tả lòng quảng đại và lòng bác ái vô biên của
Thiên Chúa đối với nhân loại. Ngài đã dùng một thực tại rất gần gũi với đời
sống xã hội của người Do Thái đương thời là vào thời ấy các công nhân thường
hay đứng đợi ở những nơi công cộng như chợ búa chẳng hạn, để chờ các chủ nhân
đến mướn làm việc. Thường là những công việc làm ngắn hạn, có khi chỉ là một
ngày công mà thôi cho nên nếu ngày nào mà có những công nhân đó không có việc
làm có nghĩa là ngày ấy thiếu những bát cơm nóng trên bàn ăn của gia đình.
Trong chuyện ngụ ngôn hôm nay, người chủ nhân đã gọi các công
nhân làm việc vào giờ cuối cùng nhưng đã rộng lượng trả tiền thù lao cho họ
ngang bằng với tiền trả cho những người làm việc cả ngày. Qua lối nói ẩn dụ này
Chúa Giêsu cho thấy lòng nhân ái của Chúa Cha đối với nhân loại, nhất là đối
với những kẻ tội lỗi, những người bị áp bức và bị đẩy ra bên lề của xã hội
phong kiến thời ấy. Có những người thất nghiệp không phải vì họ lười biếng
không chịu làm việc mà vì hệ thống kinh tế thời đó không tạo ra công ăn việc
làm cho người dân. Người chủ nhân mướn và trả công thật hậu cho những người làm
việc vào giờ chót, cho thấy tấm lòng quảng đại bao la của ông, vì nếu ông chỉ
trả lương đúng theo số giờ họ đã làm việc thì chắc chắn là gia đình của những
người này sẽ thiếu ăn trong ngày hôm đó.
Thiên Chúa chính là vị chủ nhân tốt lành và quảng đại với tất
cả tạo vật của Ngài. Ngài luôn quan tâm và thương xót nhân loại, nhất là đối
với những người đau khổ về mặt vật chất lẫn tinh thần như lời Ngài nói:
"Tất cả những ai mang gánh nặng nề hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi
bồi dưỡng". Như thế, người chủ nhân đã rộng lòng trả tiền lương cho tất cả
các công nhân ngang bằng nhau, không kể họ làm việc vào giờ nào, điều đó không
phải là sự bất công. Người chủ vườn là Thiên Chúa luôn công bằng với các tạo
vật của Ngài, ai làm việc nhiều giờ hay ít giờ đối với Ngài không là việc thiết
yếu; điều quan trọng là ý định và thái độ làm việc của các công nhân.
Thiên Chúa yêu mến những ai phục vụ Ngài bằng với tinh thần
yêu thương và hân hoan chứ không làm việc vì muốn được hưởng công hậu hay vì
mục đích tham vọng cá nhân. Sự làm việc có một giá trị thiêng liêng đối với con
người vì qua sự làm việc, con người làm vinh danh Thiên Chúa và cộng tác vào
công trình sáng tạo và cứu độ của Ngài. Qua công việc làm, con người trở nên
hữu ích và góp phần vào công việc xây dựng và làm thăng tiến xã hội, và cũng
qua đó tìm thấy giá trị và nhân phẩm của mình.
Qua chuyện ngụ ngôn hôm nay những công nhân được mướn làm giờ
đầu tiên ám chỉ đến dân tộc Israel, là dân tộc đã được Thiên Chúa chọn làm dân
riêng và được Ngài mạc khải chương trình cứu độ, nhưng dân Do Thái đã từ khước
Thiên Chúa lại còn giết hại Con Một do Ngài sai tới để cứu chuộc thế gian.
Nhưng tình yêu thương được thể hiện qua công trình cứu độ của Thiên Chúa không
giới hạn trong quốc gia Do Thái mà còn mở rộng đến mọi dân tộc trên thế gian.
Các công nhân được gọi làm việc trong vườn nho vào giờ cuối
cùng là hình ảnh tiêu biểu cho tất cả các dân ngoại đã từng hưởng ơn cứu độ của
Thiên Chúa như Ngài đã ban ơn cho dân Do Thái.
Lạy Chúa,
Xin dạy cho chúng con biết phục vụ Chúa và những anh chị em
khác với lòng quảng đại và niềm hân hoan. Xin cho chúng con biết dâng hiến
nhiều hơn là cầu xin cho sự ích lợi của riêng mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Tám
21 THÁNG TÁM
Chuẩn Mực Của Hoạt Động
Con Người
Chúng ta đọc
thấy trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công Đồng Vatican II: “Hoạt động của
con người phát xuất từ con người nên qui hướng về con người… Nếu được hiểu cho
đúng, thì sự phát triển đáng giá hơn mọi của cải có thể thu tích được. Giá trị
con người hệ tại ở “cái mình là” hơn hệ tại ở “cái mình có”. Cũng vậy, tất cả
cái gì con người làm để đạt tới một mức độ công bình cao hơn, một tình huynh đệ
rộng lớn hơn và một trật tự nhân đạo hơn trong các tương quan xã hội, đều quí
trọng hơn các tiến bộ kỹ thuật, bởi vì, các tiến bộ ấy tuy có thể cung cấp chất
liệu cho sự thăng tiến con người, nhưng tự chúng mà thôi không thể thực hiện được
công cuộc thăng tiến ấy…
“Đây là tiêu
chuẩn của hoạt động con người: mọi hoạt động con người phải phù hợp với lợi ích
đích thực của nhân loại theo như ý định và ý muốn của Thiên Chúa, lại phải giúp
con người, cá nhân cũng tập thể, trau dồi và thực hiện ơn gọi phổ quát của
mình” (MV 35; 59).
Cũng chính Hiến
Chế trên tuyên bố: “Trật tự xã hội và tiến bộ của nó phải luôn luôn nhằm ích lợi
của các nhân vị, bởi vì trật tự của muôn vật phải lệ thuộc vào trật tự của các
nhân vị chứ không ngược lại. Trật tự xã hội phải phát triển mỗi ngày một hơn,
phải đặt nền tảng trên chân lý, xây dựng trong công bình, nuôi sống nhờ tình
yêu. Thánh Thần Chúa, Đấng điều khiển những biến chuyển thời gian và canh tân bộ
mặt trái đất với sự quan phòng kỳ diệu, đang hiện diện trong cuộc tiến hóa này”
(MV 26).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô
II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
21/8: Thánh Piô X, Giáo hoàng
Tl
9, 6-15; Mt 20, 1-16a
LỜI SUY NIỆM: Trong dụ ngôn
thợ làm vườn nho. Chúa Giêsu cho chúng ta biết lòng thương xót của Thiên Chúa.
Ngài luôn luôn săn đón những kẻ bơ vơ, đang tìm kiếm chân thiện mỹ. Ngài đều mời
gọi họ vào trong Nước của Ngài. Bất cứ ai chu toàn bổn phận Ngài giao thì đều
được phần thưởng. Phần thưởng là ân huệ của Ngài, Ngài muốn trao tặng cho ai là
hoàn toàn thuộc toàn quyền của Ngài ban phát. Điều này giúp cho chúng ta biết
phải sống thế nào để được Ngài ân thưởng, và cùng nhau tạ ơn Ngài đã cho được sống
và làm việc chung trong vườn nho của Ngài.
Mạnh Phương
Gương Thánh nhân
Ngày
21/8: Thánh PIÔ X
GIÁO
HOÀNG (1835 - 1914)
Thánh
Piô X giáo hoàng tên thật là Giuseppe Melchierre Sartô, sinh tại làng Riese miền
Venetia, ngày 02 tháng 6 năm 1835. Cha Ngài ông Giovanni Battista Sartô thành
hôn với mẹ Ngài là bà Margherita Samon, nhỏ hơn ông tới một nửa số tuổi. Vì vậy
lên 17 tuổi, Ngài đã mồ côi cha. Làm nghề chạy giấy của xã, ông Giovanni
Battista làm cha một gia đình nghèo túng. Chết đi ông cũng lại một gia đình
càng túng quẫn hơn nữa. Tuy nhiên nhờ lòng đạo đức của cả hai ông bà mà gia
đình này đã góp phần đào tạo nên một vị thánh lớn cho Giáo hội.
Ngay
từ nhỏ, học tại trường làng, Giuseppe đã tỏ ra có nhiều triển vọng, Ngài luôn
là một học sinh giỏi đứng đầu lớp học. Theo phong tục thời đó, dù đã vào ban
giúp lễ từ hồi 7 tuổi, mãi tới năm 11 tuổi, Giuseppe mới được rước lễ lần đầu.
Những ngày tháng mong đợi có lẽ đã khiến Ngài khi lên giáo hoàng sau này, đã
cho phép trẻ em được rước lễ vỡ lòng khi vừa tới tuổi khôn và nhiệt tình cổ võ
lòng tôn sùng bí tích Thánh Thể. Trước bàn thờ Đức Mẹ, dịp rước lễ lần đầu,
Giuseppe đã khấn dâng mình cho Chúa.
Từ
lâu rồi Ngài đã nuôi ý định này nhưng không dám tỏ bày với cha mẹ. Nhưng khi biết
được ý định của con, mẹ Ngài đã hết sức tán thành, cha Ngài ngập ngừng vì thấy
gia đình nghèo túng, nhưng rồi cũng quảng đại vâng theo ý Chúa. Mọi người đều
vui mừng vì quyết định của Giuseppe, nhất là cha sở Riese. Cha phó dạy tiếng
Latinh cho Ngài. Khi đã đủ lực theo bậc trung học ở Castelfrancô cách Riese 7
cây số ngàn. Suốt 4 năm trời Ngài thường vác giầy trên vai, để tiết kiệm, và đi
bộ tới trường rồi lại đi bộ về nhà. Chính lý tưởng làm linh mục là sức mạnh
giúp Ngài kiên trì như vậy.
Hết
4 năm tại Castelfrancô, năm 1850, Giuseppe lên đại chủng viện Padua. Gia đình
Giuseppe nghèo, cha sở xin được cho Ngài một học bổng, giáo dân trong họ hằng
năm quyên tiền giúp đỡ Ngài. Thật là những nghĩa cử cao đẹp đối với một ơn gọi.
Năm 17 tuổi, ông thân sinh qua đời, Giuseppe muốn bỏ về giúp mẹ và săn sóc cho
7 đứa em. Lại một nghĩa cử cao đẹp khác vun trồng cho ơn gọi Giuseppe chín mùi:
mẹ Ngài không chấp nhận ý kiến, mà quyết tâm dâng con cho Chúa. Trong nếp sống
nghèo khó nhưng lại giàu lòng quảng đại ấy, Giuseppe đã tiến tới chức linh mục
ngày 28 tháng 9 năm1858, lúc 23 tuổi.
Sau
ngày mở tay tại quên nhà, cha Giuseppe đi nhận phó xứ Tombolo, chín năm sau
Ngài được bổ nhiệm làm chính xứ Salzano. 17 năm làm phó xứ rồi chính xứ, cha
Giuseppe sống đời hy sinh tận tụy với giáo dân, nhất là với những người nghèo
khó. Không hề ao ước danh vọng, Ngài lại được chiếu cố, được tín nhiệm vào chức
vụ cao hơn. Đức Giám mục Trevise mời Ngài về làm chưởng ấn toà giám mục, kiêm
nhiệm chức vụ giám đốc chủng viện.
Luôn
luôn Ngài thi hành các chức vụ bề trên giao phó một cách chu đáo.
Năm
1884, đức Lêô XIII, Đấng mà Ngài sẽ kế vị đặt Ngài làm giám mục cai quản điạ phận
Mantua, Ngài muốn từ khước nhưng đã vâng lời và quyết nên mọi sự cho mọi người.
- Dân chúng sẽ thấy tôi luôn kiên trì trong chức vụ, luôn hiền từ và đầy bác
ái.
Ôm
hôn mẹ hiền, Ngài cho mẹ em chiếc nhẫn giám mục của mình. Mẹ Ngài cũng sung sướng
cho Ngài xem chiếc nhẫn cưới của mình và nói : - Không có chiếc nhẫn của mẹ thì
chẳng có chiếc nhẫn của con.
Phải
thật nhân đức mới có thể đường dầu với tình trạng đáng thương của giáo phận: chủng
viện gần như trống rỗng, dân chúng chịu ảnh hưởng của tâm điểm, thệ phản thuyết
phóng túng nên lòng đạo đức sa sút, chẳng còn nhiệt tâm gì với việc tông đồ, với
đời sống nội tâm. Sợ hãi, nhưng đức cha Sartô bắt tay ngay vào việc canh tân.
Ngài đi kinh lý khắp điạ phận rộng lớn.
Những
cuộc tiếp xúc thường xuyên và thân mật này đã tạo nên những bước tiến cụ thể.
Khi mùa gặt đã tới, Ngài lên tiếng kêu gọi cho ngân quỹ vơi cạn của chủng viện
và được đáp ứng quảng đại. Ngài triệu tập một hội nghị để trao đổi và để đón nhận
các ý kiến. Ngài luôn lo bảo vệ sự toàn vẹn đức tin và không muốn chấp nhận sự
sống nhượng bộ khi không được phép : - Người ta phải tranh đấu nơi thanh thiên
bạch nhật.
Công
việc ngày một nhiều, nhưng Ngài vẫn thường xuyên thăm viếng các giáo xứ. Buổi
sáng kia tới nhà thờ một họ đạo, Ngài thấy giáo dân đứng chờ trước toà giải tội,
Ngài vào ngồi tòa, khiến cha sở tới nơi phải bối rối. Trợ giúp hàng giáo sĩ về
luân lý lẫn tài chánh đó là nét đặc trưng trong chức vụ của Ngài.
Mỗi
hoạt động của vị giám mục thánh thiện đều tạo thành tiếng vang. Năm 1893, Đức
Leo XIII đặt Ngài làm hồng y giáo chủ Vevetia. Lần này Ngài mau mắn vâng lời.
-
Khi vị đại diện Chúa Kitô mở lời, không phải là lúc để nghiệm xét, mà là vâng
phục. Không được phép cân nhắc lệnh truyền để tìm giảm thiểu mức độ vâng phục...
Đức
Hồng y tiếp tục cùng một chương trình canh tân. Ngài xây dựng nhiều thánh đường,
cô nhi viện, chủng viện và một phân khoa giáo luật. Ngài can đảm thiết lập
thông tấn xã công giáo. Ngài đến nhà thờ và tranh đấu cho việc tông trọng luật
Chúa.
Ngày
08 tháng 7 năm 1903, đức Lêô XIII từ trần. Đức Hồng y giáo chủ Sartô phải đi
vay tiền mua vé về họp mật nghị bầu giáo hoàng. Trong mật nghị, Đức Hồng y
Puzyna cai quản Krakow cho biết hoàng đế nước Áo phủ quyết Đức Hồng y Rampella
quốc vụ khanh của Đức Lêô XIII mới từ trần. Cuộc bỏ phiếu đầu 1 tháng 8, Đức
Sarto chỉ được 5 phiếu. Đức Hồng y Gibbons người Mỹ xin Ngài đừng phủ quyết cuộc
bầu cử và đến cuộc đầu phiếu thứ 7 ngày 4 tháng 10, Ngài được 50/62 (vì sự kiện
trên, sau này người ra hiến chế Comomissum Nobis để ngăn chận mọi mưu toan
chính trị tìm khuynh đảo các cuộc bầu cử giáo hoàng).
Sau
kết quả cuộc bầu cử, Đức hồng y niên trưởng đến hỏi: - Chúng tôi đã nhân danh
Thiên Chúa tiến cử Ngài làm giáo hoàng, Ngài có ưng thuận không ?
Sau
giây phút yên lặng trong nước mắt giàn dụa, Ngài nghẹn ngào trả lời ?
-
Ước gì tôi không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.
Thấy
câu trả lời chưa rõ, Đức hồng y niên trưởng hỏi lại lần nữa và Ngài trả lời : -
Tôi xin nhận như nhận một thánh giá.
-
Vậy Ngài muốn nhận tên gì ?
-
Vì tôi phải chịu khổ nên tôi nhận tên của những vị đã phải đau khổ. Tôi nhận
tên là Piô.
Thế
là cuộc bầu cử giáo hoàng đã xong. Lễ đăng quang được cử hành ngày 09 tháng 8
năm 1903. Trong thông điệp đầu tiên, E Supreni Apostolatus ngày 04 tháng 10 năm
1903 Ngài công bố: "Nếu người ta muốn hỏi chúng tôi một châm ngôn phát xuất
tự đáy lòng, tôi sẽ luôn nói rằng: canh tân mọi sự trong đức Kitô".
Suốt
triều đại giáo hoàng, Đức Piô X đã thực hiện châm ngôn ấy. Ngài cho phép các trẻ
em nhỏ rước lễ sớm khi vừa tới tuổi khôn và khuyến khích việc rước lễ hàng
ngày. Với thông điệp Pascendi ngày 08 tháng 9 năm 1908 kết án thuyết duy tâm.
Ngài sửa lịch và sách nguyện, canh tân thánh nhạc và truyền dùng trong cả Giáo
hội, Ngài thiết lập các viện nghiên cứu âm nhạc và kinh thánh tại Roma. Ngài khởi
đầu công cuộc hệ thống hóa giáo luật...
Về
phương diện chinh trị, Ngài tạo ra sự dễ dàng trong việc liên lạc giữa Giáo hội
và vương quốc Ý. Khi tổ chức lại các bộ và các toà án, cùng giáo triều Roma,
tông hiến Sapienti Consiliô năm 1908 cho thấy dấu hiệu sẫn sàng chấp nhận việc
để mất các quốc gia của Giáo hội, cũng không cần đến cơ cấu cai trị dân sự làm
khuôn mẫu. Ngay từ năm 1905 Ngài đã cương quyết từ khước hoà ước Napolêon và chấp
nhận sự phân biệt Giáo hội với quốc gia vì biết rằng sự nghèo khó của Giáo hội
Pháp là có lợi hơn.
Giữa
những công chuyện hóc búa này, Đức Piô X không bao giờ thực sự cảm thấy mình được
ở nhà. Ngài là "tù nhân ở Vaticanô". Một lần tiếp xúc với các bạn cũ,
Ngài bật khóc : - Xem người ta đưa tôi lên ghế này đây.
Tìm
lại nếp sống cũ, Ngài đưa các em về Roma để giặt ủi và may vá đồ. Khi đau bệnh,
Ngài xin linh mục là cháu cho rước lễ. Ngài còn đưa cả cha tuyên úy và người nấu
ăn từ Venetia về. Thích sống thanh đạm, Ngài bỏ các nghi thức nhỏ nhặt và nhiều
truyền thống nặng hình thức khác. Khi Ngài qua đời người ta còn thấy trong túi
áo Ngài những vật của một học sinh: con dao nhỏ và mẫu bút chì.
Năm
1914 vào năm thứ 11 sau khi Đức piô được bầu làm giáo hoàng, Au Châu lâm vào cảnh
chiến tranh. Ngài ngã bệnh, Ngài dâng lễ cuối cùng, ngày lễ Mông Triệu và qua đời
ngày 20 tháng tám, người ta nói rằng: Ngài bị vỡ tim vì lo buồn cho nhân loại,
9 năm sau đã bắt đầu hồ sơ phong thánh và ngày 03 tháng 6 năm 1951 Ngài được
phong chân phước, ngày 29 tháng 5 năm 1954, sau 40 năm qua đời Ngài được phong
hiển thánh.
(daminhvn.net)
21
Tháng Tám
Kẻ Thù Trong Mơ
Ðời Trang Công, nước
Tề, có một người đàn ông nọ đêm nằm cứ thấy chiêm bao có một người to lớn, mặc
áo vải quần gai, đeo gươm đi vào tận nhà ông mắng chửi, rồi lại nhổ vào mặt mà
đi... Ông ta giật mình tỉnh dậy, ngồi suốt đêm, bực dọc, không tài nào ngủ lại
được.
Sáng hôm sau, ông
nói chuyện với một người bạn với lời lẽ như sau: "Từ thuở nhỏ đến giờ, tôi
vốn là một người hiếu dũng, đến nay đã 60 tuổi rồi, chưa hề bị ai làm nhục. Thế
mà đêm hôm qua, có người đã đến làm nhục tôi. Tôi quyết tìm cho kỳ được kẻ ấy để
báo thù. Nếu tìm thấy nó thì tốt, bằng không chắc tôi phải chết mất".
Kể từ sáng hôm ấy,
ngày nào ông ta cũng cùng với người bạn ra đứng ngoài đường để rình cho được kẻ
thù trong giấc mơ. Ba ngày trôi qua, nhưng ông ta vẫn chưa thấy được kẻ thù.
Ðã tức tối vì bị kẻ
thù làm nhục, nay lại hậm hực thêm vì không tìm thấy kẻ thù, ông ta trở về nhà
uất người lên và chết.
Nhà diễn giả hùng biện
nhất của đế quốc La Mã là Cicero có nói: "Con người là kẻ thù khủng khiếp
nhất của chính mình". Câu chuyện của người nằm mơ thấy kẻ thù, để rồi đi
tìm kẻ thù và cuối cùng, tự hủy hoại chính mình phải chăng không là một minh họa
cho câu nói của Cicero. Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình, bởi
vì con người tự tạo cho mình kẻ thù để tự tiêu diệt chính mình.
Chúa Giêsu không đến
để chối bỏ sự hận thù, nhưng trái lại bày tỏ bộ mặt thực của nó và đánh bại nó.
Thù hận là dấu chỉ sự thống trị của Satan, kẻ thù đúng nghĩa nhất. Chính Satan
gieo sự thù hận trong lòng người và đặt con người vào thế chống đối và tiêu diệt
nhau.
Chúa Giêsu đã đánh bại
kẻ thù ấy bằng chính cái chết yêu thương tha thứ của Ngài. Chỉ có yêu thương và
tha thứ mới có thể là thứ khí giới tiêu diệt được kẻ thù. Chúa Giêsu đã ban cho
chúng ta thứ khí giới ấy. Ngài đã không ngừng nói với chúng ta: "Hãy yêu
thương kẻ thù ngươi, hãy làm ơn cho kẻ thù ghét ngươi".
Nếu con người là kẻ
thù khủng khiếp nhất của chính mình, thì quả thực chúng ta phải bắt đầu tiêu diệt
nó ngay chính trong chúng ta. Chính khi chúng ta cưu mang cừu hận là lúc chúng
ta tự tạo nên kẻ thù và tự tiêu diệt chính mình. Chính khi chúng ta khước từ
tha thứ và làm ơn cho những kẻ thù ghét hãm hại chúng ta, là chính lúc chúng ta
tự giam hãm trong hận thù để rồi tự hủy hoại chính mình.
(Lẽ Sống)
Thứ Tư 21-8
Thánh Giáo Hoàng Piô X
(1835-1914)
Thánh Giáo Hoàng Piô X có
lẽ được nhiều người Công Giáo nhớ đến qua việc ngài khuyến khích chúng ta
thường xuyên lãnh nhận bí tích Thánh Thể, nhất là trẻ em.
Tên thật của ngài là
Joseph Sarto và là người con thứ trong 10 người con của một gia đình người Ý
nghèo nàn. Ngài lên ngôi giáo hoàng khi 68 tuổi, lấy tên là Piô X, và là một
trong những giáo hoàng vĩ đại của thế kỷ 20.
Luôn luôn nhớ đến gốc
gác khiêm tốn của mình, ngài tuyên bố: "Tôi sinh ra nghèo nàn, tôi sống
nghèo nàn và tôi sẽ chết nghèo nàn." Ngài cảm thấy khó chịu vì hình
thức bề ngoài ở giáo triều, có lần ngài ngấn lệ nói với một bạn thân, "Hãy
coi phẩm phục mà người ta khoác cho tôi đây." Với một người bạn khác,
ngài nói: "Ðó là sự đền tội khi buộc phải chấp nhận các nghi thức này.
Họ dẫn tôi đi với binh lính bao quanh như Ðức Giêsu khi bị bắt trong vườn
Giệtsimani."
Vì rất lưu tâm đến chính
trị, ngài khuyến khích người Công Giáo Ý tham dự vào sinh hoạt chính trị nhiều
hơn. Một trong những hành động đầu tiên khi lên giáo hoàng là ngài chấm dứt sự
can thiệp của các nhà cầm quyền vào việc bầu cử giáo hoàng -- là một thói quen
đe dọa sự tự do của cơ mật viện khi chọn tân giáo hoàng.
Vào năm 1905, khi Pháp
bất đồng với Tòa Thánh và đe dọa sẽ tịch thu tài sản của Giáo Hội nếu không cho
phép chính quyền xen vào các vấn đề nội bộ của Giáo Hội, Ðức Piô X đã can đảm
từ chối thỉnh cầu này.
Tuy ngài không ban bố
các thông điệp xã hội nổi tiếng như vị tiền nhiệm, Ðức Piô X đã lên án việc đối
xử tệ hại các thổ dân trong những đồn điền ở Peru, ngài cũng sai một ủy ban cứu
trợ đến Messina sau trận động đất và xây dựng nơi tạm cư cho các người tị nạn
mà chính ngài chịu sự tốn phí.
Vào ngày kỷ niệm ngài
lên ngôi giáo hoàng năm thứ 11 thì Âu Châu rơi vào cuộc Thế Chiến I. Ðức Piô đã
thấy trước điều đó, và viễn ảnh ấy đã giết ngài chết. "Ðây là sự đau
khổ sau cùng mà Chúa gửi đến cho tôi. Tôi sẽ sung sướng hy sinh tính mạng để
gìn giữ con cái đáng thương của tôi khỏi tai họa khủng khiếp này."
Ngài từ trần sau khi cuộc chiến bắt đầu được vài tuần lễ.
Lời Bàn
Quá khứ khiêm tốn của
Ðức Piô X không phải là một cản trợ cho sự tương giao với Thiên Chúa và với
người dân mà ngài thực sự quý mến. Ngài có được sức mạnh, sự nhân từ và nhiệt
tình đối với dân chúng do bởi nguồn gốc của mọi ơn sủng, đó là Thần Khí Ðức
Giêsu. Trái lại, chúng ta thường cảm thấy khó chịu vì quá khứ của chúng ta. Sự
tủi hổ khiến chúng ta xa rời những người hơn mình. Ngược lại, nếu ở địa vị cao
sang, chúng ta thường khinh miệt những người mộc mạc. Tuy nhiên, chúng ta phải
nhớ rằng, "mọi sự phải quy phục Ðức Kitô," nhất là những người
bị tổn thương của Thiên Chúa.
Lời Trích
Ðể diễn tả Ðức Piô X,
một sử gia viết rằng ngài là "một người của Thiên Chúa biết sự bất hạnh
của thế giới và sự khó khăn của đời sống, và với sự cao quý của tâm hồn, ngài
muốn an ủi tất cả mọi người."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét