21/08/2015
Thứ Sáu tuần 20 thường
niên
Thánh Piô 10, giáo
hoàng. Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh năm 1835 tại Ri-ê-sê,
nước Ý. Sau khi làm linh mục, người dấn thân thi hành việc mục vụ. Người làm
giám mục Man-tô-va, rồi làm thượng phụ giáo chủ Vê-nê-xi-a và cuối cùng, năm
1903, được chọn làm giáo hoàng. Người chu toàn bổn phận của mình theo khẩu hiệu
người đã chọn: “Canh tân mọi sự trong Chúa Kitô” với lòng đơn sơ, đời sống
thanh bần và can đảm. Cùng với những đức tính ấy, người đã giúp các tín hữu sống
đạo nhiệt thành và đối phó với những sai lầm đang lan tràn trong Hội Thánh. Người
qua đời ngày 20 tháng 08 năm 1914.
Bài
Ðọc I: (Năm I) R 1, 1. 3-6. 14b-16. 22
"Bà
Nôêmi cùng nàng dâu người Moab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành
Bêlem".
Khởi
đầu sách truyện Bà Ruth.
Khi
các quan án cầm quyền, thì dưới thời một quan án kia, trong xứ xảy ra nạn đói
kém. Có một người thành Bêlem, thuộc chi tộc Giuđa, đem vợ và hai con sang cư
ngụ trong miền Môab.
Và
Elimêlech, chồng bà Nôêmi, qua đời, để bà lại với hai con. Hai con bà cưới hai
thiếu nữ Môab làm vợ: một tên là Orpha, còn người kia tên là Ruth. Họ chung sống
ở đó được mười năm, thì cả hai người chồng là Mahalon và Kêlion cũng qua đời,
còn lại mình bà Nôêmi không chồng con. Bấy giờ bà Nôêmi cùng với hai nàng dâu định
bỏ đất Môab trở về quê hương, vì nghe nói Chúa thương dân Người, và ban cho họ
lương thực.
Bà
Orpha hôn mẹ chồng và ở lại đó. Còn bà Ruth thì đi theo mẹ chồng. Bà Nôêmi bảo
bà Ruth rằng: "Kìa, chị dâu con đã ở lại với dân mình và các thần minh của
họ, con hãy ở lại với chị con". Bà Ruth thưa lại rằng: "Xin mẹ đừng bắt
con bỏ mẹ mà ở lại, vì mẹ đi đâu thì con cũng đi theo đó. Dân tộc của mẹ là dân
tộc của con, và Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con".
Vậy
bà Nôêmi cùng nàng dâu người Môab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem,
vào đầu mùa gặt lúa.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 145, 5-6. 7. 8-9a. 9bc-10
Ðáp: Linh hồn tôi
ơi, hãy ngợi khen Chúa (c. 2a).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào
Chúa là Thiên Chúa của mình: Người là Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và
muôn vật chúng đang chứa đựng. - Ðáp.
2)
Người là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được
cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.
3)
Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng
khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những
khách kiều cư. - Ðáp.
4)
Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường lối đứa ác
nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm
vua tự đời này sang đời khác. - Ðáp.
Alleluia:
Mt 11, 25
Alleluia,
alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những
mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 22, 34-40
"Ngươi
hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình
ngươi".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc
câm miệng, thì họp nhau lại. Ðoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử
Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?" Chúa
Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi
hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng
nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ
khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại
trong hai giới răn đó".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Giới Răn Yêu Thương
Tuần
báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó
là "Sư máy". Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực
thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo
nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư
máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười
giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng
cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại
Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự,
duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
Yêu
thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn
là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa
tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin
Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc
mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất
là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì
không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như
không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là
nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu.
Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay,
cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm
mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện
bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi,
bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ
giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục,
nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu
thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Ðạo. Ði Ðạo,
sống Ðạo, giữ Ðạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con
người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời
sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công
thức: "Thiên Chúa là Tình Yêu", và ngài dẫn giải: "Ai nói mình
yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu
thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Ðấng nó không thấy".
Nguyện
xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt
lõi của Ðạo là Yêu Thương.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 20 TN1, Năm lẻ.
Bài đọc: Ruth 1:1, 3-6,
14b-16, 22; Mt 22:34-40.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mến Chúa, yêu người.
Ngày
xưa, khi còn ở Việt-nam, các con dâu rất sợ mẹ chồng và sợ làm dâu cho gia đình
chồng, vì có những bà mẹ chồng rất khắc nghiệt. Họ quan niệm phải trả thù con
dâu, vì ngày xưa khi làm dâu, họ cũng từng bị đối xử như vậy. Ngày nay, bên các
xứ Âu Mỹ này, các mẹ chồng lại sợ con dâu, và nhiều còn gọi là "bà
dâu." Họ sợ con dâu bầy ra những lý do để cho họ vào viện dưỡng lão, và nhất
là sợ con dâu sẽ ly dị để con trai mình phải ở góa. Cả hai thái cực đều quá
đáng, và cả mẹ chồng lẫn con dâu Công Giáo cần phải thay đổi thái độ. Khi đối xử
với nhau xung khắc như thế, họ đã không giữ giới răn "mến Chúa yêu người"
như Chúa dạy. Ngoài ra, họ còn đặt con trai hay người chồng của họ vào vị thế
phải điên đầu chọn lựa giữa "bên tình, bên hiếu." Chọn bên nào cũng
không được vì Thiên Chúa đòi phải chọn cả hai.
Các
Bài Đọc hôm nay cung cấp các chất liệu cho mọi người, cách riêng mẹ chồng con
dâu, những chất liệu để suy tư. Trong Bài Đọc I, tác giả cho chúng ta một mẫu
gương tuyệt vời về mối liên hệ giữa mẹ chồng Naomi và con dâu Ruth. Bà Naomi phải
cư xử với con dâu đặc biệt thế nào, đến nỗi khi con trai của Bà chết rồi mà
nàng Ruth có thể thưa với Bà: "Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về không
theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của
con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con." Trong Phúc Âm, khi một kinh
sư đến hỏi thử Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, trong sách Luật Moses, điều răn nào
là điều răn trọng nhất?" Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng hai giới răn: Mến
Chúa, yêu người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con.
1.1/
Hoàn cảnh đáng thương của bà Naomi: Tác giả kể: "Vào thời các thủ lãnh cai trị, một
nạn đói xảy ra trong xứ. Có một người cùng với vợ và hai con trai bỏ Bethlehem
miền Judah mà đến ở trong cánh đồng Moab. Rồi ông Elimelech, chồng bà Naomi, chết
đi, còn lại bà Naomi và hai đứa con. Hai người này lấy vợ Moab, một người tên
là Orpah, người kia tên là Ruth. Họ ở lại đó chừng mười năm. Rồi Mahlon và
Chilion cả hai đều chết, còn lại bà Naomi mất chồng, mất con."
Không
thể sống trong cảnh góa bụa nơi đất khách quê người, bà Naomi quyết định bỏ
cánh đồng Moab để trở về quê hương là Bethlehem, vì Bà nghe nói là Đức Chúa đã
viếng thăm dân Người và cho họ có bánh ăn ở đó.
1.2/
Sự trung thành và kính mến mẹ chồng của bà Ruth.
(1)
Lời khuyên của bà Naomi cho hai nàng dâu người Moab: Trước khi lên đường, bà
Naomi gọi hai người con dâu tới mà nói với họ: vì hai con trai của Bà đã chết,
và Bà cũng chẳng có người con trai nào nữa cho họ kết hôn; nên họ không có bổn
phận phải đi theo Bà. Họ có thể ở lại quê hương của họ và tái hôn như lòng họ
mong muốn.
(2)
Phản ứng của hai nàng dâu ngoại quốc: Hai người con dâu lại oà lên khóc. Orpah
ôm hôn từ giã mẹ chồng, còn Ruth thì cứ khắng khít theo bà. Bà Naomi nói:
"Kìa chị dâu con trở về với dân tộc của nó và các thần của nó. Con cũng vậy,
hãy theo chị dâu con mà về đi!" Ruth đáp: "Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ
mà trở về, không theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân
của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con."
Đây
là một lời khuyên xứng đáng được người Do-thái cho vào lịch sử vì những lý do
sau:
+
Tình cảm đặc biệt giữa mẹ chồng và nàng dâu: Mối liên hệ này thường không tốt đẹp.
Để nàng Ruth có thể thốt lên những lời này, nhất là khi chồng nàng không còn nữa,
đòi bà Naomi phải chiếm được cảm tình đặc biệt của con dâu mình.
+
Mối liên hệ giữa người Do-thái và người Moab: Truyền thống Do-thái có thói quen
khinh thường mọi dân tộc khác; họ không muốn có liên hệ gì với những người dân
ngoại. Để nàng Ruth có thể thốt lên câu "dân của mẹ là dân của con,'' đòi
bà Naomi đối xử với con dâu mình như một người Do-thái. Hơn nữa, đây cũng là điềm
tiên báo khi Đấng Cứu Thế đến, sẽ không còn chia cách giữa người Do-thái và Dân
Ngoại như thánh Phaolô mô tả.
+
Tình người giữa hai mẹ con dẫn nàng Ruth tới chỗ chấp nhận "Thiên Chúa của
mẹ là Thiên Chúa của con." Cuộc sống của bà Naomi đã trở nên gương sáng
cho nàng Ruth biết và tin vào Thiên Chúa.
2/
Phúc Âm:
Hai điều răn quan trọng nhất
2.1/
Kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự: Khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Sadducees phải
câm miệng, thì những người Pharisees họp nhau lại. Rồi một người thông luật
trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong sách Luật
Moses, điều răn nào là điều răn trọng nhất?" Đức Giêsu đáp: "Ngươi phải
yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn
ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất."
Đây
là điều răn thứ nhất trong Thập Giới mà Thiên Chúa ban cho người Do-thái qua
ông Moses trên núi Sinai. Người Do-thái gọi điều răn này là Shema;
và để cho khỏi quên, họ viết vào giấy rồi đeo nó trên đầu như thẻ kinh, và đựng
vào hai cái hộp nhỏ để đeo trên hai cánh tay mỗi khi cầu nguyện. Ngoài ra họ
còn dán trên cửa nhà và cửa thành, để nhắc nhở cho những ai qua lại phải nhớ. Một
giới răn quan trọng và được dán khắp mọi nơi như thế, mà các kinh-sư và biệt-phái
còn hỏi Chúa Giêsu! Chúng ta không tìm thấy lý do nào khác ngoài lý do họ khinh
thường Chúa.
Điều
răn này tuy dễ để nhớ, nhưng không dễ để thi hành, cho cả người Do-thái xưa lẫn
các Kitô hữu ngày nay. Người Do-thái biết phải kính mến Thiên Chúa trên hết mọi
sự, nhưng vẫn đúc bê vàng để thờ hay chạy theo các thần ngoai bang khác. Người
tín hữu ngày nay vẫn đặt các thứ thần khác lên trên Thiên Chúa như các thần: tiền,
danh vọng, chức quyền, khoái lạc ... Họ có thể bỏ lễ Chủ Nhật hay các việc thờ
phượng để làm việc, coi football, đi du lịch ...
2.2/
Yêu người thân cận như chính mình: "Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy,
là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Moses và các sách
ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy." Hai luật "mến Chúa, yêu
người" không thể tách rời nhau, nhưng bổ xung cho nhau. Thánh Gioan tuyên
bố: Ai nói mình mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối, và sự thực không có
nơi người ấy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Khi con dâu thương mẹ chồng là nàng thương chồng. Điều răn thứ tư dạy phải thảo
hiếu cả bố mẹ ruột lẫn bố mẹ chồng; đừng ích kỷ chỉ biết thảo hiếu bố mẹ ruột của
mình mà thôi.
-
Khi mẹ chồng thương con dâu là thương con trai mình. Các bà mẹ đừng bao giờ để
con trai mình phải chọn giữa mẹ và vợ. Thiên Chúa muốn con mình vừa phải thảo
hiếu cha mẹ, vừa phải trung thành với vợ cho đến chết.
-
Kính mến Thiên Chúa là phải yêu thương tha nhân và giữ các giới răn của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
21/08/15 THỨ SÁU TUẦN
20 TN
Th. Piô X, giáo hoàng
Mt 22,34-40
Th. Piô X, giáo hoàng
Mt 22,34-40
Suy niệm: Ca
dao Việt Nam nhắc nhở ta về lòng thương người: “Thương người như thể thương thân, nhường cơm
xẻ áo mới là lòng nhân.” Cũng
vậy, để trả lời cho câu hỏi của người Pha-ri-sêu, Chúa Giê-su bảo ta phải lấy
bản thân mình làm điểm xuất phát cho hành vi yêu thương, bởi không ai ghét thân
mình bao giờ. Chắc chắn ai cũng muốn điều lành, điều tốt cho bản thân mình. Ta
cần tập nhìn người thân cận như một cái tôi khác của mình. Người thân cận ấy
không chỉ bao gồm cha mẹ, vợ con, anh em… mà là tất cả mọi người vì có cùng một
Cha trên trời. Yêu cũng không chỉ là sản phẩm của tình cảm, mà còn là nỗ lực
của ý chí trong cách hành xử cụ thể, vượt lên trên bản năng tự nhiên hay thói
đời. Thánh Phaolô cho biết điều này: “Yêu là chịu đựng tất cả, tin
tưởng tất cả, hy vọng tất cả” (1
Cr 13,7).
Mời Bạn: Khuynh
hướng bảo thủ, tự tôn cá nhân, ý thức hệ cực đoan đã và đang bóp chết tình
thương người thân cận. Nền văn hóa sự chết đã sản sinh những nhóm cực đoan,
những tổ chức khủng bố gây nên biết bao bất ổn cho xã hội, gieo rắc nỗi sợ hãi
kinh hoàng cho biết bao nhiêu người trong cuộc sống chung hiện tại. Lời Chúa
hôm nay đòi mỗi Ki-tô hữu phải tự vấn lương tâm: người thân cận của tôi là ai,
tôi đã yêu thương họ như thế nào?
Sống Lời Chúa: Câu
trả lời đã có trong Tin Mừng hôm nay: phải yêu mến Thiên Chúa để có khả năng
yêu mến người thân cận. Một khi Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu bị loại trừ thì
cá nhân chủ nghĩa sẽ lên ngôi. Tôi xác tín sẽ yêu mến Chúa trên hết mọi sự.
Cầu nguyện: Đọc kinh Kính Mến.
Điều răn trọng nhất
Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời
chỉ là tình yêu. Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.
Suy niệm:
Theo truyền thống hội đường
Do thái, Luật gồm 613 điều răn.
365 điều cấm làm và 248 điều
phải làm.
Giữa một rừng điều răn như
thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:
“Điều răn nào trọng nhất
trong Luật Môsê?” (c. 36).
Đức Giêsu đã trả lời bằng
một câu trong kinh Shema,
kinh mà người Do thái phải
đọc mỗi ngày.
“Ngươi phải yêu mến Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi,
tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5).
Và Ngài còn thêm một điều
răn thứ hai nữa (c. 39).
“Ngươi phải yêu mến người
thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).
Tất cả Luật Môsê nằm trong
hai điều răn đó.
Hai điều răn được gói trong
một động từ yêu.
Mọi điều cấm làm và mọi điều
buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.
Các bạn trẻ thường nghĩ yêu
là chuyện dễ.
Nhưng yêu với tất cả trái
tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,
nghĩa là yêu với trọn cả con
người mình, thì điều đó không dễ.
Đối với người Do thái, trái
tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.
Yêu mến Thiên Chúa bằng tất
cả trái tim của mình
là để cho Ngài chi phối mọi
tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.
Tất cả đều nhằm làm cho Ngài
được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Yêu người thân cận như chính
mình cũng là điều rất khó.
Có bao người làm chúng ta
đau khổ và bị xúc phạm.
Yêu thương và tôn trọng họ
đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.
Nhưng chúng ta cũng dễ coi
mình là trung tâm và qui tất cả về mình.
Chúng ta lạnh lùng trước nỗi
đau, thiếu sẻ chia và độc đoán,
đôi khi dùng tha nhân như
phương tiện lót đường để ta tiến thân.
Nói chung, dù yêu Chúa hay
yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình,
trao đi chính mình và chấp
nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê
trong động từ yêu mến.
Và Ngài đã hoàn thiện Luật
này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.
Kitô hữu chẳng những yêu mến
Thiên Chúa với trọn con người mình,
mà còn được mời yêu mến Đức
Giêsu trên mọi thụ tạo khác,
trên mọi của cải, trên những
người ruột thịt, và trên cả mạng sống.
Kitô hữu là người mang mối
tình sâu đậm với Đức Giêsu,
“Đấng đã yêu mến tôi và hiến
mạng vì tôi” (Gl 2, 20),
đến nỗi họ có thể tuyên xưng
như Phêrô: “Thầy biết con mến Thầy.”
Đức Giêsu cũng không chỉ đòi
yêu tha nhân như chính mình.
Ngài còn đòi ta phải yêu như
Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).
Một tình yêu tha thứ đến vô
cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù,
một tình yêu phục vụ như
người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng.
Kitô hữu tự bản chất là
người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu.
Tình yêu đích thực với Thiên
Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại
đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.
Chỉ mong đời tôi đong đưa
giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.
Cầu nguyện:
Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ
kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn
màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm an bình nơi Chúa.
(Thánh Âu-Tinh)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu,
SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG TÁM
Chuẩn Mực Của Hoạt Động Con Người
Chúng ta đọc thấy trong Hiến Chế Vui Mừng
và Hy Vọng của Công Đồng Vatican II: “Hoạt động của con người phát xuất từ con
người nên qui hướng về con người… Nếu được hiểu cho đúng, thì sự phát triển
đáng giá hơn mọi của cải có thể thu tích được. Giá trị con người hệ tại ở “cái
mình là” hơn hệ tại ở “cái mình có”. Cũng vậy, tất cả cái gì con người làm để đạt
tới một mức độ công bình cao hơn, một tình huynh đệ rộng lớn hơn và một trật tự
nhân đạo hơn trong các tương quan xã hội, đều quí trọng hơn các tiến bộ kỹ thuật,
bởi vì, các tiến bộ ấy tuy có thể cung cấp chất liệu cho sự thăng tiến con người,
nhưng tự chúng mà thôi không thể thực hiện được công cuộc thăng tiến ấy…
“Đây là tiêu chuẩn của hoạt động con người:
mọi hoạt động con người phải phù hợp với lợi ích đích thực của nhân loại theo
như ý định và ý muốn của Thiên Chúa, lại phải giúp con người, cá nhân cũng tập
thể, trau dồi và thực hiện ơn gọi phổ quát của mình” (MV 35; 59).
Cũng chính Hiến Chế trên tuyên bố: “Trật tự
xã hội và tiến bộ của nó phải luôn luôn nhằm ích lợi của các nhân vị, bởi vì trật
tự của muôn vật phải lệ thuộc vào trật tự của các nhân vị chứ không ngược lại.
Trật tự xã hội phải phát triển mỗi ngày một hơn, phải đặt nền tảng trên chân
lý, xây dựng trong công bình, nuôi sống nhờ tình yêu. Thánh Thần Chúa, Đấng điều
khiển những biến chuyển thời gian và canh tân bộ mặt trái đất với sự quan phòng
kỳ diệu, đang hiện diện trong cuộc tiến hóa này” (MV 26).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
21-8
Thánh
Piô X Giáo hoàng
R
1, 1.3-6.14b-16.22; Mt 22, 34-40.
LỜI
SUY NIỆM: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn
nào là điều răn trọng nhất?”
Với
các điều răn của Thiên Chúa ban cho loài người qua Môsê và Giáo Hội của Ngài,
là để dẫn con người đi đúng đường, để gặp lại Ngài trong cuộc sống hiện tại,
giúp con người tránh xa những con đường lầm lạc đưa đến cái chết đời đời. Với
những điều răn của Ngài luôn luôn có ơn ban của Ngài để giúp con người thêm
khôn ngoan, thêm sức mạnh, thêm lòng cậy trông và lòng hăng say để chu toàn.
Ngài đặt để trong mỗi con người có trái tim bằng thịt để biết yêu thương chính
mình và yêu cả tha nhân.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúa yêu mến Chúa Cha và cũng yêu mến tất cả chúng con. Xin Chúa
ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con được ơn ban của Chúa, để chúng
con yêu mến Chúa và yêu mến anh em. Để chúng con tất cả được hưởng hạnh phúc của
Tình Yêu.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
21-08
Thánh
PIÔ X
GIÁO
HOÀNG (1835 - 1914)
Thánh
Piô X giáo hoàng tên thật là Giuseppe Melchierre Sartô, sinh tại làng Riese miền
Venetia, ngày 02 tháng 6 năm 1835. Cha Ngài ông Giovanni Battista Sartô thành
hôn với mẹ Ngài là bà Margherita Samon, nhỏ hơn ông tới một nửa số tuổi. Vì vậy
lên 17 tuổi, Ngài đã mồ côi cha. Làm nghề chạy giấy của xã, ông Giovanni
Battista làm cha một gia đình nghèo túng. Chết đi ông cũng lại một gia đình
càng túng quẫn hơn nữa. Tuy nhiên nhờ lòng đạo đức của cả hai ông bà mà gia
đình này đã góp phần đào tạo nên một vị thánh lớn cho Giáo hội.
Ngay
từ nhỏ, học tại trường làng, Giuseppe đã tỏ ra có nhiều triển vọng, Ngài luôn
là một học sinh giỏi đứng đầu lớp học. Theo phong tục thời đó, dù đã vào ban
giúp lễ từ hồi 7 tuổi, mãi tới năm 11 tuổi, Giuseppe mới được rước lễ lần đầu.
Những ngày tháng mong đợi có lẽ đã khiến Ngài khi lên giáo hoàng sau này, đã
cho phép trẻ em được rước lễ vỡ lòng khi vừa tới tuổi khôn và nhiệt tình cổ võ
lòng tôn sùng bí tích Thánh Thể. Trước bàn thờ Đức Mẹ, dịp rước lễ lần đầu,
Giuseppe đã khấn dâng mình cho Chúa.
Từ
lâu rồi Ngài đã nuôi ý định này nhưng không dám tỏ bày với cha mẹ. Nhưng khi biết
được ý định của con, mẹ Ngài đã hết sức tán thành, cha Ngài ngập ngừng vì thấy
gia đình nghèo túng, nhưng rồi cũng quảng đại vâng theo ý Chúa. Mọi người đều
vui mừng vì quyết định của Giuseppe, nhất là cha sở Riese. Cha phó dạy tiếng
Latinh cho Ngài. Khi đã đủ lực theo bậc trung học ở Castelfrancô cách Riese 7
cây số ngàn. Suốt 4 năm trời Ngài thường vác giầy trên vai, để tiết kiệm, và đi
bộ tới trường rồi lại đi bộ về nhà. Chính lý tưởng làm linh mục là sức mạnh
giúp Ngài kiên trì như vậy.
Hết
4 năm tại Castelfrancô, năm 1850, Giuseppe lên đại chủng viện Padua. Gia đình
Giuseppe nghèo, cha sở xin được cho Ngài một học bổng, giáo dân trong họ hằng
năm quyên tiền giúp đỡ Ngài. Thật là những nghĩa cử cao đẹp đối với một ơn gọi.
Năm 17 tuổi, ông thân sinh qua đời, Giuseppe muốn bỏ về giúp mẹ và săn sóc cho
7 đứa em. Lại một nghĩa cử cao đẹp khác vun trồng cho ơn gọi Giuseppe chín mùi:
mẹ Ngài không chấp nhận ý kiến, mà quyết tâm dâng con cho Chúa. Trong nếp sống
nghèo khó nhưng lại giàu lòng quảng đại ấy, Giuseppe đã tiến tới chức linh mục
ngày 28 tháng 9 năm1858, lúc 23 tuổi.
Sau
ngày mở tay tại quên nhà, cha Giuseppe đi nhận phó xứ Tombolo, chín năm sau
Ngài được bổ nhiệm làm chính xứ Salzano. 17 năm làm phó xứ rồi chính xứ, cha
Giuseppe sống đời hy sinh tận tụy với giáo dân, nhất là với những người nghèo
khó. Không hề ao ước danh vọng, Ngài lại được chiếu cố, được tín nhiệm vào chức
vụ cao hơn. Đức Giám mục Trevise mời Ngài về làm chưởng ấn toà giám mục, kiêm
nhiệm chức vụ giám đốc chủng viện.
Luôn
luôn Ngài thi hành các chức vụ bề trên giao phó một cách chu đáo.
Năm
1884, đức Lêô XIII, Đấng mà Ngài sẽ kế vị đặt Ngài làm giám mục cai quản điạ phận
Mantua, Ngài muốn từ khước nhưng đã vâng lời và quyết nên mọi sự cho mọi người.
- Dân chúng sẽ thấy tôi luôn kiên trì trong chức vụ, luôn hiền từ và đầy bác ái.
Ôm
hôn mẹ hiền, Ngài cho mẹ em chiếc nhẫn giám mục của mình. Mẹ Ngài cũng sung sướng
cho Ngài xem chiếc nhẫn cưới của mình và nói : - Không có chiếc nhẫn của mẹ thì
chẳng có chiếc nhẫn của con.
Phải
thật nhân đức mới có thể đường dầu với tình trạng đáng thương của giáo phận: chủng
viện gần như trống rỗng, dân chúng chịu ảnh hưởng của tâm điểm, thệ phản thuyết
phóng túng nên lòng đạo đức sa sút, chẳng còn nhiệt tâm gì với việc tông đồ, với
đời sống nội tâm. Sợ hãi, nhưng đức cha Sartô bắt tay ngay vào việc canh tân.
Ngài đi kinh lý khắp điạ phận rộng lớn.
Những
cuộc tiếp xúc thường xuyên và thân mật này đã tạo nên những bước tiến cụ thể.
Khi mùa gặt đã tới, Ngài lên tiếng kêu gọi cho ngân quỹ vơi cạn của chủng viện
và được đáp ứng quảng đại. Ngài triệu tập một hội nghị để trao đổi và để đón nhận
các ý kiến. Ngài luôn lo bảo vệ sự toàn vẹn đức tin và không muốn chấp nhận sự
sống nhượng bộ khi không được phép : - Người ta phải tranh đấu nơi thanh thiên
bạch nhật.
Công
việc ngày một nhiều, nhưng Ngài vẫn thường xuyên thăm viếng các giáo xứ. Buổi
sáng kia tới nhà thờ một họ đạo, Ngài thấy giáo dân đứng chờ trước toà giải tội,
Ngài vào ngồi tòa, khiến cha sở tới nơi phải bối rối. Trợ giúp hàng giáo sĩ về
luân lý lẫn tài chánh đó là nét đặc trưng trong chức vụ của Ngài.
Mỗi
hoạt động của vị giám mục thánh thiện đều tạo thành tiếng vang. Năm 1893, Đức
Leo XIII đặt Ngài làm hồng y giáo chủ Vevetia. Lần này Ngài mau mắn vâng lời.
-
Khi vị đại diện Chúa Kitô mở lời, không phải là lúc để nghiệm xét, mà là vâng
phục. Không được phép cân nhắc lệnh truyền để tìm giảm thiểu mức độ vâng phục...
Đức
Hồng y tiếp tục cùng một chương trình canh tân. Ngài xây dựng nhiều thánh đường,
cô nhi viện, chủng viện và một phân khoa giáo luật. Ngài can đảm thiết lập
thông tấn xã công giáo. Ngài đến nhà thờ và tranh đấu cho việc tông trọng luật
Chúa.
Ngày
08 tháng 7 năm 1903, đức Lêô XIII từ trần. Đức Hồng y giáo chủ Sartô phải đi
vay tiền mua vé về họp mật nghị bầu giáo hoàng. Trong mật nghị, Đức Hồng y
Puzyna cai quản Krakow cho biết hoàng đế nước Áo phủ quyết Đức Hồng y Rampella
quốc vụ khanh của Đức Lêô XIII mới từ trần. Cuộc bỏ phiếu đầu 1 tháng 8, Đức
Sarto chỉ được 5 phiếu. Đức Hồng y Gibbons người Mỹ xin Ngài đừng phủ quyết cuộc
bầu cử và đến cuộc đầu phiếu thứ 7 ngày 4 tháng 10, Ngài được 50/62 (vì sự kiện
trên, sau này người ra hiến chế Comomissum Nobis để ngăn chận mọi mưu toan
chính trị tìm khuynh đảo các cuộc bầu cử giáo hoàng).
Sau
kết quả cuộc bầu cử, Đức hồng y niên trưởng đến hỏi: - Chúng tôi đã nhân danh
Thiên Chúa tiến cử Ngài làm giáo hoàng, Ngài có ưng thuận không ?
Sau
giây phút yên lặng trong nước mắt giàn dụa, Ngài nghẹn ngào trả lời ?
- Ước gì tôi không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.
- Ước gì tôi không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.
Thấy
câu trả lời chưa rõ, Đức hồng y niên trưởng hỏi lại lần nữa và Ngài trả lời : -
Tôi xin nhận như nhận một thánh giá.
- Vậy Ngài muốn nhận tên gì ?
- Vì tôi phải chịu khổ nên tôi nhận tên của những vị đã phải đau khổ. Tôi nhận tên là Piô.
- Vậy Ngài muốn nhận tên gì ?
- Vì tôi phải chịu khổ nên tôi nhận tên của những vị đã phải đau khổ. Tôi nhận tên là Piô.
Thế
là cuộc bầu cử giáo hoàng đã xong. Lễ đăng quang được cử hành ngày 09 tháng 8
năm 1903. Trong thông điệp đầu tiên, E Supreni Apostolatus ngày 04 tháng 10 năm
1903 Ngài công bố: "Nếu người ta muốn hỏi chúng tôi một châm ngôn phát xuất
tự đáy lòng, tôi sẽ luôn nói rằng: canh tân mọi sự trong đức Kitô".
Suốt
triều đại giáo hoàng, Đức Piô X đã thực hiện châm ngôn ấy. Ngài cho phép các trẻ
em nhỏ rước lễ sớm khi vừa tới tuổi khôn và khuyến khích việc rước lễ hàng
ngày. Với thông điệp Pascendi ngày 08 tháng 9 năm 1908 kết án thuyết duy tâm.
Ngài sửa lịch và sách nguyện, canh tân thánh nhạc và truyền dùng trong cả Giáo
hội, Ngài thiết lập các viện nghiên cứu âm nhạc và kinh thánh tại Roma. Ngài khởi
đầu công cuộc hệ thống hóa giáo luật...
Về
phương diện chinh trị, Ngài tạo ra sự dễ dàng trong việc liên lạc giữa Giáo hội
và vương quốc Ý. Khi tổ chức lại các bộ và các toà án, cùng giáo triều Roma,
tông hiến Sapienti Consiliô năm 1908 cho thấy dấu hiệu sẫn sàng chấp nhận việc
để mất các quốc gia của Giáo hội, cũng không cần đến cơ cấu cai trị dân sự làm
khuôn mẫu. Ngay từ năm 1905 Ngài đã cương quyết từ khước hoà ước Napolêon và chấp
nhận sự phân biệt Giáo hội với quốc gia vì biết rằng sự nghèo khó của Giáo hội
Pháp là có lợi hơn.
Giữa
những công chuyện hóc búa này, Đức Piô X không bao giờ thực sự cảm thấy mình được
ở nhà. Ngài là "tù nhân ở Vaticanô". Một lần tiếp xúc với các bạn cũ,
Ngài bật khóc : - Xem người ta đưa tôi lên ghế này đây.
Tìm
lại nếp sống cũ, Ngài đưa các em về Roma để giặt ủi và may vá đồ. Khi đau bệnh,
Ngài xin linh mục là cháu cho rước lễ. Ngài còn đưa cả cha tuyên úy và người nấu
ăn từ Venetia về. Thích sống thanh đạm, Ngài bỏ các nghi thức nhỏ nhặt và nhiều
truyền thống nặng hình thức khác. Khi Ngài qua đời người ta còn thấy trong túi
áo Ngài những vật của một học sinh: con dao nhỏ và mẫu bút chì.
Năm
1914 vào năm thứ 11 sau khi Đức piô được bầu làm giáo hoàng, Au Châu lâm vào cảnh
chiến tranh. Ngài ngã bệnh, Ngài dâng lễ cuối cùng, ngày lễ Mông Triệu và qua đời
ngày 20 tháng tám, người ta nói rằng: Ngài bị vỡ tim vì lo buồn cho nhân loại,
9 năm sau đã bắt đầu hồ sơ phong thánh và ngày 03 tháng 6 năm 1951 Ngài được
phong chân phước, ngày 29 tháng 5 năm 1954, sau 40 năm qua đời Ngài được phong
hiển thánh.
(daminhvn.net)
21
Tháng Tám
Kẻ Thù Trong Mơ
Ðời
Trang Công, nước Tề, có một người đàn ông nọ đêm nằm cứ thấy chiêm bao có một
người to lớn, mặc áo vải quần gai, đeo gươm đi vào tận nhà ông mắng chửi, rồi lại
nhổ vào mặt mà đi... Ông ta giật mình tỉnh dậy, ngồi suốt đêm, bực dọc, không
tài nào ngủ lại được.
Sáng
hôm sau, ông nói chuyện với một người bạn với lời lẽ như sau: "Từ thuở nhỏ
đến giờ, tôi vốn là một người hiếu dũng, đến nay đã 60 tuổi rồi, chưa hề bị ai
làm nhục. Thế mà đêm hôm qua, có người đã đến làm nhục tôi. Tôi quyết tìm cho kỳ
được kẻ ấy để báo thù. Nếu tìm thấy nó thì tốt, bằng không chắc tôi phải chết mất".
Kể
từ sáng hôm ấy, ngày nào ông ta cũng cùng với người bạn ra đứng ngoài đường để
rình cho được kẻ thù trong giấc mơ. Ba ngày trôi qua, nhưng ông ta vẫn chưa thấy
được kẻ thù.
Ðã
tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, nay lại hậm hực thêm vì không tìm thấy kẻ thù,
ông ta trở về nhà uất người lên và chết.
Nhà
diễn giả hùng biện nhất của đế quốc La Mã là Cicero có nói: "Con người là
kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình". Câu chuyện của người nằm mơ thấy
kẻ thù, để rồi đi tìm kẻ thù và cuối cùng, tự hủy hoại chính mình phải chăng
không là một minh họa cho câu nói của Cicero. Con người là kẻ thù khủng khiếp
nhất của chính mình, bởi vì con người tự tạo cho mình kẻ thù để tự tiêu diệt
chính mình.
Chúa
Giêsu không đến để chối bỏ sự hận thù, nhưng trái lại bày tỏ bộ mặt thực của nó
và đánh bại nó. Thù hận là dấu chỉ sự thống trị của Satan, kẻ thù đúng nghĩa nhất.
Chính Satan gieo sự thù hận trong lòng người và đặt con người vào thế chống đối
và tiêu diệt nhau.
Chúa
Giêsu đã đánh bại kẻ thù ấy bằng chính cái chết yêu thương tha thứ của Ngài. Chỉ
có yêu thương và tha thứ mới có thể là thứ khí giới tiêu diệt được kẻ thù. Chúa
Giêsu đã ban cho chúng ta thứ khí giới ấy. Ngài đã không ngừng nói với chúng
ta: "Hãy yêu thương kẻ thù ngươi, hãy làm ơn cho kẻ thù ghét ngươi".
Nếu
con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình, thì quả thực chúng ta phải
bắt đầu tiêu diệt nó ngay chính trong chúng ta. Chính khi chúng ta cưu mang cừu
hận là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù và tự tiêu diệt chính mình. Chính khi
chúng ta khước từ tha thứ và làm ơn cho những kẻ thù ghét hãm hại chúng ta, là
chính lúc chúng ta tự giam hãm trong hận thù để rồi tự hủy hoại chính mình.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét