19/08/2015
Thứ Tư sau Chúa Nhật
20 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm I) Tl 9, 6-15
"Ðang
khi Chúa ngự trị giữa chúng tôi, các ngươi đã nói: "Xin cho một vua cai trị
chúng tôi".
Trích
sách Thủ Lãnh.
Khi
ấy, mọi người Sikem và tất cả các gia tộc thành Mêllô tụ họp lại, rồi kéo nhau
đến gần cây sồi ở Sikem, và tôn Abimêlech lên làm vua.
Khi
ông Giotham nghe tin ấy, liền đi lên đứng trên đỉnh núi Garizim, lớn tiếng kêu
lên rằng: "Hỡi người Sikem, hãy nghe ta, để Thiên Chúa cũng nghe các
ngươi. Các cây cối đều đến xức dầu phong một vị vua cai trị chúng, và nói cùng
cây ôliu rằng: "Hãy đi cai trị chúng tôi". Cây ôliu đáp lại rằng:
"Chớ thì ta có thể bỏ việc sản xuất dầu mà các thần minh và loài người
quen dùng, để được lên chức cai trị cây cối sao?" Các cây cối nói cùng cây
vả rằng: "Hãy đến cầm quyền cai trị chúng tôi". Cây vả trả lời rằng:
"Chớ thì ta có thể bỏ sự ngọt ngào của ta, bỏ hoa trái ngon lành của ta, để
được lên chức cai trị các cây cối khác sao?" Các cây cối nói với cây nho rằng:
"Hãy đến cai trị chúng tôi". Cây nho đáp rằng: "Chớ thì ta có thể
bỏ việc cung cấp rượu, là thứ làm cho Thiên Chúa và loài người được vui mừng, để
được lên chức cai trị các cây cối khác sao?" Tất cả những cây cối nói với
bụi gai rằng: "Hãy đến cai trị chúng tôi". Bụi gai trả lời rằng:
"Nếu các ngươi thật lòng đặt ta làm vua các ngươi, thì các ngươi hãy đến
nghỉ dưới bóng ta. Nhưng nếu các ngươi không muốn thì sẽ có lửa từ bụi gai phát
ra thiêu huỷ các cây hương nam núi Liban".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 20, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Lạy Chúa, do
quyền năng Chúa mà vua vui mừng (c. 2a).
Xướng:
1) Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua xiết
bao hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin,
Chúa chẳng chối từ.- Ðáp.
2)
Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng
trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người
vua, oai nghiêm với huy hoàng. - Ðáp.
3)
Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn muôn
thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được
hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan. - Ðáp.
Phúc
Âm: Mt 20, 1-16a
"Hay
mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như
chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những
người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.
"Khoảng
giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo
họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các
ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở
ra và làm như vậy.
"Ðến
khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng:
"Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng:
"Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi
cũng hãy đi làm vườn nho ta".
"Ðến
chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà
trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết". Vậy
những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những
người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi
người một đồng. Ðang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những
người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt
ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?" Chủ nhà trả lời với một kẻ trong
nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã
không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn
trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn
sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?"
"Như
thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Lòng
Quảng Ðại Của Thiên Chúa
Dụ
ngôn Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài cho dân chúng được các nhà
chú giải xếp thành hai loại: tỷ dụ và dụ ngôn. Loại tỷ dụ là thể văn mà toàn bộ
những chi tiết đều mang ý nghĩa nòng cốt, còn các chi tiết phụ chỉ làm cho câu
truyện thêm thú vị và khiến người đọc quan tâm chú ý đến ý chính mà thôi.
Câu
truyện về những người thợ vào làm vườn nho của chủ là một dụ ngôn. Chủ đề chính
của dụ ngôn là mối liên hệ của con người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng.
Trong
lúc các Rabbi Do thái thường tính toán phần thưởng Thiên Chúa ban cho mọi việc
lành, thì cách tính toán sòng phẳng theo công bình giao hoán này hoàn toàn bị dụ
ngôn làm đảo lộn, vì nếu chúng ta tính với Chúa, Ngài sẽ tính với chúng ta, và
chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc và chúng ta sẽ là kẻ thiệt
thòi.
Chúa
Giêsu đã dùng dụ ngôn để cảnh cáo người Do thái không nên so đo, phân bì với
người tội lỗi hay người ngoại giáo được ơn Chúa trở lại và thừa hưởng Nước Trời,
bởi vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không do lòng quảng đại của Chúa, chứ
không do lòng đạo đức hay công nghiệp của con người. Câu trả lời của Chúa Giêsu
cho những kẻ phàn nàn kêu trách nêu bật lòng quảng đại của Thiên Chúa:
"Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi
một quan sao; cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào
làm sau chót này cũng được bằng bạn, tôi không có quyền được tùy ý sử dụng của
cải tôi sao?". Thiên Chúa đối xử tốt với mọi người, Ngài ban ơn cho mọi
người chỉ vì lòng thương của Ngài mà thôi. Còn con người thì dễ bị cám dỗ, ghen
tỵ, hẹp hòi, muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Chúng
ta hãy xét xem mình đã có thái độ nào đối với người khác, nhất là khi thấy họ
được sự lành? Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tính ghen tỵ và cho chúng ta sống
quảng đại với mọi người.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 20 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Judg 9:6-15; Mt
20:1-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự khác biệt giữa
Vua Trời và vua chúa trần gian
Vua
chúa trần gian trước khi được lên ngôi hứa hẹn rất nhiều với dân chúng, nhưng một
khi đã lên ngôi rồi, họ quên hết những gì đã hứa với dân chúng, hay nếu có thi
hành, cũng chẳng được bao nhiêu. Trái lại, Thiên Chúa trung thành giữ tất cả những
gì Ngài hứa với con người, cho dẫu con người không trung thành với những gì họ
hứa. Hơn nữa, Ngài luôn tìm cách để giúp đỡ những người nghèo khó, tội lỗi, hay
yếu kém hơn.
Các
Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa Thiên Chúa và các nhà lãnh
đạo trần thế. Trong Bài Đọc I, Abimelech trở về quê hương để vận động những người
đồng hương tôn mình lên làm vua, vì ông biết họ có khuynh hướng chọn những người
đồng hương để có thể nhờ vả sau này. Một khi đã được làm vua, Abimelech quên hết
ân nghĩa và thẳng tay trừng trị những người đã tôn ông lên làm vua. Trong Phúc
Âm, Chúa Giêsu ví Nước Trời như một gia chủ mướn thợ vào làm vườn nho của mình.
Ông thỏa thuận với thợ lương công nhật là một đồng một ngày. Sau đó, ông trở ra
và kêu gọi nhiều thợ nữa vào làm vườn nho với những giờ khác nhau. Chiều đến,
khi trả công, các người làm việc sớm than trách vì ông trả những người đến làm
sau bằng họ. Gia chủ tuyên bố ông đã công bằng trả cho họ những gì ông và họ đã
thỏa thuận; họ không có quyền ngăn cản ông thương xót và rộng lượng cho những
người làm việc sau.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Hãy nghe tôi đây, thì Thiên Chúa cũng sẽ nghe các người.
1.1/
Lý do dân chúng Shechem tôn Abimelech lên làm vua: Abimelech là con của
Thủ Lãnh Gideon với một nàng hầu mà chúng ta đã đọc ngày hôm qua. Gideon có nhiều
vợ nên có rất nhiều con, tất cả hơn 70 người. Mẹ của Abimelech sinh ra ở
Shechem. Đó là lý do Abimelech trở về quê hương để thuyết phục những người đồng
hương tôn ông nên làm vua, với những lời lẽ như sau: "Xin bà con hỏi các
thân hào Shechem xem điều nào tốt cho các vị: để cho 70 người, tức là tất cả
các con ông Gideon (Jerubbaal) cai trị các vị; hay để một người cai trị các vị
mà thôi? Xin các vị nhớ cho tôi là anh em ruột thịt của quí vị."
Abimelech
rất khôn lanh vì biết dân chúng sẽ vì tình đồng hương mà tôn ông nên làm vua với
hy vọng sẽ được hưởng những lợi nhuận sau này. Bấy giờ tất cả thân hào Shechem
cùng toàn dân Bethmillo họp lại, kéo đến tôn Abimelech lên làm vua, bên cạnh
cây sồi trước bia đá ở Shechem. Abimelech dùng tiền thâu được của đồng hương
Shechem, thuê du đãng đi giết các anh em cùng cha của mình tại Ophrah, tất cả
là 70 người trên cùng một tảng đá; chỉ có Jotham là người con út của Gideon
thoát khỏi.
1.2/
Ông Jotham vạch trần nguy hiểm của việc tấn phong này: Khi người ta báo
tin ấy cho ông Jotham, ông liền lên đứng trên đỉnh núi Gerizim, cất tiếng gọi
và nói với những người kia rằng: "Hỡi các thân hào Shechem! Hãy nghe tôi
đây, thì Thiên Chúa cũng sẽ nghe các người." Sau đó, ông kể cho họ nghe một
dụ ngôn về các cây cối đã lên đường đi xức dầu phong một vua cai trị chúng. Dụ
ngôn được dùng để chỉ nói lên một điều quan trọng mà thôi. Trong dụ ngôn này,
Jotham muốn ám chỉ vị vua đó chính là Abimelech, và cây cối chính là dân chúng ở
Shechem. Abimelech được ví như một "bụi gai," có nghĩa là một người
không xứng đáng và không tài đức, chỉ được tôn làm vua sau khi cây cối đã bị tất
cả các cây khác từ chối lời mời làm vua. Jotham báo trước tai hại mà người
Shechem sẽ phải lãnh nhận từ Abimelech, khi bụi gai nói với các cây cối:
"Nếu quả thật các ngươi xức dầu phong ta làm vua cai trị các ngươi, thì
hãy tới nương náu dưới bóng ta; bằng không, lửa sẽ bốc ra từ bụi gai và sẽ
thiêu rụi các cây bá hương Lebanon!" Sau khi Abimelech lên làm vua, ông đã
thẳng tay trừng trị dân thành Shechem và họ cũng toa rập với nhau để chống lại
ông.
2/
Phúc Âm:
Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn.
2.1/
Dụ ngôn các thợ làm vườn nho: Chúa Giêsu nói: "Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa
tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình."
(1)
Lương công nhật là một đồng: Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan
tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc.
(2)
Thợ vào làm những giờ khác nhau: Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những
người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: "Cả các anh nữa,
hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng." Họ liền đi.
Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy.
(3)
Lý do tại sao vào làm trễ: Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những
người khác đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không
làm gì hết?" Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi." Ông bảo họ:
"Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!" Những người này chỉ làm có một
tiếng đồng hồ mà thôi.
2.2/
Cách trả lương của gia chủ: Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: "Anh gọi thợ
lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người
vào làm trước nhất." Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại,
và lãnh được mỗi người một quan tiền.
(1)
Phản ứng của các thợ làm trước nhất: Khi đến lượt những người vào làm trước nhất,
họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một
quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: "Mấy người sau chót này chỉ
làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người
đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt."
(2)
Phản ứng của gia chủ: Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: "Này bạn,
tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền
sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau
chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt
về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?"
(3)
Áp dụng của dụ ngôn: Nhiều nhà chú giải đã áp dụng dụ ngôn này cho:
+
Người Do-thái và Dân Ngoại: Mặc dù người Do-thái được Thiên Chúa chọn trước,
nhưng ơn cứu độ được phân phối đồng đều cho cả người Do-thái lẫn Dân Ngoại.
+
Người đạo gốc và tân tòng: Người đạo gốc, cho dù đã theo Chúa lâu năm, cũng được
Chúa thưởng đồng đều như người tân tòng mới trở lại đạo, dù chỉ một ngày.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thiên Chúa luôn trung thành với những gì Ngài hứa. Chúng ta hãy đặt trọn vẹn niềm
tin tưởng nơi Ngài. Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế chẳng cứu nổi ai như
Abimelech.
-
Chúng ta đừng áp dụng tiêu chuẩn trần gian cho Chúa. Hãy để Chúa là Thiên Chúa
khi Ngài rộng lượng thi ân cho tất cả mọi người.
-
Thiên Chúa luôn công bằng, nhưng cũng rất nhân từ và khoan dung. Chúng ta trông
cậy vào lòng nhân từ của Thiên Chúa hơn là đòi hỏi Ngài phải công bằng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
19/08/15 THỨ TƯ TUẦN 20
TN
Th. Gio-an Ơ-đơ, linh mục
Mt 20,1-16a
Th. Gio-an Ơ-đơ, linh mục
Mt 20,1-16a
Suy niệm: Qua
dụ ngôn người chủ vườn nho này, Chúa Giê-su đã khéo léo dẫn dắt chúng ta nhận
ra hình ảnh của vị Thiên Chúa là Đấng rất nhân từ và rất công bằng với mọi người.
Bắt đầu với việc trả tiền công đều nhau cho mọi người làm công, dù giờ làm của
mỗi người ít nhiều khác nhau, khiến những người được thuê ngay từ giờ đầu khó
chịu. Họ cho rằng ông chủ đã bất công với họ, dẫu từ buổi sáng họ đã đồng ý
thỏa thuận mức lương với ông chủ. Phải chăng ông chủ cũng “chơi khăm” nên trả
tiền cho người đến sau trước, để những người đến trước thấy mà ganh tỵ? Sự công
bằng của con người tính theo sự sòng phẳng, có làm thì có ăn. Còn sự công bằng
của Thiên Chúa vượt cao hơn thế, sự công bằng của tình yêu Thiên Chúa. Ngài
không để một ai thiệt mất bao giờ. Ngài cần chúng ta có thiện chí. Ngài cần
chúng ta có đôi tay cộng tác với Ngài, thì phần thưởng Ngài dành cho chúng ta
không dựa theo sự công bằng hẹp hòi của chúng ta mà là theo lòng nhân hậu vô
biên của Ngài.
Mời Bạn: Nghiền
ngẫm câu Kinh thánh được trích ở trên (Mt 20,15b) để cảm nghiệm lòng từ tâm và
sự công bằng của Thiên Chúa mỗi ngày.
Chia sẻ: Có
bao giờ bạn được một người chủ đối đãi với bạn như ông chủ trong đoạn Kinh
Thánh hôm nay chưa? Cảm nghiệm của bạn ra sao?
Sống Lời Chúa: Đối
đãi cách từ tâm với người giúp việc cho bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con sống công bằng, không ganh tỵ, ghét
ghen. Xin đừng để miệng lưỡi chúng con nói lời tổn thương nhau vì ghen tỵ. Xin
Chúa thêm sức để chúng con sống quảng đại hơn. Amen.
Vì tôi tốt bụng
Suy niệm:
Sau
khi anh thanh niên giàu có từ chối lời mời của Đức Giêsu
ông
Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:
“Chúng
con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?”
Thầy
Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả lời khá dài.
Họ
sẽ được xét xử các chi tộc Ítraen, được gấp trăm về mọi sự,
và
nhất là được hưởng sự sống đời đời (Mt 19, 27-30).
Như
thế ở đây Nước Trời được coi như một phần thưởng,
một
sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh.
Các
môn đệ cho đi, và rồi họ sẽ được lại.
Bài
Tin Mừng hôm nay nằm ngay sau câu chuyện trên.
Dưới
một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau,
nhưng
bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa.
Thiên
Chúa không phải chỉ là Đấng công bằng,
thưởng
công cho những gì chúng ta đã vất vả cố gắng.
Người
còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương.
Dụ
ngôn về “người thợ giờ thứ mười một” cho thấy điều đó.
Thật
ra phải gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ông chủ độ lượng”.
Trong
thế giới thời Đức Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng
và
trả công cho thợ buổi chiều theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).
Lương
công nhật là một quan tiền (denarius),
tiền
này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản.
Dụ
ngôn hôm nay có nhiều nét khác thường mà không có lời giải thích.
Ông
chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn người, thay vì viên quản lý.
Những
người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6)
lại
không được ông chủ thấy và mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều lần.
Chỉ
nhóm thợ đầu tiên mới được thuê với tiền công rõ ràng,
còn
ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ công bằng” (c.4).
Cuối
cùng ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm đầu và cuối.
Dụ
ngôn này trở nên hết sức khác thường
với
việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước.
Những
người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều)
cả
ngày làm có một tiếng, được trả một quan tiền.
Điều
này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm,
“đã
làm việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).
Nhưng
rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền.
Chúng
ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ
để
xem họ sẽ sửng sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.
Có
lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy.
Phản
ứng này cũng là phản ứng giận dữ của người anh cả
khi
biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.
Đối
với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công.
Bất
công nằm ở chỗ làm nhiều, làm ít, nhận lương như nhau.
Nhưng
ông chủ không cho đây là một sự bất công,
vì
ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những
câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất,
những
câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa.
“Tôi
muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14).
Tôi
muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh:
đó
là ước muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa.
Tình
thương của Người phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối,
người
làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít.
“Chẳng
lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn
với tài sản của tôi sao?” (c. 15).
Thiên
Chúa giàu sang nên có quyền rộng rãi thi ân cho kẻ Người muốn.
Chẳng
ai có thể bắt Người phải đối xử công bình theo kiểu con người.
Chẳng
ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng (c.12).
“Hay
mắt của anh xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15).
Con
mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù không đáng,
ghen
tỵ với may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người khác.
Đức
Giêsu khẳng định mình là người tốt lành,
đặc
biệt trong cách cư xử của Người đối với những tội nhân.
Anh
trộm lành trên thập giá cũng là người thợ giờ thứ mười một.
Anh
được hưởng những gì mà người khác phải nỗ lực cả đời.
Nói
cho cùng, vấn đề không phải là đáng hay không đáng.
Chẳng
ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh.
Hạnh
phúc Nước Trời là một ơn ban
hơn
là một sự trả công hay phần thưởng.
Thiên
Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng có tính mua bán của con người.
Người không
phải là nhà buôn, nhưng là người cha tốt lành.
Cha
thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời.
Thậm
chí đứa hư hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn.
Ông
chủ vườn nho thương cả những người
đứng
ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn.
Có
thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?
Người
thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn nho của ông chủ?
Chắc
chẳng được bao nhiêu.
Nhưng
anh ấy đã đứng chờ suốt ngày.
Thế
giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một,
“những
người không được ai mướn” (c.7),
những
người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt ngày, suốt đời,
những
người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được trả lương ra
sao.
chỉ
biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Những
người này khác với những người làm từ sáng,
biết
chắc mình sẽ được trả công một quan tiền.
Dụ
ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hĩ.
Nhưng
chắc là đã có những tiếng reo.
Thiên
đàng đầy ắp những tiếng reo như thế,
kinh
ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân…
Chẳng
có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên
vì
thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ,
quá
nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng.
Người
ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người
mà
ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được.
Thiên
Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho.
Người
còn thấy cả thời gian chờ.
Nhiều
khi chờ còn mệt hơn làm việc.
Đừng
cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên Chúa,
Đấng
hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ,
vì
lòng tốt của Ngài không sao hiểu được.
Hãy
vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ.
Chúng
ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha đang vui.
Hãy
đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa.
Như
thế chúng ta cũng sẽ thay đổi cách cư xử với anh em.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
19 THÁNG TÁM
Tiến
Tới Một Thế Giới Có Tính Người Hơn
Công
Đồng Vatican II đã nhấn mạnh rất rõ ràng ý nghĩa đạo đức của sự phát triển và
tiến bộ của con người trong thế giới này. Công Đồng cho thấy lý tưởng đạo đức của
một thế giới có tính người hơn gắn chặt với giáo huấn của Tin Mừng như thế nào.
Trong
khi phân biệt rõ ràng giữa sự phát triển của thế giới và lịch sử cứu độ, các
Nghị Phụ Công Đồng khảo sát mối tương quan giữa hai lãnh vực ấy: “Tuy phải phân
biệt rõ rệt những tiến bộ trần thế với sự bành trướng Vương Quyền của Chúa
Kitô, nhưng những tiến bộ này trở thành quan trọng đối với Nước Thiên Chúa tùy
theo mức độ chúng có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người cho tốt đẹp
hơn. Thực vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến
trên trái đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa
là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ
gặp lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được
chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô giao hoàn lại Chúa Cha vương quốc
vĩnh cửu và đại đồng: “Vương Quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện
và diễm phúc, vương quốc công bình, yêu thương và bình an”. Vương quốc ấy đã hiện
diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến” (MV 39).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
19-8
Thánh
Gioan Êuđê, linh mục
Tl
9, 6-15;Mt 20, 1-16a.
LỜI
SUY NIỆM: “Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã
ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.”
Quyền
được sống trong Nước Trời là quyền của Thiên Chúa ban cho con người. Chúa không
ấn định, nhưng Ngài luôn mời gọi, mời gọi hết thảy mọi người không trừ một ai,
Ngài mời gọi để đảm nhận một công việc, và cuối cuộc đời làm người, Ngài sẽ thưởng
công theo lượng từ bi của Ngài, không gây thiệt hại cho bất cứ ai. Tất cả chúng
ta không thể ganh tị với người khác vì tình thương của Ngài, nhưng phải khiêm
nhượng nhận lấy ân huệ mà Ngài đã hứa ban.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúng con tạ ơn Chúa đang cho chúng con được sống và làm việc trong
vườn nho của Chúa. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con chu toàn bổn
phận và trách nhiệm của mình mà Chúa đã giao phó khi chúng con sống với nhau.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
19-08
Thánh
GIOAN EUDÊ
Linh
Mục (1601 - 1680)
Thánh
Gioan Euđê là một trong số những người chấn hưng tôn giáo tại Pháp thời vua Luy
XVI. Isaac Euđê, cha Ngài là nhà nông kiêm nghề giải phẫu tại thành Ri gần
Argentan, đã có ý định trở thành linh mục, nhưng rồi lại bỏ ý định để lập gia
đình. Mẹ Ngài là bà Mattha Corbin tưởng sẽ phải son sẻ. Nhưng rồi sau nhờ cầu
nguyện, họ sinh được Gioan với bốn em gái và hai em trai nữa.
Gioan
có tính nóng nảy, nhưng hiến mình cho Đức Trinh Nữ Maria, Ngài quyết sửa mình bằng
cách ngày càng mến Mẹ hơn. Hồi 9 tuổi, có lần Ngài bị một thằng bạn vả mặt, nhớ
lời Chúa Ngài đưa má kia ra: còn má này nữa, nếu muốn anh cứ vả tiếp đi. Thằng
bạn ngượng ngùng và sau này đã kể lại sự kiện đó với niềm thán phục sâu xa.
15
tuổi Gioan theo học các cha dòng Tên tại Caen. Từ trong huyết quản Gioan đoan hứa
dâng mình cho mẹ Thiên Chúa. Nhưng khi trở về nhà, cha mẹ nói với Ngài về việc
hôn nhân. Ngài bày tỏ ước vọng với cha mẹ và phải khó khăn lắm mới được cha mẹ
ưng thuận. Ngài nhập dòng giảng thuyết và năm 1625 thụ phong linh mục.
Sau
ngày thụ phong, Gioan phục vụ giáo xứ ở Aubervilliers. Hai năm sau, một cơn dịch
xảy tới tàn phá giáo phận Sees. Các bệnh nhân bị những người khác bỏ mặc và trốn
chạy. Gioan chỉ muốn bay tới để giúp đỡ họ. Trong suốt hai tháng trời, Ngài hết
mình phục vụ. Khi cơn dịch hạ giảm, Ngài thực hiện sứ vụ tại Caen. Nhưng cơn dịch
chưa dứt mà chỉ dời chỗ. Lần này cơn dịch tràn tới Caen. Gioan lại tận tâm quên
mình phục vụ. Không có gì làm cho Ngài sợ hãi cả. Nhưng dân chúng lại sợ Ngài
truyền bệnh. Bởi đó Ngài bị giam mình trong một cái thùng để ở ngoài đồng ruộng,
khiến lúc đó cánh đồng được gọi là "cánh đồng của thánh nhân". Các nữ
tu thương hại Ngài ngày ngày mang của ăn đến cho Ngài. Ngài trở về dòng hiến
mình phục vụ hai tu sĩ và bề trên sắp chết vì bệnh dịch. Cuối cùng, cơn dịch
tan biến, nhưng Gioan lên cơn sốt, dân chúng khẩn cầu tha thiết cho Ngài được
chữa lành và niềm vui thật lớn lao khi người "Samaritanô nhân hậu"
tái xuất hiện.
Bây
giờ bắt đầu công trình rao giảng và truyền giáo của Ngài. Ngài chống lại lạc
thuyết Calvinô, những kinh hoàng của cuộc nội chiến, sự dốt nát của hàng giáo
sĩ, những tật xấu của các tín hữu. Chúng ta có thể đo lường hoạt động của một vị
thánh như thế nào: 15 ngàn người chen lấn nghe thánh nhân giảng, các tội nhân
sám hối và để được xưng tội, họ phải chờ 4 hay 5 ngày mới đến lượt. Trong khi để
tiết kiệm thì giờ của họ. Ngài chỉ dùng vài miếng bánh để dưỡng sức. Các thói tục
ngoại giáo biến dạng. Ở Autun, cuộc rước Trinh nữ thay thế cho những gương mù
ngày Mi-Careme (thứ 5 tuần III mùa chay). Ở Meaux dân chúng mang các sách đồi
trụy đến công trường để đốt bỏ.
Cha
Gioan Euđê đã giảng thuyết khắp vùng Normandie Bretagne, tới tận Saint Etienne.
Tại Paris, cha sở thánh thiện của Saint - Sulpice, M.Olier, đã tổ chức cho Ngài
5 kỳ giảng thuyết. Ngài danh tiếng đến nỗi có 10 giám mục hiện diện. Ở Saint
Germain-Laye, vua và hoàng hậu đến ngồi vào ghế thính giả. Cha Gioan Euđê thuyết
giảng lần cuối cùng tại Sain-Lô.
Suốt
40 năm, cha Gioan đi rao giảng đó đây. Nhưng việc rao giảng chỉ là một phần hoạt
động của Ngài. Nhận thấy hàng giáo sĩ không được đào tạo đầy đủ, Ngài từ giã
dòng giảng thuyết năm 1643, để lập hội dòng Chúa Giêsu và Đức Maria lo việc tổ
chức các chủng viện. Theo lời đề nghị của Đức Hồng Y Richelieu, Ngài lập đại chủng
viện ở Caen rồi sau này ở Lisieux, Rouen, Eureux và Renner. Đàng khác Ngài rất
thương cảm các thiếu nữ bất hạnh hoàn lương, năm 641 Ngài đã lập dòng Chúa
chiên lành để săn sóc họ.
Giữa
bao nhiêu công chuyện, ước mơ lớn nhất của thánh Gioan Eusê là phổ biến lòng
tôn sùng Thánh Tâm, Ngài là người khởi xướng, viết sách và các thánh thi ca tụng
Thánh Tâm. Đây là nỗ lực chống lại chủ trương sai lầm của thuyết Giansêniô.
Ngày
19 tháng năm 1680, thánh Gioan Euđê từ trần, Ngài được phong chân phước năm
1925 được tôn phong hiển thánh.
***************************************
Ngày 19-08
Ngày 19-08
Thánh
RÔMUALĐÔ
Tu
Viện Trưởng (956 - 1027)
Thánh
Rômualdô sinh tại Ravenna năm 956, trong một gia đình danh giá nước Ý. Bá tước
Sergiô, cha Ngài đã phụng dưỡng Ngài trong một nếp sống xa hoa. Rômualdô đã chỉ
tìm vui chơi mà không nghĩ gì tới bổn phận phải nên thánh. Dầu vậy đôi lần đi
săn thú, Ngài thấy mình đơn độc giữa rừng vắng và phải suy nghĩ... Ngài đặt
mình vào một ngày nào đó phải chết và bỗng thấy lo âu. Ngài cũng thấy rằng các ẩn
sĩ chọn đời sống cô tịch, hãm mình để hiến thân phụng sự Chúa thật là đúng đắn.
Những giấc mơ như vậy thanh luyện hồn Ngài và cảm kích bởi ơn thánh Ngài tự hứa
với mình là sẽ cải thiện đời sống nhưng rồi trở lại với những thú vui ngày thường
Ngài lại lùi bước trước nỗ lực và lao mình theo các thị hiếu.
Một
biến cố đau thương đã thành phương tiện Thiên Chúa dùng để gỡ Rômualđô khỏi những
ràng buộc với thế gian. Sergiô cha Ngài gây lộn với một người bà con về việc sở
hữu một cánh đồng đã thách đấu kiếm, ông còn bắt con mình dự vào cuộc đấu.
Sergiô giết chết đối thủ, coi mình là đồng lõa với tội phạm này và thấy phải đền
trả. Rômuadô đã vào tu viện để thống hối suốt 40 ngày. Bị đánh động bởi thực tế
trái ngược hẳn với lối sống phân tán của thế gian, Ngài chỉ còn nghĩ tới việc bắt
chước những khắc khổ mà Ngài được chứng kiến.
Bá
tước Sergiô cảm kích vì mẫu gương của con mình đã vào dòng. Khi bị cám dỗ trở về
đường xưa, ông lại dẫn con mình kịp thời can thiệp và tiếp tục trung thành với
đời sống đền bồi cầu nguyện.
Sau
7 năm sống trong dòng, Rômuado dấn mình vào sa mạc, sống gần vị ẩn sĩ già là
Marinô. Đây là bậc thầy nghiêm ngặt mà Ngài đã chọn, Marinô thường lấy roi đánh
trên đầu môn đệ của mình để xua đuổi sự chia trí lo ra hay để phạt một lầm lỗi
khi đọc thánh vịnh, hay hơn nữa để giúp họ quen chịu khổ. Ông lại hay đánh có một
phía. Rômuado không hề phàn nàn kêu trách.
Một
ngày kia Ngài nói với thầy: - Thưa thày, từ nay xin thầy đánh về phía mặt vì
tai trái con hầu như điếc rồi.
Rômuado
thầm cảm phục và kính trọng môn đệ mình.
Rômuado
nuôi chí hứơng canh tân dòng Bênêdictô đang thời sa sút, Ngài thiết lập một tu
viện. Ngài làm cho các môn đệ nhiệt tình nên hoàn hảo trong việc hãm mình, khi
phải chống lại sự dữ và phạt tội lỗi, thánh nhân đã tỏ ra cương nghị, chẳng hạn
khi vua Othen III đến tu viện để đền bù tội lường gạt và sát hại một thủ lãnh
loạn luân, ông được truyền dạy phải đi chân không tới nhà thờ thánh Micae và suốt
mùa chay, phải ở trong đồng mà ăn chay, ngủ trên rơm cỏ.
Rômuado
chống gậy rảo khắp nước Ý sang cả Pháp và Đức. Ngài xây nhiều nhà thờ, thiết lập
nhiều tu viện, và các trung tâm ẩn tu trong sa mạc. Ngày kia, Ngài tìm được một
nơi thanh vắng trong dãy Apennins. Ngài mơ thấy một cái thang bắc lên trời, có
các tu sĩ lên xuống. Vị lãnh chúa miền này cho Ngài cánh đồng Malđôli. Thánh
nhân lập dòng Camaldules sống đời liên lỉ.
Vào
tuổi 120, thánh Rômuado từ trần, ngày 19 tháng 6 năm 1076.
Sau
439 năm xác Ngài còn nguyên vẹn và được đặt trong nhà thờ của dòng ở Fabrianô.
(daminhvn.net)
19
Tháng Tám
Hãy Nhìn Lên Cao
Dạo
cuối tháng 4/1990, ở cao độ 620 cây số trên biển Thái Bình Dương, cánh tay dài
12 thước của người máy từ phi thuyền con thoi Discover đã đưa ống thiên văn
Hubble rời xa phi thuyền để đi vào quỹ đạo không gian, bắt đầu một cuộc hành
trình quan sát vũ trụ được dự trù kéo dài trong suốt 15 năm, mở đầu cho một kỷ
nguyên mới trong ngành thiên văn học.
Do
nhu cầu tìm hiểu vũ trụ, kính thiên văn đã được ra đời cách đây khoảng 380 năm.
Nhờ kính thiên văn, các nhà thiên văn học mới có thể quan sát một cách chi tiết
những thiên thể ở gần trái đất và từ đó đưa ra những định lý căn bản cho ngành
thiên văn học. Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học, đặc biệt là những máy điện
toán, những kính thiên văn ngày càng được cải tiến về kỹ thuật cũng như kích
thước để gia tăng khả năng quan sát. Hai kính thiên văn có đường kính lớn nhất
hiện nay được đặt trên đỉnh núi Palomar và Caucasus. Nhưng dù được cải tiến
cách mấy đi nữa, khoảng cách quan sát và mức độ phân giải của kính thiên văn đặt
trên mặt đất vẫn còn bị giới hạn, vì ánh sáng từ các thiên thể trước khi đến mặt
đất đã bị ngăn cản và tản xạ nhiều bởi lớp khí quyển bao quanh trái đất.
Ý
tưởng về kính thiên văn đặt ngoài không gian đã được đề cập đến năm 1923, nhưng
mãi đến năm 1981, ý tưởng này mới được thực hiện với một kinh phí khổng lồ là 1
tỷ rưỡi Mỹ kim. Kính thiên văn đặt ngoài không gian trái đất này mang tên khoa
học gia Hoa Kỳ Edwin Hubble, một trong những tài năng lỗi lạc nhất trong ngành
thiên văn học.
Sự
ra đời của kính thiên văn Hubble có thể so sánh với sự ra đời của kính thiên
văn đầu tiên của Galilêô vào năm 1609: đây là bước tiến quan trọng trong ngành
thiên văn học, nó giúp con người tiến đến gần chân lý hơn trên con đường tìm hiểu
vũ trụ.
Càng
lên cao, con người mới nhìn xa thấy rộng. Càng ra khỏi mặt đất, càng lên cao
trên không gian, nhãn giới của chúng ta càng mở rộng. Cũng giống như ống kính
thiên văn Hubble, người Kitô hữu cũng được trang bị bằng cái nhìn từ trên cao.
Nhờ cái nhìn ấy, chúng ta nhìn thấy được ý nghĩa của cuộc sống, chúng ta biết
được đâu là nguồn gốc và cùng đích của chúng ta. Nhờ cái nhìn ấy, chúng ta có
thể nhìn thấy dấu vết của một tình yêu luôn hiện diện và tác động trong lịch sử
nhân loại và của từng người.
Khi
Chúa Giêsu loan báo về cuộc tử nạn của Ngài, Phêrô kéo Ngài lại và can gián
Ngài. Chúa Giêsu đã quở trách ông: "Hãy lui ra đằng sau ta hỡi Satan.
Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, bởi vì cái nhìn của ngươi không phải là cái nhìn của
Thiên Chúa, mà là của loài người".
Lắm
lúc chúng ta cũng khước từ cái nhìn trên cao của Thiên Chúa để chỉ nhìn vào cái
biến cố bằng cái nhìn trần tục của chúng ta. Với cái nhìn trần tục, chúng ta chỉ
thấy màu đen của thất bại, chết chóc, thất vọng, buồn thảm. Nhưng với cái nhìn
của Chúa, sự yếu đuối sẽ trở thành sức mạnh, mất mát sẽ trở thành lợi lộc, khờ
dại sẽ trở thành khôn ngoan. Trong cái nhìn của Chúa, chúng ta sẽ chỉ thấy ánh
sáng, hy vọng, tin tưởng, lạc quan.
Thánh
Phaolô đã khuyên chúng ta: "Hãy yêu thích những sự trên trời". Hãy mặc
lấy cái nhìn từ trên cao. Hãy luôn sống và hành động bằng những tâm tình của
chính Chúa Giêsu.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét