31/08/2015
Thứ Hai sau Chúa Nhật
22 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm I) 1 Tx 4, 13-17
"Nhờ
Ðức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem những người đã chết đến làm một với Người".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh
em thân mến, chúng tôi chẳng muốn để anh em không biết gì về số phận những người
đã an nghỉ, để anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những kẻ không
có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin Ðức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng
vậy, những người đã chết nhờ Ðức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với
Người.
Bởi
vậy, chúng tôi dựa vào lời Chúa để nói cùng anh em điều này: chúng ta, những kẻ
đang sống, những kẻ còn sót lại khi Chúa đến, thì chúng ta không đi trước những
người đã an nghỉ. Vì khi nghe lệnh và tiếng Tổng lãnh Thiên thần, và tiếng loa
Thiên Chúa, thì chính Chúa từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Ðức
Kitô sẽ sống lại trước hết, rồi đến chúng ta, những kẻ đang sống, những kẻ còn
sống sót, chúng ta sẽ được nhắc lên cùng với họ trên các tầng mây, đi đón Ðức
Kitô trên không trung, và như vậy, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa luôn mãi.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 95, 1 và 3. 4-5. 11-12. 13
Ðáp: Chúa ngự tới
cai quản địa cầu (c. 13ab).
Xướng:
1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa
cầu. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn
quốc. - Ðáp.
2)
Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen, Người khả úy hơn mọi bậc
chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời
xanh. - Ðáp.
3)
Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan, biển khơi và muôn vật trong đó
hãy reo lên, đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui
tươi hớn hở. - Ðáp.
4)
Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người
sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 110, 8ab
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, mọi giới răn Chúa được lập ra cho tới muôn đời. -
Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 4, 16-30
"Người
sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó... Không một tiên tri nào được
đón tiếp tại quê hương mình".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Chúa Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người,
thì ngày Sabbat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao
cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng:
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng
Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự
giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những
kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Người
gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường
đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn
Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người
và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người
này không phải là con ông Giuse sao?"
Và
Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này:
"Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình"; "điều chúng tôi nghe
xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông". Người nói tiếp:
"Ta bảo thật các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương
mình. Ta bảo thật các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Êlia, khi trời
bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy,
Êlia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến
bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel
thời tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại
trừ Naaman, người Syria".
Khi
nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất
Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ,
để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Bụt Nhà Không Thiêng
Không
thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau thử thách. Ðó là số phận
chung của các tiên tri từ Cựu Ước qua Tân Ước. Những kẻ không được sai đi, tự lấy
danh mình mà nói, đó là những tiên tri giả; còn các tiên tri thật ý thức mình
được Chúa sai đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế thường tạo
ra nơi vị tiên tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia trải qua khủng
hoảng và ngay cả thất vọng khi phải trung thành với Lời Chúa; Yêrêmia đã nhiều
lần ca thán và có lúc chỉ muốn đào thoát. Ðau khổ nhất cho các tiên tri là thấy
lời nói của mình không được lắng nghe.
Chúa
Giêsu không chỉ đến để làm cho lời các tiên tri được ứng nghiệm, Ngài cũng là vị
tiên tri đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của các tiên tri: đối
đầu với những giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên tri: Ngài nghiêm khắc
với những kẻ khóa Nước Trời không cho người khác vào. Ngài nổi giận trước sự giả
hình của những người Biệt phái. Ngài đặt lại vấn đề tư cách là con cháu Tổ phụ
Abraham mà người Do Thái vẫn tự hào. Nhất là Ngài rao giảng không chỉ bằng lời
nói, mà còn bằng cả cuộc sống của Ngài; do đó, bị chống đối, bị bách hại là số
phận tất yếu của Ngài.
Tin
Mừng hôm nay là lời tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu sẽ trải
qua. Sau một thời gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài được nhiều
người biết đến. Thế nhưng, khi trở về quê hương, Ngài chỉ nhận được sự hững hờ
và khinh rẻ của người đồng hương mà thôi. Quả thật, như Ngài đã trích dẫn câu tục
ngữ quen thuộc: "Không tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của
mình", đó là định luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát khỏi. Nhưng
quê hương đối với Chúa Giêsu không chỉ là ngôi làng Nazaréth nhỏ bé, mà sẽ là
toàn cõi Palestina. Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài đã không đón
tiếp Ngài. Cái chết trên Thập giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của Chúa
Giêsu, là lời nói cuối cùng của Ngài như một vị tiên tri.
Là
thân thể, là sự nối dài của Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ mện tiên
tri của Ngài trong trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận bị chống
đối và bách hại. Một Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một Giáo Hội thỏa
hiệp, nghĩa là đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ
phép Rửa, người Kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô:
bằng lời nói, và nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai trò tiên tri
của mình trong xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần xức dầu và
sai vào trần thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin Mừng của Chúa dù
gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, vì biết rằng mình đang sống ơn gọi
tiên tri.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 22 TN1
Bài đọc: I Thes 4:13-18; Lc
4:16-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hy vọng vào cuộc sống
trường sinh giúp con người diệt trừ bản ngã.
Một
trong những lý do ngăn cản con người tiến tới trên đường trọn lành là bản ngã:
cái tôi ích kỷ trong con người. Hầu như mọi tội lỗi đều có nguồn gốc từ bản ngã
này. Trong khi Đức Kitô cố gắng dạy dỗ các môn đệ vượt qua khuynh hướng xấu xa
này, thì đa số nhân loại ngày nay lại tôn thờ nó dưới mầu sắc khác nhau: khuynh
hướng cá nhân chỉ nhằm đạt lợi ích cho bản thân, khuynh hướng vật chất chỉ nhằm
hưởng thụ vật chất và gạt ra ngoài những giá trị luân lý, tinh thần. Làm sao
con người có thể diệt trừ bản ngã này?
Các
Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta hiểu sự nguy hiểm của bản ngã này và cách để diệt
trừ chúng. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô hướng lòng các tín hữu Thessalonica đến
mục đích tối hậu của cuộc đời là hy vọng được sống trường sinh bất tử với Thiên
Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn vạch ra tai hại của những người sống theo
bản ngã này: họ từ chối và muốn tiêu diệt ngay cả Đấng đem lại cho họ niềm hy vọng
được sống đời đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Hy vọng của chúng ta là sẽ được cùng sống lại với Đức Kitô.
1.1/
Sự cần thiết của hy vọng:
Hy vọng như thế nào, sẽ sống như thế ấy. Nếu không hy vọng vào cuộc sống mai
sau, con người sẽ níu kéo những giá trị của đời tạm này. Thánh Phaolô nhắc nhở
cho các tín hữu hai điều chính về cuộc đời:
(1)
Chết không hết, nhưng bắt đầu cuộc sống đời đời với Thiên Chúa: Ngài nói:
"Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh
em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những
người không có niềm hy vọng."
(2)
Đức Kitô là niềm hy vọng của các tín hữu: "Vì nếu chúng ta tin rằng Đức
Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc
trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu."
1.2/
Ngày Chúa Quang Lâm: Truyền
thống Do-thái, trước khi Chúa Giêsu đến, hiểu rất mơ hồ về Ngày Chúa Đến và về
cuộc sống đời đời. Đa số cho hạnh phúc của những người được ơn nghĩa với Chúa
chỉ giới hạn trong cuộc đời này: được khỏe mạnh, sống lâu, con đàn cháu đống,
được bình an hạnh phúc; nhưng khi chết là hết. Thư thánh Phaolô gởi tín hữu
Thessalonica I (được viết khoảng 50-60 AD) là tài liệu đầu tiên cho chúng ta mặc
khải của Đức Kitô về những gì xảy ra sau cái chết.
Thánh
Phaolô nói về Ngày Chúa Đến như sau: "Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng
lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời
ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến
chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem
đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế,
chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi."
2/
Phúc Âm:
Thiên Chúa cho mọi người có cơ hội đồng đều, nhưng không phải ai cũng biết lợi
dụng cơ hội.
2.1/
Chúa Giêsu giảng giải cho người đồng hương: Trình thuật kể: Đức Giêsu đến Nazareth, là nơi Người
sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabbath, và
đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaiah. Người mở
ra, gặp đoạn chép rằng: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn
phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công
bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả
lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa." Đức
Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy
trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm
nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Mọi người đều tán thành
và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
2.2/
Chúa Giêsu hiểu rõ thái độ của người đồng hương: Chúa Giêsu không im lặng để nhận
tiếng khen, Ngài muốn họ phải đối diện với thực tế và sửa đổi hai điều.
(1)
Họ muốn Ngài làm nhiều phép lạ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục
ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã
làm tại Capernaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!" Làm
phép lạ là để khơi dậy niềm tin, chứ không phải để điều khiển người làm phép
làm điều mình muốn. Khi không thấy dấu hiệu của đức tin, Chúa Giêsu từ chối việc
làm phép lạ.
(2)
Họ sẽ khinh thường Ngài, vì "bụt nhà không thiêng:" Chúa Giêsu biết
rõ thái độ này của họ, nên Ngài bảo: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn
sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình."
Tại
sao con người có thái độ khinh thường những người trong gia đình hay trong cộng
đoàn? Vì họ không muốn ai hơn mình trong cộng đoàn. Người ngoài đến rồi đi, họ
không ảnh hưởng gì trong cộng đoàn. Người trong cộng đòan là người sống thường
xuyên với mình: đề cao họ là làm giảm giá trị của mình; vì thế, khi khinh thường
người đồng hương, là đồng thời họ đang đề cao cái tôi của mình. Đây là thái độ
vẫn đang xảy ra trong gia đình và cộng đoàn: khinh thường người trong nhà, người
đồng hương, người trong Dòng, người cùng một nước. Trái lại, đề cao và tôn trọng
người ngoài. Lẽ ra, chúng ta phải nâng đỡ và khuyến khích anh/chị/em cùng nhà
và cùng nguồn gốc, vì "khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ
hoài đá nhau." Đây là thái độ giết tài năng của người trong gia đình, và
ngăn cản việc cùng nhau cộng tác. Nếu vượt qua được thái độ này, gia đình và cộng
đoàn sẽ tiến rất mau và mạnh.
Chúa
Giêsu muốn sửa chữa thái độ của họ, nên Ngài đưa ra hai sự kiện lịch sử để chứng
minh tai hại của thái độ "bụt nhà không thiêng." Ngài nói: "Thật
vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Elijah, khi trời hạn hán suốt ba năm
sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế
mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà
goá thành Zareptha miền Sidon. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Elisah, thiếu gì người
phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông
Naaman, người xứ Syria thôi."
Lịch
sử tái diễn khi Chúa Giêsu vừa nói xong những lời này, mọi người trong hội đường
đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên
núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Lẽ ra họ phải biết
sáng suốt chấp nhận thực tế: khen và tôn trọng những gì đáng khen; phán xét theo
như sự việc là, đừng để bất cứ thành kiến nào ngăn chận để đưa đến phán đoán
sai lầm; nhưng họ để cho cái bản ngã ích kỷ và thành kiến che mắt để rồi lại muốn
giết luôn Đấng mong muốn mọi sự tốt lành cho họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Hy vọng vào cuộc sống trường sinh phải là động lực chính giúp chúng ta vượt qua
cái tôi ích kỷ của mình để làm theo những gì Đức Kitô dạy dỗ.
-
Khi chúng ta tháo bỏ bản ngã của mình, Thiên Chúa sẽ làm đầy chúng ta bằng tình
yêu và ơn thánh của Ngài, để chúng ta ngày càng trở nên giống Ngài hơn. Ngược lại,
nếu chúng ta để cho bản ngã hoành hành, chúng ta sẽ đi dần đến chỗ từ chối luôn
mục đích của cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
31/08/15 THỨ HAI TUẦN
22 TN
Lc 4,16-30
Lc 4,16-30
Suy niệm: “Tin Mừng đem lại sự tha thứ
cho quá khứ, đời sống mới cho hiện tại, và hy vọng cho tương lai” (J. Sentamu). Một kinh nghiệm ta có thể đã
trải qua: quá khứ mình đầy những lỗi lầm; đời sống hiện tại thường là những bổn
phận, việc làm đơn điệu, buồn tẻ; tương lai lại là những gì bấp bênh, mờ mịt,
nằm ngoài tầm với của mình. Tin vào Đức Giê-su, đón nhận Tin Mừng của Ngài
không làm thay đổi hoàn cảnh sống ngay lập tức, nhưng đem lại cho ta một cái
nhìn mới mẻ về cuộc đời. Rồi từ cái nhìn mới mẻ ấy, đời sống ta sẽ dần dà
chuyển biến tích cực. Máu Đức Giê-su đổ ra để tẩy xóa tội ta; sự sống lại của
Ngài đem lại ý nghĩa cho cuộc sống hiện tại của ta; và sự sống vĩnh cửu là niềm
hy vọng của ta.
Mời Bạn: “Xin các bạn ghi nhớ điều này:
không thể loan báo Tin Mừng của Đức Giê-su nếu không là chứng tá có thể đụng
chạm được trong cuộc sống” (ĐGH
Phanxicô). Đời sống chứng tá ấy là sự vui tươi trên khuôn mặt, niềm thông cảm
trong ánh mắt, sự sẵn sàng mở ra nơi đôi tay, thái độ hiền hòa trong lối cư xử,
lòng kiên nhẫn trong yêu thương... Nếu bạn chưa là chứng nhân, đó là vì bạn
thiếu yếu tố nào?
Sống Lời Chúa: Tôi
cảm tạ Chúa vì hồng ân biết Tin Mừng của Ngài, và nỗ lực trở thành chứng tá
tích cực khi thực hành những điểm trên đây.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, cả triệu người chưa biết Chúa. Nhưng biết Chúa thì
được cái gì? Chúa đến để làm gì, nếu đời sống con cái Chúa cứ tiếp tục y như
cũ... Ước gì sứ điệp của Chúa trở nên máu thịt, trở nên lẽ sống của cuộc đời
chúng con. (TGM
H. Camara)
Trả lại tự do
Thế giới hôm nay giàu hơn, nhưng vẫn còn lắm người
nghèo như xưa. Nghèo vì thiếu những điều kiện sống cơ bản, thiếu những quyền lợi
căn bản. Nghèo vì chưa được nghe biết về Đức Giêsu...
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
thánh Luca kể chuyện Đức Giêsu
đến giảng tại hội đường
Nadarét, vào một ngày sabát (c. 16),
Dù trước đó Ngài đã giảng
tại Caphácnaum và nhiều nơi khác (cc. 15. 23),
nhưng thánh Luca đã cố ý đặt
ngay ở đầu sứ vụ công khai
cuộc gặp gỡ đặc biệt này
giữa Ngài với người đồng hương ở Nadarét.
Đây là nơi Đức Giêsu tuyên
bố chương trình sắp tới của Ngài.
Chương trình ấy được gói
trong những câu trích dẫn từ ngôn sứ Isaia.
Được thụ thai bởi quyền năng
Thánh Thần (Lc 1, 35),
và được lãnh nhận Thần Khí
khi chịu phép rửa (Lc 3, 22),
Đức Giêsu đã được xức dầu để
nhận lãnh sứ mạng làm ngôn sứ.
Sứ mạng này chủ yếu là loan
báo Tin Mừng cho người nghèo.
Loan báo Tin Mừng là động từ hay được Luca sử dụng (4, 43; 7,
22; 8,1…)
Tin Mừng này trước hết dành
cho người nghèo theo nghĩa đen,
nghĩa là những người không
có thu nhập cao, không đủ ăn, đủ mặc.
Ai là người nghèo nữa dưới
mắt của Đức Giêsu?
Đó là những người nghèo tự
do, phải chịu cảnh giam cầm.
Họ có thể là những người bị
tù đày chỉ vì không có tiền trả nợ.
Đó là những người nghèo sức
khỏe,
họ bị coi là chịu sự trói
buộc của Xatan (Lc 13, 16),
Đó là những người nghèo đời
sống tâm linh,
họ phạm tội nên thấy mình xa
cách Thiên Chúa và cộng đoàn.
Đức Giêsu đến để giải thoát
những người nghèo này khỏi áp bức.
Ngài kéo họ ra khỏi cảnh nô
lệ và trả lại tự do cho họ.
Chính vì thế Tin Mừng của
Nước Thiên Chúa luôn đem lại niềm vui.
Đức Giêsu đã loan báo: Phúc
cho anh em là người nghèo (Lc 6, 20).
Ngài đã chữa bệnh cho những
kẻ ốm đau thân xác,
đã mở mắt người mù để họ
thấy ánh sáng của ơn cứu độ.
Ngài cũng đã giao du và ăn
uống với những tội nhân để đưa chiên lạc về.
Bởi đó thời của Đức Giêsu là
Năm hồng ân, Năm Thánh.
Lời giảng của Đức Giêsu bước
đầu đã được dân làng thán phục.
Họ có vẻ hãnh diện vì một
người trong làng được lừng lẫy tiếng tăm.
Nhưng Đức Giêsu không muốn
mình bị chi phối bởi dân làng.
Ngài không muốn bị buộc phải
dành chút ưu tiên nào cho Nadarét (c. 23).
Đức Giêsu còn nhìn xa hơn
đến sứ vụ nơi dân ngoại (cc. 25-27).
Ngài nhắc đến hai vị ngôn sứ
trong Cựu Ước là Êlia và Êlisa.
Hai vị này đã giúp bà góa ở
Xiđôn và tướng Naaman ở Xyri.
Dân Nadarét phẫn nộ và định
giết Đức Giêsu khi Ngài nói rằng
Thiên Chúa chỉ sai hai ngôn
sứ trên đến với dân ngoại mà thôi.
Thế giới hôm nay giàu hơn,
nhưng vẫn còn lắm người nghèo như xưa.
Nghèo vì thiếu những điều
kiện sống cơ bản, thiếu những quyền lợi căn bản.
Nghèo vì chưa được nghe biết
về Đức Giêsu,
hay nghèo vì đã gạt Thiên
Chúa ra khỏi đời mình.
Loan báo Tin Mừng là làm con
người thực sự thêm giàu có.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như
hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc
hướng
vì không tìm được một người
để tin;
vẫn có những người đã chết
từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh
bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình
dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ
thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn,
lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống
bên lề xã hội,
dù
không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn
thấy họ
và biết chạnh lòng thương
như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân
chúng con.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
31 THÁNG TÁM
Đâu Là Vai Trò Riêng Của
Các Hội Đồng Giám Mục Cấp Quốc Gia?
Các hội đồng giám mục quốc gia đã trở thành
một thực tại sống động, cụ thể trên mọi miền thế giới. Thượng Hội Đồng nhận thấy
nhu cầu cần đào sâu sự hiểu biết thần học nhất là nền tảng tín lý của những tổ
chức này. Các tổ chức này đã có nhiều đóng góp rất giá trị cho công việc của
Giáo Hội tại những quốc gia khác nhau. Điề này thật đáng khích lệ. Nhưng sự
phát triển và tầm mức ảnh hưởng ngày càng tăng của các tổ chức này cũng làm bật
lên những vấn đề về tín lý và mục vụ trong Giáo Hội. Chúng ta tự hỏi: Các hội đồng
giám mục nên phát triển như thế nào? Đâu là vai trò của các tổ chức này trong đời
sống Giáo Hội?
Chính Công Đồng Vatican II – trong Sắc Lệnh
về các giám mục và về vai trò quan trọng của các giám mục trong đời sống Giáo Hội
– đã thúc đẩy việc đào sâu nhận hiểu về nền tảng tín lý của các hội đồng giám mục
quốc gia. Trong Bộ Giáo Luật, cũng có đề cập đến các hội đồng giám mục này.
Giáo luật tuyên bố rằng các giám mục “liên kết với nhau thực hiện một số chức
năng để thăng tiến những thiện ích mà Giáo Hội cung ứng cho con người. (GL
447).
Chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần tác động
mạnh mẽ nơi các hội đồng giám mục quốc gia – để mọi quốc gia trên trái đất này
có thể được chăm sóc mục vụ hữu hiệu và được lớn lên trong đức tin.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
31-8
1Tx
4, 13-18; Lc 4,16-30.
LỜI
SUY NIỆM: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị
vừa nghe”
Người
tín hữu được thấm nhuần Lời Chúa, họ luôn được Thần Khí Thiên Chúa soi sáng, hướng
dẫn, giúp họ nhận ra những gì đang xãy ra cho họ cho xã hội của họ, cho thời đại
họ đang sống. Tất cả không phải là sự ngẫu nhiên hay tự nhiên mà họ gặp phải
hay họ nhìn thấy, Nhưng là để biết sám hối, canh tân đời sống của mình, và cầu
nguyện cho mình và cho tha nhân.
Lạy
Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con, được thấm nhuần Lời
Chúa, để tất cả trong tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng con luôn soi vào Lời
Chúa để sống.
Mạnh
Phương
31
Tháng Tám
Ốc Ðảo Hòa Bình
Cách
Giêrusalem khoảng 30 cây số, một số người Do Thái và Ả Rập đã tình nguyện sống
chung với nhau trong một ngôi làng mà người Do Thái gọi là Nevé Shalom, còn người
Ả Rập thì gọi là Wahat as Salam: cả hai tiếng đều có nghĩa là "Ốc đảo hòa
bình".
Năm
1978, khi mới thành lập, ngôi làng Hòa Bình này chỉ có một gia đình. Một năm
sau, con số đó lên đến năm và hiện nay, có tất cả 15 gia đình vừa Do Thái vừa Ả
Rập chung sống với nhau. Tổng cộng dân số của ngôi làng Hòa Bình này hiện nay
là 70 người. Tất cả đều đeo đuổi một mục đích chung là minh chứng rằng người Do
Thái và người Ả Rập có thể sống chung với nhau mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của
nhau.
Người
sáng lập ngôi làng này là cha Bruno Hussar, một linh mục công giáo năm nay 78
tuổi. Cha ngài là một người Pháp gốc Do Thái và mẹ ngài là một người Hungary
cũng gốc Do Thái. Cả hai đều là những người Do Thái khổ đạo. Năm lên 22 tuổi,
ngài đã trở lại công giáo và xin tu trong viện Ðaminh. Cha Bruno Hussar tuyên bố
với tất cả xác tín như sau: "Trong Kinh Thánh người ta đọc được lời này:
Dân Ta sống trong một ốc đảo hòa bình. Cố gắng cảm thông là điều có thể làm cho
những người Do Thái và Ả Rập xích lại gần nhau, cũng như chính những người Kitô
có thể đến gần với những người Hồi Giáo và vô thần".
Ước
vọng của các phụ huynh của 33 trẻ em sinh ra trong ngôi làng Hòa Bình này là thấy
chúng được giáo dục chung với nhau. Do đó, họ đã cho xây một vườn trẻ chung, một
trường mẫu giáo chung, một trường tiểu học chung, nơi đó các trẻ em Do Thái và Ả
Rập đều có thể nói một lúc hai thứ tiếng. Một người cộng tác viên của cha Bruno
cho biết như sau: "Ngay từ lúc nhỏ, các trẻ em đã có thể làm quen với hai
nền văn hóa một lúc. Nhưng điều đó không có nghĩa là các em sẽ đánh mất nền văn
hóa của mình, trái lại càng ý thức về nguồn gốc của mình cũng như càng tôn trọng
người khác".
Ðể
bảo tồn văn hóa của mình, các gia đình trong ngôi làng Hòa Bình này cũng xây
nhà theo sở thích của họ. Nhưng những căn nhà này không thuộc quyền sở hữu của
họ. Tất cả đều chọn lựa sống một cuộc sống gần như tập thể: tuy trình độ khác
nhau, nhưng tất cả mọi người đều đồng ý một mức lương giống nhau. Mỗi ngày, mọi
dân cư trong ngôi làng này dùng điểm tâm và ăn trưa chung với nhau.
Người
phụ tá của cha Bruno Hussar nói rằng: "Ngồi đồng bàn để nói chuyện với
nhau thay vì giữ những thành kiến riêng, điều đó giúp thay đổi thái độ rất nhiều".
Cũng
như trong tinh thần đó, từ 10 năm qua, 15 gia đình trong ngôi làng Hòa Bình này
đã tổ chức được rất nhiều cuộc gặp gỡ cho giới trẻ Do Thái và Ả Rập. Người ta
cũng đã nghĩ đến một nhà cầu nguyện chung, chung không những cho người Do Thái
và Ả Rập, mà còn chung cho những người không tín ngưỡng nữa...
Thà
đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối... Những người dân
cư trong ngôi làng Hòa Bình trên đây, hẳn đã thấy được vết dầu loang của Hòa
Bình mà họ đã tung ra. Một ánh lửa được đốt lên sẽ không bao giờ tàn lụi một
cách vô ích. Nó sẽ lan ra và khơi dậy những ngọn lửa mới.
Tình
yêu là điều có thể có giữa con người. Hòa bình là điều mà con người có thể xây
dựng nếu con người biết tin tưởng nhau, biết chấp nhận nhau, biết tôn trọng sự
khác biệt của nhau...
Trong
phạm vi nhỏ bé của một tổ, của một khu phố, của một xóm làng, liệu những người
Kitô chúng ta có thể xây dựng được một ngôi làng Hòa Bình với nhau không?...
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét