23/08/2015
Chúa Nhật 21 Quanh
Năm Năm B
(phần
I)
Bài
Ðọc I: Gs 24, 1-2a. 15-17. 18b
"Chúng
tôi sẽ tôn thờ Chúa, vì chính Người là Thiên Chúa chúng tôi".
Trích
sách ông Giosuê.
Trong
những ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem, rồi gọi các kỳ
lão, các thủ lãnh gia tộc, quan án, sĩ quan đến, và họ đứng trước mặt Thiên
Chúa. Giosuê liền nói với toàn dân như thế này: "Nếu các ngươi không muốn
tôn thờ Thiên Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn: hôm nay, các ngươi hãy tuỳ ý chọn
phải tôn thờ ai hơn: hoặc là các thần cha ông các ngươi đã tôn thờ ở
Mêsôpôtamia, hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các ngươi đang ở. Phần tôi
và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa". Dân trả lời rằng: "Không
thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần ngoại. Chúa là Thiên Chúa
chúng tôi, chính Người đã dẫn chúng tôi và cha ông chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập,
khỏi nhà nô lệ. Người đã làm những việc kỳ diệu cả thể trước mắt chúng tôi và
đã gìn giữ chúng tôi suốt con đường chúng tôi đã đi, giữa tất cả mọi dân chúng
tôi đã đi qua. Chúa đã trục xuất tất cả những dân đó cũng như người Amôrê trên
phần đất chúng tôi đã tiến vào".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 33, 2-3. 16-17. 18-19. 20-21. 22-23
Ðáp: Các bạn hãy nếm
thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).
Xướng:
1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người.
Trong Chúa, linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.
2)
Thiên Chúa để mắt coi người hiền đức, và tai Người lắng nghe tiếng họ cầu. Thiên
Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. - Ðáp.
3)
Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ; Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo.
Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương
giập nát. - Ðáp.
4)
Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Thiên Chúa luôn luôn giải
thoát. Người giữ gìn họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy. -
Ðáp.
5)
Sự độc dữ sẽ sát hại đứa ác nhân; kẻ ghét người hiền sẽ phải đích thân đền tội.
Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Người, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi
Người, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: Ep 5, 21-32
"Mầu
nhiệm này thật lớn lao: trong Ðức Kitô và trong Hội Thánh".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh
em thân mến, anh em hãy phục tùng nhau trong sự kính sợ Ðức Kitô. Người vợ hãy
phục tùng chồng mình, như đối với Chúa: vì chồng là đầu người vợ, như Ðức Kitô
là đầu Hội Thánh: chính Người là Ðấng Cứu Chuộc thân thể mình. Nhưng như Hội
Thánh phục tùng Ðức Kitô thể nào, thì người vợ cũng phục tùng chồng mình trong
mọi sự như vậy. Hỡi những người làm chồng, hãy yêu thương vợ mình, như Ðức Kitô
yêu thương Hội Thánh và phó mình vì Hội Thánh, để thánh hoá Hội Thánh, khi Người
dùng nước và lời hằng sống rửa sạch Hội Thánh, ngõ hầu bày tỏ cho mình một Hội
Thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo hay phải điều gì khác tương tự,
nhưng thánh thiện và vẹn tuyền. Cũng thế, người chồng phải yêu thương vợ mình
như chính thân mình. Ai yêu thương vợ mình, là yêu thương chính mình. Vì không
ai ghét thân xác mình bao giờ, nhưng nuôi dưỡng và nâng niu nó, như Ðức Kitô đối
với Hội Thánh: vì chúng ta là chi thể của thân xác Người, do xương thịt Người.
Bởi thế, người ta lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình: và cả hai nên một
thân xác. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Ðức Kitô và Hội Thánh.
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia:
Ga 10, 27
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và
chúng biết Ta". - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 6, 61-70
"Chúng
con sẽ đi đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: "Lời này chói tai quá! Ai
nghe được!" Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu
nói với họ: "Ðiều đó làm các con khó chịu ư? Vậy nếu các con thấy Con Người
lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào
có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các con là thần trí và là sự sống. Nhưng trong
các con có một số không tin". Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ
không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: "Bởi đó, Ta bảo các con rằng:
Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho". Từ bấy giờ có
nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa. Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười
Hai rằng: "Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?" Simon Phêrô thưa
Người: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống
đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Ðấng
Kitô Con Thiên Chúa".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Bánh
ban sự sống
Ðể
sống tình cảm và đời sống gia đình, trong thực tế có nhiều khó khăn. Không giải
quyết và lướt thắng được, trái tim con người sẽ luôn bất an và buồn chán. Cuộc
đời của họ có thể như xây nhà trên cát, vì con sâu buồn bực, hận thù hay thất vọng
ở trong ruột gan họ sẽ đục khoét mọi công trình xây cất do bàn tay và trí óc họ
làm ra. Các bài Kinh Thánh đọc trong thánh lễ hôm nay không đề ra hết mọi lời
khuyên để giải quyết; nhưng nếu thực hành được những lời đạo đức này có lẽ con
người sẽ tìm ra lẽ sống cho cuộc đời nhiều khi khó khăn.
1.
Hãy Tin Vào Quá Khứ
Bài
sách Yôsua cho chúng ta được chứng kiến cuộc họp mặt cuối cùng giữa nhà lãnh đạo
quần chúng và đại biểu con cái nhà Israel. Yôsua bấy giờ đã già. Ông biết giờ
chết đã gần. Nhìn vào dân tộc mà ông đã vất vả lãnh đạo đánh chiếm Hứa địa và định
cư ở đó, ông không khỏi đau xót và lo lắng. Các chi họ Israel chưa hoàn toàn
đoàn kết. Tương quan giữa họ và thổ dân chưa hoàn toàn tốt đẹp. Nhất là yếu tố
xây dựng một dân tộc duy nhất là "lòng kính sợ Yavê", chưa được củng
cố vững vàng. Con cái nhà Israel đang còn thích nhìn sang các tượng thần của
dân bản xứ và của dân ngoại. Và nếu họ chạy theo các ngẫu tượng này thì thôi, sẽ
mất tất cả.
Yôsua
nhận thấy nguy cơ thật trầm trọng... Ông cố gắng một lần cuối cùng. Thu góp sức
lực của tuổi già lại, ông triệu tập một cuộc họp đông đủ các đại biểu con cái
nhà Israel. Ông chọn Sikem làm địa điểm nhóm họp. Ðây là nơi tổ phụ Abraham đã
dựng bàn thờ đầu tiên để dâng đất Canaan này cho Thiên Chúa (Kn 12,6). Yacob và
con cái ông đã để lại nhiều kỷ niệm ở chốn này (Kn 33,35). Chính Yôsua trong thời
hoạt động nhất cũng chọn Sikem làm nơi tuyên bố luật pháp để đoàn kết các chi họ
Israel trong một lý tưởng chung (Yos 8). Nay ông có lý để chọn nơi này làm chỗ
tập họp nung nấu lại tình thương yêu ruột thịt.
Có
lẽ đây không phải là một cuộc họp cử hành Phụng vụ, mặc dù sách viết: họ đứng
chầu trước nhan Thiên Chúa. Chúng ta không nhận thấy sự hiện diện của hàng tư tế.
Và sau khi họp bàn xong, họ đã ra về mà không làm một lễ dân nào. Câu viết kia
chỉ có nghĩa là họ ý thức đang đứng trước mặt Yavê, đang ở nơi thánh địa của
Người, đang làm việc dưới con mắt vô hình của Ðấng Thiên Chúa toàn năng.
Yôsua
khai mạc phiên họp bằng cách nhắc lại quá khứ, để tất cả cùng nhờ Thiên Chúa đã
hướng dẫn, bảo hộ, săn sóc dân như thế nào. Rồi ông kết luận: "Bây giờ các
ngươi không bằng lòng phụng thờ Yavê thì cứ chọn lấy ai mà thờ, hoặc là các thần
của tổ tiên trước khi họ đặt chân đến xứ này, hoặc là các ngẫu tượng của dân bản
xứ mà Yavê đã giúp các ngươi đánh đuổi. Phần ta và cả nhà ta, sẽ phụng thờ
Yavê".
Nói
thực ra, sau những lời này, dân không còn chọn lựa nào khác là cùng nhất trí với
Yôsua. Họ vừa nớ lại công ơn của Thiên Chúa. Họ thấy rõ nhờ Người mà họ được
như ngày hôm nay. Quá khứ của họ được xây dựng nhờ sự hướng dẫn bảo hộ của Người.
Toàn dân mủi lòng nghĩ đến sự vô tâm của họ trước đây đối với Yavê... Họ đồng
thanh trả lời với Yôsua: "Quái gỡ thay nếu chúng tôi bỏ Yavê để phụng thờ
những thần khác... Vậy cả chúng tôi nữa, chúng tôi cũng sẽ phụng thờ Yavê vì
Người là Thiên Chúa của chúng tôi".
Dĩ
nhiên, đọc câu truyện trên đây cho chúng ta nghe hôm nay, phụng vụ chỉ muốn nhắc
nhở chúng ta nghĩ lại quá khứ đã ràng buộc chúng ta lại với Thiên Chúa để chúng
ta suy nghĩ lại về lòng trung thành của mình đối với Người... Nhưng chẳng có gì
cấm chúng ta áp dụng những điều này vào trong đời sống tình cảm và đời sống gia
đình của chúng ta. Việc nhớ lại mối tình đầu và những chặng đường đã cùng nhau
sát cánh qua bao nhiêu đắng cay ngọt bùi, không có sức giúp chúng ta lướt thắng
những trục trặc và khó khăn hiện tại trong tương quan đối với bạn hữu và người
thương của mình sao? Nhưng không phải chỉ có quá khứ, còn tương lai nữa. Và điều
này chúng ta có thể nhận ra từ bài Tin Mừng Yoan.
2.
Hãy Hy Vọng Ở Tương Lai
Ðoạn
văn này kết thúc diễn từ của Ðức Yêsu về bánh ban sự sống. Chúng ta hẳn còn nhớ
những lời cuối của Người đã nói: Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống...
ai không ăn và không uống Thịt Máu này sẽ không được sống. Còn ai ăn và uống sẽ
lưu lại trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy.
Ðó
là những lời "sống sượng". Chắc chắn quần chúng đã không chấp nhận.
Nhưng lạ kỳ thay: Thánh Yoan không để ý đến phản ứng của quần chúng. Người nhìn
vào hàng môn đồ của Ðức Yêsu. Ðây không phải chỉ là nhóm 12. Có nhiều người
khác nữa vẫn đi theo Người. Họ đã ở trong đám đông hay ở gần Người trong suốt
bài diễn từ. Nhưng tác giả Yoan đã không chú ý đến họ. Nói đúng hơn trong
chương 6 của sách Tin Mừng này, ông có lối trình bày kỳ cục. Lúc Ðức Yêsu làm
phép lạ bánh hóa nhiều thì có mặt các môn đệ ở giữa quần chúng (6,1-15); sau đó
chỉ nguyên có môn đồ trên thuyền gặp sóng gió (6,15-21). Khi đã vào bờ an toàn
và gặp đông đủ quần chúng, họ lại có mặt trong khi Ðức Yêsu giảng (6,22-59).
Lúc Người giảng xong, trở lại chỉ còn có mình họ mà thôi (6,60-66). Và lần này
sự việc cũng xảy ra một cách buồn thảm như khi gặp sóng gió.
Tại
sao tác giả Yoan lại bố cục bài trình bày như vậy?
Phải
chăng người muốn nói rằng sứ điệp của Ðức Yêsu gồm cả việc làm và lời nói, tuy
diễn ra ở trước mặt toàn dân, nhưng cuối cùng sẽ có ảnh hưởng trên một số ít
người, những kẻ thân cận với Người hơn cả, để bó buộc người ta phải lựa chọn và
sự lựa chọn này sẽ quyết định tương lai của Tin Mừng ở giữa loài người? Chúng
ta cứ nghĩ lại mà xem. Sau khi Ðức Yêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều rồi lẫn
trốn lên núi để tránh bị lôi vào phong trào muốn có một vị cứu tinh trần tục,
tác giả Yoan đã thuật truyện thuyền các môn đồ gặp biển động và cuồng phong. Có
thể nói người đưa sự ngỡ ngàng và thắc mắc của tất cả quần chúng trước thái độ
ly kỳ của Ðức Yêsu vào trong tâm hồn các môn đồ để nó tụ lại ở đây và làm sóng,
làm gió thử thách đức tin của những kẻ đi theo Chúa. Cũng vậy, sau khi Ðức Yêsu
đã nói những lời khó nghe về thịt và máu Người là của ăn và của uống, Yoan đã
đem tất cả phản ứng của quần chúng vào trong tâm hồn các môn đồ để làm nổi bật
tính cách cam go của cuộc phấn đấu mà đức tin đang gặp phải. Những năm sau Công
đồng Vatican II không có một hiện tượng như vậy sao? Cuộc khủng hoảng ở trong
dân chúng đã làm mưa to gió lớn trong đời sống tu trì và tông đồ.
Vậy
phản ứng của môn đồ thật ra là của tất cả mọi người kết tinh lại để đi đến một
thái độ phải dứt khoát trong lựa chọn� Họ lấy làm gai chướng
về các lời của Ðức Yêsu. Người thương họ và muốn cứu giúp họ như trong trường hợp
thuyền họ gặp sóng gió. Hôm ấy, Người đã hiện ra với họ, tỏ mình ra cho họ và lập
tức thuyền họ đã cập bến bình an. Hôm nay lẽ ra họ còn phải nhớ câu truyện ấy.
Quá khứ lẽ ra phải củng cố niềm tin của họ. Nhưng dường như không phải như vậy.
Ðức Yêsu còn gợi lại hình ảnh trước; nhưng Người còn mạc khải cả tương lai nữa
để họ biết chấp nhận hiện tại.
Người
nói: "nếu các ngươi trông thấy Con Người lên nơi Ngài đã có trước...?"
Những chữ "trông thấy" có thể gợi lên cảnh tượng trên mặt hồ sóng gió
lúc Người hiện đến với họ. Nhưng lập tức những chữ ấy đã đưa về tương lai, ám
chỉ việc Ðức Yêsu sẽ phục sinh, lên trời và hiện đến trong vinh quang. Người muốn
ám chỉ rằng nếu lần thấy Người trong quá khứ đã có thể đem bình an lại cho họ,
thì huống nữa là những điều họ sẽ thấy trong tương lai!
Tuy
nhiên những lời như vậy chỉ có giá trị cho những tâm hồn có một chút thái độ
tin tưởng và phó thác. Chứ đối với những con người xác thịt, chỉ muốn nắm ngay
những gì ăn chắc, thì những lời đó không có ảnh hưởng gì cả. Thành ra nhiều môn
đồ đã rút lui, không còn đi theo Ðức Yêsu nữa.
Nhìn
vào đám 12 còn lại, mà từ nay sẽ trở thành Tông đồ, Ðức Yêsu muốn họ xác định lập
trường. Simon Phêrô thay mặt anh em nói lên những lời tỏ rõ niềm tin như các
sách Tin Mừng khác đã thuật lại khi các ngài đối thoại ở Cêsarê: Ngài là Ðấng
Thánh của Thiên Chúa. Ngài có những lời đem lại sự sống đời đời. Chúng tôi sẽ bỏ
Ngài đi theo ai?
Thế
là từ nay Ðức Yêsu có một số ít đi theo Người. Còn đại đa số đã rút lui. Người
sẽ đi với số ít này lên Núi Sọ dẫn đến vinh quang phục sinh, đang khi đại đa số
sẽ dùng tay bọn quá khích và tên môn đồ phản bội để giết Người. Bọn này đã
không nhớ lại việc làm và lời nói của Người ở trong quá khứ; và cũng chẳng có
tinh thần vươn về tương lai mà nhiều lần Người đã gợi ra cho họ.
Nhiều
người nơi chúng ta trong đời sống đối với Chúa và Hội Thánh cũng như đối với
tha nhân bạn hữu và các người trong gia đình, không lướt thắng nổi các khó
khăn, khủng hoảng, cũng chỉ vì đã hết quý hóa mọi tương quan thắm thiết trong
quá khứ, và không có đủ sức mạnh tinh thần để tin tưởng vào tương lai. Nhiều cuộc
ly dị hôn nhân đã xảy ra vì vậy. Nhiều sự cộng tác gãy gánh cũng thế. Và tất cả
như vậy, cuối cùng, chỉ vì những suy nghĩ về quá khứ và tương lai không đủ mạnh
đối với bộ mặt cam go của thực tế trong hiện tại. Lời Chúa hôm nay dùng bài
Thánh Thư để giúp đỡ chúng ta về điểm này.
3.
Hãy Hiểu Biết Hiện Tại
Thánh
Phaolô bắt đầu khuyên tín hữu về các tương giao và tương quan xã hội trong mầu
nhiệm Ðức Kitô. Và trước hết người đề cập tới tương quan phu phụ.
Người
không có những lý do cụ thể đặc biệt nào để đề cập vấn đề này đâu. Thư Êphêsô
ít có tính cách cụ thể hơn cả, theo nghĩa đã không do hoàn cảnh cụ thể nào thôi
thúc tác giả viết ra. Có thể nói nó không phải là thư trao đổi tin tức, hay muốn
giải quyết vấn đề gì. Nó là một "luân thư", mượn hình thức thư từ để
trình bày giáo lý.
Ở
đây tác giả ca tụng mầu nhiệm cứu thế của Ðức Kitô đã đem đến cho chúng ta một
sự sống mới. Ơn của Người phải phát huy ra trong đời sống, và trong các tương
quan xã hội, mà gia đình là một môi trường. Tình yêu phu phụ giữ vai trò trọng
yếu. Nó cũng phải được thấm nhuần mầu nhiệm Ðức Kitô.
Vậy
nhìn tương quan phu phụ trong mầu nhiệm này, thánh Phaolô một đàng không thể
quên hình ảnh Yavê là hôn phu của dân Người; và do đó Ðức Kitô là hôn phu của Hội
Thánh. Ðàng khác, ở những trang đầu tiên trong bộ Thánh Kinh (Kn 2,24) người ta
đọc thấy: "Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khăng khít với vợ mình và
hai chúng sẽ nên một thân xác". Có lẽ câu Kinh Thánh này đã bị nhiều người
lợi dụng và cắt nghĩa không chỉnh. Phaolô đem đọc dưới ánh sáng của mầu nhiệm Ðức
Kitô và thấy ngay câu ấy viết về sự mật thiết của Ðức Kitô và Hội Thánh. Cả hai
là một đến nỗi không thể rời nhau được nữa.
Nhưng
không phải là không có thứ tự. Ðức Kitô đã yêu thương trước và đã phó nộp mình
để làm ra Hội Thánh trong sạch không một vết nhơ. Người trở thành đầu của Hội
Thánh, có uy quyền trên Hội Thánh, nhưng đó là thứ uy quyền của tình yêu, phục
vụ.
Và
Phaolô kết luận, chồng hãy cư xử với vợ mình như thế; và vợ hãy đối với chồng
mình như Hội Thánh đối với Ðức Kitô.
Chắc
chắn đây là những tư tưởng rất cao cả mà Phaolô gọi là mầu nhiệm lớn. Chấp nhận
như vậy thì mọi vấn đề cụ thể khác dù có to cũng trở thành nhỏ, có khó cũng trở
nên dễ. Bởi vì mọi thực tại trần gian đã được cuốn vào đà thăng tiến của mầu
nhiệm Ðức Kitô. Và từ nay người có đức tin Kitô giáo có thể nhờ lòng tin cậy mến
để chấp nhận và thăng tiến mọi sự kiện và tương quan ở đời.
Do
đó không cần những cái nhìn về quá khứ hay về tương lai cho bằng cần có cái
nhìn đức tin về hiện tại, là chúng ta có thể tìm ra lẽ sống tốt đẹp và phong
phú ở trong hết mọi hoàn cảnh. Nói đúng hơn, quá khứ và tương lai chỉ cần để
xây dựng niềm tin hiện tại. Cũng như giờ đây chúng ta cũng cần biết lịch sử
thánh gồm cả quá khư và tương lai để tuyên xưng đức tin trong hiện tại hầu cử
hành mầu nhiệm thánh. Chính đức tin hiện tại khiến chúng ta công nhận bánh rượu
này sẽ là Thịt Máu Chúa Kitô để ban cho ai lãnh nhận với đức tin được sự sống mới,
hầu sống cách mới mẻ mọi thực tại và tương quan ở đời.
Như
vậy, chính niềm tin sẽ đánh giá thái độ của chúng ta trong giờ phút này và
trong khắp đời sống. Chúng ta hãy sốt sắng xin cho mình được niềm tin ấy trong
bản tuyên xưng đức tin đọc bây giờ.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 21 Thường
Niên,
Năm B
Bài đọc: Jos 24:1-2, 15-17;
Eph 5:21-32; Jn 6:60-69.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải biết làm các
quyết định khôn ngoan trong cuộc đời.
Con
người phải thường xuyên làm rất nhiều quyết định trong cuộc đời: có những quyết
định không quan trọng cho lắm như ăn gì, uống gì, mặc gì; nhưng cũng có những
quyết định quan trọng ảnh hưởng đến cả cuộc đời như chọn nghề nghiệp, chọn người
để kết hôn, chọn tôn giáo để tin. Khi con người làm quyết định, con người phải
chịu trách nhiệm và lãnh nhận mọi hậu quả sẽ xảy ra; vì thế, con người phải biết
quyết định cách khôn ngoan. Để biết quyết định cách khôn ngoan, con người cần học
hỏi và suy xét để biết trước những hậu quả có thể xảy ra.
Các
Bài Đọc hôm nay dẫn chứng những trường hợp con người phải quyết định cách khôn
ngoan. Trong Bài Đọc I, Thủ Lãnh Joshua triệu tập đại hội tại Shechem, để buộc
con cái Israel phải biết quyết định dứt khoát: thờ phượng một Thiên Chúa hay thờ
phượng các thần ngoại bang. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô đưa ra hình ảnh
lý tưởng của sự kết hiệp giữa Đức Kitô và Hội Thánh để làm gương cho vợ chồng
phải trung thành với nhau suốt đời. Để có thể trung thành suốt đời, vợ cần phải
vâng lời chồng, và chồng cần phải yêu thương vợ như yêu chính thân thể của
mình. Trong Phúc Âm, sau khi đã làm hai phép lạ cả thể, dạy dỗ và mặc khải cho
dân chúng về mầu nhiệm Thánh Thể, có hai phản ứng trái ngược nhau xảy ra: Một số
các môn đệ chọn bỏ Chúa Giêsu vì không thể chấp nhận "ăn thịt và uống
máu" Ngài để được sống. Nhưng Phêrô đại diện cho Nhóm Mười Hai chọn ở lại
và tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết
đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi chọn phụng thờ Đức Chúa.
1.1/
Anh em có quyền lựa chọn thần nào thích để thờ: Sau khi đã dẹp tan các dân bản
xứ và định cư con cái Israel trong Đất Hứa, ông Joshua biết mình đã hoàn tất
nhiệm vụ Chúa trao và sẵn sàng về yên nghỉ với cha ông; nên ông truyền
quy tụ ở Shechem mọi chi tộc Israel, tất cả các kỳ mục của Israel, các thủ
lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa.
Rồi
ông Joshua nói với toàn dân: "Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel, phán thế
này: "Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến
Terah là cha của Abraham và của Nahor, đã phụng thờ các thần khác. Nếu anh em
không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ
hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần
của người Amorites mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi,
chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa."
1.2/
Chúng tôi chọn thờ Đức Chúa: Dân đáp lại: "Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng
thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng
tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt
chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường
chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua."
2/
Bài đọc II:
Trung thành trong ơn gọi gia đình.
Để
bảo vệ hạnh phúc gia đình, cả hai vợ chồng đều phải quyết định làm những gì cần
thiết; một người quyết định không đủ để gìn giữ hạnh phúc gia đình. Thánh
Phaolô dùng một mối liên hệ bao quát và thâm sâu hơn để diễn tả mối liên hệ vợ
chồng.
2.1/
Bổn phận của người vợ: "Người
làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng
như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh,
thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải
tùng phục chồng trong mọi sự như vậy." Mục đích của sự vâng lời là cho sự
hiệp nhất trong gia đình và Giáo Hội. Nếu thân xác con người không thể có hai đầu,
gia đình và Giáo Hội cũng không thể có hai nhà lãnh đạo hay hai Chúa.
2.2/
Bổn phận của người chồng: "Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu
thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh." Ba điều Đức Kitô làm để tỏ
tình yêu thương với Hội Thánh:
(1)
Hiến mình vì Hội Thánh: Không có tình yêu nào thâm sâu và cao quí cho bằng tình
của người sẵn sàng hy sinh mạng sống cho người yêu. Đức Kitô hiến mình chuộc tội
để Hội Thánh khỏi phải chết và được sống.
(2)
Thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng
sống: Vì muốn có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết
nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền; Đức Kitô
đã dùng nước để rửa Hội Thánh sạch mọi tội, dùng Lời để chỉ dẫn điều hay lẽ phải,
và dùng ơn thánh qua các Bí-tích để thánh hóa mọi phần tử của Hội Thánh.
(3)
Nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh: như chăm sóc thân thể của chính mình: Cũng thế,
chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy,
có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân
xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ
phận trong thân thể của Người.
3/
Phúc Âm:
Lời dạy của Đức Kitô về Thánh Thể dẫn tới hai quyết định trái ngược nhau.
3.1/
Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa: Nghe rồi, nhiều môn
đệ của Người liền nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?"
Nhưng Đức Giê-su tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người
bảo các ông: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy
nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho
sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự
sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin." Quả thật, ngay từ đầu,
Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Người nói tiếp:
"Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha
không ban ơn ấy cho."
Tại
sao các môn đệ không tin, rút lui, và không còn đi theo Chúa nữa?
(1)
Họ không nhận ra Chúa Giêsu là ai: Nếu họ nhận ra, họ đã không bỏ đi. Họ không
nghĩ Chúa Giêsu là giải pháp độc nhất cho cuộc đời của họ. Chúa Giêsu nhận ra
đây là sứ vụ quan trọng nhất trong sứ vụ của Ngài, nên Ngài làm mọi sự có thể để
khơi dậy niềm tin nơi con người.
(2)
Họ không hiểu các mặc khải và những lời dạy dỗ khôn ngoan của Chúa Giêsu: Trước
tiên, họ không hiểu về Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Thứ đến, họ không hiểu về
mục đích của cuộc đời và làm sao để đạt mục đích đó. Sau cùng, họ không hiểu tại
sao phải ăn thịt và uống máu Chúa để có sự sống và đạt được cuộc sống đời đời.
(3)
Họ cậy dựa hoàn toàn vào lý luận của con người và không biết giới hạn của con
người: Họ nghĩ họ chỉ tin những gì có thể hiểu được và từ chối không tin những
gì vượt quá sự hiểu biết của họ. Chúa Giêsu nói rõ đức tin và mầu nhiệm Thánh
Thể vượt quá sự hiểu biết của con người, họ chỉ có thể hiểu được với ơn thánh của
Thiên Chúa (6:37, 44, 65).
(4)
Họ không biết, không hiểu, và hiểu sai Kinh Thánh: Chúa Giêsu sửa sai họ:
"Không phải ông Moses đã cho họ ăn manna, mà là Thiên Chúa" (6:32);
và đây là hình bóng của những gì Ngài đang nói với họ về Bí-tích Thánh Thể. Ngài
làm hoàn hảo lời các ngôn sứ (Isa 54:13, Jer 31:33-34) khi ngồi giữa họ để dạy
họ hiểu biết những gì về Thiên Chúa.
3.2/
Phêrô đại diện cho Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: Đức Giêsu hỏi Nhóm
Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" Ông Simon
Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới
có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận
biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa."
+
Tin Mừng Gioan không tường thuật biến cố tuyên xưng đức tin của Phêrô tại
Caersarea Philippi; nhưng thay thế bằng lời tuyên xưng đức tin của Phêrô hôm
nay.
+
"Đấng Thánh của Thiên Chúa:" có thể so sánh với "Đấng Thiên
Sai" hay "Đấng được xức dầu" trong Tin Mừng Nhất Lãm. Chỉ có 3
nhân vật được gọi là Đấng Thánh trong Tin Mừng Gioan: Chúa Cha (17:11), Chúa
Giêsu (6:69), và Chúa Thánh Thần (1:33, 14:26, 20:33). Vì Ba Ngôi tự bản chất
là thánh, nên họ có thể thánh hóa con người.
Chúng
ta hãy suy xét những lý do Phêrô có thể dùng để tuyên xưng đức tin vào Chúa
Giêsu:
(1)
Phêrô đã chứng kiến ít nhất hai phép lạ từ đầu chương 6: Bánh hóa nhiều để nuôi
5,000 người ăn và Chúa Giêsu làm cho sóng gió phải yên lặng. Mục đích của phép
lạ là để khơi dậy niềm tin. Chứng kiến hai phép lạ to lớn này, Phêrô nhận ra
Chúa Giêsu sở hữu quyền lực của Thiên Chúa.
(2)
Phêrô đã lắng nghe những lời mặc khải và dạy dỗ khôn ngoan của Chúa Giêsu; nhất
là lời mặc khải về mục đích của cuộc đời (Jn 6:39-40). Con người sống trên đời
này là cho một mục đích: để về hưởng hạnh phúc đời đời bên Thiên Chúa. Để đạt mục
đích này, con người cần tin vào Đức Kitô.
(3)
Phêrô đã lắng nghe Chúa Giêsu giải nghĩa Kinh Thánh: Nhiều người cũng đọc Kinh
Thánh, nhưng không phải ai cũng có thể hiểu Kinh Thánh. Chúa Giêsu cắt nghĩa về manna và
sự nối kết cần thiết với mầu nhiệm Thánh Thể; và về lời sấm "mọi người sẽ
được Thiên Chúa dạy bảo" của tiên tri Isaiah và Jeremiah. Ngài vạch ra cho
mọi người thấy Ngài đến để làm trọn những lời tiên tri này khi ngồi giữa để dạy
dỗ họ về những mầu nhiệm của Thiên Chúa.
(4)
Phêrô đã lắng nghe những cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người Do-thái: Những
cuộc đối thoại này cần thiết để nhận ra chân lý từ những sai lầm. Những sai lầm
của người Do-thái được sửa chữa bằng những lý luận khôn ngoan và vững chắc của
Đức Kitô.
(5)
Phêrô biết Thiên Chúa, biết mình, và biết giới hạn của con người: Phêrô thú nhận
một sự thật: Chỉ có Thiên Chúa mới có những Lời mang lại sự sống đời đời. Con
người không phát minh sự thật, nhưng học hỏi sự thật từ Thiên Chúa. Khi con người
không hiểu sự thật, không có nghĩa là sự thật không có; nhưng vì khả năng hiểu
biết con người quá hạn hẹp và yếu kém.
(6)
Phêrô biết tổng hợp tất cả những điều trên để đi đến kết luận là tuyên xưng đức
tin của mình vào Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải dành nhiều thời giờ để học hỏi thì mới biết quyết định cách khôn
ngoan. Nếu không chịu học hỏi, chúng ta sẽ dễ dàng quyết định cách không chín
chắn hoặc sai lầm.
-
Sai một ly đi một dặm. Quyết định sai lầm sẽ dẫn chúng ta đến thiệt hại to lớn,
và ngăn cản chúng ta đạt được mục đích của cuộc đời.
-
Bí-tích Thánh Thể vô cùng quan trọng cho cuộc đời. Hiểu sai về Bí-tích này sẽ
gây rất nhiều thiệt hại trong cuộc sống, và ngăn cản chúng ta không đạt được cuộc
sống đời sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
23/08/15 CHÚA NHẬT TUẦN
21 TN – B
Ga 6,60-69
Ga 6,60-69
Suy niệm: Trong
cuốn “Đoạn đầu đài”, nhà văn Aitmatov nhận định: “Tại sao bao tư tưởng của nhân
loại sớm tan đi như xà phòng bọt biển? Tại sao cái mới của hôm nay đã là cái cũ
của ngày mai mà Lời Giê-su vẫn không cũ đi và không mất sức mạnh của nó?” Nhà văn nổi tiếng và là viện sĩ thuộc Viện Hàn
lâm Văn học Liên Xô cũ đã cho chúng ta một nhận định đáng giá nghìn vàng về Lời
Chúa. Tại sao Lời Chúa không cũ, không lạc hậu? Tại sao Lời Ngài vẫn luôn có
sức mạnh, sức sống cho mọi người ở mọi thời? Tại sao “Lời Chúa đem lại sự sống đời
đời”? Thưa, một lý do rất dễ hiểu, bởi vì Lời ấy đang được Chúa Thánh
Thần tác động, soi sáng để thích ứng với mọi người ở mọi độ tuổi trong
mọi thời.
Mời Bạn: Trước
hai nhận định, một của Phêrô, môn đệ thân tín của Chúa và một của Aitmatov, nhà
văn không tin Chúa, bạn hãy tự chất vấn: Tôi đã có thái độ trân trọng Lời Chúa
chưa? Tôi có thật sự tin rằng Lời Chúa có sức đem lại hạnh phúc cho đời tôi
không?
Chia sẻ: Lời
Chúa có vị trí thế nào trong cuộc đời bạn?
Sống Lời Chúa: Trung
thành với việc mỗi ngày dành “5 phút cho Lời Chúa” vì tin rằng Lời Chúa đem lại
cho tôi sự sống, hạnh phúc đời đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, chúng con cũng tuyên xưng như thánh Phê-rô: “Bỏ
Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Xin cho chúng con xác tín giá trị cao quý của Lời Chúa, để chúng con luôn trân
trọng, yêu mến lắng nghe, suy niệm và sống Lời ấy. Amen.
LỜI BAN SỰ SỐNG
Nhiều bạn trẻ hôm nay cô đơn, nhưng không biết đến
với ai. Hãy cùng nhau đến với và ở lại bên Thầy Giêsu, Ngài sẽ không làm chúng
ta thất vọng.
Suy niệm:
Chẳng nên ngạc nhiên nếu có
lúc đức tin gặp khủng hoảng.
Cả lịch sử Cựu Ước đong đưa
giữa tin và không tin.
Khi Ðức Giêsu đến, người ta
phải đứng trước một lựa chọn:
tin hay không tin vào Lời
Ngài, vào con người Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta
thấy
một kinh nghiệm về khủng hoảng
đức tin nơi chính các môn đệ.
Kinh nghiệm ấy thật gần gũi
với con người hôm nay.
Lời này chướng tai quá! Ai
mà nghe nổi?
Ðó là phản ứng của các môn
đệ ngày xưa
khi nghe Thầy Giêsu vén mở
căn tính của Thầy.
Thầy khẳng định mình từ trời
mà xuống (Ga 6,38),
và Thầy sẽ trở lại nơi Thầy
đã ở trước kia (c.62),
sau khi hiến mình chịu chết
cho nhân loại (c.51)
và nuôi nhân loại bằng chính
máu thịt mình (c.53).
Hôm nay chúng ta vẫn có thể
thấy chúng chướng tai.
Mầu nhiệm Nhập thể, mầu
nhiệm Tử nạn của Con Thiên Chúa,
bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm
Chúa về trời:
đó vẫn là và mãi mãi là
những mầu nhiệm khôn dò.
Phải yêu mến mới hiểu được,
mới chấp nhận được.
Hôm nay vẫn có câu Lời Chúa
bất ngờ làm ta choáng váng,
vì chướng tai, chướng cả với
suy nghĩ và tình cảm của ta.
Lời Chúa đòi tôi đi xa hơn
và bắt tôi điều chỉnh lại
mối tương quan đã có với Chúa.
Nhiều môn đệ rút lui, không
còn đi với Ngài nữa.
Họ đã đi với Ngài một thời
gian,
đã tin và đã trở thành môn
đệ.
Nhưng họ không thể đi tới
cùng cuộc phiêu lưu này.
Trở nên môn đệ hay trở nên
một Kitô hữu
không phải là một bảo đảm
chắc chắn
mình sẽ trung tín mãi mãi
với Ðức Kitô.
Trở nên môn đệ là bước vào
cuộc phiêu lưu,
là khám phá ra một Ðức Kitô
luôn luôn mới,
là để Ngài từ từ đưa ta đi
sâu vào mầu nhiệm hơn.
Cuộc phiêu lưu nào cũng có
chút rủi ro,
cũng đòi chút liều lĩnh,
vì đây là cuộc phiêu lưu của
tình yêu, của lòng tin.
Ðã có những môn đệ không tin
và bỏ đi.
Ngay trong nhóm ở lại cũng
có kẻ phản bội.
Ðể khỏi bỏ cuộc, cần bỏ
mình...
Bỏ Thầy thì chúng con biết đến
với ai?
Ðại diện Nhóm Mười Hai,
Phêrô bày tỏ thái độ ở lại.
Không phải vì ông và các bạn
hiểu được lời Thầy Giêsu,
nhưng vì họ tin vào con
người của Thầy,
tin Thầy là Ðấng Thánh của
Thiên Chúa,
Ðấng đã cho dân ăn no nê,
Ðấng đã đi trên biển.
Lòng tin này khiến họ chấp
nhận cả những lời chướng tai.
Lời chướng tai là lời đem
lại sự sống đời đời.
Nhiều bạn trẻ hôm nay cô
đơn, nhưng không biết đến với ai.
Hãy cùng nhau đến với và ở
lại bên Thầy Giêsu,
Ngài sẽ không làm chúng ta
thất vọng.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều
khó.
Thuộc về Chúa thật là một
thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại
không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào
một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi
những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa
trái.
Chúa cương quyết chinh phục
con
cho đến khi con thuộc trọn
về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và
tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi
bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua
thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
23 THÁNG TÁM
Chúng Ta Đang Ở Giữa Một Trận
Chiến
“Như lời Chúa phán (Mt 24,13), cả lịch sử
nhân loại là một trận chiến cam go chống lại quyền lực bóng tối, khời đầu từ
khi thế giới khai nguyên và sẽ kéo dài đến ngày cuối cùng. Dấn thân vào cuộc
chiến này, con người phải luôn luôn chiến đấu để gắn bó với sự thiện và chỉ tìm
được sự thống nhất trong chính mình sau khi hết sức cố gắng với sự trợ giúp của
ơn Chúa” (MV 37).
Chúng ta có thể kết luận rằng mặc dù không
được đồng hóa sự phát triển của Nước Thiên Chúa với sự phát triển và tiến bộ thế
tục, song quả thực rằng Nước Thiên Chúa có mặt ngay nơi thế giới và, nhất là,
nơi con người sống và hoạt động trong thế giới. Người Kitôhữu biết rằng xuyên
qua những nỗ lực của chính mình cùng với sự giúp đỡ của ơn Chúa, mình đang làm
cho Nước Thiên Chúa trở thành hiện thực. Công việc của mọi Kitôhữu dẫn đến sự
hoàn thành của mọi sự trong Đức Kitô, theo kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
23-8
Chúa
Nhật XXI Thường Niên
Gs
24, 1-2a.15-17.18b; Ep 5, 21-32; Ga 6, 54a.60-69.
LỜI
SUY NIỆM: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với
ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Chúa
Giêsu, được Chúa Cha sai đến trần gian này là để thiết lập lại sự tương quan giữa
Người với loài người, để cho nhân loại được giao hòa cùng Thiên Chúa, để nhờ
Người mà lãnh nhận ơn cứu độ. Chúa Giêsu công khai nói cho chúng ta biết được sự
tương quan đó: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa
Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà sống như vậy” (Ga 6,57). “Tôi là
ánh sáng thế gian. Ai theo tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận
được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 7,12). “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở
lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái,
vì không có Thầy, anh em chẳng làm được gì.” (Ga 15,5). “Anh em là bạn hữu của
Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.” (Ga 15,14) “Lạy Cha chí
thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong Danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một
như chúng ta” (Ga 17,11b). Thánh Phêrô đã sống với Chúa Giêsu, đã nghe Lời Người
giảng dạy, đã thấy mọi việc Người làm, với ơn ban của Thánh Linh, thánh Phêrô
đã nhận ra và đã thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với
ai? Thầy mới có lời đem lại sự sống đời đời.”
Lạy
Chúa Giêsu. Chúa là quà tặng tuyệt vời của Chúa Cha ban cho chúng con. Chúa là
Đấng cứu độ chúng con, Chúa là nguồn sống của chúng con. Chúa là tất cả của
chúng con. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con yêu mến Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
23-8
Thánh
ROSA LIMA
Đồng
Trinh (1586 - 1617)
Có
những vị thánh chỉ đáng cho chúng ta thán phục hơn là bắt chước. Thánh Rosa thuộc
loại này. Chúng ta tôn kính và thán phục sự thánh thiện của Ngài nhưng không phải
tìm cách bắt chước theo đường lối Ngài đã theo để nên thánh. Thánh Rosa chính
là người đầu tiên ở tân thế giới được phong thánh. Ngài trở nên quan trọng vì
chứng tỏ rằng giữa sự bất công và phi nhân dính liền với cuộc chinh phục Mỹ
Châu của người Tây Ban Nha. Men Kitô giáo vẫn hoạt động.
Rosa
sinh tại Lima nước Peru năm 1568. Cha mẹ Ngài, ông Caspar del Flores và Maria
del Oliva đặt tên cho Ngài là Isabelle. Nhưng vì sắc đẹp của Ngài, người ta gọi
Ngài bằng tên một loài hoa Rosa. Khi đến tuổi có trí khôn thánh nữ đã muốn được
gọi là Rosa Maria, để tỏ lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ. Ngài còn có lòng yêu mến đặc
biệt thánh nữ Catarina Siena và can đảm bắt chước vị thánh này vì lòng yêu mến
sống thinh lặng, hãm mình cũng như chuyên chăm cầu nguyện. Dường như được ơn
Chúa gìn giữ đặc biệt, nên ngay vào buổi mà các trẻ em khác chưa có trí khôn,
thánh nữ đã có những nét thánh thiện, đáng ghi nhớ. Năm tuổi, Ngài đã hứa giữ
mình trinh khiết. Sáu tuổi Ngài đã ăn chay 3 lần trong tuần, chỉ ăn bánh và uống
nước thôi.
Gia
đình nghèo túng, Rosa mất ngủ lại thiếu ăn lại còn tự ý hãm mình để giảm đi sức
hấp dẫn tự nhiên. Khi khách đến thăm khen ngợi sắc đẹp của mình, thánh nữ thoa
hồ tiêu lên má cho sưng phồng lên. Cẩn thận ngâm tay vao vôi khiến cả tháng
không một việc được. Khi người mẹ kết một vòng hoa lên đầu cho Ngài, thánh nữ
kín đáo kết gai vào trong cho đau đớn để cảnh giác tính xa hoa.
Gia
đình gặp bước khó khăn, thánh Rosa đã tận tụy làm vườn suốt ngày, đêm về lại thức
giấc vá may. Thánh nữ luôn luôn vâng lời cha mẹ. Dầu vậy trên mười năm rời,
Ngài đã dốc quyết từ khuốc bước vào hôn nhân. Ngài còn cắt ngắn mái tóc đẹp hiếm
hoi của mình. Sự từ khước đã gây nên nhiều phản ứng khốc liệt. Người ta bắt dầu
vu oan giá hoạ cho Ngài đủ điều, nhưng Ngài đã nhẫn nại chịu đựng tất cả. Năm
1606, Ngài gia nhập dòng ba Đaminh và nhận thánh Catarina như gương mẫu đời
mình.
Ngoài
những hy sinh hãm mình tự ý. Thánh Rosa còn phải trải qua những năm bị hiểu lầm,
mù tối trong chính nội tâm. Dầu vậy Ngài vẫn nhẫn nại, khiêm tốn chịu dựng và
không bao giờ mất niềm tín thác vào lòng từ bi vô bờ của Chúa. Ngài tìm săn sóc
những trường hợp ghê tởm nhất.
15
năm khủng khiếp trôi qua. Tâm hồn trung tín anh hùng đã được ân thưởng. Thánh
Rosa gặp lại được ánh sáng. Ngài mời gọi mọi tạo vật hợp ý ca ngợi và yêu mến
Thiên Chúa. Ngài nói: - Nếu mọi người biết ơn thánh là gì, họ sẽ muốn được chịu
đau khổ, sẽ đón tìm cực khổ, bắt bớ để chiếm hữu cho được, bởi vì ơn thánh là
cái giá khôn sánh đáp đền cho lòng nhẫn nại.
Đối
với phép Thánh Thể Ngài nói : - Điều mà mặt trời thực hiện trong thế giới hữu
hình, sự thông hiệp Thánh Thể sẽ phát sinh trong tôi.
Quả
quyết tình Chúa quan phòng còn lớn gấp bội những khốn khổ và yếu đuối của con
người, Ngài nói: - Tôi có một hôn phu có thể làm điều lớn lao nhất, sở hữu điều
họa hiếm nhất. Tôi thấy mình mới chỉ biết trông đợi nơi Người có một chút đỉnh
thôi.
Từ
đây, Ngài luôn được an bình, Ngài sống trong một cái chòi như một nhà ẩn tu.
Năm 1614, Ngài ở dưới sự bảo trợ của ông Don Gonzalo de Massa và vợ ông. Họ cho
Ngài trọ và săn sóc Ngài trong cơn bệnh dài trước khi chết.
Vào
đầu tháng tám cuối đời, cơn bệnh đau đớn dữ dội. Ngài thú nhận: - Tôi không hiểu
được tại sao bao nhiêu đau đớn như vậy lại đổ trên đầu một tạo vật.
Nhưng
đầy can đảm Ngài nói : - Lạy Chúa xin tăng thêm những đau đớn, miễn là Chúa
cũng thêm lòng yêu mến cho con.
Ngày
24 tháng 8 năm 1617 thánh nữ qua đời với lời cuối cùng trên môi : - Chúa Giêsu,
Chúa Giêsu, Chúa ở với tôi .
(daminhvn.net)
23
Tháng Tám
Hoa Ðầu Mùa Của Mỹ
Châu
Hôm
nay Giáo Hội kính nhớ thánh Rosa Lima, vị thánh đầu tiên của Châu Mỹ. Thánh nữ
có hai đặc điểm mà dường như vị thánh nào cũng có, đó là: bị chống đối và sống
khắc khổ.
Chọn
thánh nữ Catarina Siena làm mẫu mực, Rosa quyết sống trọn vẹn cho Thiên Chúa. Sợ
nhan sắc của mình có thể quyến rũ nhiều người cũng như làm cớ vấp phạm cho
chính mình, Rosa đã lấy tiêu thoa lên mặt để biến mình thành một người xấu xí.
Cô cũng lấy thép cuốn thành vòng gai nhọn đội trên đầu.
Nhưng
Rosa không phải là một con người mơ mộng viển vông. Khi thấy gia đình gặp khó
khăn về kinh tế, Rosa đã hy sinh làm lụng suốt ngày ngoài đồng và tối về may vá
suốt đêm để kiếm tiền đắp đổi cho gia đình. Sống cho cha mẹ, lo cho gia đình,
nhưng Rosa vẫn quyết tâm dâng hiến trọn đời cho Chúa. Cô đã mất mười năm để chống
lại ý định của cha mẹ nhằm cưỡng bách cô phải lập gia đình. Và cuối cùng, vì
cha mẹ cũng không chấp nhận cho cô vào dòng, Rosa đã gia nhập vào dòng ba thánh
Ða Minh. Như thế cô vừa sống được lý tưởng tu dòng vừa sống thánh giữa đời.
Trong
những năm cuối đời, Rosa dành một phòng trong nhà để đón tiếp trẻ em không nhà
không cửa và những người già cả bệnh tật. Ðây là một trong những hình thức hoạt
động xã hội đầu tiên tại Pêru.
Rosa
qua đời năm 31 tuổi. Cả thành phố Lima thương khóc cô như một vị thánh trẻ đã kết
hợp tinh thần chiêm niệm, khổ chế với hoạt động bác ái.
Thánh
Rosa kể lại rằng trong một giấc mơ, ngài được Chúa dẫn đến một xưởng điêu khắc
dành cho những người muốn nên thánh. Thánh nhân chứng kiến cảnh không biết bao
nhiêu người đang ngồi trước các khối đá cẩm thạch. Có người sắp hoàn thành xong
một tác phẩm nghệ thuật. Có người chỉ mới bắt đầu đục đẽo trên một phiến đá sần
sù, cứng nhắc. Thánh nữ cũng được Chúa trao cho những đồ nghề cần thiết và đặt
ngồi trước một phiến đá lớn. Người mẫu của tác phẩm chính là hình ảnh mà Thiên
Chúa đã đặt để từ đời đời trong thánh nữ.
Mỗi
ngày chúng ta kính nhớ một vị thánh. Mỗi một vị thánh là một nhắc nhở chúng ta
về ơn gọi nên thánh của mỗi người chúng ta. Không một vị thánh nào giống vị
thánh nào. Không ai bắt buộc phải sống khuôn dập theo bất cứ một mẫu mực nào. Mỗi
người là một vị thánh cá biệt. Nhưng tất cả đều có một mẫu số chung: đó là họa
lại hình ảnh của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình.
Và
hình ảnh mà Thiên Chúa muốn mỗi người chúng ta họa lại trong cuộc đời của chính
mình là Ðức Giêsu Kitô. Nhưng người Kitô không chỉ sống như Ðức Kitô, mà còn sống
bằng chính Ðức Kitô. Họa lại Ðức Kitô cũng có nghĩa là để cho Ðức Kitô uốn nắn,
tạc vẽ cho đến khi nào chúng ta đạt được tầm mức của Ngài.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét