20/03/2017
THÁNH GIUSE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MARIA.
Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
* Thánh Giuse, bạn trăm năm của Đức Maria, có sứ mạng “chăm sóc Đức Giêsu như một người cha”. Nhưng Chúa đã muốn người chủ Thánh Gia ở Nagiarét tiếp tục sứ mạng ấy trong Hội Thánh, thân thể của Chúa Kitô. Đức Maria là Mẹ của Hội Thánh thì thánh
Giuse là Đấng che chở Hội Thánh.
BÀI ĐỌC I:
2 Sm 7, 4-5a. 12-14a. 16
"Thiên Chúa sẽ ban cho Người
ngôi báu của Đavít, tổ phụ Người".
Trích sách Samuel
quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy,
Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy đi nói với Đavít tôi tớ Ta rằng: Khi ngày
của ngươi đã viên mãn, ngươi sẽ yên nghỉ với các tổ phụ ngươi; sau đó, Ta sẽ
cho miêu duệ ngươi lên kế vị và Ta sẽ làm cho triều đại người được vững bền.
Chính người sẽ xây cất một ngôi nhà để kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngôi báu
triều đại người được củng cố đến muôn đời. Ta sẽ là Cha của người, và người sẽ
là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại của ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước
mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 88, 2-3.
4-5. 27 và 29
Đáp: Miêu duệ người
tồn tại đến muôn đời (c. 37).
1) Tôi sẽ ca ngợi tình
thương của Chúa tới muôn đời; qua mọi thế hệ, miệng tôi loan truyền lòng trung
thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời";
trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Đáp.
2) Ta đã ký minh ước
cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Đavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho
tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua
muôn thế hệ". - Đáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng
Ta: "Chúa là Cha con, và Thiên Chúa là Đá Tảng cứu độ của
con". Đời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta
ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. - Đáp.
BÀI ĐỌC II:
Rm 4, 13. 16-18. 22
"Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn
tin".
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, không
phải nhờ lề luật mới có lời hứa ban cho Abraham hay dòng dõi của ông trở nên kẻ
thừa kế thế gian, nhưng là nhờ sự công chính của đức tin. Vì thế, do đức tin,
được coi như là theo ân sủng, lời hứa cho mọi dòng dõi được vững bền, không phải
chỉ cho kẻ sinh bởi lề luật, mà còn cho kẻ sinh bởi đức tin của Abraham, tổ phụ
của mọi người chúng ta, (như có lời chép rằng: Ta đã đặt ngươi làm cha nhiều
dân tộc) trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông đã tin, Đấng cho kẻ chết sống lại, và
kêu gọi cái không có như có. Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở
thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: "Dòng dõi ngươi
sẽ như thế". Vì vậy, ông đã được kể như sự công chính. Đó là lời
Chúa.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC
ÂM: Tv 129, 5 và 7
Lạy Chúa, phúc cho những
ai ngụ nơi nhà Chúa, họ sẽ khen ngợi Chúa đến muôn đời.
PHÚC ÂM: Mt
1, 16. 18-21. 24a
"Giuse đã thực hiện như lời
Thiên thần Chúa truyền".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Đức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền. Đó là lời Chúa.
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Đức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền. Đó là lời Chúa.
Hoặc đọc:
Lc 2, 41-51a
"Kìa cha Con và mẹ đây đã
đau khổ tìm Con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người. Đó là lời Chúa.
Suy niệm : Trung Thành Với Thánh Ý Thiên Chúa
Hôm nay Giáo Hội mừng
kính Thánh Cả Giuse, mặc dù thánh nhân chỉ xuất hiện vài lần trong các sách Tin
Mừng. Nhưng chừng ấy cũng đủ để Giáo Hội có cơ sở để tôn vinh Người trong vai
trò cha nuôi của Chúa Giêsu và là bạn trăm năm của Ðức Maria.
Thánh Giuse là mẫu người
thầm lặng ít nói. Các sách Tin Mừng không ghi lại lời nào của Người, ngay cả
lúc tìm gặp Chúa Giêsu trong đền thờ, thì cũng chính Ðức Maria là người lên tiếng
nói với Chúa Giêsu. Thánh Giuse ít nói nhưng người chăm chú lắng nghe các lệnh
truyền của Chúa và mau mắn làm theo, nhiều khi các lệnh truyền ấy có vẻ ngang
trái bất ngờ. Khi nhận Ðức Maria làm vợ và đưa Mẹ về nhà mình; khi đem gia đình
trốn sang Ai Cập; khi hồi hương trở về Nazareth, thánh Giuse luôn luôn trung
thành với thánh ý Thiên Chúa mà không đòi hỏi một điều kiện nào. Hễ Thiên Chúa
gọi thì Người lắng nghe; Thiên Chúa nói thì Người vâng lời. Thánh Giuse đúng là
một người sống đức tin bằng hành động, không lý luận, không thắc mắc, tâm hồn
và thân xác Người luôn sẵn sàng dâng hiến để thánh ý Thiên Chúa được thi hành.
Và quả thật, nhờ sự cộng tác đắc lực của thánh Giuse, mà kế hoạch nhập thể của
Chúa Giêsu được diễn ra hết sức tốt đẹp. Không đòi hỏi được tuyên dương, thánh
Giuse đã làm trọn sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó cho Người.
Lạy Thánh Cả Giuse,
nhiều khi con ham nói mà ít chịu lắng nghe tiếng Thiên Chúa, ham suy luận mà ít
chịu vâng phục cách triệt để thánh ý Thiên Chúa. Xin thánh nhân dạy con biết
noi gương Người, biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thinh lặng và biết sống
đức tin bằng hành động. Xin thánh nhân nâng đỡ những người cha trong gia đình để
họ sống trọn sứ mạng làm chồng, làm cha. Xin thánh nhân phù trợ Giáo Hội Việt
Nam trong vai trò hướng dẫn những người Kitô và làm chứng cho đức tin Kitô giữa
lòng dân tộc.
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Lễ Trọng Kính Thánh Giuse
Bài đọc: 2 Sam 7:4-5a,
12-14a, 16; Rom 4:13, 16-18, 22; Mt 1:16, 18-21, 24a.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thánh Giuse trở nên công
chính nhờ niềm tin vào Thiên Chúa.
Con người luôn bị giằng
co giữa hai thái cực: một bên là đức tin tuyệt đối vào sự khôn ngoan của Thiên
Chúa, một bên là sự suy luận theo lý trí của con người. Khi có sự xung đột, con
người phải chọn đàng nào? Nhiều người cho họ chỉ tin những gì lý trí con người
có thể hiểu được; ngoài ra là mê tín dị đoan. Nhưng Thiên Chúa đã tuyên sấm qua
miệng tiên tri Isaiah: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi,
và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao
hơn đất thế nào, tư tưởng và đường lối của Ta cũng cao hơn các người như vậy”
(Isa 55:8-9). Lịch sử nhiều lần chứng minh: vâng lời làm theo ý Thiên Chúa mang
lại những kết quả quá lòng mong đợi của con người; ngược lại, bất tuân thánh ý
Thiên Chúa để làm theo ý riêng mình sẽ gây ra muôn vàn khổ đau cho con người.
Các Bài Đọc hôm nay
nêu bật những mẫu gương của những người thi hành thánh ý Thiên Chúa cho dẫu họ
không hiểu kế hoạch của Ngài. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa hứa với vua David
dòng dõi ông sẽ làm vua cai trị tới muôn đời. Điều này được thực hiện qua Đức
Kitô, Ngài thuộc dòng tộc David và sẽ cai trị tới muôn đời. Trong Bài Đọc II,
Thiên Chúa hứa sẽ ban cho Abraham một dòng dõi đông như sao trên trời, trong
khi ông chỉ có hai người con duy nhất: Isaac bởi Sarah và Ismael bởi Hagar. Lời
hứa này cũng được làm trọn nơi Đức Kitô, tất cả những ai tin vào Đức Kitô, họ
trở thành con cháu của tổ phụ Abraham. Trong Phúc Âm, thánh Giuse chấp nhận đón
Đức Mẹ về chung sống; sau khi được sứ thần của Thiên Chúa cho biết việc Đức Mẹ
chịu thai là do quyền năng của Thánh Thần.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi
trước mặt Ta.
1.1/ Lời Thiên Chúa hứa với
vua David: Sau khi đã ổn định đất nước, vua
David nói với tiên tri Nathan ý định muốn xây nhà cho Thiên Chúa tại thành của
David; nhưng ngay đêm ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Nathan rằng: "Hãy
đi nói với tôi tớ của Ta là David: Đức Chúa phán thế này: Khi ngày đời của
ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng
lên kế vị ngươi - một người do chính ngươi sinh ra - và Ta sẽ làm cho vương quyền
của nó được vững bền.”
Không phải David sẽ
xây nhà cho Thiên Chúa; nhưng chính Thiên Chúa sẽ xây nhà cho ông. Nhà ở đây ám
chỉ dòng dõi của David; từ dòng dõi này sẽ xuất hiện Đấng Thiên Sai và uy quyền
cai trị sẽ tồn tại đến muôn đời.
1.2/ Lời Hứa của Thiên
Chúa: Thiên Chúa cho biết người sẽ xây nhà
cho Ngài là Solomon, con kế vị của vua David: “Chính nó sẽ xây một nhà để tôn
kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó,
Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi
sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi."
Lời Hứa của Thiên Chúa
bị đe doạ bởi sự bất trung của hậu duệ của vua David. Có những lúc tưởng chừng
như nhà David sẽ hết người nối ngôi, như thời kỳ bị lưu đày; nhưng Thiên Chúa vẫn
quan phòng cách khôn ngoan, cho đến ngày Đấng Thiên Sai ra đời từ dòng dõi
David.
2/ Bài đọc II: Abraham được lời hứa đó, vì đã trở nên công chính nhờ lòng
tin.
2.1/ Đe dọa của niềm tin:
Khi Thiên Chúa hứa sẽ ban cho Abraham một
dòng dõi, ông vẫn chưa có lấy một người con dù đã quá tuổi sinh con (Gen 15).
Làm sao một người có thể có con đông như sao trên trời và như cát dưới biển,
khi chưa có lấy một người con trong lúc tuổi già?
2.2/ Đức tin của tổ phụ
Abraham: Nhưng Abraham hoàn toàn tin vào Lời
Thiên Chúa hứa, và đó là lý do Abraham được trở nên công chính, như lời thánh
Phaolô viết: “Thật vậy, không phải chiếu theo Lề Luật, mà Thiên Chúa đã hứa cho
ông Abraham và dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp; nhưng ông được lời hứa
đó, vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin.”
Thánh Phaolô muốn đả
phá một quan niệm sai lầm của người Do-thái: con người trở nên công chính bằng
việc giữ cẩn thận các Lề Luật. Ngài dùng chính những gì đã xảy ra cho Abraham để
đả phá quan niệm này:
(1) Lời Hứa được Thiên
Chúa ban cho Abraham cách nhưng không: Abraham không làm gì để xứng đáng được
hưởng những gì Thiên Chúa hứa, như Phaolô xác tín: “Vì tin mà người ta được thừa
hưởng lời Thiên Chúa hứa; như thế lời hứa là ân huệ Thiên Chúa ban không, và có
giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Abraham, nghĩa là không phải chỉ cho những ai
giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có lòng tin như ông.” Hơn nữa Lề Luật được
Thiên Chúa ban cho con người sau này, thời của Moses trong cuộc Xuất Hành ra khỏi
Ai-cập. Thời của Abraham, làm gì đã có Lề Luật để tuân giữ!
(2) Dòng dõi Abraham
được trở nên đông đúc không do di truyền; nhưng do bởi niềm tin của các tín hữu
vào Đức Kitô. Phaolô viết: “Ông là tổ phụ chúng ta hết thảy, như có lời chép:
Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt
Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những
gì không có hoá có.”
(3) Con người trở nên
công chính bằng đức tin: Abraham không sống trên dương gian để nhìn thấy Lời
Thiên Chúa được thực hiện; hơn nữa, Abraham còn chịu rất nhiều thử thách đe doạ
niềm tin này. Ví dụ, việc Thiên Chúa muốn ông sát tế Isaac, con ông, trên núi
Moriah. Trong mọi hoàn cảnh khó khăn và thử thách, “mặc dầu không còn gì để
trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều
dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế. Bởi thế,
ông được kể là người công chính.”
3/ Phúc Âm: Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy.
3.1/ Đức tin của Giuse bị
thử thách: Cuộc đính hôn của thánh Giuse với
Đức Mẹ chắc chắn được Thiên Chúa quan phòng; nhưng Giuse không thể chấp nhận việc
Đức Mẹ mang thai khi hai người chưa ăn ở với nhau.
(1) Tình trạng pháp
lý: Truyền thống Do-thái về việc cưới hỏi cũng giống như phong tục của Việt-nam.
Có ba giai đoạn trong việc cưới hỏi: thứ nhất là giai đoạn hứa hôn,
được làm bởi cha mẹ hai bên khi hai trẻ vẫn còn nhỏ. Giai đoạn này không bị
ràng buộc nếu sau này một trong hai trẻ không đồng ý tiến tới; thứ hai là giai
đoạn đính hôn, thường kéo dài trong khoảng một năm. Theo Luật
Do-thái, hai người chính thức thành vợ chồng tuy chưa ăn ở với nhau; nếu muốn
ly dị phải theo thủ tục pháp lý. Thánh Giuse và Mẹ Maria ở trong giai đoạn này.
Sau cùng là giai đoạn kết hôn, khi hai người ăn ở với nhau.
(2) Cách giải quyết: Một
điều Giuse biết chắc chắn là bào thai Đức Mẹ đang cưu mang không phải là của
mình. Là người công chính, Giuse không thể chấp nhận bào thai của Đức Mẹ, và
ông có hai cách để giải quyết: hoặc tố cáo và Đức Mẹ sẽ bị ném đá vì tội ngoại
tình, hoặc bỏ Đức Mẹ cách kín đáo. Vì có lòng nhân từ, Giuse không muốn Đức Mẹ
bị ném đá, ông “định tâm bỏ bà cách kín đáo.”
3.2/ Đức tin của Giuse: Khi ông đang toan tính như vậy, thì sứ thần Thiên Chúa hiện
đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, con cháu David, đừng ngại đón
bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.
Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ
cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ."
Để hiểu việc làm của Giuse,
chúng ta cần tìm hiểu truyền thống Do-thái hiểu biết về Thánh Thần. Theo Kinh
Thánh, Thánh Thần có ít nhất 4 nhiệm vụ như sau:
(1) Ngài là người mang
sự thật từ Thiên Chúa đến cho con người (Exo 31:3; Num 11:25; 27:18; Deut 34:9;
1 Sam 10:10; 2 Sam 23:2; Job 32:8; Psa 32:2);
(2) Làm cho con người
hiểu biết sự thật (Gen 41:38; Num 24:2; Psa 32:2; Joel 2:28; Lk 12:12; Jn
14:17; 15:26);
(3) Ngài cùng với
Thiên Chúa tạo dựng (Gen 6:3; Jdg 14:6; 1 Sam 11:6; Job 27:3; 33:4; Psa 33:6;
104:30);
(4) Tái tạo dựng con
người (Gen 1:2; Jdg 6:34; 11:29; 13:25; 15:9; 1 Sam 10:6; Psa 51:10; 143:10;
Job 33:4; Eze 37:1-14; Acts 2:1-4).
Thấm nhuần truyền thống
trên, Giuse chấp nhận bào thai của Đức Mẹ dẫu biết bào thai không phải là của
mình, ông cũng không đòi cắt nghĩa “việc chịu thai bởi Chúa Thánh Thần;” nhưng
tin Thánh Thần là nguyên nhân tạo dựng bào thai đó. Suốt cuộc đời chăm sóc Đức
Mẹ và Chúa Giêsu, thánh Giuse luôn để Chúa Thánh Thần hướng dẫn mọi việc và
vâng lời làm theo những gì sứ thần truyền. Kinh Thánh tường thuật ba sự kiện:
thứ nhất, thánh Giuse chấp nhận đính hôn với Đức Mẹ để trở thành cha nuôi của Đấng
Cứu Thế; thứ hai, thánh Giuse chấp nhận đưa Đức Mẹ và Chúa Giêsu trốn sang Ai-cập
lúc đang đêm; ngài không nại lý do đang đêm hay làm gì sinh sống nơi đất lạ quê
người; sau cùng, ngài chấp nhận đưa gia đình hồi hương và lập nghiệp tại
Nazareth; không than phiền phải di chuyển đến nơi ở mới một lần nữa.
Nói tóm, tuy thánh
Giuse không để lại một lời nào cho hậu thế; nhưng ngài để cho chúng ta một tấm
gương luôn biết lắng nghe và mau mắn thi hành Lời Chúa. Ngài hoàn toàn tin tưởng
nơi quyền năng Thiên Chúa, và khiêm tốn thi hành những gì Thiên Chúa truyền, vì
Ngài biết trí khôn của mình không thể hiểu nổi sự quan phòng của Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta được trở
nên công chính nhờ niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô; chứ không nhờ những
việc chúng ta làm.
- Thử thách và đau khổ
trong cuộc đời là những cơ hội giúp chúng ta chứng tỏ đức tin nơi Thiên Chúa.
Chúng ta hãy biết sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
- Thiên Chúa luôn
trung thành giữ những gì Ngài hứa; vì thế, chúng ta cần đặt trọn vẹn niềm tin
tưởng nơi Ngài.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
Th. Giu-se, Bạn Trăm Năm
Đức Ma-ri-a Lc 2,41-51
VÂNG PHỤC Ý CHA
“Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết
là con có bổn phận ở nhà Cha con sao?” Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa
nói. Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục
các Ngài.” (Lc
2,49)
Suy niệm: “Cha mẹ không biết
con có bổn phận ở nhà Cha con sao?” Theo các nhà chú giải Thánh Kinh có thể
đây là lần đầu tiên Đức Giê-su tỏ ra Ngài nhận thức Ngài là Con Thiên Chúa
trước khi là con Mẹ Ma-ri-a và thánh Giu-se, và sứ mạng Người phải chu toàn.
Gặp lại con, thánh Giu-se không nói gì, nhưng có lẽ qua ánh mắt của Người, Đức
Giê-su đã đọc được ý của Chúa Cha: giờ thi hành sứ mạng của Người chưa đến.
Người mau mắn rời bỏ đền thờ, cùng với cha mẹ trở về Na-da-rét tiếp tục đời
sống âm thầm vâng phục. Với thánh Giu-se, Đức Giê-su đã học sống thinh lặng,
khiêm tốn, vâng phục, từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha, học chu toàn mọi
công việc với tình yêu.
Mời Bạn: Bạn
hãy đến Na-da-rét để học biết giá trị của đời sống gia đình, xóm làng, của công
việc. Với thánh Giu-se bạn sẽ học biết làm cho mọi cái rất tầm thường trong
cuộc sống của bạn trở nên phi thường.
Chia sẻ: Bạn
có nhận thấy sự hiện diện và ý muốn của Chúa nơi cha mẹ, và những người có
trách nhiệm hướng dẫn bạn không?
Sống Lời Chúa: Noi
gương Chúa Giê-su sống khiêm tốn, vâng phục ý Chúa qua những người thay mặt
Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa là
gương mẫu cho chúng con trong sự vâng phục ý Cha. Nhờ lời chuyển cầu của thánh
Giu-se, xin cho chúng con cũng biết khiêm tốn vâng phục ý Chúa qua trung gian
những người thay mặt Chúa để giúp đỡ chúng con.
(5 phút lời Chúa)
Đặt tên cho con trẻ (20.3.2017 – Thứ hai: Thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Maria)
Maria là một mầu nhiệm, Giêsu cũng là một mầu nhiệm. Giuse sống bên những mầu nhiệm, nên chính đời ngài cũng
trở thành mầu nhiệm.
Suy niệm:
Cô Maria đã đính hôn với
ông Giuse và vẫn ở nhà với bố mẹ.
Phải đợi một năm sau cô
mới về nhà chồng, mới làm lễ thành hôn thực sự.
Lạ thay cô lại mang thai
khi chưa chung sống với Giuse.
Điều này hẳn làm Giuse
bối rối và suy nghĩ nhiều.
Ông không thể tố cáo
Maria, cũng không thể lấy cô ấy làm vợ.
Chỉ còn cách là ly dị
Maria cách âm thầm kín đáo.
Nhưng Thiên Chúa không
nghĩ thế.
Ý định của Ngài được báo
với Giuse trong giấc mộng.
“Đừng sợ đón Maria vợ ông
về,
vì thai nhi được cưu mang
nơi bà là do Thánh Thần” (c. 20).
Giuse hay bị đánh thức
vào lúc ông cần nghỉ ngơi.
Phải có lòng tin thế nào
Giuse mới dám nhận Maria đang mang thai làm vợ.
Tin thai nhi được Maria
cưu mang là “do Thánh Thần” (c. 20),
điều đó không dễ dàng, vì
chưa bao giờ xảy ra trường hợp tương tự.
Tin còn là từ bỏ những
toan tính và định tâm của mình (cc.19-20)
để vâng phục ý định bất
ngờ và khó hiểu của Thiên Chúa.
Điều khiến cho Giuse có
một chỗ đứng độc đáo trong lịch sử cứu độ
đó là việc ông đón Maria
đang mang thai về nhà mình làm vợ chính thức.
Đơn giản là ông chấp nhận
làm đám cưới với Maria.
Đón Maria làm vợ cũng là
nhận cả thai nhi trong bụng mẹ làm con.
Giuse là cha khi ông chấp
nhận đứng ra đặt tên cho con trẻ (c. 21).
Ai có thể biết được điều
gì sẽ xảy ra nếu Giuse cứ muốn âm thầm ly dị Maria?
Giuse đã là chỗ dựa sống
còn của ơn cứu độ, là nơi nương tựa của Mẹ và Con.
Nhờ Giuse, Cô Maria không
bị mang tiếng ngoại tình,
và bé Giêsu không phải là
con hoang, nhưng là con thuộc dòng Đavít.
Đức Giêsu sau này có thể
công khai và tự tin đến với dân Ítraen.
Thánh Giuse đã lập gia
đình, đã có một mái ấm với người mình yêu.
Ngài sống như một người
chồng, người cha bình thường.
Nhưng bên trong lại là
những mầu nhiệm.
Ngài không thật sự là
chồng của Maria, cũng không thật sự là cha của Giêsu.
Maria không còn là đối
tượng để Giuse mê đắm và chiếm hữu,
vì Maria đã thuộc trọn về
Thiên Chúa, cả xác lẫn hồn.
Maria là một mầu nhiệm,
Giêsu cũng là một mầu nhiệm.
Giuse sống bên những mầu
nhiệm, nên chính đời ngài cũng trở thành mầu nhiệm.
Phải đến với mái ấm ở Nadarét
ta mới thấy mầu nhiệm ẩn trong cái bình thường.
Chỉ ai biết nhìn thì mới
thấy sự thánh thiện phi thường ở đó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn
và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành
nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh
Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh
ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách
nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong
lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống
cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản
sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục
vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
20 THÁNG BA
Phải Chăng Chúng Ta
Đã Từ Khước Tình Cha?
Chỗi dậy và trở về với
Cha (Lc 15,18), chúng ta sẽ lấy lại được những gì mình đã đánh mất do tội lỗi.
Giống như Người Con Đi Hoang, chúng ta bắt đầu nhận ra rằng khi mình sống trong
tội lỗi, mình đã phong tỏa chính mình khỏi sự bảo vệ và tình yêu của Cha. Chúng
ta sẽ nhận hiểu tấm lòng Cha yêu thương ta biết mấy – thế mà ta đã quay lưng lại
với Ngài!
Sa vào tội lỗi và
hoang phí sản nghiệp của Cha, chúng ta đã bứt đứt mọi mối gắn kết giữa Cha với
mình. Chúng ta không đáng được Cha tiếp nhận vào nhà. Sự hòa giải chỉ có thể bắt
đầu khi Người Con Đi Hoang thực sự muốn quay về. Rồi, tình yêu và lòng nhân hậu
của Cha có thể giúp người con ương ngạnh ấy thắng vượt mặc cảm tội lỗi và bất xứng
của mình. Chính khi nhìn vào đáy mắt Cha mình là lúc anh ta nghe được lời tha
thứ.
Về gần đến nhà Cha
mình, người con trai tự nghĩ : “Con không đáng được gọi là con của Cha nữa”.
Nhưng Cha anh đang quay quắt đợi chờ, bền bỉ đợi chờ; và thoạt trông thấy bóng
anh, ông tràn ngập vui mừng. Người Cha quên hết những điều sai trái mà con mình
đã phạm. Người Cha vồn vã ôm chầm lấy đứa con đang hối hận tận đáy lòng. “Lạy
Cha, con đã lỗi phạm …, con không đáng được gọi là con của Cha nữa” (Lc 15,21).
Trong Mùa Chay này, mỗi
người chúng ta – dù tội lỗi có tày đình đến mấy đi nữa – cũng có thể quay về và
thú nhận tội lỗi của mình. Chúng ta cần phải vạch mặt chỉ tên rõ ràng những tội
lỗi của mình – và tiến về phía vòng tay đang đón đợi của Cha.
Chúng ta hãy bắt đầu
cuộc hành trình trở về nhà Cha. Hãy khảo sát lương tâm mình, xưng thú tội lỗi mình,
thống hối và quyết tâm sống một đời sống mới. Đó là những bước của một lộ trình
hoán cải.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 19-3
Thánh Giuse, Bạn
trăm năm Đức Maria
2Sm
7,4-5a.12-14a.16; Rm 4,13.16-18.22; Mt 1,16.18-21.24a.
LỜI SUY NIỆM: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón Ma-ri-a vợ
ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng của Chúa Thánh Thần.”
Thánh Giu-se, là người
công chính, đối với Đức mẹ, Thánh Cả luôn yêu mến, tôn trọng trong sự thánh thiện;
khi thấy Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu, mà Thánh Cả chưa rõ. Thánh Cả đang toan
tính theo cách riêng của mình để bảo toàn thanh danh và sự sống cho Đức Mẹ.
Thiên Chúa đã yêu thương Thánh Cả, Với Thánh ý của Thiên Chúa, để chương trình
Cứu Độ của Ngài được thực hiện. Con Một của Ngài phải được ở trong môi trường một
gia đình có Cha, có mẹ. và muốn Thánh Cả cọng tác với Ngài. Ngài đã sai sứ thần
của Ngài đến với Thánh Cả, trình bày mọi sự một cách rõ ràng. Để Thánh Cả quyết
định. Thánh Cả đã nghe và đã vâng phục ý của Thiên Chúa và đã đón Đức Mẹ về nhà
mình.
Lạy Chúa Giêsu, Xin
ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn biết khiêm tốn đón nhận mọi
thử thách trong đời sống của mình để nhận ra ơn ban của Chúa.
Mạnh Phương
20 Tháng Ba
Ánh Sáng Ðô Thị
Một trong những cuốn
phim hay nhất của Charlot và cũng có lẽ là một trong những cuốn phim hay nhất
trong lịch sử điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa đề là: "Ánh sáng đô thị".
Ðó là câu chuyện tình của một gã lang thang và một cô gái bán hoa.
Nàng là một cô gái
mù bán hoa bên vệ đường. Một nhà tỷ phú trong vùng ngày nào cũng dừng lại mua
hoa của nàng. Ngày kia, gã lang thang là Charlot cũng dừng lại mua hoa của
nàng. Cô gái bán hoa tưởng chàng là người tỷ phú. Thế là một giấc mộng đã chớm
nở và nối kết hai tâm hồn. Nàng tưởng mình gặp được người mình mơ mộng từ lâu
nay. Chàng thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành tật mù lòa của nàng.
Nhưng chẳng may, vì một sự ngộ nhận, chàng đã bị cảnh sát giam giữ. Sau một thời gian cầm tù, chàng được trả tự do. Chàng trở lại chỗ cũ để tìm người con gái mù, nhưng nàng không còn ở đó nữa. Nhờ tiền bạc trước kia chàng đã gửi cho nàng, người con gái đã được chữa lành và nay đứng trông coi một cửa hàng bán hoa rộng lớn hơn. Chàng đi qua đi lại nhiều lần, nhưng không thể nào nhận ra nàng. Tình cờ, một cánh hoa hồng rơi xuống đất, chàng nhặt lấy. Người con gái cười như nhạo báng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười, chàng quay lại. Chàng hỏi một cách nhút nhát: "Cô đã thấy được rồi sao?". Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc. Nàng từ từ nhặt cánh hoa và gắn lên áo chàng. Và nàng thốt lên trong cảm xúc: "Anh đấy sao?". Thế là cả hai đã nhận ra nhau và họ sẽ không bao giờ rời nhau nữa.
Nhưng chẳng may, vì một sự ngộ nhận, chàng đã bị cảnh sát giam giữ. Sau một thời gian cầm tù, chàng được trả tự do. Chàng trở lại chỗ cũ để tìm người con gái mù, nhưng nàng không còn ở đó nữa. Nhờ tiền bạc trước kia chàng đã gửi cho nàng, người con gái đã được chữa lành và nay đứng trông coi một cửa hàng bán hoa rộng lớn hơn. Chàng đi qua đi lại nhiều lần, nhưng không thể nào nhận ra nàng. Tình cờ, một cánh hoa hồng rơi xuống đất, chàng nhặt lấy. Người con gái cười như nhạo báng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười, chàng quay lại. Chàng hỏi một cách nhút nhát: "Cô đã thấy được rồi sao?". Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc. Nàng từ từ nhặt cánh hoa và gắn lên áo chàng. Và nàng thốt lên trong cảm xúc: "Anh đấy sao?". Thế là cả hai đã nhận ra nhau và họ sẽ không bao giờ rời nhau nữa.
Cuộc gặp gỡ trong bất
cứ một cuộc tình nào cũng là hình bóng của cuộc gặp gỡ trong đức tin giữa chúng
ta và Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta là những con người có tự
do. Do đó Thiên Chúa không nói với chúng ta bằng một ngôn ngữ nào khác hơn là
tình yêu. Tình yêu không bao giờ là một cưỡng bách, nhưng là một mời gọi tự do.
Những người Do Thái thời
Chúa Giêsu đòi hỏi những dấu lạ, những bằng chứng hiển nhiên về sứ mệnh của
Ngài. "Ông hãy làm cho chúng tôi một dấu lạ".
Ngày nay thì trái lại,
với những tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật, con người dường như không còn
tin ở phép lạ nữa. Tưởng mình có thể chế ngự và làm chủ vũ trụ, con người muốn
loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Chúng ta có thể ngạc
nhiên tại sao Thiên Chúa không làm phép lạ nhãn tiền cho những người biệt phái
hay cho những kẻ vô thần ngày nay. Tại sao Ngài không viết tên Ngài trên trời để
xóa tan mọi nghi ngờ trong lòng người? Thiên Chúa có lối sư phạm của Ngài. Ngài
đã không là Thiên Chúa của những điềm lạ cả thể, nhưng là một Thiên Chúa đã chọn
lựa làm tôi tớ để chinh phục tình yêu và lòng tín nhiệm của con người. Thiên
Chúa không những là một Thiên Chúa của quyền năng ở bên trên con người, nhưng
còn là Thiên Chúa ở bên trong con người. Và, cái chết và sự phục sinh của Chúa
Giêsu chính là dấu lạ cả thể nhất, bởi vì đó là dấu chứng của tình
yêu. Chúa Giêsu đã nói đến dấu chứng đó khi dùng hình ảnh của tiên tri
Giona. Giona được Thiên Chúa sai đến cho dân thành Ninivê. Ông tưởng Chúa sẽ
dùng ông để làm một dấu lạ cả thể khiến dân thành sẽ tin vào sứ mệnh của ông.
Nhưng cuối cùng, qua con người của ông, Thiên Chúa chỉ kêu mời sự hoán cải và
tình yêu.
Thiên Chúa đến gặp gỡ
chúng ta qua những sinh hoạt và những biến cố tầm thường nhất trong cuộc sống.
Ngài mời gọi chúng ta nhận ra Ngài trong cái ăn, cái uống, cái mặc, trong tiếng
cười, tiếng khóc, trong tất cả mọi gặp gỡ của chúng ta với tha nhân. Và
ngay cả trong cái chết mà con người cho là điểm cuối cùng của cuộc sống, Thiên
Chúa cũng có mặt.
Nhận ra Ngài như cô
gái bán hoa đã nhận ra giọng nói của chàng Charlot, đó là ơn gọi của người Kitô
chúng ta. Một đức tin trưởng thành không đòi hỏi và thử thách Thiên Chúa, nhưng
tín thác và nhận ra dấu chỉ của Ngài qua những cái tầm thường nhất của cuộc sống.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Lễ Kính
Thánh Giuse, Bạn Đức Mẹ Maria
Thứ Hai, 20 Tháng 3, 2017
Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm của Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu
Mt 1:16, 18-21, 24a
1.
Bài Đọc
a) Lời nguyện mở đầu:
Lạy Chúa Thánh Thần, Đấng di chuyển trên mặt nước,
Xin hãy làm yên tĩnh trong chúng con tất cả mọi bất hòa,
Những con sóng xáo trộn, những tiếng ồn ào của lời nói,
Cơn lốc của hư không,
Và xin hãy làm cho Lời Chúa tái tạo,
Dấy lên trong thinh lặng.
Lạy Chúa Thánh Thần, Đấng mà trong tiếng gió
Chúa thì thầm với thần khí chúng con về Danh của Chúa Cha
Xin hãy đến và gom lại tất cả những ước muốn của chúng con,
Xin hãy làm cho chúng lớn lên trong tia sáng
Đó sẽ là một phản chiếu lại ánh sáng của Chúa,
Lời Chúa của Ngày mới.
Lạy Thánh Thần Chúa, nhựa sống của tình yêu
Của cây đại thụ mà nơi ấy Chúa gầy dựng chúng con,
Để tất cả anh em của chúng con sẽ dường như là một ân sủng đối với chúng
con
Trong một Thân Thể cao cả mà trong đó
Ngôi Lời của hiệp thông trưởng thành.
(Sư huynh Pierre-Yves thành Taizé)
b) Bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu:
1:16-24
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Đức Kitô. Như thế, tính chung lại thì: từ tổ phụ Ápraham đến vua Đavít, là mười bốn
đời; từ vua Đavít đến thời lưu đày ở Babylon, là mười bốn đời; và từ thời lưu
đày ở Babylon đến Đức Kitô, cũng là mười bốn đời. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ
thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà là người công chính, không muốn
tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy,
thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua
Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép
Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính
Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm
lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ:
Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi
tên con trẻ là Êmmanuel, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời
Thiên thần Chúa truyền và đón vợ về nhà.
Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên
cho con trẻ là Giêsu.
c) Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa có thể thấm nhập vào lòng và soi sáng đời sống chúng ta.
2. Suy
Gẫm
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ chương thứ nhất của sách Tin Mừng theo
thánh Mátthêu là một phần của đoạn nói về việc thụ thai, việc giáng sinh và thời
thơ ấu của Chúa Giêsu. Trọng tâm trên hết
của câu chuyện này là chung quanh Con Người của Chúa Giêsu mà tất cả những sự
kiện và những nhân vật được đề cập đến.
Ta nên nhớ rằng Tin Mừng mặc khải Thần Học về cuộc đời của Chúa Giêsu,
và vì thế đến gần với Lời Chúa, chúng ta phải nhận thấy sứ điệp được ẩn dấu dưới
màn che của câu chuyện mà không làm mất chính mình, như thánh Phaolô đã khuyên
chúng ta một cách khôn khéo “trong những tranh luận điên rồ”, tránh xa “những
chuyện gia phả, những vụ cãi cọ, xung đột về Lề Luật: những cái đó vô ích và rỗng
tuếch” (Tt 3:9).
Thật ra, đoạn Tin Mừng này được nối kết với gia phả của Chúa Giêsu, mà
thánh Mátthêu sắp xếp với mục đích nhấn mạnh đến việc thừa kế vương tộc của
Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ cho dân Người (Mt 1:21). Chúa Giêsu được trao toàn bộ quyền thừa hưởng
từ dòng dõi vua Đavít, con của “Giuse, con cháu của Đavít” (Mt 1:20; Lc 2:4-5),
là cha hợp pháp của Chúa. Bởi vì đối với
thế giới người Do Thái và Kinh Thánh, mối liên hệ phụ tử hợp pháp là điều kiện
đủ trong vấn đề thừa hưởng mọi quyền lợi trực hệ (xem: lề luật về thế huynh hôn
phối và về việc nhận làm con (Đnl 25:5 và các câu tiếp theo)). Đó là lý do tại sao sách Tin Mừng bắt đầu bằng
câu chuyện gia phả, Chúa Giêsu được gọi là “Đấng Kitô con cháu vua Đavít” (Mt
1:1); đó là Đấng được xức dầu của Thiên Chúa, con cháu vua Đavít, Đấng mà tất cả
những lời hứa của Thiên Chúa với vua Đavít, tôi tớ Người, được hoàn thành (2Sm
7:1-16; 2Sb 7:18; 2Sb 21:7; Tv 89:30).
Đây là lý do mà Mátthêu thêm vào câu chuyện gia phả và việc thụ thai của
Chúa Giêsu, theo lời của ngôn sứ Isaia:
“Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán
qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ
thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Êmmanuel,
nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1:21-23 và Is 7:14)
Chúng ta hãy tạm dừng để nói điều này, về tinh thần thực tế của việc nhận
làm con nuôi, chúng ta có thể nhắc đến sự thật mà dân riêng được sở hữu “vinh
quang, các giao ước, lề luật, nền phụng tự, các lời hứa”, bởi vì “họ là người
Israel và đã được Thiên Chúa nhận làm con” (Rm 9:4). Nhưng chúng ta cũng thế, là dân mới của Thiên
Chúa trong Đức Kitô được nhận làm con bởi vì “khi tới thời viên mãn, Thiên Chúa
đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để
chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl
4:4-5). Đây là ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu
đã mang đến cho chúng ta. Chúa Kitô “sẽ
cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1:21) bởi vì Người là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta!”
(Mt 1:23) Đấng ban ơn làm nghĩa tử của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu được sinh ra bởi “bà Maria, mẹ Người, đã đính hôn với ông Giuse”
(Mt 1:18a) bà “đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1:18b). Tác giả
Mátthêu không kể lại câu chuyện truyền tin như thánh Luca đã kể (Lc 1:26-38),
nhưng xây dựng câu chuyện từ quan điểm về việc cư xử của thánh Giuse như một
người công chính. Kinh Thánh mặc khải
cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa yêu thương người công chính và nhiều lần chọn
họ trong sứ vụ quan trọng, bảo vệ họ, và không xét xử họ chung với những kẻ tội
lỗi (St 18:23 và các câu tiếp theo).
Trong Cựu Ước, chúng ta thấy nhiều người được coi là công chính. Chúng ta nghĩ đến ông Nôe “một người công
chính, hoàn hảo giữa những người cùng thời” (St 6:9). Hoặc nghĩ đến vua Giôát là người “đã làm những
điều ngay thẳng trước mắt Đức Giavê” (2V 12:3).
Một ý niệm thường xuyên trong Kinh Thánh rằng “giấc chiêm bao” được coi như
là một nơi chốn đặc biệt để Thiên Chúa làm cho các chương trình và dự án của
Chúa được biết đến, và đôi khi mặc khải chuyện tương lai. Những giấc chiêm bao của ông Giacóp và Bêtel
thì nổi tiếng (St 28:10 và các câu tiếp theo); của ông Giuse, con trai ông,
cũng như các quan chước tửu và quan ngự thiện bị giam cầm tại Ai Cập với ông
Giuse (St 37:5; 40:5 và các câu tiếp theo) và những giấc chiêm bao của Pharaô
trong đó mặc khải những năm sung túc và những năm đói kém cũng như kiệt quệ
trong tương lai (St 41:1 và các câu tiếp theo).
“Một Thiên Thần Chúa” hiện đến cùng ông Giuse (Mt 1:20) để mặc khải cho ông
về chương trình của Thiên Chúa. Trong
các sách Phúc Âm nói về thời thơ ấu, Thiên Thần Chúa thường xuyên được nhắc đến
như là thiên sứ (Mt 1:20,24; 2:13,19; Lc 1:11; 2:9) và cũng vào những dịp khác,
thiên thần hiện ra để trấn an, để mặc khải chương trình của Thiên Chúa, để chữa
lành, để giải thoát khỏi ách nô lệ (xem Mt 28:2; Ga 5:4; Cv 5:19; 8:26;
12:7,23). Nhiều trường hợp thiên sứ của
Chúa cũng được nhắc đến trong Cựu Ước nơi mà khởi đầu thiên thần, đại diện cho
Chúa, Đấng dẫn đường và gìn giữ dân Chúa và gần gũi với họ (xem St 16:7-16;
22:12; 24:7; Xh 3:3; 23:20; Tb 5:4)
b) Những câu hỏi để hướng dẫn cho phần
suy gẫm và ứng dụng:
Điều gì trong đoạn Tin Mừng này đánh động bạn nhất? Tại sao?
Trong chìa khóa dẫn đến bài đọc, chúng ta đã có suy xét đủ về một số từ ngữ
chưa (nhận làm con, thiên thần, giấc chiêm bao, công chính)? Các từ ngữ này đã nảy sinh những cảm xúc gì
hay ý nghĩ gì trong lòng bạn? Chúng có
thể có sự thích hợp nào cho cuộc hành trình trưởng thành tâm linh của bạn
không?
Bạn nghĩ trọng tâm sứ điệp của đoạn Tin Mừng này là gì?
3. Cầu
Nguyện
a) Thánh Vịnh 92
Thú vị thay được tạ ơn CHÚA,
được mừng hát danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao,
được tuyên xưng tình thương của Ngài từ buổi sớm,
và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya,
hoà điệu sắt cầm gieo trầm bổng,
nhè nhẹ vấn vương khúc tỳ bà.
Lạy CHÚA, sự nghiệp Ngài khiến con mừng rỡ,
thấy việc tay Ngài làm, con phải reo lên:
Lạy CHÚA, công trình Ngài xiết bao vĩ đại,
tư tưởng Ngài thâm thúy lắm thay!
Người khờ dại nào đâu có biết,
kẻ ngu si chẳng hiểu điều này:
Bọn bất nhân dầu sởn sơ như cỏ,
phường gian ác có đua nở khoe tươi,
cũng là để bị diệt trừ vĩnh viễn.
Còn CHÚA, Ngài cao cả đến muôn đời.
Kìa những kẻ thù Ngài, lạy CHÚA,
kìa những kẻ thù Ngài tiêu vong,
bọn gian ác đều rã tan hết thảy.
Ngài cho con ngẩng đầu hãnh diện,
tựa như trâu ngạo nghễ giương sừng,
thân con, Ngài xức dầu thơm mát.
Mắt con nghênh những kẻ địch thù,
tai nghe biết lũ hại con mạt vận.
Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt,
lớn mạnh như hương bá Li-băng
được trồng nơi nhà CHÚA,
mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta;
già cỗi rồi, vẫn sinh hoa kết quả,
tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn,
để loan truyền rằng: CHÚA thực là ngay thẳng,
là núi đá cho tôi ẩn náu,
nơi Người chẳng có chút bất công.
b) Giây phút thinh lặng cầu nguyện
4.
Chiêm Niệm
Việc chiêm niệm của người Kitô hữu về giấc mơ của Thiên Chúa, dự án mà
Thiên Chúa ấp ủ đối với lịch sử nhân loại không nảy sinh sự tha hóa mà giữ cho
lương tâm luôn cảnh tỉnh, năng động và thúc đẩy chúng ta phải đối mặt với sự
can đảm và lòng vị tha, trách nhiệm mà đời sống ban cho chúng ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét