Trang

Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

17-11-2013 : (phần II) CHÚA NHẬT XXXIII MÙA THƯỜNG NIÊN năm C - Kính Trọng Thể CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

CHÚA NHẬT 17/11/2013
CHÚA NHẬT XXXIII MÙA THƯỜNG NIÊN năm C
Kính Trọng Thể CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
(phần II)

Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật XXXIII Quanh Năm.C, ngày 17.11. 2013
CHÚA NHẬT XXXIII QUANH NĂM, NĂM C
Sách Malakhi 4.1-2 (Sách LCTTL. Malakhi 3.19-12 – Không đúng); Thư Thứ Hai của Thánh Phaolô gửi tín hữu Tessalonica 3.7-12 và Phúc Âm Thánh Luca 21.5-19 (Sách LCTTL. Luca 20.27-40 Không đúng)
I.                   Giáo Huấn P.Â.:   
Ngày cánh chung sẽ đến.
Ngày cánh chung sẽ đến cho thành Thánh Giêrusalem: sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Những gì mà người ta coi như kiên vững thỉ đều bị sụp đỗ.
Ngày cánh chung của thế giới nhân loại: Chiến tranh, thiên tai, loạn lạc, động đất, ôn dịch đói kém và những người theo Chúa sẽ bị bách hại.
Bách hại là dịp làm chứng về Chúa.

II.        Vấn nạn P.Â.    
Đền Thờ Giêrusalem
Đền thờ Giêrusalem là trung tâm phượng tự của Do Thái. Nơi đây có hòm bia giao ước đặt nơi gian cực thánh tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên chúa giữa dân Ngài. Toàn dân buộc phải hành hương về Giêrusalem dịp Lễ Vượt Qua hàng năm. Đền Thờ do Thầy Thượng tế lãnh đạo dưới sự cộng tác của đội ngũ tư tế đông đảo. Họ có lính riêng để bão vệ và tiền riêng để nói lên tính độc lập. Có tất cả ba đền thờ được xây dựng trong gần 10 thế kỷ:
Đền thờ Thứ I do vua Salomon (Sách Các Vua quyển I chương 6.11), con Vua Đavít đã xây dựng từ năm 1013-1006 trước Công nguyển, mất bảy năm. Kế thừa ý định vua Cha về việc xây dựng một Đền Thánh nguy nga, lộng lẫy xứng đáng làm nhà cho Thiên Chúa. Salomon đã phải nhờ đến những thợ kiến trúc chuyên nghiệp ngoài Do Thái và những chuyên viên kỹ thuật từ Ai Cập và Assyria. Toàn dân rất hảnh diện vì công trình tráng lệ nầy và coi như là cách bày tỏ lòng tôn thờ Thiên Chúa cụ thể nhất: "Lạy Đức Chúa các đạo binh, cung điện Ngài xiết bao khả ái, mảnh hồn này khát khao mòn mỏi, mong tới được khuôn viên đền vàng. Cả tấm thân con cùng là tấc dạ những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng" (Tv 83, 2-3).
Đền Thờ Thứ nhất bị quân đội Babylon của vua Nabuchodonosor chiếm và phá hủy vào năm 587 và dân chúng bị đi lưu đày.
Đền thờ thứ hai.
Năm 538 Ba Tư đánh bại Assyri và Babylon và vua Ba Tư là Cyrus cho phép người Do Thái lưu đầy được hồi hương. Vua Giôrôbabel cho xây dựng tạm đền thờ trên đống đổ nát. Nó được đặt trên nền cũ nhưng nhỏ hơn. Năm 537, Đền thờ bắt đầu được tái thiết trong suốt 17 năm cho đến thời Khacgai và Giacaria, đền thờ mới được hoàn thành, cùng một kích thước với đền thờ của Salomon ngày xưa. Năm 445, Nêhêmia xin vua Ba Tư xây dựng lại tường luỹ bảo vệ chung quanh.
Đền thờ thứ ba.
Thật ra đền thờ thứ hai do Giôrôbabel xây dựng không hề bị phá sập, nhưng được Hêrôđê cả trùng tu đại qui mô như xây một đền thờ mới vậy. Người ta nói đến có cả 10 ngàn thợ xây và lao công làm việc xuyên suốt trong vòng 18 tháng mới hoàn tất gian cực thánh. Họ mất thêm 8 năm cho việc làm tiền đường và hành lang. Công việc trùng tu kèo dài cho đến thời Agrippa và cho mãi tận ngày Giêrusalem bị tàn phá. Đúng như Phúc âm Gioan 2.12-25 nói là mất 46 năm mà vẫn chưa hoàn tất.
Đền thờ tráng lệ, nguy nga và sơn son thiếp vàng nên khi nhìn từ phía núi Oliu, lúc mặt trời mọc nó sáng chói với các mái vòm mạ vàng, các dây leo to tuớng bằng vàng ròng ở cổng chính. Trước quang cảnh rực rỡ đó, khách hành hương không hảnh diện và hát thánh vịnh "Tại Sion, cảnh sắc tuyệt vời, Thiên Chúa hiển minh" (Tv 59,2).
Quân đội Lamã phá đền thờ
Do nội loạn và những phong trào chống La Mã mỗi ngày thêm mạnh. Năm 70 sau công nguyên, tướng La mã Titus đem đại quân vây hãm thành Giêrusalem trong vòng sáu tháng. Thành thánh bị thiêu hủy bình địa. Do Thái thúc thủ đầu hàng. Lệnh giải giáp được ban hành và toàn thể người Do Thái bị phân tán khắp nơi kể từ đây.
Mãi cho đến ngày 15 tháng 5 năm 1948, nhà nước Israel được tuyên bố thành lập dưới sự hỗ trợ của Liên hiệp Quốc. Nhiều người Do Thái lên đường hồi hương xây dựng lại Do Thái của hai ngàn năm trước. Hiện nay, người ta ước chừng có 6 triệu người Do Thái ở Do Thái, 6 triệu người Do Thái ở Hoa Kỳ và số còn lại khoảng 3 triệu thì phân tán thành nhiều nhóm nhỏ trên nhiều nước.
Những hiểu biết đơn giản cần thiết về:

1.      Thành Thánh và đền thờ Giêrusalem (nguồn Giáo lý Công Giáo địa phận Long Xuyên)


Thời Chúa Giêsu, người Do Thái thường hội họp nhau cầu nguyện tại Đền Thờ Giêrusalem và trong các Hội đường. Thành Giêrusalem được xây dựng trên một ngọn núi cao khoảng 800 mét – mà Cựu Ước thường gọi một cách thi vị là “núi Sion” giữa vùng sơn cước Giuđê – phía Tây và Nam giáp thung lũng Khép-rôn.Trước kia, Giêrusalem là thành của dân Canaan bản xứ. Vào khoảng năm 1000, vua Đavít mang quân chiếm lấy và biến thành kinh đô chính trị và tôn giáo của Israel. Giêrusalem từ đó được gọi là “Thành Thánh” và có sự hiện diện của Hòm Bia Giao Ước, và còn mang tên “Kinh Thành của vua Đavít”.Vua Đavít đã xây thành và con của vua là Salômôn đã xây Đền thờ Giêrusalem. Năm 586 trước Công nguyên, Nabucôđônôso Vua Babylon đã chiếm, phá hủy Thành và Đền thờ đó.Năm 520 trước Công nguyên, Étra và Nơkhemia đã tái thiết lại nhưng đơn giản và nhỏ hơn trước. Khoảng năm 20 trước Công nguyên, Hêrôđê Đại Đế mở rộng Đền thờ và tới năm 64 sau Công nguyên mới hoàn thành. Thành và Đền thờ này lại bị Tướng Titô phá hủy vào năm 70 sau Công nguyên.ThờiChúa Giêsu, Thành Giêrusalem có tường bao vây chung quanh, chu vi khoảng 4500 thước, có chừng 100.000 dân cư ngụ. Đền thờ Giêrusalem ở phía Bắc Thành: phía Nam dài 283 thước, phía Bắc dài 317 thước, phía Đông dài 474 thước, phía Tây dài 490 thước với những cột đá cao lớn làm thành hành lang bao vây bốn mặt.Đền thờ Giêrusalem là niềm kiêu hãnh của toàn dân Israel, là nơi Thiên Chúa ngự và là trung tâm đời sống tôn giáo của Dân Chúa. Định mệnh Israel được gắn liền với Đền thờ. Mọi người dân Israel từ 12 tuổi trở lên, dù ở phương trời nào, cũng phải hành hương Đền thờ mỗi năm 3 lần vào các dịp Lễ Vượt Qua, Lễ Ngũ Tuần, Lễ Lều Trại.

2.      Hội đường Do Thái:
Hội đường là tòa nhà chung, nơi cộng đoàn Do Thái địa phương tụ họp vào mỗi ngày thứ Bảy (ngày Sabát) để đọc kinh, đọc và giải thích Sách Thánh và dạy giáo lí. Hội đường thường có ông Trưởng Hội đường quản trị và có phụ tá giúp việc. Hội đường thường được xây cất theo hình chữ nhật, mặt trước hướng về Giêrusalem, bên trong có đặt một cuốn SáchThánh.
 “Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu lên Giêrusalem vào dịp Lễ Vượt Qua. Khi Người lên 12 tuổi, cả nhà cùng lên Giêrusalem mừng lễ theo thói quen” (Lc 2, 41).

3.      Khung Cảnh Lịch Sử Dân Do Thái Thời Chúa Giêsu
Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem, trong xứ Giuđêa, nước Palestin.Palestin là miền đất nằm ở Trung Đông. Tên gọi và biên giới đã thay đổi tùy theo thời cuộc:
·        Thời Tổ phụ Abraham: gọi là đất Canaan;
·        Khi dân Philitinh chiếm: gọi là Palestin;
·        Khi dân Israel chiếm lại được thì lập ra nước Israel;
·        Sau thời Salômôn, nước bị chia đôi: miền Bắc gọi là Israel, miền Nam thuộc chi họ Giuđa nên gọi là Giuđêa (Do Thái).
·        Vào năm 587 trước Công nguyên, Giêrusalem bị thất thủ, người ngoại quốc đến cư ngụ ở miền Trung làm thành một dân pha trộn gọi là Samaria;
·        Từ năm 1948 sau Công nguyên đến nay, người Do Thái tiếp tục trở về Palestin để tái lập Israel.
Palestin thời Chúa Giêsu có diện tích khoảng 30.000 km2, phía Tây giáp Địa Trung Hải, phía Đông có sông Giođan xuyên qua hồ Tibêria và chảy vào Biển Chết, phía Nam giáp Ai Cập và Êthiôpia, phía Bắc giáp xứ Siria và Liban.Palestin là một xứ đồi núi chia làm 3 miền vào thời Chúa Giêsu:
Miền Bắc gọi là Galilê, là miền cao nguyên có người Do Thái và Dân Ngoại sống chung, buôn bán thịnh vượng;
Miền Trung gọi là Samari, do Dân Ngoại chiếm ngụ, không đồng tôn giáo với người Do Thái;
Miền Nam gọi là Giuđê do người Do Thái chính tông cư ngụ .Vào thời Chúa Giêsu, Palestin là một thuộc địa của đế quốc Rôma chia làm 3 miền do các nhà cầm quyền Rôma cai trị:
Miền Bắc do vua Hêrôđê Antipa cai trị;
Miền Samari và Giuđê do vua Akhêlao cai trị, sau bị truất phế, Rôma đặt một Tổng trấn cai trị. Thời Chúa Giêsu, đó là Phongxiô Philatô.Về mặt tôn giáo, dân Do Thái được hướng dẫn bởi Hội đồng Tối Cao gồm 71 thành viên được tuyển chọn giữa các Vị Thượng Tế, Ký Lục và Kỳ Lão đương nhiệm.
Hội đồng Tối Cao Do Thái có nhiệm vụ gìn giữ trật tự chung, điều hành đời sống tôn giáo, có quyền thu vài thứ thuế và có quyền xét xử.Giới lãnh đạo Do Thái gồm:
Thầy Thượng Tế: trước thời vua Hêrôđê, chức Thượng Tế có tính cách cha truyền con nối. Nhưng về sau, chính quyền Rôma dành toàn quyền áp đặt vị Thượng Tế nào có lợi cho họ. Chức vụ này không tồn tại sau khi Giêrusalem bị phá hủy vào năm 70;
Các Kỳ Lão: là các trưởng gia đình có thế giá, nắm giữ một số quyền bính thuộc phạm vi dân sự và tôn giáo.
Các Ký Lục: Thời Chúa Giêsu, đó là những chuyên viên về Kinh Thánh Cựu Ước.

4.      Hai bè phái: các Pharisêu (hay Biệt phái) và các Sađukhê.
Pharisêu có nghĩa là đứng riêng ra, gồm một số người Do Thái nhiệt thành sùng đạo. Họ rất thông thạo luật Môsê và thông suốt các truyền thống tiền nhân. Họ tự buộc mình và buộc người khác phải giữ Lề Luật một cách tỉ mỉ và khắt khe đến nỗi gần như giả hình. Họ chú trọng đặc biệt tới luật nghỉ ngày Sa Bát, tin linh hồn bất tử và xác sẽ sống lại. Trong số các Ký Lục và Luật sĩ có đông người Biệt phái. Họ không tiếp tay cho người Rôma thống trị nên rất được lòng dân và có uy tín trên dân.
Các Sađukhê là nhóm thuộc dòng Sađốc, thầy Tư Tế thời vua Đavít (x. 2 Sm 8, 17; 1 V 1, 34).Nhóm này thuộc thành phần giàu có, lại chạy theo ngoại bang nên ít được dân chúng tín nhiệm. Họ không tin linh hồn bất tử, không tin hạnh phúc đời sau.

III.      Thực hành P.Â.:
            “Gần đất xa trời!”
            Ý nói người bệnh nặng hay già yếu sắp chết.  Chết thì chôn xuống đất, nên gọi là gần đất.  Xa trời là xa khoảng khí trời, tức thế giới người sống, sống phải hít thở khí trời, nên “xa trời” cũng có nghĩa là sắp chết.

Người Công Giáo quan niệm “chết là về với Chúa, là về nhà Cha trên trời!”  Nên có thể diễn tả người già yếu gần chết theo quan công giáo là người “gần cả đất trời” chăng? Người chết sẽ được chôn vào lòng đất để rồi phục sinh, gần với Trời như Chúa Giêsu.

Nhưng dù gần đất xa trời hay gần cả đất trời thì cũng diễn tả thực tại là mỗi người chúng ta đang đến gần ngày kết thúc cuộc sống dương gian. Không chủ trương sống bi quan hay thất vọng, nhưng mỗi ngày tôi phải nhận ra thực tế là mình già đi mau. Tóc trên đầu mỗi ngày một ít dần. Phản ứng không còn nhanh nhẹn và kịp thời. Những bước chân cũng chậm lại dần và kém vững chắc. Chậm hiểu biết về computer hoặc kỷ thuật máy móc… nhiều dấu hiệu cho thấy ngày “gần đất xa trời!”

Xin dừng lại đôi phút trong hành trình cuộc đời để suy nghĩ lời nầy:
“Không ai muốn chết. Thậm chí cả những người muốn lên thiên đường cũng không muốn chết để được lên đó. Và cái chết là điểm đến của tất cả chúng ta, không ai có thể thoát khỏi nó. Và cái chết có khả năng như là phát minh duy nhất của cuộc sống. Nó là tác nhân thay đổi của cuộc sống. Nó xóa cái cũ để làm đường cho cái mới. Ngay bây giờ là bạn, nhưng một ngày không xa hôm nay, bạn dần dần sẽ trở nên già và bị xóa đi. Đó hoàn toàn là sự thật” (Steve Jobs)


Thành thánh Giêrusalem đẹp tuyệt vời! Biết bao nhiêu người đẹp tuyệt vời. Biết bao nhiêu người thành công tuyệt đỉnh. Biết bao nhiêu người lừng danh, nổi tiếng…. Tất cả rồi có ngày “không còn hòn đá nào trên hòn đá nào”. Tất cả rồi sẽ qua đi và đi vào quên lãng. .. Thế người ta mới gọi là “đời chóng qua!” hay “đời người ngắn ngũi!” Ý thức nầy rất mạnh trong tôi. Nên tôi thường có một tự nhủ là: Không nên làm mích lòng người khác, trái lại cố gắng làm gì đó có ích cho đời. Vì thật là vô lý khi sống không lâu mà lại còn tiêu pha nhiều thời giờ trong những tị hiềm tranh chấp hay tìm cách hại nhau.

Trăm năm ta mãi mê khắc tên tuổi
Ngàn năm nằm xuống ai còn nhớ chăng!!!

Thôi thì hãy dùng dùng lời ấy mà an ủi nhau vậy!

Bảy Kỳ quan thế giới: Không hoàn toàn ngã ngũ, nhưng cách chung người ta đánh giá những kỳ tác sau đây được xếp vào những kỳ quan của thế giới. Đó là:  Chichén Itzá - Tượng Chúa Cứu Thế -Vạn Lý Trường Thành – Machu Picchu Petra - Taj Mahal - Đấu trường La Mã…Những kỳ quan nầy được cả thế giới ngưỡng mộ vì dày công tạo dựng. Thí dụ như Vạn Lý Trường Thành ở Trung quốc, khởi công xây dựng từ thề kỷ thứ năm trước công nguyên và chỉ hoàn thành vào thế kỷ thứ 16. Vạn lý Trường Thành dài gần 9 ngàn cây số, và đã được hoàn thành trong hơn 20 thế kỷ dài. Không ai kể hết những gian khổ và những con người hy sinh cho Vạn Lý Trường Thành.  Kỳ quan nào cũng đòi hỏi vô vàn hy sinh.

Không ai trong chúng ta nuôi tham vọng hay có hy vọng tạo thêm một kỳ quan cho thế giới nhớ đời và ngưỡng mộ. Nhưng chúng ta có thể thành một con người đáng mến, đáng nhớ, hữu ích và đáng khâm phục cho người khác giống như tính tình bình dân, dễ gần gũi của Cha Phanxicô Xaviê Trương bửu Diệp hay tính khôi hài dí dõm như Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận hay như đời sống đơn sơ và giản tiện của Đức Thánh Cha Phanxicô hiện tại… tất cả là những kỳ quan đáng ngưỡng mộ nơi mọi tâm hồn. Muốn thành những kỳ quan theo thể loại trên, chúng ta cần những kỳ công, nhất là khiêm nhu và gọt giũa bản thân mình theo người mẫu Giêsu.

Lm. Phêrô Trần thế Tuyên

Hy vọng
Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật áp chót của năm Phụng vụ, chúng ta đang sống trong những năm đầu của thiên niên kỷ mới, những năm có quá nhiều những xáo trộn, biến động trên thế giới và trong Giáo Hội. Đặc biệt chúng ta dừng lại một ít sự kiện và biến động trên thế giới có liên quan đến Tin Mừng chúng ta vừa nghe: chẳng hạn như các vụ động đất, lụt lội, hạn hán ở An độ, Nhật bản, và ngay cả ở miền Trung Việt Nam vừa qua; biến động ở Trung đông vẫn tiếp diễn giữa người Palestine và người Israel …
Chúng ta cũng dừng lại ít giây để ngẫm nghĩ về một sự kiện quan trọng nào đó xảy ra nơi chính bản thân hay trong gia đình, chẳng hạn trong gia đình có một người thân qua đời.
Tin Mừng chúng ta vừa nghe, trình thuật những viễn cảnh về “Thời cánh chung” với ngôn ngữ Khải huyền. Sách Khải huyền là dấu chỉ của Niềm Hy Vọng. Thiên Chúa nói: “Các con hãy tin vào Ta”. Dù cho các ngôi sao rơi rụng, dù cho các ngôn sứ suy sụp, dù cho mọi sự nhân loại sụp đổ, vẫn còn có thể có một tương lai… Dù khi cái chết diễn ra vẫn còn hy vọng triệt để, tuyệt đối… không dựa trên con người nhưng dựa trên Thiên Chúa.
Tin Mừng đã gởi cho chúng ta một sứ điệp hợp thời về ngày tận thế. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng không ai biết khi nào ngày tận thế sẽ đến, ngoại trừ Cha trên trời. Còn về vấn đề đó chúng ta nên hy vọng hơn là sợ hãi. Thiên Chúa tạo dựng chúng ta là để cứu độ chúng ta chứ không luận phạt. Vì thế, niềm hy vọng duy nhất của chúng ta là chính Đức Giêsu Kitô: “Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ duy nhất hôm qua, hôm nay và mãi mãi”. Bởi vậy, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Thầy là Đường, là sự Thật và là sự Sống”. Đức Giêsu là con đường, bởi vì Người là sự thật và là sự sống. Đức Giêsu là Sự Thật, bởi vì Người mặc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa, về Chúa Cha; Người chỉ đường cho chúng ta tới gặp Chúa Cha, Người cho thấy phải sống thế nào cho hợp ý Thiên Chúa. Đức Giêsu còn mặc khải về chính mình và sứ mạng của Người đối với nhân loại. Chúng ta đến với Đức Giêsu, lãnh nhận Lời của Người, nhận lấy giáo huấn của Người, rồi được thúc đẩy và được hướng dẫn đến với Chúa Cha. Đức Giêsu là con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha, bởi vì Người là sự sống. Đường của Người là dẫn tới mục tiêu cuối cùng là sự sống sung mãn với Chúa Cha. Chúa Cha đã ban sự sống cho Đức Giêsu, và chỉ có Đức Giêsu mới có thể ban sự sống vĩnh cửu ngay ở đời này cho những ai tin vào Người.
Niềm tin giúp chúng ta xác tín rằng thế giới này sẽ không kết thúc, thảm họa không thể đảo ngược. Hoặc nếu có kết thúc thì chỉ là một sự hoàn tất. Nhờ sự Phục sinh của Chúa Giêsu, Người đã thắng sự dữ và cái chết. Chúng ta nên lo lắng hơn về giờ chết của chúng ta, nó chắc chắn sẽ đến, hơn là về ngày tận thế, vì nó ở ngoài khả năng hiểu biết của chúng ta.
Qua hơn 2000 năm, lịch sử vẫn tiếp diễn với bao nhiêu người đã trở nên chứng nhân của niềm hy vọng. Đó chính là các vị thánh, chứng nhân của Đức Kitô, niềm hy vọng duy nhất của chúng ta; Người chính là Vua vũ trụ mà Giáo Hội sẽ mừng trọng thể vào Chúa nhật cuối của năm phụng vụ. Ngoài Đức Kitô ra, không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Đúng vậy, lịch sử Giáo Hội đã chứng minh điều này, nó được thể hiện qua các thánh là những chứng nhân cho niềm tin vào thập giá và Phục sinh của Đức Kitô. Bởi vì các thánh đã kính chào thập giá Đức Kitô là niềm hy vọng duy nhất của các ngài; chính thập giá Đức Kitô cũng là ơn cứu độ và là vinh quang của thế giới! Trong lịch sử nhân loại đã có biết bao nhiêu vị thánh trở nên chứng nhân của niềm hy vọng. Từ các thánh tông đồ cho đến ngày nay đã có hàng hàng lớp lớp người là chứng nhân của cuộc Phục sinh của Đức Kitô. Phải một đoàn lũ các chứng nhân hy vọng: chứng nhân vì đức khiết tịnh, chứng nhân cho công lý; các chứng nhân đó gồm đủ mọi thành phần trong xã hội của mọi dân tộc (nam, phụ, lão, ấu…). Đó là cả một bức tranh của một nhân loại Kitô hữu hiền lành, khiêm nhường, không bạo lực, chống trả lại sự dữ, yếu đuối nhưng đồng thời cũng mạnh mẽ trong đức tin, đã yêu và tin cho tới bên kia cái chết.
Đặc biệt, các thánh Tử Đạo Việt Nam, mà Giáo Hội mừng kính vào ngày 24 tháng 11; đó chính là những chứng nhân của niềm hy vọng mà chúng ta đáng tự hào. Đúng vậy, các thánh Tử Đạo Việt Nam là gia sản cho chúng ta, những người Kitô hữu của thế kỷ 21. Chúng ta phải ôm ấp và lựa chọn niềm hy vọng quí báu này trong cuộc sống mỗi ngày, trong các khó khăn bé nhỏ cũng như lớn lao, trong sự lột bỏ mọi gây hấn, hận thù và bạo lực. Gia sản của các ngài, những chứng nhân của niềm hy vọng phải được tiếp nhận mỗi ngày qua một cuộc sống đầy yêu thương, hiền lành và trung tín.
Năm phụng vụ sắp kết thúc, chúng ta có thể nói như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II rằng: “Nỗi vui mừng của chúng ta là Chúa Kitô, nhưng Người cũng là hoan lạc của chúng ta”. Từ hơn 2000 năm nay, Hội thánh sống bằng sự hiện diện và niềm hy vọng ấy. Muốn được như vậy hai phương thế rất hiệu nghiệm cho cuộc sống Kitô hữu, đó là:
. Thứ nhất, hãy nên có đời sống thánh thiện.
. Thứ hai, hãy nên có tinh thần cầu nguyện.
Để bổ túc cho hai phương thế này, chúng ta cần có một đức tính căn bản đó là kiên trì. Vì như Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng ở câu kết rằng: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình”.
Sau hết, xin được mượn lại lời của vị cha chung gởi cho tất cả chúng ta, nhân ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 16, như mời gọi chúng ta quyết tâm sống niềm hy vọng:
“Hỡi các bạn trẻ, hãy mở mắt và quan sát thật kỹ: đó không phải là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng là con đường nhận chìm cho chết. Đức Giêsu đã nói: “Quả vậy ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Đức Giêsu không bỏ mặc chúng ta trong ảo tưởng: “Được cả thế gian mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có ích lợi gì?” Bằng chân lý của những lời cứng cỏi nhưng chất chứa bình an này, Đức Giêsu mặc khải cho ta bí quyết của cuộc sống đích thực (x. Bài nói chuyện với giới trẻ Rôma 2.4.1998).
Vậy đừng sợ đi trên con đường Chúa đã đi. Với tuổi trẻ, chúng con hãy ghi dấu ấn của niềm hy vọng và lòng nhiệt thành vốn là đặc trưng của tuổi chúng con trên ngàn năm thứ ba. Nếu chúng con để cho ân sủng tác động trên chúng con, và hoàn thành cách nghiêm túc lời cam kết này hằng ngày, thì chúng con sẽ biến thế kỷ mới này thành một thời gian tốt đẹp hơn cho mọi người”.
Cầu chúc các bạn nên chứng nhân niềm hy vọng nơi Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Lectio: Chúa Nhật XXXIII Thường Niên (C)
Chúa Nhật, 17 Tháng 11, 2013
Bài giảng của Chúa Giêsu về ngày sau hết
Lc 21:5–19


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa, Chúa là Đấng đã tạo dựng nên trời đất và biển khơi, cùng tất cả muôn loài trong đó; chính Chúa là Đấng đã qua Chúa Thánh Thần và dùng miệng tổ phụ Đavít chúng con, người tôi tớ của Chúa, mà phán: 
Tại sao các chư dân ồn ào náo động,
sao vạn quốc dám bày kế viển vông?
Các vua chúa thế gian cùng giàn trận,
các vương hầu khanh tướng cùng cấu kết với nhau chống nghịch lại Thiên Chúa và chống lại các đấng đã được Người “Xức Dầu” phong vương.
…  Xin Chúa hãy dơ tay của Chúa chữa lành và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, nhân danh tôi tớ thánh của Người là Đức Giêsu (Cv 4:24-25, 30)”.  Xin hãy đổ tràn đầy Chúa Thánh Thần xuống chúng con như khi xưa Chúa đã ban cho các thánh Tông Đồ sau lời nguyện này, trong thời gian thử thách, để chúng con cũng có thể rao giảng Lời Chúa một cách công khai và làm chứng cho sự hy vọng.  

2.  Bài Đọc
a)  Bối cảnh:

Đoạn Tin Mừng này nói về sự bắt đầu công cuộc rao giảng của Chúa Giêsu về ngày tận thế.  Đoạn 21:5-36 là một đơn vị văn học toàn bộ.  Chúa Giêsu đang ở trong thành Giêrusalem, tại cổng vào Đền Thờ, cuộc Thương Khó đã gần kề.  Các sách Tin Mừng Nhất Lãm (xem Mt 24; Mk 13) sắp đặt bài gọi là bài giảng “thời cánh chung” ở trước câu chuyện cuộc Thương Khó, cái Chết và sự Phục Sinh.  Những sự kiện này được đọc trong ánh sáng của lễ Vượt Qua.  Ngôn ngữ được dùng là “ngày tận thế”.  Chúng ta không nên chú ý vào từng chữ riêng rẽ, mà nên để ý về lời công bố của sự xáo trộn hoàn toàn.  Cộng đoàn của thánh Luca đã biết về các sự kiện liên quan đến việc phá hủy thành Giêrusalem.  Tác giả Phúc Âm đã phổ quát hóa lời tiên báo và làm hiển nhiên thời kỳ trung gian của Giáo Hội trong khi chờ đợi sự trở lại quang lâm của Chúa.  Luca cũng đề cập đến ngày sau hết ở trong các chương khác (12:35-48; 17:20; 18:18).   

b)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:                           

Lc 21:5-7:  Lời giới thiệu  
Lc 21:8-9:  Lời cảnh báo ban đầu
Lc 21:10-11:  Các dấu chỉ   
Lc 21:12-17:  Các môn đệ bị thử thách   
Lc 21:18-19:  Sự bảo vệ và tín thác

c)  Phúc Âm:

5 Khi ấy, có mấy người trầm trồ về Đền Thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng:  6 “Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá.”  7 Bấy giờ các ông hỏi Người rằng:  “Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?”
8 Người phán:  “Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối, vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng:  ‘Chính ta đây và thời giờ đã gần đến.’  Các con chớ đi theo chúng.  9 Và khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ, vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu.”
10 Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng:  “Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ.  11 Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát; những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể.  12 Nhưng trước những điều đó, người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy:  13 và các con sẽ có dịp làm chứng.  14 Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào.  15 Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con.  16 Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết.  17 Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy.  18 Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất.  19 Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con.”
  
3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

Để Lời của Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

-     Những cảm xúc nào đang chiếm ngự trong tôi: nỗi đau khổ, sợ hãi, tín thác, hy vọng, nghi ngờ …?
-     Đâu là Tin Mừng trong bài giảng này?
-     Chúng ta có hài lòng với những gì chúng ta mong đợi và chúng ta có thích nghi với những nhu cầu của bản thân mình không?
-     Tôi phản ứng ra sao trước các thử thách trong đời sống đức tin của tôi?
-     Tôi có thể làm một sự liên kết với những sự kiện lịch sử hiện nay không?
-     Chúa Giêsu có vị trí nào trong lịch sử ngày nay?

5.  Suy gẫm

a)  Ý chính của bài Phúc Âm:

Hãy để cho chúng ta không bị dao động bởi những biến động bên ngoài, điển hình là ngôn ngữ ngày tận thế, nhưng bởi những việc bên trong nội tâm cần thiết, đó là lời báo trước và chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với Chúa.  Ngay cả khi biết rằng ngày nay, ở các nơi khác nhau trên thế giới tình trạng “ngày tận thế” đang được xảy ra, nó có thể trở nên một bài đọc cho cá nhân, chắc chắn không phải là một sự lẩn tránh để đổi hướng sự chú ý sang trách nhiệm cá nhân.  Thánh Luca, với cương vị tác giả Phúc Âm, nhấn mạnh rằng ngày sau hết chưa xảy đến, do đó thật là cần thiết để sống trong chờ đợi với sự dấn thânChúng ta hãy tỉnh thức về những thảm kịch của thời đại chúng ta, đừng trở thành tiên tri của sự bất hạnh,mà là tiên tri cam đảm của một trật tự mới dựa trên công lý và hòa bình.

b)  Lời bình giải về đoạn Phúc Âm:


[5]  “Khi ấy, có mấy người trầm trồ về Đền Thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý”, nên Chúa Giêsu phán rằng:  Có lẽ Chúa Giêsu đang ở bên trong cổng Đền Thờ, được coi là nơi mua bán các lễ vật.  Thánh Luca không xác định rõ những người nghe là ai, nó có vẻ nhắm vào tất cả mọi người, ông đã phổ quát hóa bài giảng ngày cánh chung.  Bài giảng này có thể nói về ngày sau hết, nhưng cũng nói về ngày cánh chung của riêng mỗi người chúng ta.  Nói chung, dứt khoát có một gặp gỡ với Chúa Phục Sinh.

[6]  “Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá.”  Chúa Giêsu dùng những từ ngữ bất hạnh (17:22; 19:43) và lặp lại những lời nhắc nhở của các tiên tri liên quan đến Đền Thờ (Mk 3:12; Gr 7:1-15; 26:1-19).  Đây cũng là một sự nghiệm xét về tính chất hay hư nát của con người, dù cho kỳ diệu phi thường đến bực nào.  Cộng đoàn của thánh Luca đã biết về sự phá hủy của đền thờ Giêrusalem (vào năm 70).  Chúng ta hãy nghiệm xét thái độ của chúng ta về những việc kết thúc với thời gian.

[7]  Bấy giờ các ông hỏi Người rằng:  “Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?”  Những người nghe đang quan tâm đến các biến động bên ngoài đặc trưng cho sự kiện này.  Chúa Giêsu đã không trả lời thẳng vào câu hỏi này.  Chữ “bao giờ” không được dùng bởi thánh Luca trong mối quan hệ với sự phá hủy của đền thờ Giêrusalem.  Chúa nhấn mạnh rằng ngày tận thế “sẽ không xảy ra ngay lập tức” (câu 9) và “nhưng trước những điều đó…” (câu 12) có những việc khác sẽ xảy ra.  Người hỏi chúng ta về mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử và việc thực hiện lịch sử ơn cứu độ.  Thời điểm của nhân loại và thời điểm của Thiên Chúa.

[8]  Người phán:  “Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối, vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng:  ‘Chính ta đây và thời giờ đã gần đến.’  Các con chớ đi theo chúng.”  Đối với các tác giả Phúc Âm khác, Luca cho biết thêm về mấu chốt của thời gian.  Cộng đoàn các Kitô hữu tiên khởi đang vượt qua giai đoạn ngày Chúa tái thế sắp tới và chuẩn bị bản thân trong thời kỳ trung gian của Giáo Hội.  Chúa Giêsu khuyến cáo không nên để cho mình bị lừa gạt hoặc tệ hơn, bị thuyết phục bởi những kẻ mạo danh.  Có hai loại tiên tri giả:  những kẻ giả danh Chúa Giêsu mà tự xưng “Chính ta đây” và những kẻ khẳng định rằng thời điểm đã gần kề, ngày đó đã được biết (10:11; 19:11).

[9]  “Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ, vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu.”  Ngày nay, ngay cả trước những sự kiện chiến tranh, và chúng ta có thể nói rằng các hành vi khủng bố, cũng chưa phải là bắt đầu ngày tận thế.  Tất cả những điều này xảy ra nhưng đó không phải dấu hiệu cho ngày tận thế (Đn 3:28).  Luca muốn cảnh báo họ về ảo ảnh ngày tận thế sắp xảy ra với hậu quả bị vỡ mộng và từ bỏ đức tin.

[10]  Và bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng:  “Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. 
[11]  Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát; những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể.”  Những chữ “và bấy giờ Người phán” là một sự lặp lại của bài giảng sau những lời cảnh báo ban đầu.  Đây là ngôn ngữ khải huyền hoàn toàn, có nghĩa là sự mặc khải (Is 19:2; 2Cr 15:6) và đồng thời sự ẩn dấu.  Những hình ảnh truyền thống được dùng để mô tả những thay đổi nhanh chóng của lịch sử (Is 24:19-20; Dcr 14:4-5; Ed 6:11-12; v.v.).  Ảo giác thảm họa giống như một bức màn che giấu cảnh đẹp đằng sau đó:  ngày Chúa tái thế trong vinh quang (câu 27). 

[12]  “Nhưng trước những điều đó, người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy.”

[13]   “và các con sẽ có dịp làm chứng”.  Người Kitô hữu được mời gọi để phục tùng theo Chúa Kitô. Họ đã tra tay hành hạ Ta, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.  Thánh Luca gợi nhớ lại cảnh thánh Phaolô bị điệu ra trước mặt vua Agrippa và quan tổng trấn Phétô (Cv 25:23-26, 32).  Kìa thời gian của thử thách. Không nhất thiết phải dưới hình thức ức hiếp bắt bớ.  Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã chịu thử thách trong 18 tháng, sự vắng mặt của Thiên Chúa, khi ngài phát hiện ra căn bệnh của mình.  Một thời gian thanh luyện để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ.  Đây là tình trạng bình thường của người Kitô hữu, đó là sống trong sự căng thẳng lành mạnh mà không phải là thất vọng.  Người Kitô hữu được mời gọi để làm chứng cho niềm hy vọng đã làm họ sinh động.

[14]  “Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. 
[15]  Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con.  
Đã đến lúc để chúng ta đặt niềm tin hoàn toàn vào Thiên Chúa, chỉ một mình Thiên Chúa là quá đủ.  Đó cũng là sự khôn ngoan mà thánh Stêphanô đã làm bối rối kẻ thù của mình (Cv 6:10).  Người tín hữu được bảo đảm có khả năng chống lại sự bức hại.

[16]  “Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết.”
[17]  “Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy.”  Nguyên lý căn bản đi theo Chúa Kitô cũng bao hàm ý nghĩa sự khắc phục các mối liên hệ thân thích, những người mà chúng ta, theo cảm xúc, tin là an toàn hơn.  Có sự rủi ro phải tiến bước trong lẻ loi, giống như Đức Giêsu trong cuộc Thương Khó của Người.

[18]  “Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất.”  Thánh Luca lặp lại câu trước (12:7) để nhắc nhở chúng ta về sự bảo vệ của Thiên Chúa được đoan chắc trong cơn thử thách.  Vì người tín hữu cũng được bảo đảm cho sự chăm sóc về sự vẹn toàn thể chất của mình.

[19]  “Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con.”  Sự kiên trì (câu Cv 11:23; 13:43; 14:22) thì không thể thiếu được cho việc sinh hoa kết quả (Lc 8:15), trong những lúc thử thách hằng ngày và trong những lúc bị bắt bớ.  Điều đó có cùng ý nghĩa với “ở lại” trong Chúa Kitô của Gioan.  Vinh quang cuối cùng đã chắc chắn:  Triều đại Thiên Quốc sẽ được thiết lập bởi Con Người.  Vì thế, cần phải có sự kiên trì, thận trọng và trong lời cầu nguyện (câu 36 và 12, 35-38).  Phong cách sống của người Kitô hữu phải là một dấu hiệu của tương lai sẽ xảy đến.     

6.  Cầu Nguyện:  Thánh Vịnh 98

Hãy hát lên chúc tụng Thiên Chúa một bài ca mới

Tung hô CHÚA, hỡi toàn thể địa cầu,
mừng vui lên, reo hò đàn hát.
Đàn lên mừng CHÚA khúc hạc cầm dìu dặt,
nương khúc hạc cầm réo rắt giọng ca.
Kèn thổi vang xen tiếng tù và,
tung hô mừng CHÚA, vị Quân Vương!
Gầm vang lên, hỡi biển cả cùng muôn hải vật,
địa cầu với toàn thể dân cư!
Sông lạch ơi, vỗ tay đi nào,
đồi núi hỡi, reo mừng trước tôn nhan CHÚA.
Vì Người ngự đến xét xử trần gian,
Người xét xử địa cầu theo đường công chính,
xét xử muôn dân theo lẽ công bình.

7.  Chiêm niệm

Lạy Thiên Chúa nhân từ, tất cả Nước Trời là tình yêu và hòa bình, chính Chúa đã tạo dựng trong tâm hồn chúng con sự thinh lặng cần thiết để Chúa hiệp thông với chúng con.
Hành động hòa hoãn, ước ao mà không đam mê, nhiệt tình mà không kích động:  tất cả chỉ có thể đến từ Chúa, Đấng Khôn Ngoan Hằng Hữu, Toàn Năng, thư thái không đổi dời, nguyên tắc và mô thức của sự bình an thực sự.
Chúa đã hứa với chúng con qua các vị tiên tri hòa bình của Chúa; Chúa đã ban cho chúng con điều này qua Đức Giêsu Kitô; Chúa đã ban cho chúng con sự bảo đảm với dạt dào Chúa Thánh Thần.
Xin Chúa đừng để cho sự ghen ghét của kẻ thù, những khắc khoải của các đam mê, những ngại ngùng của lương tâm làm cho chúng con mất đi ân huệ từ trời, đó là sự cam kết tình yêu của Chúa, chứng tích những lời hứa của Chúa, phần thưởng của Máu Con Thiên Chúa.  Amen (Thánh Têrêsa thành Avila, 38:9-10). 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét