THỨ BẢY 30/11/2013
Thứ Bảy Tuần XXXIV
Mùa Thường Niên Năm lẻ
Thánh Anrê Tông Đồ
BÀI
ĐỌC I: Rm 10, 9-18
"Lòng tin có là nhờ nghe, còn nghe thì dựa vào lời Đức Kitô".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Nếu
miệng ngươi tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa và lòng ngươi tin rằng Thiên Chúa đã
cho Người từ cõi chết sống lại, thì ngươi sẽ được rỗi. Quả thế, tin trong lòng
thì sẽ được công chính, tuyên xưng ngoài miệng sẽ được cứu rỗi. Vì
Thánh Kinh đã
có
nói:
"Hễ ai tin vào Người thì sẽ không phải hổ thẹn". Bởi lẽ không có sự
phân biệt người Do-thái và Hy-lạp: Vì là cùng một Chúa của mọi người, Ngài rộng
rãi đối với tất cả mọi người khẩn xin cùng Ngài. Vì mọi kẻ cầu khẩn Danh Ngài,
đều được cứu độ.
Nhưng
người ta kêu cầu thế nào được với Đấng mà họ không tin? Hoặc làm sao họ tin được
Đấng họ không nghe nói tới? Nhưng nghe thế nào được, nếu không có người rao giảng?
Mà rao giảng thế nào được, nếu không được ai sai đi? Như có lời chép rằng:
"Cao quý thay chân những người rao giảng sự bình an, rao giảng tin
lành!" Nhưng không phải mọi người đều suy phục Tin Mừng cả đâu. Vì Isaia
nói rằng: "Lạy Chúa, nào có ai tin lời chúng con rao giảng?"
Vậy
lòng tin có là nhờ nghe, còn nghe thì dựa vào lời Đức Kitô. Nhưng tôi xin hỏi:
Phải chăng họ đã không được nghe đến? Quả thật, tiếng của những vị đó đã vang dội
ra khắp địa cầu, và lời của những đấng ấy được truyền đến tận cùng thế giới. Đó
là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 18, 2-3. 4-5
A+B=
Tiếng chúng đã vang cùng trái đất (c. 5a).
A=
Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp của
Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia. - Đáp.
B=
Đây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai.
Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu.
- Đáp.
ALLELUIA:
Ga 9, 19
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các ngươi hãy
theo Ta; Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". -
Alleluia.
PHÚC
ÂM: Mt 4, 18-22
"Các ông bỏ lưới mà đi theo Người".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là
Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì
hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ
làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". Lập tức hai ông
bỏ lưới đó mà theo Người. Đi xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là
Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là
Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo
Người. Đó là lời Chúa.
Suy niệm : Theo Chúa
Đoạn
tin mừng của thánh Mathêu giúp tôi nhận ra thánh Anrê là một con người thật hạnh
phúc. Hạnh phúc vì ông là người được Chúa thấy, được Chúa gọi đi theo Người.
“Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới
người ta”. Thánh Anrê hạnh phúc vì được gặp chúa và đã yêu mến Chúa với một
tình yêu trung tín trong đời sống, sứ vụ tông đồ và bằng cả cái chết.
Thánh nhân là một trong bốn môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Sự đáp trả dứt
khoát, nhanh chóng trong niềm xác tín mà thánh nhân nói với anh mình là
Simon “chúng tôi đã gặp Đấng Messia…” làm tôi kinh ngạc và trở nên tấm
gương cho tôi và tôi rất kính trọng ngài.
Mỗi ngày Chúa vẫn âm thầm đến với tôi và mời gọi tôi theo Chúa như thánh Anrê
ngày xưa.
Lạy
Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con làm người, làm kitô hữu, Chúa đã mời
gọi và trao cho chúng con một sứ mạng. Nhờ lời chuyển cầu của Thánh Anrê tông đồ
xin cho chúng con biết sống xứng đáng với ơn Thiên Chúa đã kêu gọi và chu
toàn sứ mạng Chúa trao phó, nhờ đó chúng con tìm được hạnh
phúc và niềm vui trong cuộc sống hôm nay và mai sau cũng được thừa hưởng vinh
quang Nước Trời. Amen.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Anrê Tông Đồ
(Ngày 30 tháng 11)
Bài đọc: Rom 10:9-18; Mt
4:18-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đẹp thay bước chân
những sứ giả loan báo Tin Mừng!
Thánh
Anrê Tông Đồ, con của ông Jonah hay John (Mt 16:17; Jn 1:42), sinh tại Bethsaida,
miền Galilee (Jn 1:44). Ngài là anh em với thánh Phêrô (Mt 10:2; Jn 1:40). Cả
hai anh em đều làm nghề đánh cá, và khi được gọi bởi Chúa Giêsu, hai anh em
đang sống chung một nhà tại Capernaum (Mk 1:21, 29).
Tin
Mừng Thứ Tư cho chúng ta biết Anrê lúc đầu là môn đệ của John Baptist, và sau lời
làm chứng của thầy mình, Anrê đã đi theo Chúa Giêsu (Jn 1:35-40). Sau khi nhận
ra Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, ông vội vã giới thiệu Ngài cho Phêrô, em
mình (Jn 1:41), và cả hai trở thành những môn đệ của Đức Kitô. Hai ông bỏ mọi sự
để đi theo Chúa Giêsu (Mt 4:19-20; Mk 1:17-18; Lk 5:11).
Tên
của hai anh em được liệt kê vào Nhóm Mười Hai Tông-đồ trong Tin Mừng Nhất Lãm
và CVTĐ (Mt 10:2-4; Mk 3:16-19; Lk 6:14-16; Acts 1:13). Anrê luôn được kể là một
trong bốn môn đệ đầu tiên. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Anrê chỉ được nhắc tới một
lần cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan, khi các ông hỏi Chúa Giêsu về ngày mà Đền
Thờ Jerusalem bị phá hủy. Trong Phúc Âm Gioan, Anrê là người được nhắc tới
trong phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi 5,000 người ăn (Jn 6:8-9), và khi một số
người Hy-lạp đến với Philip để xin cho họ gặp Chúa Giêsu, Philip đã chuyển lời
của họ cho Anrê (Jn 12:20-22).
Khi
các Tông-đồ bắt đầu nhận lệnh đi khắp tứ phương rao giảng Tin Mừng, thánh
Jerome cho biết thánh Anrê lúc đầu đã đi rao giảng tại Cappadocia, Galatia,
Bithynia, và trong vùng sa mạc Scythia; sau đó ngài tới Byzantium, Macedonia,
Thessaly và Achaia. Truyền thống tin ngài bị đóng đinh bởi Aegeas, Thống Đốc
Rôma, tại Patrae trong miền Achaia. Cuộc tử đạo của ngài xảy ra dưới thời
hoàng-đế Nero (ngày 30 tháng 11 năm 60 AD). Di hài của ngài lúc đầu được giữ ở
Constantinople, khi thành phố này bị chiếm bởi người Pháp vào đầu thế kỷ 13, đức
hồng y Phêrô của Capua đã mang di hài của ngài về Ý và đặt trong thánh đường
Amalfi. Thánh Anrê được tôn làm quan thầy của Sô Viết và Tô Cách Lan.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Tiếng các ngài đã dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.
1.1/
Lời Kinh Thánh giúp con người nhận ra sự thật và tin tưởng nơi Thiên Chúa: Trình thuật hôm
nay tiếp tục những gì thánh Phaolô đã trình bày trong những chương trước về đề
tài con người được nên công chính là do bởi niềm tin vào Đức Kitô, chứ không do
bởi việc giữ cẩn thận các Lề Luật. Ngay trong câu đầu tiên, thánh Phaolô đã
trình bày về việc làm sao con người có thể tin tưởng nơi Thiên Chúa: “Vậy Kinh
Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng.
Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin.”
Thánh
Phaolô muốn nhấn mạnh hai điều trong câu này: thứ nhất, Thiên Chúa là tác nhân
chính, Ngài đã đặt Lời vào trong con người; thứ hai, Phaolô chỉ là người cộng
tác với Thiên Chúa trong việc rao giảng để khơi dậy đức tin nơi người nghe.
Phaolô trích dẫn Sách Đệ Nhị Luật 30:14 theo văn bản của MT. Có sự khác biệt giữa
Bản Bảy Mươi và Bản MT: Bản Bảy Mươi có thêm câu “và ngay trên tay bạn;” có lẽ
tác giả của Bản Bảy Mươi cũng muốn đến sự liên hệ giữa đức tin và hành động để
biểu lộ đức tin. Theo Phaolô, con người phải tin Đức Kitô trong lòng và tuyên
xưng ngoài miệng: Ngài đã được Thiên Chúa sai đến với con người để chịu chết và
đã sống lại, thì mới được hưởng ơn cứu độ.
1.2/
Thiên Chúa thương xót tất cả những ai tin tưởng nơi Ngài: Ơn cứu độ của Thiên
Chúa được mở rộng cho tất cả những ai tin và kêu cầu danh của Ngài; chứ không
phải chỉ giới hạn trong vòng dân tộc Do-thái như nhiều người lầm tưởng. Phaolô
trích dẫn các Sách Tiên Tri, Isaiah 28:16 trong câu 11, và Joel 2:32 trong câu
13, để nói lên sự thật này. Đây là điều hợp lý và chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa
dành cho mọi người. Phaolô kết luận: “Như vậy, không có sự khác biệt giữa người
Do-thái và người Hy-lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối
với tất cả những ai kêu cầu Người.”
2/
Phúc Âm:
"Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người
như lưới cá."
2.1/
Chúa Giêsu mời gọi 4 môn đệ đầu tiên đi theo Ngài: Chúa Giêsu mời gọi
các ông hướng tới sứ vụ cao trọng hơn: mang ánh sáng chân lý của Thiên Chúa và
ơn cứu độ đến cho con người. Thoạt nghe trình thuật của Matthew, chúng ta có thể
thắc mắc: Làm sao 4 môn đệ đầu tiên này có thể đáp trả lời mời gọi của Chúa
Giêsu cách dứt khoát và nhanh chóng như thế? Bốn ông đều chắc chắn đã có cơ hội
nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường Capernaum và chung quanh vùng Biển Hồ
Galilee, đã chứng kiến các phép lạ Ngài làm, đã nghe dân chúng bàn tán về
Ngài... Tất cả những điều này làm các ông phải suy nghĩ nhiều đêm, để rồi hôm
nay, khi Ngài chính thức mời gọi: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho
các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá;" các ông mới có thể bỏ mọi
sự đi theo Ngài.
2.2/
Các môn đệ phải dứt khoát đáp trả: Tuy thế, phản ứng dứt khoát của các tông đồ cũng làm
cho chúng ta phải kinh ngạc. Nghề nghiệp không dễ bỏ vì nó liên quan đến vần đề
sinh sống. Các ông chắc cũng thắc mắc: “Bỏ nghề rồi làm gì ăn?” Bỏ cha già ở lại
trên thuyền với lưới rách còn khó hơn. Ơn sinh thành phải đền trả. Giờ đã đến
lúc người cha già yếu phải sống nương tựa vào sức mạnh của con, thế mà hai người
con khỏe mạnh đành lòng để cha già ở lại để bước theo Đức Kitô! Hơn nữa, chắc họ
cũng phải nhìn lại con người mình và tự hỏi: Làm sao một dân thuyền chài có thể
mang ánh sáng chân lý tới cho con người? Chính họ cần được ánh sáng chân lý chiếu
soi trước hết.
Các
ông có can đảm bước đi theo tiếng gọi của Chúa Giêsu vì các ông được soi sáng để
nhận ra đâu là điều quan trọng trong cuộc đời. Các ông đi theo Chúa Giêsu vì
các ông nhận ra có những điều trong cuộc đời cao trọng hơn là nghề nghiệp và sự
đáp trả công ơn sinh thành bằng việc giúp đỡ phần xác. Chúa Giêsu phải có những
điều có thể lấp đầy những nỗi khao khát trong tâm hồn các ông. Các ông thấy dân
chúng lũ lượt và nhiệt thành đến với Chúa Giêsu để nghe Ngài dạy dỗ và chữa
lành. Các ông cảm thấy hãnh diện được trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, và việc
tham gia vào sứ vụ cứu độ của Chúa phải là điều đáng ao ước hơn cả.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Trong cuộc đời, có những điều quan trọng hơn là công việc làm. Chúng ta hãy noi
gương thánh Anrê để đi tìm sự thật, và sau khi đã tìm thấy, loan báo sự thật
này cho mọi người.
-
Trong tiến trình đem con người đến với Thiên Chúa, con người chỉ là khí cụ
Thiên Chúa dùng để rao giảng. Để con người hoán cải và tin vào Thiên Chúa, con
người cần ơn thánh hoạt động cả bên trong lẫn bên ngoài.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
30/11/13 THỨ BẢY TUẦN 34 TN
Th. Anrê, tông đồ
Mt 4,18-22
Th. Anrê, tông đồ
Mt 4,18-22
CÓ MỘT “PHẢN ỨNG NHANH”
“Các anh hãy đi theo tôi, tôi
sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ
chài lưới mà theo Người. (M4,19-20)
Suy niệm: Giữa cuộc sống đời thường một ngày như mọi
ngày, thi thoảng có những trường hợp đòi hỏi phải có một “phản ứng nhanh”, để
bắt lấy thơi cơ quý hiếm hay để tránh hậu quả đáng tiếc. Khi nghe Chúa gọi, bốn
môn đệ đầu tiên đã “lập tức” bỏ chài lưới mà theo Người. “Lập tức” diễn tả một
quyết định nhanh, một chọn lựa dứt khoát, không chần chừ toan tính, không lừng
khừng nửa vời. Như thế phải chăng sẽ là “dục tốc bất đạt”? Không, “lập tức” ở
đây nói lên thái độ “tỉnh thức và sẵn sàng” trước mọi tình huống khẩn cấp và
bất ngờ, nhất là trước tiếng gọi của Chúa, vì Người vẫn đến khi ta không ngờ.
Chỉ có thể có thái độ và phản ứng nhanh như thế, khi nào ta luôn đặt mình trước
sự hiện diện của Người.
Mời Bạn: Giống
như Đức Maria thưa vâng và “hối hả vội vã” lên đường, bốn môn đệ “lập tức” bỏ chài lưới mà theo.
Bốn chữ “vâng, vội, bỏ, theo” chính là kim chỉ nam giúp ta sống trọn vẹn ơn
gọi con người và con Chúa. Hành trình đức tin đã được khởi xướng, giờ đây phải
được tiếp tục. “Tin vào Chúa là hướng về Ngài (1), là đi tới Ngài (2), là mỗi ngày mỗi tiến tới trên con đường dẫn đến Ngài (3), và cuối cùng
là đến được với Ngài (4)” (Th. Augustinô).
Sống Lời Chúa: Cuối
tháng các linh hồn, hãy dành thời gian suy gẫm về “cái chết bất ngờ” và chuẩn
bị cho mình một “phản ứng nhanh” phù hợp.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, nhiều lần trong đời, con đã nghe tiếng Chúa gọi, và đã
nói “không”. Từ nay xin giúp con nói “có”, để luôn sẵn sàng “vâng, vội, bỏ,
theo”. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
30
THÁNG MƯỜI MỘT
Ngài Đến Để Phán
Xét Kẻ Sống Và Kẻ Chết
Chúng
ta biết về cuộc sinh hạ Chúa Giêsu trong đêm nhiệm mầu ấy ở Bê-lem. Chúng ta biết
cuộc sống và cái chết của Người trên Thập Giá. Bằng lời Tin Mừng cứu độ của Người
và, cuối cùng, bằng cái chết và cuộc Phục Sinh của Người, Người đã rao giảng
“những gì công minh chính trực” trên mặt đất. Chúng ta hãy “đứng thẳng dậy và
ngẩng đầu lên”. Vì với sự đến của Đấng Công Chính, với mầu nhiệm Vượt Qua của
Người, ơn cứu độ của chúng ta được bảo đảm.
Mùa
Vọng hướng chỉ về sự đến của Đấng Cứu Chuộc, của Con Người, Đấng đã sinh ra ở
Bê-lem đêm ấy. Từ khoảnh khắc kỳ diệu ấy, Người tự tỏ lộ cho chúng ta thấy
chính Người trong toàn bộ lịch sử nhân loại từ khởi đầu tới chung cuộc.
Người
cho chúng ta thấy lịch sử loài người trên trái đất không phải chỉ là một dòng lịch
sử hướng về sự chết. Lịch sử ấy có ý nghĩa của nó và dẫn về điểm hoàn thành mọi
sự. Theo nghĩa đó, Mùa Vọng hướng chỉ một sự đến khác của Con Người, lần này
trong tư cách là vị Thẩm Phán của hồi tận thời. Người đã đến để ươm mầm Tin Mừng
qua cuộc Nhập Thể và cuộc Tử Nạn của Người. Người sẽ đến lần thứ hai để phán
xét các dân tộc và thu hoạch hoa trái mà Người đã gieo trồng. Người sẽ đến để
bóc trần những kín ẩn của mọi lương tâm và mọi cõi lòng vào cuối thời gian.
Như
vậy, lịch sử con người trên trái đất không chỉ là một hành trình tiến về cái chết.
Tiên vàn nó là một sự chuẩn bị cho sự thật của cuộc phán xét. Nó là một sự chuẩn
bị cho sự sống viên mãn trong Thiên Chúa.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
Ngày
30-11
Thánh
Anrê Tông đồ
Rm
10, 9-18; Mt 4, 18-22.
LỜI
SUY NIỆM: Trong
câu chuyện Chúa Giêsu kêu gọi Bốn môn đệ đầu tiên trước hết là ông Simon cũng gọi
là Phêrô và ông Anrê đang khi hai ông đang quăng chài xuống biển, và hai người
con của ông Dêbêđê là ông Giacôbê và ông Gioan đang cùng vá lưới với cha mình.
Hình ảnh này giúp cho chúng ta thấy cách Chúa chọn nhân sự là: khi họ đang làm
công việc bổn phận hằng ngày để nuôi sống bản thân và gia đình. Chúng ta cũng vậy,
trong sinh hoạt hằng ngày, khi chúng ta chu toàn bổn phận với một ý thức luôn
hướng mọi sự về Chúa, với ân sủng của Ngài để làm đẹp lòng Chúa và đem lại lợi
ích cho tha nhân là: chúng ta đã sống đúng ơn gọi của mình.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
30-11
Thánh
ANRÊ TÔNG ĐỒ
(Thế
kỷ I)
Anrê
tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm một trong
số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như em mình là Phêrô, Ngài làm
thuyền đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp
người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng
Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth. Ngày ấy đang
khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa Giêsu đã đi ngang qua và đưa lời gọi sẽ
quyết định cuộc đời các Ngài: - Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành các ngư
phủ lưới người ta.
Đây
không phải lần đầu Anrê đã gặp đấng cứu thế. Thỉnh thoảng Ngài có tới nghe
Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống Galilea và Gioan
tẩy Giả đã nói: - Đây là Chiên Thiên Chúa.
Và
ANRÊ có mặt ở đó với Gioan, đã biết được Người là Đấng thiên sai mong chờ.
Gioan và ANRÊ lên đường theo Người xa xa vì họ cảm động và không dám tới gần.
Nhưng Chúa Giêsu quay lại và nói với họ: - Các anh tìm chi vậy ?
Họ,
những người chỉ tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã thưa lại: - Thưa Thầy, thày ở đâu ?
Chúa
Giêsu nói: - Hãy đến mà xem. Và cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.
Khi
trở về nhà ANRÊ đã nói với em mình: - Chúng tôi đã gặp được Đấng thiên sai.
Từ
đó hai anh em đã bỏ chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe Người và thần tính
của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ. Họ đã tông thờ Đấng cứu thế ở trong lòng
rồi.
Ở
tiệc cưới Cana, Anrê đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu và lần đầu tiên thấy
tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy Chúa Giêsu đã gọi
hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Anrê
đã rạng rỡ trong lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh nhân gặp thấy trên
đường đi, việc Phúc âm những kẻ chết, việc Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi đoàn
người đói lả vây quanh Chúa Giêsu. Chính Anrê đã nói: - Có một bé trai có năm
chiếc bánh và hai con cá, nhưng bằng ấy thì thấm vào đâu đối với ngần này người
(Ga 6,8 -9).
Và
Ngài được thấy Chúa Giêsu tăng gấp số thực phẩm. Ở Gierusalem, Ngài còn cho
Chúa biết rằng: lương dân đã xin với Philipphê cho được gặp Người. Ngài đã nghe
loan báo các chân phúc, các dụ ngôn. Ngài đã có mặt trong bữa tiệc ly. Sau phục
sinh, Ngài đã sung sướng gặp lại Thày chí thánh. Ngày lên trời, Ngài thấy Người
tiến lên mây trời. Ngày hiện xuống, Ngài đón nhận Chúa Thánh Thần.
Sau
những tường thuật trên của Phúc âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về
Anrê. Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc âm hóa
dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc hải và kết
thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta
nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày. Đây là tục truyền kể lại
cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida.
Êgêa,
tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền
vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư ? Nhưng
Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói:- Tôn thờ loài
người chỉ là dị đoan điên khùng. Ong đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết
ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải
tôn kính ca ngợi Người.
Êgêa
vặn lại: - Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã
làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì ? Vậy nếu anh không dâng hương tế
thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.
Không
hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc: làm sao Ngài để mất danh dự được đóng
đinh vào cùng một đau khổ giá như thày mình được ? Khi bắt đầu những tra tấn đầu
tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Êgêa: - Cực hình cuối cùng ông
đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.
Khi
thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người
ta thích lập lại lời chào ấy: - Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong
chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới thầy chí thánh là Đấng đã nhờ
Người mà cứu chuộc Ta.
Dịu
dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt
sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào
Chúa Giêsu Kitô. Dân chúngvây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn
tháo giây cho Ngài. Họ nói: - Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã
hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người
yêu quí của Thiên Chúa.
Nhưng
Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện:
- Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
- Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
Và
những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa
tạo thành và cứu chuộc của mình.
Tương
truyền thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ
XIV... người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được
mệnh danh là thánh giá thánh ANRÊ .
(daminhvn.net)
30 Tháng Mười
Một
Bảo Chứng Của Trường Sinh
Bất Tử
Công
chúa Touwan bên Trung Quốc từ trần vào khoảng năm 104 Trước Công Nguyên, nhưng
được những người sinh sống đồng thời tin tưởng là bà sẽ trường sinh bất tử vì
bà được an táng trong một quan tài bằng ngọc thạch. Chồng bà nhắm mắt lìa đời 9
năm trước đó cũng được an táng trong một quan tài tương tự.
Ðôi
vợ chồng được an nghỉ trong hai ngôi mộ xây cất trong vùng đồi núi hoang vu.
Mãi đến năm 1969 người ta mới khám phá ra và cả thế giới ngạc nhiên trước sự
giàu sang của thời đại ấy được biểu lộ qua 2,800 của lễ được dâng tặng lúc cử
hành lễ an táng, nhưng đặc biệt nhất là hai cái quan tài, mỗi cái gồm tất cả
hai ngàn mảnh ngọc nhỏ được kết chung lại bằng những sợi chỉ bằng vàng.
Những
người sinh sống vào thời đại ấy quan niệm rằng: vàng và ngọc thạch không bị thời
gian làm hư hại vì thế chúng ta bảo chứng cho sự trường sinh bất tử.
Trên
ba vòng bán nguyệt của khung cửa chính ở nhà thờ chánh tòa Milanô bên Italia có
khắc ba dòng chữ:
-
Phía dưới hình một hoa hồng được chạm trổ tinh vi của một vòng bán nguyệt, người
ta đọc được hàng chữ: "Mỗi hạnh phúc chỉ kéo dài trong khoảnh khắc".
-
Bên vòng bán nguyệt của khung cửa kia, dưới hình một cây thập giá có ghi hàng
chữ: "Mỗi đau khổ chỉ kéo dài trong một khoảnh khắc".
-
Ở vòng nguyệt của khung cửa giữa dẫn vào lòng chính của vương cung thánh đường
có khắc dòng chữ: "Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng".
Ở
giữa một bên là quan niệm đi tìm thuốc tiên hay sử dụng quan tài bằng ngọc thạch
để được trường sinh bất tử và bên kia là quan niệm cuộc đời con người chấm cùng
bằng cái chết, những người Kitô hữu xây dựng cuộc sống vĩnh cửu bằng những giây
phút hiện tại và tin tưởng rằng cái chết là ngưỡng cửa dẫn vào cuộc sống đời đời
và chính cuộc sống này mới thực sự quan trọng.
Vì
thế họ chọn thái độ "sống gửi thác về". Họ thu nhặt những giá trị qúi
như vàng ngọc bằng cách sống tốt, sống thật những giây phút hiện tại, bằng cách
áp dụng "hai đạo luật vàng: mến chúa yêu người", vì họ biết rằng chỉ
có những gì được làm vì tình yêu mới có giá trị vĩnh cửu.
Vì
thế họ quan niệm đời sống là một cuộc hành trình, phải luôn cất bước ra đi: nước
mắt, nụ cười chỉ có giá trị tương đối, để mỗi ngày họ bắt đầu lại, mỗi ngày họ
cất một bước chân mới đi về nhà cha. Năm phụng vụ đã gần kết thúc. Giáo hội mời
gọi chúng ta tiếp tục sống, nhưng với chú tâm sống tốt, sống thật từng phút
giây hiện tại vì chúng là những hạt cát, những viên gạch xây dựng cho cuộc sống
mai sau.
(Lẽ
Sống)
30-11
Thánh Anrê
T
|
hánh Anrê là anh của
Thánh Phêrô, và cả hai được Chúa Giêsu gọi cùng một lúc. "Khi Ðức Giêsu
đi trên bờ biển Galilee, Người trông thấy hai anh em, ông Simon mà bây giờ gọi
là Phêrô, và anh của ông là Anrê, đang quăng lưới xuống biển; họ là các ngư
dân. Người nói với họ, 'Hãy đến theo tôi, và tôi sẽ làm cho các anh trở thành
kẻ lưới người.' Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người" (Mt
4:18-20).
Thánh Sử Gioan mô tả
Thánh Anrê như một môn đệ của Thánh Gioan Tẩy Giả. Một ngày kia, khi Ðức Giêsu
đi ngang qua, Gioan Tẩy Giả nói, "Ðây là Chiên Thiên Chúa."
Anrê và các môn đệ khác đi theo Ðức Giêsu. "Ðức Giêsu quay lại và thấy
họ đi theo mình, Người hỏi, 'Các anh muốn tìm gì?' Họ trả lời, 'Thưa Thầy, Thầy
ở đâu?' Ngài nói, 'Hãy đến, và các anh sẽ thấy.' Bởi đó họ đi theo và đã thấy
nơi Người cư ngụ, và họ ở với Người cả ngày hôm ấy" (Gioan 1:38-39a).
Trong Phúc Âm không nói
nhiều về Thánh Anrê. Trong phép lạ bánh hoá nhiều, chính Anrê là người cho biết
về đứa bé trai có một ít bánh và cá (x. Gioan 6:8-9). Khi dân ngoại muốn đến
gặp Ðức Giêsu, họ đến với ông Philíp trước, nhưng ông Philíp lại bàn hỏi với
ông Anrê (x. Gioan 12:20-22).
Truyền thuyết nói rằng
chính Thánh Anrê đã rao giảng Tin Mừng ở những nơi mà bây giờ là Hy Lạp và Thổ
Nhĩ Kỳ, và bị chết trên thập giá ở Patras.
Lời Bàn
Cũng như các thánh tông
đồ khác, ngoại trừ Thánh Phêrô và Gioan, Phúc Âm không cho chúng ta biết gì
nhiều về sự thánh thiện của Thánh Anrê. Ngài là tông đồ. Như vậy là đủ. Ngài
được đích thân Ðức Giêsu mời gọi để loan truyền Tin Mừng, để chữa lành nhờ quyền
năng của Ðức Giêsu cũng như để chia sẻ sự sống và sự chết của Người. Ngày nay,
sự thánh thiện cũng không có gì khác biệt. Ðó là một món quà bao gồm lời mời
gọi hãy lưu tâm đến Nước Trời, và một thái độ dấn thân với lòng ao ước không
muốn gì khác hơn là chia sẻ sự giầu có của Ðức Kitô cho tất cả mọi người.
Lời Trích
"Nhóm Mười Hai
triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: 'Thật không đúng nếu chúng tôi bỏ việc
rao giảng lời Chúa để lo việc ăn uống. Vậy, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy
người tốt lành, đầy Thần Khí và khôn ngoan, để chúng tôi cắt đặt họ làm công
việc đó, còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa."
(CVTÐ 6:2-4).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét