THỨ TƯ 13/11/2013
Thứ Tư sau Chúa Nhật
32 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm I) Kn 6, 2-12
"Hỡi các vua
chúa, hãy lắng nghe và học biết sự khôn ngoan".
Trích
sách Khôn Ngoan.
Hỡi
các vua chúa, hãy nghe và hãy hiểu. Hỡi các thủ lãnh trần gian, hãy học biết. Hỡi
các vị lãnh đạo quần chúng, các ngươi kiêu hãnh, vì dân các ngươi đông đảo, xin
lắng nghe: Quyền bính của các ngươi là do Chúa ban, và uy lực của các ngươi
cũng do Ðấng Tối Cao. Người sẽ chất vấn mọi hành động và kiểm soát những tư tưởng
các ngươi. Vì nếu các ngươi là những quản lý nước Chúa mà không xét xử công
minh, không giữ luật công bình, không sống theo thánh ý Thiên Chúa, thì Người sẽ
xuất hiện trên các ngươi cách kinh hoàng mau lẹ. Vì đối với những kẻ cầm quyền,
Người sẽ xét xử nghiêm nhặt. Ðối với những kẻ thấp hèn, thì Người sẽ thương
xót, còn những người quyền thế, Người sẽ lấy quyền thế mà trừng trị. Thiên Chúa
không lùi bước trước mặt ai, chẳng sợ chức bậc nào, vì kẻ hèn người sang đều do
chính Người tác tạo, và Người săn sóc tất cả đồng đều. Nhưng Người sẽ xét xử
nghiêm nhặt hạng quyền thế. Vậy hỡi các vua chúa, đây là lời ta nói với các
ngươi, để các ngươi học biết sự khôn ngoan và khỏi sa ngã. Vì chưng, những ai
kính cẩn nắm giữ những điều công chính, sẽ nên người công chính, và những ai học
hỏi các điều này, sẽ biết cách trả lời. Vậy các ngươi hãy say mến lời ta, thì
các ngươi sẽ được giáo huấn.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 81, 3-4. 6-7
Ðáp: Ôi Thiên Chúa,
xin Chúa đứng lên xét xử địa cầu (c. 8a).
Xướng: 1) Hãy bầu chữa kẻ
bị ức và người phận nhỏ; hãy bênh vực quyền lợi người khốn khó và kẻ cơ hàn.
Hãy cứu chữa người bị áp bức và kẻ bần cùng; hãy giải thoát họ khỏi bàn tay đứa
ác. - Ðáp.
2)
Ta đã nói: các ngươi là những bậc chúa tể, và hết thảy các ngươi là con Ðấng Tối
Cao. Tuy nhiên, cũng như người ta, các ngươi sẽ chết, cũng như một quân vương
nào đó, các ngươi sẽ té nhào. – Ðáp
Alleluia:
1 Tx 2, 13
Alleluia,
alleluia! - Anh em hãy đón nhận lời Chúa, không phải như lời của loài người, mà
là như lời của Thiên Chúa và đích thực là thế. - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 17, 11-19
"Không thấy ai
trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi
Người vào một làng kia thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất
tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ,
Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong
lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành
sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới
chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người: Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa
Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn
chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người
ngoại này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì
lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
Ðó
là lời Chúa.
Suy niệm : Thể Hiện Của
Tự Do Thực Sự
Trong
suốt nhiều thế kỷ, người Do thái đã phải còng lưng dưới sức nặng của lao động
khổ sai bên Ai Cập. Dưới sự lãnh đạo của Môsê, Thiên Chúa đã giải phóng họ và
đưa họ vào vùng đất tự do. Ðể đánh dấu cuộc giải phóng khỏi các thứ khổ sai đó,
Thiên Chúa đã thiết lập một ngày trong tuần như ngày Hưu Lễ. Ðó là lý do tại
sao người Do thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu lễ. Nó chính là biểu trưng của
tự do, bởi vì thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày, người Do thái không thể có được
một ngày nghỉ ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ của tự do, và đó là ý nghĩa
nguyên thủy của ngày Hưu lễ.
Thế
nhưng, dần dà qua dòng thời gian các nhà thần học Do thái đã thay đổi ý nghĩa ấy
của ngày Hưu lễ: thay vì là biểu tượng của tự do, họ đã biến ngày Hưu lễ thành
một gánh nặng đầy đọa và trói buộc con người; họ đã kéo dài ngày Hưu lễ thành một
bản kê khai tỉ mỉ những gì không được phép làm trong ngày Hưu lễ và như vậy dấu
chỉ của tự do giờ đây chỉ còn là một hình thức nô lệ mới đối với người Do thái:
thay vì là dấu chỉ của tự do đưa con người vào gặp gỡ với Thiên Chúa, ngày Hưu
lễ đã trở thành một gánh nặng chồng chất trên vai con người, nhất là làm cho
con người xa cách Thiên Chúa.
Ðó
cũng là tình trạng của lề luật nói chung thời Chúa Giêsu. Luật lệ không còn là
vì con người, nghĩa là giải phóng con người, mà trở thành gánh nặng đè bẹp con
người và tách lìa con người khỏi Thiên Chúa; con người chú tâm thi hành lề luật
hơn là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Thái độ của 9 người phong cùi
người Do thái trong Tin Mừng hôm nay phản ánh tâm thức chung của người Do thái
thời đó. Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi, trong đó chỉ có một người
Samari không phải tuân hành luật Do thái. Theo đúng đòi hỏi của lề luật, Chúa
Giêsu đã yêu cầu 9 người Do thái đến trình diện các tư tế để được xác nhận là
đã khỏi bệnh, riêng người Samari không phải tuân giữ điều đó, nhưng đây lại là
người duy nhất trở lại cám ơn Chúa Giêsu và ngợi khen Thiên Chúa.
Câu
truyện trên cho chúng ta thấy luật lệ đã cản trở con người đến gặp gỡ Chúa
Giêsu và cảm tạ Thiên Chúa. Người Samari vì không bị chi phối bởi lề luật, nên
đã được tự do để nói lên tình cảm chân thật của mình, người này gần với tôn
giáo đích thực bởi vì ông có tự do hơn. Thiên Chúa thi ân một cách nhưng không
thì con người cũng phải đáp trả một cách tự do. Một tương quan như thế không thể
có được trong một xã hội lề luật, trong đó con người chỉ biết tính toán theo thứ
công bình hoán đổi. Người Do thái vốn quen thuộc với tâm thức ấy, họ tính toán
chi ly về công đức của mình, họ lượng giá phần thưởng dựa trên công nghiệp của
mình. Chúa Giêsu đã đánh đổ một quan niệm như thế về tương quan giữa con người
và Thiên Chúa: ơn cứu rỗi mà Ngài loan báo và thực hiện là ơn cứu rỗi nhưng
không, đến độ con người chỉ được cứu độ nhờ lòng tin vào lòng từ bi của Thiên
Chúa, đến độ những kẻ tội lỗi là những người đầu tiên được vào Nước Chúa.
Ngày
nay, có lẽ nhiều người chúng ta cũng giống như 9 người phong cùi Do thái trong
Tin Mừng hôm nay. Họ đã bị lề luật giam hãm trong Ðền thờ để không còn có thể
nói lên lời tạ ơn đối với Ðấng đã thi ân cho mình; họ xem lề luật trọng hơn điều
thiết yếu của niềm tin là lòng biết ơn và niềm tín thác. Cũng như họ, có lẽ
chúng ta đã tỏ ra trung thành một cách chi ly với luật Hội Thánh, nhưng nhiều
lúc chúng ta vẫn còn tự hỏi: Tôi phải đọc bao nhiêu kinh? Tôi phải lần bao
nhiêu chuỗi? Tôi phải ăn chay bao nhiêu lần? Tôi phải bố thí cho bao nhiêu người
nghèo khó? Tính toán như thế là quên rằng Thiên Chúa như Chúa Giêsu mạc khải là
Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài ban ơn cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta chờ đợi
và tính toán. Một Thiên Chúa như thế, con người không thể có một tâm tình nào xứng
hợp hơn là lòng tri ân, niềm tín thác. Ðó là sự thể hiện của một tâm hồn tự do
đích thực, nhờ đó con người có thể vượt qua bốn bức tường nhà thờ để không ngừng
gặp gỡ Chúa trong cuộc sống mỗi ngày.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 32 TN1,
Năm lẻ.
Bài đọc: Wis
6:1-11; Lk 17:11-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy học hỏi để biết
nguồn gốc mọi sự
Có
một sự khác biệt lớn lao giữa người có học và người thất học: Người có học biết
dùng kiến thức của mình để biết đối xử đúng đắn trong các mối liên hệ với Thiên
Chúa, với tha nhân, và với các tạo vật trong vũ trụ. Người thất học, vì không
biết mọi sự đến từ đâu, nên chỉ biết phản ứng theo những gì mình suy nghĩ. Hậu
quả họ phải lãnh nhận là sự phán xét của Thiên Chúa, sự ghét bỏ của tha nhân,
và mọi thất bại trong cuộc đời.
Các
Bài Đọc hôm nay dạy con người phải biết học hỏi suy xét về nguyên do những gì
mình có. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan xác quyết về nguồn gốc của
quyền hành: Mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa. Ngài ban quyền bính cho
con người để lãnh đạo và cai trị. Ngài cũng sẽ xét xử công minh cho những người
nắm quyền cai trị trong các quốc gia; vì thế, họ phải cai trị dân chúng theo
thánh ý của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa lành mười người phong hủi;
nhưng chỉ có một người ngoại đạo biết nguyên do của việc được chữa lành và trở
lại cám ơn Thiên Chúa. Chúa hỏi: " Không phải cả mười người đều được sạch
sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa,
mà chỉ có người ngoại bang này?"
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Mọi quyền bính xuất phát từ Thiên Chúa.
1.1/
Quan niệm của Sách Khôn Ngoan về quyền bính: Một người sẽ nhận ra đây là những quan niệm rất mới
lạ về quyền bính, vì người thế gian cho sở dĩ họ có quyền là vì công sức hay
tài cán của họ; vì thế, họ cai trị dân chúng theo sự khôn ngoan của họ, mà
không bao giờ thắc mắc về kết quả của sự cai trị của họ. Ngược lại quan niệm
này, tác giả Sách Khôn Ngoan dạy:
(1)
Quyền bính của con người được ban xuống từ Thiên Chúa: "Vì chính Đức
Chúa đã ban cho chư vị quyền bính và chính Đấng Tối Cao đã ban quyền thống trị.
Cũng chính Người sẽ kiểm tra các việc chư vị làm và dò xét những điều chư vị
toan tính." Quan niệm này không chỉ áp dụng cho người nắm quyền bính trong
Giáo Hội, mà còn bao trùm cả những người cai trị các quốc gia, cho dù họ có biết
hay không: "Vậy, hãy lắng nghe, hãy cố hiểu, hỡi các bậc quân vương; hãy học
cho biết, hỡi những vị đang nắm quyền trên khắp cõi trần gian. Mở tai ra, hỡi
những ai đứng đầu trong thiên hạ, đang tự hào vì có đông đảo chư dân."
(2)
Kẻ nắm chức vụ cao mấy đi nữa cũng chỉ là bề tôi của Thiên Chúa: "Chư vị là bề
tôi phụng sự vương quyền Người."
(3)
Thiên Chúa sẽ xét xử những kẻ có quyền bính. Ngài sẽ luận phạt những kẻ
không biết xét xử công minh: "Quả vậy, người phận nhỏ được thương tình miễn
thứ, kẻ quyền thế lại bị xét xử thẳng tay. Chúa Tể muôn loài không bao giờ vị nể,
kẻ quyền cao chức trọng, Người cũng chẳng kiêng dè."
1.2/
Những điều quan trọng mà kẻ có nắm quyền bính phải thực hiện:
(1)
Họ phải biết xét xử công minh, tuân giữ lề luật, và tuân hành theo ý Thiên Chúa. Nếu không, Thiên
Chúa sẽ có "một án quyết thật nghiêm minh vẫn dành sẵn cho những kẻ có chức
có quyền."
(2)
Mọi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa; nhưng người có quyền hành sẽ bị xét xử nặng hơn những
người phận nhỏ: "Sang hay hèn đều do Người tạo tác, đều được Người chăm
sóc hệt như nhau, nhưng kẻ quyền cao sẽ bị tra vấn nghiêm nhặt."
(3)
Càng quyền cao chức trọng càng phải học biết khôn ngoan để biết xét xử cho
đúng đắn: "Vậy, hỡi các bậc vua chúa quan quyền, những lời tôi nói đây,
xin gửi tới chư vị để chư vị học biết lẽ khôn ngoan, mà khỏi phải sẩy chân trật
bước."
(4)
Người nắm quyền phải biết Lề Luật để sống thánh thiện: "Ai sống thánh
và tuân giữ luật thánh, thì được kể là bậc thánh nhân. Ai học hỏi luật thánh,
thì sẽ tìm được lời bào chữa."
2/
Phúc Âm: Lòng biết ơn.
Bài
Phúc Âm này thường được đọc trong ngày Lễ Tạ Ơn mỗi năm. Mục đích là để nhắc nhở
cho mọi người biết nhận ra ơn và cám ơn Thiên Chúa.
2.1/
Phải biết ơn trước khi cám ơn: Trên đường lên Jerusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền
Samaria và Galilee. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón
gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ
lòng thương chúng tôi!"
-
Tình trạng bi thảm của những người phong cùi: Vì người Do-Thái rất chú trọng
đến vấn đề thanh sạch bên ngòai, những người phong cùi không được ở chung với
dân; mà phải sống cách biệt bên ngòai làng của dân ở (Lev 13:46, Num 5:2). Họ
không được phép tiếp xúc trực tiếp với dân và phải la lớn để mọi người được biết
sự có mặt của họ mà tránh đi (Lev 13:45).
-
Để chứng tỏ mình đã hết bệnh phong cùi, họ phải được xem xét cẩn thận bởi các tư tế. Khi nào
các tư tế tuyên bố họ đã sạch; bấy giờ họ có thể trở về sinh họat bình thường với
dân trong làng (Lev 14:2-3). Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo họ: "Hãy đi
trình diện với các tư tế." Đang khi đi thì họ được sạch.
2.2/
Những người “ở ngòai” dễ nhận ra ơn hơn những người “ở trong”:
-
Tâm tình biết ơn của người Samaria: Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay
trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu
mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samaria. Đức Giêsu nói: "Không phải cả mười
người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại
tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?"
-
Người Do-Thái khinh thường và sống xa cách với người Samaria. Điểm lạ ở đây là 9
người phong Do-Thái khi bị chính dân mình khai trừ đã mở rộng vòng tay cho người
phong Samaria được sống chung với họ. Khi con người bị đau khổ và bỏ rơi, có lẽ
con người dễ đòan kết và sống chung với nhau hơn.
-
Người Samaria, tuy bị người Do-Thái khinh thường, nhưng nhiều lần được chính
Chúa Giêsu khen tặng. Trong
câu truyện “Ai là người thân cận của tôi?” Chúa Giêsu đã đề cao người Samaria
Nhân Hậu hơn các thầy tư tế và Lêvi, vì ông là người biết tỏ lòng thương xót với
người bị đánh trọng thương dọc đường: ông đã vực người trọng thương lên lừa và
đưa về quán trọ săn sóc cẩn thận và hứa sẽ trả mọi phí tổn tương lai cho chủ
quán trọ (Lk 10:30-37). Trong cuộc đàm thọai giữa Đức Kitô và người phụ nữ xứ
Samaria, chị đã trở thành nhà truyền giáo đầu tiên của Chúa Giêsu, nhiệt thành
loan báo về Người cho các dân trong làng của chị (Jn 4:39-41).
-
Biết ơn là xứng đáng đón nhận thêm ơn: Rồi Người nói với anh ta: "Đứng dậy về đi! Lòng
tin của anh đã cứu chữa anh." Không phải chỉ được thanh sạch bên ngòai,
anh còn được thanh sạch cả bên trong. Chính vì lòng tin mà anh đã xứng đáng được
hưởng ơn cứu độ.
2.3/
Tại sao con người vô ơn? Có
nhiều lý do: (1) vì con người không chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự
trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy nghĩ tại sao nó có; (2) họ giả sử tất
cả mọi người phải hành động như vậy: là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải
nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học sinh; và (3) họ sợ nếu nhận ra ơn, họ
phải trả ơn. Vì thế, họ vô ơn:
(1)
với Thiên Chúa: Đấng
đã dựng nên và không ngừng ban mọi ơn lành cho họ. Ngày Lễ Tạ Ơn là dịp để con
người nhận ra và tạ ơn Thiên Chúa qua việc tham dự Thánh Lễ và làm ơn cho những
người kém may mắn; nhưng thử hỏi được bao nhiêu người làm những điều này? Thay
vào đó, họ lo tổ chức ăn uống vui chơi cho bản thân và cho gia đình họ.
(2)
với cha mẹ: những
người đã cưu mang, nuôi nấng, và dạy dỗ họ trong suốt một phần tư của cuộc đời.
Lẽ ra, khi cha mẹ về già không còn tự săn sóc mình được nữa, họ phải phụng dưỡng
và săn sóc trở lại, thì họ lại cho vào các nhà hưu dưỡng rồi tự an ủi mình:
“chính phủ sẽ săn sóc các ngài tốt hơn ta.”
(3)
với tha nhân:
những người đi trước nhiều khi đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu, xây dựng, và
phát minh ra những tiện nghi mà chúng ta đang được hưởng. Bổn phận của những
người thụ hưởng là tiếp tục để làm cho thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn chứ
không phải chỉ ù lỳ thụ hưởng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta cần khôn ngoan để học hỏi và nhận định: mọi sự có trên đời này đều đến
từ Thiên Chúa. Nếu Chúa đã ban nhiều, Ngài sẽ đòi lại nhiều. Người nắm quyền thế
sẽ chịu xét xử nghiệm nhặt; vì thế, cần biết khôn ngoan để phục vụ và hướng dẫn
những người thuộc quyền mình theo đường lối của Thiên Chúa.
-
Chúng ta phải biết nhìn nhận và so sánh để nhận ra ơn. Đã nhận ơn phải biết nói
lời cám ơn. Cám ơn xuông chưa đủ, mà còn phải biết thi ơn cho người đã làm ơn
hay cho người khác để sự tốt lành tiếp tục lan tràn.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM TUẦN 32TN
Lc 17,11-19
A. Hạt giống...
1. Thái độ của 10 người cùi trong đoạn Tin Mừng
này : biết phận mình nên khi thấy Chúa Giêsu thì “dừng lại đàng xa” và kêu xin.
2. Khi của Chúa Giêsu bảo họ “Hãy đi trình diện
với các tư tế”, Chúa Giêsu vừa thử đức tin của họ vừa mời họ tin tuyệt đối vào
Ngài :
- Thử thách đức tin : vì Ngài không chữa bệnh ngay
- Mời gọi đức tin : nếu họ đi là chứng tỏ họ tin Ngài chữa họ.
3. 9 người cùi do thái không trở lại tạ ơn vì họ
đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Một người cùi xứ Samari
trở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.
B.... nẩy mầm.
1. Cám ơn là gì ? Điểm đáng chú ý là Thánh Luca
không ghi lại lời cám ơn của Người Samari cho nên chúng ta không biết anh ta đã
nói gì. Nhưng Thánh Luca ghi khá tỉ mỉ thái độ của anh ta : anh “thấy mình được
khỏi, liền quay trở lại, lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới
chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài”. Thực ra nói cám ơn Chúa thì chúng ta đã nói nhiều.
Nhưng lòng biết ơn thực còn xuất phát từ sự nhận thấy tình thương Chúa, thức
đẩy ta quay trở lại với Chúa, thôi thúc ta tôn vinh Chúa và sấp mình thờ lạy
Chúa nữa.
2. Hai tiếng “Cám ơn” giúp ích rất nhiều chẳng
những cho ta mà còn cho người được nghe nó nữa :
- Khi ta cám ơn ai, người đó sẽ hài lòng, và lần
sau họ sẽ sẵn sàng giúp ta nữa.
- Nghe ta nói cám ơn, lòng người ta vui, mặt
người ta sáng, người ta sẽ làm việc vui vẻ hơn.
Hai tiếng “cám ơn” khi được thốt ra bởi những
người lớn hơn thì càng sinh hiệu quả nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con
cái, thầy cô cám ơn học trò, chủ cám ơn tớ...
Nhưng tại sao người ta thường cám ơn “người dưng”
hơn là cám ơn “người nhà” ? (Frank Mihalic).
3. Tâm lý chung :
- Ta quen nghĩ đến mình và quên nghĩ tới người, nhất
là trong những lúc quá mừng, quá lo (những ngày đại tiệc, dễ quên cám ơn
những người phục vụ bếp núc đã vất vả cho buổi lễ của ta).
- Ta dễ vụ lợi, ích kỷ, vô ơn : ‘Hữu sự vái tứ
phương, vô sự đồng hương không mất’, ‘Vòng chưa thoát khỏi đã cong đuôi’.
4. Người Á đông chúng ta có thói quen trọng sự
biết ơn : Biết ơn ông bà tổ tiên, Đạo ông bà… Nhưng cũng nên đề phòng thái độ
biết ơn chỉ ngừng lại ở phạm vi công bằng, biết điều, ‘Ơn đền ; oán trả’, và đi
đến chỗ phải mau lo đền ơn để rũ nợ cho sớm.
5. Một cậu bé ngồi hàng ghế đầu trên xe buýt.
Thấy một cụ già lên xe, cậu nhường ghế cho cụ. Ông cụ ung dung ngồi xuống,
không nói tiếng nào. Cậu bé hỏi :
- Thưa ông, ông vừa nói gì thế ?
- Tôi có nói gì đâu.
- Vậy mà cháu tưởng ông nói “cám ơn” chứ. (Quote)
6. Các tâm tình tạ ơn gương mẫu : - Magnificat -
Benedictus - Nunc dimmittis - Thánh Lễ (Eucharistie).
7. “Một người trong bọn thấy mình được khỏi, liền
quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 17,15)
Chúa cho con đôi mắt, con nhìn bao kỳ công
Chúa cho con đôi tai, con nghe đủ âm thanh
Chúa cho con đôi môi, con hé mở nụ cười
Chúa cho con hai tay, bưng chén cơm, cầm bút
Chúa cho con đôi chân, dẫn con khắp nẻo đường
Chúa cho con khối óc, phân biệt điều thực hư…
Những điều con có đó, tưởng tầm thường nhưng thật
vĩ đại, thật cao cả.
Mà đã lần nào con nhớ đến những thứ ấy để cám ơn
Chúa.
Chắc đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, con
mới nhận ra những thứ ấy thật quý giá.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con nhiều điều.
Nhưng xin ban cho chúng con một điều nữa là cho chúng con luôn biết nhận ra
những ân huệ Chúa mà không ngừng cảm tạ tri ân. Amen. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần
Thơ
13/11/13 THỨ TƯ TUẦN 32 TN
Lc 17,11-19
Lc 17,11-19
TẠ ƠN CHÚA, TẠ ƠN NGƯỜI
Đức Giêsu nói :”Không phải cả
mười người được sạch cả sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở
lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” Rồi Người nói với anh
ta “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” (Lc 17,17-19)
Suy niệm: Van nài khẩn khiết, nhưng khi được chữa lành
bệnh, chín người bị phong đã không đã không trở lại để cám ơn Chúa. Ngạn ngữ
của người Đức nói về họ thật chính xác: “Khẩn cầu nóng bỏng, biết ơn lạnh
nhạt”. Còn người ngoại Samari đã trở lại với Đấng ban ơn, quỳ sấp dưới chân Đức
Giêsu để tỏ lòng biết ơn. Nhờ đó anh còn nhận được một ơn còn cao trọng
gấp ngàn lần ơn lành bệnh phong, đó là đức tin, là ơn cứu độ, ơn đi vào mối
tương quan thân thiết với Đức Giêsu và dĩ nhiên với cả gia đình Thiên Chúa:
“Lòng tin của anh đã cứu anh.”
Mời Bạn: Đời bạn là món quà đặc biệt của Chúa. Mượn lời
cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn người, tạ ơn đời,
tạ ơn ai đã cho tôi tình sáng ngời như sao sáng từ trời”, bạn hãy tạ ơn Chúa,
tạ ơn người, tạ ơn cuộc đời vì những gì bạn đang có, và nhất là vì ơn Chúa được
cứu, được biết Ngài, được sống thân tình với Ngài.
Sống Lời Chúa: Bạn hãy nhìn lại cuộc đời bạn và nhận ra những
gì tốt đẹp bạn đã nhận từ những người thân, từ cuộc đời, từ Thiên Chúa và rồi
dâng lên Chúa tâm tình tạ ơn xứng hợp.
Cầu nguyện: Lạy Cha, con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng.
Con tạ ơn Cha vì mọi ơn Cha đã ban cho con, cả ơn con không biết, những ơn con
không nhận ra, những ơn mà vẫn tưởng là chuyện bình thường tự nhiên. Xin cho
con luôn biết sống trong tâm tình tạ ơn Cha.
Dâng Lời Tạ Ơn
Chờ đợi Chúa đến là một trong những chủ đề trọng tâm của Kinh
Thánh. Vì không nắm bắt và sống sứ điệp này nên chúng ta thường thiếu kiên nhẫn
và do đó hầu hết những khó khăn của cuộc sống đều là kết quả của thái độ vội vã
của chúng ta. Chúng ta thường không chờ đợi cho cây trái được chín muồi nhưng
lại vội vã hái lấy khi nó còn xanh.
Chúng ta không thể chờ đợi sự đáp trả của Chúa cho lời cầu
nguyện của chúng ta, bởi vì chúng ta quên rằng Chúa muốn chúng ta phải mất
nhiều ơn thánh để chuẩn bị đón nhận ơn Ngài. Chúng ta được mời gọi để tiến bước
với Chúa nhưng Chúa thường đi những bước rất chậm rãi. Thật ra, không phải
chúng ta chờ đợi Chúa mà chính Chúa đang chờ đợi chúng ta. Lắm khi chúng ta
không muốn đón nhận ơn Chúa đã dọn sẵn bởi vì chúng ta không muốn đến với Ngài.
Có những lúc chúng ta phải sẵn sàng tiến tới với những bước đi đầy tin tưởng.
Tất cả những lời hứa của Chúa đều có điều kiện. Chúa chờ đợi sự đáp trả của
chúng ta. Chúng ta chỉ cần nhìn lại cuộc đời của tổ phụ Abraham để thấy rõ điều
đó. Chúa đã hứa ban cho Abraham rất nhiều điều cả thể nhưng chắc chắn không một
lời hứa nào sẽ được thực hiện nếu tổ phụ vẫn ở lại xứ Canđê. Abraham phải lên
đường, ông phải bỏ lại đàng sau nhà cửa, bạn bè, xứ sở và dấn bước vào cuộc
hành trình mà ông không thể nào lường trước được những gì có thể xảy ra. Hành
trang duy nhất của tổ phụ Abraham là lời hứa của Chúa và lòng tin tưởng của
ông.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta mặc
lấy thái độ tin tưởng phó thác ấy của tổ phụ Abraham. Chúa Giêsu quả thật là
người đã chữa trị cho mười người phong cùi, nhưng khác với những phép lạ khác,
ở đây thay vì sờ vào những người phong cùi hoặc nói một lời, Chúa Giêsu sai họ
đi trình diện với các tư tế theo như luật Môisen qui định. Thánh Luca ghi lại
rõ ràng rằng trong khi họ đi, họ được lành sạch. Quả thật, nếu họ đứng yên tại
chỗ để chờ đợi, họ sẽ chẳng bao giờ được lành bệnh. Chúa chờ đợi để chữa trị họ
và chính lúc họ tin tưởng để ra đi, ơn Chúa mới đến. Chúa luôn chờ đợi lòng
tin, sự kiên nhẫn và cả sự chờ đợi của chúng ta. Có khi ơn Ngài chỉ đến sau
nhiều năm tháng chờ đợi và nhất là sau nhiều năm tháng chiến đấu hy sinh của
chúng ta. Một sự thất bại, một nỗi mất mát lớn lao, một căn bệnh bất trị, bao
nhiêu đau khổ là bấy nhiêu tiến tới và chờ đợi để ơn Chúa được chín muồi.
Thật ra, đối với những ai có lòng tin thì tất cả mọi sự đều
là ân sủng của Chúa. Có điều gì thuộc về chúng ta mà không do Chúa ban tặng, có
điều gì chúng ta làm được mà không là hồng ân của Chúa, và ngay cả những thất
bại, rủi ro và đau khổ trong cuộc sống cũng đều là những cơ may của muôn ơn
lành Chúa không ngừng tuôn đổ trên chúng ta. Con người vốn chỉ vô ơn bạc nghĩa.
Trong mười người phong cùi được chữa lành chỉ có một người biết quay trở lại để
cám ơn Chúa Giêsu. Biết ơn, xem ra không phải là điều tự nhiên của con người.
Tâm tình ấy cần được dạy dỗ trau dồi ngay từ lúc con người vừa bập bẹ biết nói
và nuôi dưỡng trong suốt cuộc sống. Tâm tình cảm mến tri ân cũng cần phải được
trao dồi trong cuộc sống của người tín hữu Kitô. Trong một kinh Tiền Tụng, Giáo
Hội dạy chúng ta cầu nguyện rằng: "Dâng lời tạ ơn Chúa cũng là một hồng ân
Chúa ban tặng cho chúng ta". Cầu nguyện trong tin tưởng phó thác và không
ngừng dâng lời tạ ơn, đó phải là tâm tình cơ bản và thường hằng của người tín
hữu Kitô chúng ta.
Nguyện xin Chúa gìn giữ chúng ta luôn được sống trong tâm
tình ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm
Người mắc bệnh cùi thời Chúa Giêsu phải chịu nhiều đau khổ.
Đau
về thể xác.
Vì không có thuốc chữa trị, nên
bệnh cùi hành hạ thân xác rất nhức nhối.
Vi trùng cùi Hansen ăn vào da
thịt dần mòn làm lỡ loét mặt mày, tay chân đau buốt.
Gân cốt tay chân thường bị co
vấp lại, không còn khả năng làm việc như người bình thường. Tình cảnh họ rất là
đau thương.
Khổ
về tâm hồn
Quan niệm bệnh là do tội lỗi
lỗi gây nên, cùi là bệnh nặng chứng tỏ tội của người cùi phải rất nhiều.
Người cùi bị mọi người xem
thường, khinh bỉ và xa lánh vì sợ lây uế. Người cùi phải sống tách biệt với
cộng đồng vì xã hội đẩy họ ra bên lề cuộc sống.
Người bị bệnh cùi luôn phải
sống nhờ người khác và bị xem là thành phần ăn bám xã hội. Thật chua xót!
Việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh
cùi chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa quyền năng và giàu lòng thương yêu..
Việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh
cùi đồng nghĩa với việc Chúa phục hồi phẩm giá làm người của họ, trả lại cho họ
tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu mà Chúa đã tác tạo.
Việc Chúa chữa lành bệnh cùi
cho họ là lời mời gọi mọi người hãy mở rộng vòng tay đón nhận nhau trong tình
anh em, dù họ là ai.
Việc Chúa chữa lành bệnh cùi
cũng chính là mời gọi tha thiết đối với những ai đang mang nặng những nỗi đau
về thể xác hay những vết thương nơi tâm hồn hãy mạnh dạn đến với Chúa để kêu
xin ơn cứu chữa của Ngài; và hãy can đảm hòa nhập với cộng đồng xã hội để có
được niềm vui, nguồn an ủi.
Có lẽ chúng ta không mắc phải
bệnh cùi về thể lý vì ngày nay đã có thuốc đặc trị. Nhưng rất có thể chúng ta
lại mắc phải bệnh cùi về tâm linh.
Cùi tâm linh là khi chúng ta vô ơn đối với Thiên Chúa. Sống xa cách Chúa, không quan tâm đến thánh lễ Chúa nhựt, không
còn biết cám ơn Chúa qua giờ kinh sáng-tối nơi gia đình, không để tâm học hỏi
Thánh kinh và giáo lý….
Cùi tâm linh là khi chúng ta tự
tách rời khỏi anh em trong các sinh hoạt của họ đạo. Có thể vì mặc cảm hay vì
tự cao mà ta sống cu ki một mình, không còn khả năng hòa nhập với cộng đoàn họ
đạo.
Cùi tâm linh là khi chúng ta vô
tâm, thờ ơ, dửng dưng, ích kỷ, tư lợi mà không biết chạnh lòng thương trước nỗi đau của người
khác. Những thứ đó chính là những chứng bệnh cùi về tâm linh nguy hiểm.
Vậy mỗi người chúng ta hãy ý thức về bệnh cùi
tâm linh của mình và xin Chúa cứu chữa.
Xin Chúa cho chúng con biết khiêm tốn nhận ra
bệnh tình nguy hiểm đang mang trong người. Và xin Chúa thương cứu chữa cho lành
sạch. “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!”.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13
THÁNG MƯỜI MỘT
Bảo Vệ Quyền Của Phụ
Nữ Tại Môi Trường Lao Động
Trong
thời đại chúng ta, vấn đề bình đẳng nam nữ đang được giải quyết, ít nhất về mặt
pháp lý, bằng những đạo luật nhìn nhận sự bình đẳng nam nữ tại môi trường làm
việc. Tuy nhiên, như Thông Điệp Pacem in terris ghi nhận, chúng ta phải đảm bảo
cho phụ nữ “quyền có các điều kiện làm việc phù hợp với các yêu cầu và các bổn
phận của họ trong tư cách là vợ và là mẹ”. Chúng ta phải xây dựng một xã hội
trong đó phụ nữ có thời giờ để nuôi dạy con cái mình – là những nhà xây dựng và
những nhà kiến thiết tương lai. Giáo Hội rất ý thức nhu cầu này, như tôi đã nói
tại một hội nghị Thượng Hội Đồng giám mục trước đây: “Gia đình phải được sống
cách xứng đáng ngay cả khi người mẹ không thể cống hiến hoàn toàn cho gia
đình.” Điều này không có nghĩa rằng phải khai trừ phụ nữ ra khỏi thế giới lao động
làm ăn hay ra khỏi những hoạt động công cộng ngoài xã hội.
‘Sự
thăng tiến đích thực của phụ nữ đòi hỏi rằng công việc làm phải được tổ chức
sao cho họ không bị bắt buộc phải trả giá cho sự tiến thân bằng việc bỏ mất ơn
gọi chuyên biệt của họ trong gia đình. Bởi vì phụ nữ có một vai trò không thể
thay thế được, đó là vai trò làm mẹ” (LE 19).
Đó
là giáo huấn của Giáo Hội. Trong một xã hội mong muốn có sự công bằng và nhân đạo,
thì những nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân vị con người phải chiếm chỗ nhất
trong bậc thang các giá trị. Chúng ta phải bảo vệ những nhu cầu này và nêu cao
tầm quan trọng của nhân vị con người trong các gia đình chúng ta. Chúng ta
không được phép quên phẩm giá của vai trò làm mẹ và tầm quan trọng của công việc
nuôi dạy con cái.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
Ngày 13-11
Kn 6,1-11; Lc 17, 11-19.
LỜI SUY NIỆM: Trong câu chuyện mười người mắc bệnh phong, được Chúa
Giêsu chữa lành, duy chỉ có một người ngoại giáo trở lại gặp Chúa Giêsu để tôn
vinh Thiên Chúa, trong lúc đó chín người kia không trở lại.
Trong cuộc sống hôm nay,
con người sống với nhau, khi nhận ơn thì hoan hỷ, vui mừng lấy làm vui sướng,
nhưng lại thường quên đi việc cám ơn và trả nghĩa. Trong đời sống tâm linh của
chúng ta cũng thường vấp phải điều này. Khi gặp những hoàn cảnh éo le, vô
phương cứu chữa, chúng ta thường chạy đến với Chúa; Cầu xin Ngài, nhưng khi tai
qua nạn khỏi chúng ta quên tạ ơn Ngài. Ước gì trong mỗi ngày sống của chúng ta
luôn làm dấu Thánh Giá tạ ơn Ngài, bởi muôn vàng hồng ân Chúa trao ban cho
chúng ta.
Mạnh Phương
13 Tháng Mười Một
Ánh Mắt Mẹ Tôi
Paul Nagai, một bác
sĩ người Nhật, từ sau quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki, đã trở thành con
người bất hủ, vì sự tận tụy và tấm lòng hy sinh vô bờ bến của ông. Từ vô thần,
ông đã trở thành người có niềm tin. Ông đã giải thích như sau:
"Trong kỳ nghỉ
mùa xuân, lúc đó tôi học hết năm thứ hai y khoa, mẹ tôi trúng phong. Tôi hối hả
chạy đến đầu giường của người. Trong cơn hấp hối, người nhìn tôi và thở ra. Cái
nhìn cuối cùng của cặp mắt người mẹ đã sinh ra, đã giáo dục và đã thương tôi đến
cùng, cặp mắt này đã nói với tôi một cách rõ rệt rằng: cho dù khuất núi, người
vẫn ở bên tôi luôn mãi... Tôi không tin gì ở sự hiện hữu của linh hồn. Bỗng
nhiên, trong ánh mắt của mẹ tôi, tôi đã nhìn thấy linh hồn của người... Từ đó,
con người tôi đổi hẳn, tôi tin rằng mẹ tôi, người đã sinh ra tôi, đã yêu thương
tôi, không thể bị tiêu diệt hoàn toàn sau cái chết".
Chúng
ta có một linh hồn bất tử. Ðó là nền tảng của phẩm giá con người. Nếu sinh ra,
sớm nở tối tàn như bông hoa đồng nội và cuối cùng trở về với cái không vô tận,
thì đâu là giá trị của con người?...
Chúng
ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta mang trong mình ánh lửa của
Vĩnh Cửu, cho dù thân xác này có hư nát đi, chúng ta vẫn tiếp tục cuộc sống mai
hậu. Ðó là cùng đích của
(Lẽ
Sống)
Thứ Tư 13-11
Thánh Frances Xavier Cabrini
(1850-1917)
T
|
hánh Frances Xavier
Cabrini là công dân Hoa Kỳ đầu tiên được phong thánh. Chính lòng tin tưởng mãnh
liệt vào sự chăm sóc yêu thương của Thiên Chúa đã ban cho thánh nữ sức mạnh để
trở nên một phụ nữ dũng cảm làm việc cho Ðức Kitô.
Thánh Frances sinh ở
Lombardi, nước Ý vào năm 1850, trong một gia đình có đến 13 người con. Khi 18
tuổi, ngài ao ước trở thành một nữ tu nơi ngài theo học sư phạm, nhưng vì sức
khỏe yếu kém nên bị từ chối. Sau đó thánh nữ làm việc bác ái ở Cô Nhi Viện Ðấng
Quan Phòng ở Cadogne, nước Ý. Vào tháng Chín 1877, ngài tuyên khấn và mặc áo
dòng.
Khi đức giám mục đóng
cửa cô nhi viện vào năm 1880, ngài đặt sơ Frances làm tu viện trưởng tu hội Nữ
Tu Thánh Tâm Truyền Giáo và bảy phụ nữ khác làm việc ở cô nhi viện cũng đã gia
nhập tu hội này.
Ngay từ khi còn nhỏ,
Thánh Frances đã có ý định đi truyền giáo ở Trung Cộng, nhưng theo sự khuyên
bảo của Ðức Giáo Hoàng Lêo XIII, cùng với sáu nữ tu khác, ngài đến thành phố
Nữu Ước để phục vụ hàng ngàn người Ý di dân đang sinh sống ở đây.
Ngài gặp nhiều chán nản
và khó khăn trên bước hành trình. Khi đến thành phố Nữu Ước, căn nhà được hứa
để làm cô nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ thì lại không có. Ðức tổng giám mục khuyên
ngài trở về Ý. Nhưng Frances, một phụ nữ can đảm có thừa, đã rời bỏ tư dinh của
đức tổng và tự tay gầy dựng cô nhi viện. Và ngài đã thành công.
Trong 35 năm, Thánh
Frances Xavier Cabrini đã thành lập 67 trung tâm để chăm sóc người nghèo, trẻ
mồ côi, người ít học và bệnh nhân. Nhận thấy nhu cầu cần thiết của người di dân
Ý trước viễn ảnh bị mất đức tin, ngài mở trường học và các lớp dạy giáo lý cho
người lớn.
Cho đến ngày ngài qua
đời ở Chicago, tiểu bang Illinois ngày 22-12-1917, tu hội của ngài đã có mặt
tại các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ và Nam Mỹ.
Vào năm 1946, ngài được
Ðức Giáo Hoàng Piô XII tuyên phong hiển thánh và đặt làm quan thầy của người di
dân.
Lời Bàn
Lòng thương người và sự
tận tụy của Mẹ Cabrini vẫn còn được nhận thấy qua hàng trăm ngàn nữ tu của
ngài, họ chăm sóc bệnh nhân ở bệnh viện, viện dưỡng lão và các trung tâm quốc
gia. Chúng ta than phiền về sự tốn kém y tế trong một xã hội giầu có, nhưng tin
tức hàng ngày cho thấy hàng triệu người khác trên thế giới không có một chút gì
được gọi là y tế, và họ đang mời gọi những người noi gương Mẹ Cabrini đến để
phục vụ người dân trên đất nước của họ.
Lời Trích
Trong nghi lễ phong
thánh cho Mẹ Cabrini ngày 7-7-1946, Ðức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố: "Mặc
dù hiến pháp của tu hội ngài rất đơn sơ, nhưng ngài được ban cho một tinh thần
phi thường đến nỗi, một khi tin rằng đó là ý Chúa, ngài không để bất cứ điều gì
cản trở việc thực hiện mà những công trình ấy vượt quá sức lực của một phụ nữ."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét