Trang

Thứ Ba, 19 tháng 11, 2013

KHÔNG CÓ GÌ TÁCH ĐƯỢC CHÚNG TA RA KHỎI TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA!

KHÔNG CÓ GÌ TÁCH ĐƯỢC CHÚNG TA RA KHỎI TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA!

http://vi.radiovaticana.va/global_images/x.gif
http://vi.radiovaticana.va/global_images/x.gif
... Nơi vùng Perche ở miền Tây Bắc nước Pháp nổi tiếng một Đền Thánh trang nghiêm hùng vĩ, sừng sửng trên đồi, chung quanh có thảm cỏ xanh tuyệt đẹp. Đó là Đền Thánh Đức Bà Montligeon. Từ ngày được xây cất đến nay Đền Thánh trở thành linh địa hành hương và là nơi cầu nguyện cho người thân yêu quá cố.

Lịch sử Đền Thánh gắn liền với cuộc đời Linh Mục Paul Buguet (1843-1913). Đúng thế. Khi được chỉ định làm Cha Sở giáo xứ Chapelle-Montligeon vào năm 1878, Cha Paul Buguet đau lòng nhận thấy người dân miền quê lần lượt theo nhau ra sống nơi thành thị khiến cho làng mạc trở nên nghèo nàn về phương diện trí thức. Cha liền tìm cách cống hiến cho người dân công ăn việc làm để họ ở lại với làng xóm. Cha thành lập ngay các xưởng thủ công nghệ.

Cha cũng chú ý chăm sóc cách riêng đời sống thiêng liêng của con chiên bổn đạo. Rồi Cha nhận thấy các gia đình thường dần dần quên bẵng những người thân yêu đã qua đời. Đây là một đề tài chạm đúng vết thương của lòng Cha. Thật vậy. Bào huynh của Cha chết thảm thương vì bị chuông nhà thờ Mortagne-au-Perche rơi xuống đè bẹp vào năm 1876. Sau đó đến lượt hai người cháu, qua đời vì quá buồn sầu sau khi chứng kiến cái chết của hiền phụ. Kể từ sau ba cái đại tang ấy, Cha Paul Buguet như luôn luôn bị ám ảnh bởi cái chết và bởi tư tưởng: ”Linh Hồn các người chết ra sao?”.

Năm 1884 Cha thực hiện tư tưởng từ lâu vẫn đeo đuổi: thành lập một Hội cầu cho người quá cố với tên ”Hội Đền Tạ Giải Thoát Các Linh Hồn Bị Lãng Quên Trong Lửa Luyện Ngục”. Hội được Đức Cha François-Marie Trégaro (1881-1897), lúc bấy giờ là giám mục giáo phận Séez, phê chuẩn. Năm 1892 Cha Paul Buguet bắt đầu du hành nhiều nơi trong giáo phận rồi khắp nước Pháp để phổ biến tinh thần Hội Đền Tạ.

Cùng năm 1892 ngôi nhà thờ giáo xứ trở nên quá bé nhỏ trước làn sóng các tín hữu khắp nơi tuốn về hành hương và cầu nguyện cho thân nhân đã qua đời. Cha Paul Buguet nghĩ đến việc xây cất một ngôi thánh đường rộng lớn hơn. Cha bắt đầu công cuộc quyên góp tiền của ở khắp nơi kể cả tại Roma, Âu Châu và Hoa Kỳ. Đền Thánh được khởi công vào năm 1894 và hoàn thành vào năm 1911. Cùng với công trình xây cất và với ý hướng tạo công ăn việc làm cho con chiên bổn đạo, năm 1887, Cha mở một nhà in để phổ biến các tạp chí của Hội Đền Tạ.

Năm 1928 Đền Thờ được thánh hiến và được đặt dưới sự bảo trợ của Đức Bà Giải Thoát. Đền Thánh Đức Bà Giải Thoát Montligeon là biểu tượng mối hiệp thông các thánh. Khung cảnh trang nghiêm và đền thờ hùng vĩ cho phép các tín hữu tìm đến đây cầu nguyện thủ đắc một niềm an bình sâu xa trong niềm hy vọng nối kết đất thấp với Trời Cao.

Từ hơn 15 năm qua Đền Thánh được giao cho Các Linh Mục Cộng Đoàn Saint-Martin trông coi với sự trợ giúp của khoảng 15 nữ tu thuộc dòng Tân Giao Ước.

Một thế kỷ đã trôi qua nhưng Montligeon không phải thuần túy là nơi chốn đi thoảng qua mà là trạm để dừng lại. Đúng thế. Đây là nơi đòi hỏi tín hữu phải dành thời giờ, bởi lẽ chúng ta không còn ở trong thời gian mà là trong vĩnh cửu.

Xin nhường lời cho Linh Mục Martin, Tuyên Úy Đền Thánh Đức Bà Giải Thoát Montligeon.

Ơn gọi đầu tiên của Đền Thánh là cầu nguyện cho người quá cố. Các tín hữu đến đây phần lớn là những gia đình có thân nhân qua đời hoặc những người cần sự đồng hành trong thời gian mang tang chế. Tiếp đến là những bạn trẻ đến tham dự các tuần tĩnh tâm để chuẩn bị lãnh bí tích Thêm Sức, hoặc Tuyên Xưng Đức Tin hay Rước Lễ Lần Đầu.

Ngày nay người ta không còn nói đến Đền Thánh như là nơi chốn cầu nguyện cho Các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Hình. Đúng hơn người ta nói: ”Cầu cho những người đã qua đời”. Nhưng nhất là người ta nới rộng sứ điệp đến tất cả những gì liên quan đến cái chết và cuộc sống bên kia cái chết, trong tương quan với Đức Tin và niềm Hy Vọng Kitô:
- Hy Vọng vào cuộc sống vĩnh cửu và sự phục sinh. Hy Vọng gặp lại những người chúng ta yêu mến.

Hy Vọng rằng ngay từ bây giờ chúng ta có thể sống mối hiệp thông với những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta. Diễn tả như thế thì rộng rãi bao quát hơn là chỉ nói: ”Cầu nguyện cho những người đã qua đời”.

Chính trong nhãn quan rộng mở này mà Đền Thánh Đức Bà Giải Thoát Montligeon lôi cuốn sự chú ý của mọi người. Cho dẫu ngày nay từ ”Luyện Ngục” có vẻ hơi cổ hủ, hết hợp thời, thì hết thảy mọi người, khi đối diện với tang chế đều cùng đặt những câu hỏi như nhau:
- Tại sao người ấy chết? Hiện người chết đang ở đâu? Người chết có được hạnh phúc không? Và tôi có thể làm gì để giúp người đã chết?

Dầu không bàn đến lãnh vực Đức Tin thì những vấn nạn trên đây cũng hoàn toàn mang tính chất nhân bản. Trong chiều hướng này thì Đền Thánh Đức Bà Giải Thoát Montligeon vẫn giữ nguyên và mãi mãi là linh địa cần thiết và vô cùng thân thương đối với rất nhiều người.

Tôi ước nguyện Đền Thánh Đức Bà Giải Thoát Montligeon trở thành phương tiện loan báo Tin Mừng, bởi vì:
- Tin nơi sự sống lại là trung tâm Đức Tin Công Giáo.

Cầu mong rằng mỗi khi đến Đền Thánh các tín hữu Công Giáo tìm thấy nơi đây một nơi chốn củng cố Đức Tin, khơi động niềm Hy Vọng và khuyến khích tình liên đới Kitô.

Đền Thánh đúng thật là nơi diễn tả mối tình liên đới giữa Đất và Trời, điều mà chúng ta tuyên xưng khi đọc kinh Tin Kính: ”Các Thánh Cùng Thông Công”.

... ”Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: ”Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh”. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ sinh nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của THIÊN CHÚA nơi Đức KITÔ GIÊSU, Chúa chúng ta” (Roma 8,35-39).

(”ÉGLISE en Eure-et-Loir”, Revue diocésaine de Chartres - numéro 174 - Juillet-Aout 2012, trang 8-9)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
www.vi.radiovaticana.va


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét