THỨ HAI 25/11/2013
THỨ HAI TUẦN XXXIV
MÙA THƯỜNG NIÊN
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Bổn mạng Hội
Thánh Việt Nam
Lễ Trọng
* Hôm nay, phụng vụ kính nhớ 117 chứng nhân tử đạo Việt Nam.
Các vị đã được tôn phong chân phước trong bốn đợt: Năm 1900, đức giáo hoàng
Lê-ô XIII tôn phong 64 vị; đức giáo hoàng Pi-ô X tôn phong 8 vị năm 1906 và 20
vị năm 1909. Năm 1912, đức giáo hoàng Pi-ô XII tôn phong 25 vị. Tất cả 117 vị
đều được đức giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 19 tháng 6
năm 1988.
Trong nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, kể từ lúc Tin Mừng
bắt đầu được loan báo tại Việt Nam, thế kỷ XVI, cho đến cuộc bách hại khốc liệt
thế kỷ XIX, đã có nhiều chứng nhân anh dũng cả người Âu lẫn người Việt hy sinh
thân mình vì Chúa Kitô.
Hồ sơ phong thánh và Các Giờ Kinh Phụng Vụ đặc biệt chú ý đến
các tên tuổi sau: Người Việt Nam: thánh Anrê Dũng Lạc, linh mục (+1839), thánh
Tôma Trần văn Thiện, chủng sinh (+1838), thánh Phaolô Lê bảo Tịnh, linh mục
(+1857), thánh Em-ma-nu-en Lê văn Phụng, giáo lý viên và người cha trong gia
đình (+1859). Các tu sĩ Đaminh người Tây Ban Nha, thuộc Tỉnh Dòng Mân Côi:
thánh Giêrônimô Hécmôxila Liêm, giám quản tông tòa địa phận Đông đàng ngoài
(+1861), thánh Valentinô Beriô Ô-choa, giám mục (+1861) và một vị người Pháp
thuộc Hội Thừa Sai Pari, thánh Tê-ô-phan Vêna (+1861).
BÀI
ĐỌC I: 2 Mcb 7, 1.20-23.27b-29
1 Hồi ấy, có bảy anh em bị bắt
cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn
thịt heo là thức ăn luật Mô-sê cấm.
20 Bà mẹ là người rất mực xứng
đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết
nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt
nơi Đức Chúa.21 Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người một,
lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người phụ nữ,
nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi; bà nói với các con:22 "Mẹ
không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các
con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người
trong các con.23 Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người,
và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả
lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của
Người hơn bản thân mình."
27b Bà nói với người con út:
"Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi
nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu.28 Mẹ xin con hãy nhìn xem trời
đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư
vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy.29 Con đừng sợ tên đao
phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến
ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ."
Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 125
Đ. 5 Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
1 Khi Chúa dẫn tù nhân Xi-on trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. 2ab
Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng.
2cd Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: "Việc Chúa làm cho họ, vĩ
đại thay! " 3 Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! ta thấy mình
chan chứa một niềm vui.
4 Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền
Nam.5 Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
6 Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, cười reo hớn
hở, vai nặng gánh lúa vàng.
BÀI ĐỌC 2: Rm 8,31b-39
31b Thưa anh em, có Thiên Chúa
bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?32 Đến như chính
Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một
khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng
ta?33 Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên
Chúa, Đấng làm cho nên công chính?34 Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức
Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên
Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?
35 Ai
có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân,
khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?36 Như có lời chép:
Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh.
37
Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.
38 Đúng
thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương
quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,39 trời
cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được
chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng
ta.
TUNG
HÔ TIN MỪNG: Mt 5,10
Hall-Hall: Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của
họ. Hall.
TIN
MỪNG: Lc 9,23-26
Khi ấy, 23 Đức Giê-su nói với mọi người:
"Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà
theo.24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều
mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.25 Vì người
nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có
lợi gì?26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng
sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha
và các thánh thiên thần.
Đó là lời Chúa.
VÁC
THẬP GIÁ MỖI NGÀY
Người
ta nói có cái chết “nặng tựa Thái Sơn”, nhưng cũng có cái chết “nhẹ tựa lông hồng”. Cái
chết của các thánh tử đạo tại Việt Nam đối với người đời chẳng
những “nặng tựa Thái Sơn”, mà còn nặng hơn Thái Sơn nữa, bởi vì
thường thì người ta chết vì bệnh hoạn hoặc tai nạn; những người tự
tử như diễn viên điện ảnh Lê Công Tuấn Anh, hay các ngôi sao Hàn
Quốc, người ta cũng muốn chết một cách nhẹ nhàng, êm đẹp. Còn cái
chết của các thánh tử đạo tại Việt Nam thì thật khủng khiếp. Có
người bị chém đầu, mà chém bằng cây đao lục, nên người ta phải khứa
tới khứa lui nhiều lần; có người bị thiêu sống; có người bị chặt
tay chặt chân trước khi đem đi chém đầu… Nhưng đối với các thánh Tử Đạo tại
Việt Nam cha ông của chúng ta, thì cái chết của các ngài nhẹ tựa lông hồng.
Sở dĩ các ngài đón nhận cái chết nhẹ nhàng như vậy là bởi vì các
ngài biết mình tin vào ai, mình chết vì điều gì và chết cho ai. Hôm
nay Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh tử đạo tại
Việt Nam, khi đọc các bài đọc lời Chúa và nhìn vào tấm gương của
một số vị, tôi thấy Kitô hữu nói chung và các thánh tử đạo nói
riêng, nếu chấp nhận“gieo trong lệ sầu” thì sẽ “gặt
trong vui sướng”. Nếu biết tin tưởng, phó thác vào Đức Giêsu Kitô, thì sống
chết đối với kitô hữu không thành vấn đề; giả dụ có chết, thì cái chết đó cũng
nhẹ tựa lông hồng.
I. PHỤNG
VỤ LỜI CHÚA
1. Bài
Đọc I: 2 Mcb 7, 1. 20 – 23 . 27b - 29
Câu
chuyện về bảy anh em bị bắt chung với người mẹ của mình trong bài
đọc I hôm nay là một câu chuyện đẹp về những con người dám hy sinh vì
đức tin. Đồng thời cũng là một tấm gương sáng ngời cho những bậc
làm cha mẹ trong việc giáo dục đức tin cho con cái. Vua Antiôkhô bắt
họ phải ăn thịt heo nhưng họ một mực từ chối vi phạm luật Môsê. Vì
vậy nhà vua đã tra tấn họ một cách dã man: lột da, chặt tay, chặt
chân, cắt lưỡi… sau cùng đã giết chết họ ngay trước mặt người mẹ. Người
mẹ dù rất đau lòng nhưng cũng vẫn can đảm chịu đựng và khuyên răn con
cái mình hãy giữ vững đức tin. Sở dĩ họ chấp nhận cái chết đau
đớn như vậy là bởi vì họ tin vào sự sống đời sau mà Thiên Chúa đã
hứa ban cho họ. Hay nói cách khác họ chấp nhận “gieo trong lệ
sầu” để được “gặt trong vui sướng”.
2. Bài
Đọc II: Rm 8, 31b-39
Thánh
Phalô trong thư gửi tín hữu Rôma đã cảnh báo họ về những điều có
thể tách họ ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, đó là: gian truân, khốn
khổ, đói rách, bắt bớ… Để rồi cuối cùng thánh nhân khẳng định như
một lệnh truyền cho con cái của ngài: “Không có gì tách chúng
ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi ĐGK”. Lệnh truyền
đó của thánh Phaolô có ý khuyên các tín hữu của mình phải chấp
nhận những gian truân, khốn khổ, đói rách, bắt bớ trong đời sống đạo
như đang gieo trong lệ sầu, để rồi họ sẽ gặt trong vui sướng, là
chính tình yêu của Thiên Chúa nơi ĐGK.
3. Tin
Mừng: Lc 9, 23-26
Bài
Tin Mừng hôm nay là lời của CG nói với mọi người: “Ai muốn
theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà
theo”. Đây không phải là những lời tâm sự, hoặc mong muốn của
CG, nhưng là điều kiện để theo Chúa. Vì vậy những ai chưa vác thập
giá trong cuộc sống thì chưa phải là môn đệ của CG. Và chúng ta,
những Kitô hữu, nếu chưa vác thập giá mình hằng ngày, thì chúng ta
chỉ mang danh hiệu Kitô hữu mà thôi, chứ chưa phải là người có Đức Kitô
Tóm
lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay làm nỗi bật lên một điểm mà các
thánh Tử Đạo tại Việt Nam đã thực hiện, đó là vác thập giá mình
mỗi ngày mà theo Chúa. Tuy nhiên không phải vác thập giá để bước
xuống vực thẳm, nhưng vác thập giá để bước tới vinh quang là hạnh phúc
thiên đàng. Hay nói cách khác có chấp nhận gieo trong lệ sầu thì mới
có thể gặt trong vui sướng được.
II. CÁC
THÁNH TỬ ĐẠO VÁC THẬP GIÁ
Thập
giá của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam cha ông chúng ta chính là
lòng hoán cải và sự trung thành đối với Thiên Chúa.
1. Lòng
hoán cải vì Tin Mừng:
Các
nhà tu đức nói: “Không có thánh nhân nào mà không có quá khứ”. Các
thánh Tử Đạo tại Việt Nam cũng là những con người bình thường như
bao nhiêu con người khác. Họ cũng có những yếu đuối, những tội lỗi,
những bất toàn của kiếp người… Nhưng điều quan trọng là họ đã biết
nhìn ra những sai lỗi của mình để sửa đổi cuộc đời cho phù hợp tư
cách là Kitô hữu. Khi họ biết sửa đổi cuộc đời
chính là lúc họ vác thập giá mà theo Chúa, để rồi khi đứng trước
cây thập giá thực sự, là sự bắt bớ và giết chóc thì họ dễ dàng
vượt qua, vì họ đã từng vượt qua những tính hư nết xấu của mình vì
ĐGK.
Đó
là trường hợp của thánh Luca Thìn, một quan chánh tổng. Ông ta có vợ
bé, rồi thờ ơ với việc đạo. Nhưng khi nghe lời khuyên của người thân
và các linh mục, ông đã hoán cải trở về với Chúa. Cuối cùng đã
dùng chính cái chết để làm chứng cho Chúa. Hay như thánh Micae Hy, ông
này ăn chơi cũng ăn chơi tráng táng, và có tới 3 đứa con ngoại hôn,
nhưng sau đó ông đã hoán cải quay trở lại với Chúa và giữ đạo đàng
hoàng. Khi người ta bắt bớ đạo, ông đã dám mạnh dạn xưng mình là
Kitô hữu để rồi bị bắt và chịu tử hình vì chính đạo.
2. Sự
trung thành với Thiên Chúa
Các
thánh tử đạo tại Việt nam còn vác thập giá qua việc trung
thành với Thiên Chúa. Sự trung thành đó được thể hiện qua
việc yêu mến thánh giá. Vua quan ngày xưa đã dùng cây thập giá để xem
người ta có bỏ đạo hay trung thành với đạo qua việc bước qua thập
giá. Họ đặt thập giá giữa những nén vàng và cây gươm để những ai
bước qua thập giá thì sẽ có ngay những nén vàng, còn nếu không chịu
bước qua thì sẽ lãnh ngay một nhát gươm. Cha ông chúng ta đã trung
thành với Chúa qua việc một mực từ chối bước qua thập giá. Thánh
Têphanô Ven, một linh mục mới 31 tuổi đã nói: “Cả đời tôi rao
giảng về thập giá thì lẽ nào tôi lại giẫm lên thập giá”. Sau
khi đã thuyết phục nhưng không thành công, lính đã bắt Thánh Antôn
Nguyễn Đích, một gia trưởng gương mẫu trong gia đình có 4 vị thánh tử
đạo khiêng qua cây thập giá để ép buộc ông giẫm lên thập giá, nhưng
thánh nhân đã cố gắng để co chân lên cho khỏi giẫm lên thập giá. Có
những vị đã vì sợ hãi mà bước qua thập giá, nhưng sau đó đã hối
hận và quay trở lại để xin chịu chết vì thập giá ĐK, ví dụ như
thánh Đaminh Đinh Đạt.
III. THẬP
GIÁ CỦA CHÚNG TA
Theo
lời Chúa dạy và theo gương cha ông, chúng ta cũng phải vác thập giá
mỗi ngày mà theo Chúa. Thập giá của chúng ta cũng chính là lòng
hoán cải và sự trung thành với Thiên Chúa.
1. Lòng
hoán cải:
Là
một con người ai cũng có những yếu đuối, những tội lỗi của mình,
điều quan trọng là chúng ta phải biết hoán cải, sửa đổi cuộc sống.
Mỗi khi đi đám tiệc hay đi lễ, hoặc xuất hiện trước công chúng, chúng
ta dành nhiều thời gian để làm đẹp mình. Mỗi một ngày người ta tốn
bao nhiêu giờ để lo cho thân xác? Chắc cũng nhiều lắm! Nhưng tại sao
chúng ta không dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống, nhìn lại tâm
hồn của mình? Nhìn lại để thấy mình có những sai lỗi nào, những
tính hư nết xấu nào mà lo sửa đổi. Để thể hiện lòng hoán cải, mỗi
ngày chúng ta phải dành thời gian để xét mình, tốt nhất là trước
khi đi ngủ, về mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm trong ngày sống. Phải
thường xuyên lãnh nhận bí tích giải tội, nhất là những khi phạm tội
trọng. Không ai chê cười khi thấy chúng ta ăn năn sám hối và sửa đổi
cuộc đời đâu, nhưng đáng chê cười những người không thấy những sai lỗi
của mình, và đáng chê cười hơn đối với những người thấy mình sai mà
không chịu sửa.
2. Sự
trung thành với Chúa:
Thập
giá kế tiếp mà chúng ta phải vác là sự trung thành với Chúa. Sự
trung thành đòi hỏi chúng ta một sự can đảm như các thánh tử đạo
tại Việt Nam để tuyên xưng đức tin của mình. Ngày hôm nay việc trung
thành với Thiên Chúa không còn là dừng bước trước thập giá như cha
ông chúng ta ngày xưa, nhưng phải là bước qua chính bản thân mình để đến
với Thiên Chúa. Mỗi khi tôi vượt thắng được sự lười biếng, ham chơi
để đến với Chúa ngày Chúa Nhật; mỗi khi tôi từ bỏ những lo
toan vật chất để giữ ngày Chúa Nhật; mỗi khi tôi chối từ những lôi
kéo sai trái của bạn bè để giữ luật Chúa… là những lúc tôi thể
hiện sự trung thành với Thiên Chúa. Còn nhiều, nhiều những hình thức
bước qua chính bản thân mình để thể hiện sự trung thành với Chúa.
Tóm
lại, lễ các thánh tử đạo tại Việt Nam cho chúng thấy được những con
người biết vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, thể hiện qua
việc hoán cải cuộc sống và trung thành với Chúa. Là con cháu được
thừa hưởng gia tài đức tin từ cha ông, chúng ta cũng phải biết vác
thập giá mỗi ngày mà theo Chúa, thể hiện qua việc biết từ bỏ những
yếu đuối, tội lỗi, sửa đổi cuộc sống, và trung thành với Chúa. Xin
ơn Chúa giúp nhờ lời cầu bầu của các thánh tử đạo tại Việt Nam,
ban thêm đức tin cho Giáo hội Việt nam, cho Giáo Phận Cần Thơ, cho họ
đạo chúng ta và từng người chúng ta, nhất là trong dịp kết thúc Năm Đức
Tin này, để chúng ta dám mạnh dạn vác thập giá mỗi ngày qua việc
hoán cải và trung thành với Chúa.
CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Ngày khai sinh của Giáo Hội Việt Nam vinh dự không kém
ngày Sinh Nhật của Giáo Hội Mẹ Roma, vì cả hai đều được sinh ra trong máu của
người tin Chúa Giê-su suốt 300 năm. Ở Việt Nam, cuộc bách hại bắt đầu từ thế kỷ
thứ 16, và khốc liệt nhất vào thế kỷ thứ 19.
Ngày 19/06/1988, Đức Gio-an Phao-lô II đã phong hiển thánh
cho 117 vị, trong số 130.000 người Tử Đạo tại Việt Nam, gồm có: 8 Giám mục ; 50
Linh mục ; 14 thầy giảng ; 1 chủng sinh, 44 giáo dân. Trong đó có 10 vị người
Pháp, 11 vị người Tân Ban Nha, còn lại là người Việt.
Các thánh trên đã Tử Đạo bởi 5 triều đại vua sau đây:
ò Trịnh Nguyễn (1745-1773): 4 vị.
ò Cảnh Thịnh
(1798) : 2 vị.
ò Minh Mạng (1820-1840):
50 vị.
ò Thiệu Trị (1841-1847) : 3 vị.
ò Tự Đức (1848-1883) : 58 vị.
Các ngài chịu đủ mọi cực hình :
-
Bá
đao (mỗi người bị cắt 100 miếng thịt): 1 vị.
-
Lăng
trì (chặt chân tay trước khi chém đầu): 4 vị.
-
Thiêu
sống: 6 vị.
-
Chém
đầu: 75 vị.
-
Xử
giảo (quấn dây vòng cổ rồi kéo hai đầu cho đến chết: 22 vị.
-
Rũ
tù: 9 vị.
Người cao tuổi nhất như cha Loan 84 tuổi ; trẻ nhất như
Tô-ma Thiện 18 tuổi. Trong số 117 vị Tử Đạo chỉ có một phụ nữ là bà A-nê Lê Thị
Thành (thánh Đê.)
Các vị trên đủ mọi thành phần trong đạo-đời, quan có, lính
có, dân có ; nhưng đa số là giáo sĩ
trong Hội Thánh: Giám mục, Linh mục, chủng sinh. Số người trẻ từ 18 đến 40 tuổi
chiếm 1/3 trong 117 vị Tử Đạo.
Ngày 15/10/1989, Hội Đồng Giám mục Việt Nam xin Tòa Thánh
ghi vào lịch Phụng Vụ thế giới: ngày 24/11 là ngày kính các thánh Tử Đạo, nhằm
kỷ niệm ngày thành lập Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1958, và được Bộ Phượng
Tự chấp thuận ngày 14/02/1990, và đặc biệt được kính trọng thể vào Chúa nhật
33, áp Chúa nhật 34, lễ Chúa Ki-tô Vua, với hàm ý: 117 vị thánh Tử Đạo tại VN
đã phần nào diễn tả chiến thắng của Vua vũ trụ.
VINH QUANG CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO Ở ĐIỂM NÀO?
Đối
với các thánh Tử Đạo, giá trị của các ngài hệ tại ở chỗ minh chứng Chúa Giê-su
là Đấng Cứu Độ duy nhất,
chỉ vì :
1/ TIN VÀO GIÁ TRỊ PHỤC SINH. Niềm tin này đã được mạc khải trong sách Macabê: Bà mẹ
động viên bảy người con đừng sợ những khổ hình do vua Antiokho ra lệnh dùng roi
và gân bò đánh cho chết, nếu không ăn thịt heo! Bà nói: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ
ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể
cho mỗi người trong các con.Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài
người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng
sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự
sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân
mình." (2Mcb7,1.20-23: Bài đọc I).
2/ TIN VÀO ĐỨC GIÊSU LÀ CON MỘT THIÊN
CHÚA CHA BAN TẶNG ĐỂ CỨU THẾ GIAN,
ngoài Ngài không có thần thánh nào biến dữ ra lành cho con người để sống hạnh
phúc dồi dào muôn đời (x Cv 4,12). Thánh Phao-lô nói: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như
chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng
ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban cho chúng
ta tất cả làm một với Ngài? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn?
Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính ? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ
Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên
Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?
Ai
có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân,
khốn khó, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giao? Nhưng trong mọi thử thách ấy,
chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Bởi thế không có
gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu
Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,31b-39: Bài
đọc II).
3/ ĐỨC TIN CÔNG GIÁO PHẢI THỂ HIỆN BẰNG
VIỆC LÀM. Đức Giê-su dạy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà
theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng
sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,23-24: Tin Mừng). Khi
Đức Giê-su vác thánh giá chính là lúc Ngài dâng Lễ, nên Ngài dạy: “Ai muốn theo tôi, thì hãy vác thập giá của
mình hằng ngày mà theo”, có nghĩa là hằng ngày ta phải đấu tranh với mọi
nghịch cảnh, để có giờ cùng hiệp dâng Thánh Lễ với Ngài. Có thế mới cứu được mạng sống mình, và
như vậy đi dự Lễ càng phải trả giá đắt,
đến nỗi mất mạng như các thánh Tử Đạo, càng bày tỏ lòng mến cao, thì càng được
nhiều ơn. Đấy mới thực là ý nghĩa và giá trị Chúa dạy ta phải vác thập giá
mình mà theo Ngài mỗi ngày, chứ không phải là Ngài nhắm dạy ta: Phải chịu khó làm việc bổn phận thì thu tích
được nhiều tiền của ! Nếu ta chỉ chú ý cần cù làm việc để đạt thành công trong xã hội, đó chỉ là nhân bản, chẳng cần đến Chúa
nào dạy, người vô thần họ vẫn dạy nhau: “tất
cả cho sản xuất để được giàu mạnh”, và chứng minh được “lao động là vinh quang”, nhưng vẫn thua
kiếp trâu ngựa ! Người Công Giáo dựa trên Đức Tin, ai cũng phải xác tín rằng: dù có cần cù chịu khó làm việc, đạt thành
công đời này, mà không kết hợp với Chúa Giê-su Thánh Thể, thì phải nhớ Lời Chúa
Giê-su dạy: “Được lời cả thế gian mà mất
sự sống mình thì nào có ích gì” (Lc 9,25: Tin Mừng).
Nhờ kết hợp nên một với Chúa Giê-su Phục Sinh, chúng ta sẽ
được:
a-
Ngài cộng tác trong mọi việc lành ta làm, có thế mới tôn
vinh Thiên Chúa (x Rm 11,36). Bởi vì
mọi việc con người làm ngoài Chúa Giê-su, trước sau sẽ ra tro bụi, nhưng nếu
được làm trong Chúa Giê-su, thì việc ấy có giá trị cứu độ, và đem lại cho chúng
ta sự sống vĩnh cửu không ai có thể cướp mất! (x Cv 5,38-39) Chính vì vậy mà
Đức Giê-su khẳng định: “Ngoài Ta, các
ngươi không thể làm được việc gì” (Ga 15,5b)
b-
Ngài ban cho chúng ta nghị lực đối đầu với nghịch cảnh để
làm chứng cho Ngài, đến nỗi:
o Bằng lòng mất hết lợi nhuận đời này, như người mẹ động viên đứa con út trong bảy người con
sắp lãnh án tử chỉ vì muốn trung thành với giáo lý của Chúa: “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu
mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài
trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài
người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra
xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót,
Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ." (2Mcb 7,27-29: Bài đọc I).
Vua Duy Tân hỏi các quan:
-
Tay dơ lấy gì rửa?
-
Thưa lấy nước rửa.
-
Nước dơ lấy gì rửa?
Không ai đáp. Vua nói tiếp :
-
Lấy máu rửa nước Việt Nam.
Nhưng đối với các thánh Tử Đạo không vì lời ấy mà làm cho các ngài hoảng sợ đến
chối bỏ Đức Tin, bởi vì :
§ Kẻ nhút nhát thì sợ thần chết!
§ Đứa tuyệt vọng thì tìm cái chết!
§ Tên hưởng thụ thì chẳng nghĩ chết!
§ Người anh hùng thì liều mạng chết!
§
Đấng Khôn Ngoan thì chuẩn bị chết!
Tác giả sách Khôn ngoan nói: “Nhìn thấy khổ hình như thế, bọn ngu si coi họ như đã chết, cho là gặp
tai họa, bị tiêu diệt, nhưng thực ra họ
đang hưởng bình an, chứa chan hy vọng, trường sinh bất tử. Sau khi chịu sửa dạy
đôi chút, họ được hưởng ân huệ lớn lao, họ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp
rừng sậy, họ có quyền xét xử muôn dân, thống trị muôn nước” (Kn 3,2-8a).
Ông Pascal nói: “Giá
trị con người hơn cả vũ trụ cộng lại. Vì chỉ con người ai cũng biết mình phải
chết. Con người hơn nhau ở chỗ cuộc đời biết chuẩn bị cho cái chết của mình
theo ý Chúa”.
o Bằng lòng mất mạng để giữ vững Đức Tin, sau này Chúa trả lại vẹn toàn thân xác bất tử, như Lời
Đức Giê-su đã hứa với các môn đệ: “Ai từ
bỏ mọi sự mà theo Ta sẽ được lãnh gấp trăm bây giờ ở đời này về nhà cửa, anh
chị em, cha mẹ và con cái cùng ruộng vườn, làm
một với cấm cách bắt bớ, và sự sống đời đời trong thời sau hết” (Mc
10,30).
Thánh Gioan đã nhìn thấy thị kiến về sự chiến thắng của
những người đã chết để làm chứng cho Tin Mừng: “Một đoàn người đông vô kể thuộc mọi dân, mọi ngôn ngữ. Họ trải qua thử
thách lớn lao, họ giặt và tẩy sạch áo mình trong Máu Con Chiên, không còn đói
khát, không bị nắng thiêu đốt, chính Con Chiên dẫn họ tới nguồn nước trường
sinh, họ mặc áo trắng, tay cầm cành lá thiên tuế tung hô: “Chính Chúa là Thiên
Chúa chúng ta, xin chúc tụng vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự,
uy quyền và sức mạnh đến muôn đời” (Kh 7,9-17).
o Bằng lòng mất đạo hiếu với cha mẹ trần
thế vì phải hiếu với Cha trên trời, tức là kiên trì bảo vệ chân lý. Đan cử: Vua Sao-lê đã hứa truyền ngôi cho con trai là
Gionathan, thế nhưng Gionathan thấy vua cha tìm mưu tính kế để diệt Đavid, chỉ
vì Đavid được toàn dân tung hô: ông mạnh gấp mười vua Sao-lê, vì ông thành công
trên mọi chiến trường để bảo vệ bình an
cho dân tộc và giữ vững vương quyền Sao-lê, nên Gionathan tìm hết cách để Đavid
khỏi sa vào lưới vua cha. Ông sống như thế chắc chắn bị người đời kết án là bất hiếu. Vì “ăn cây nào rào cây đó”, và “một
giọt máu đào hơn ao nước lã” (x 1Sm 20).
Vì thế mà Đức Giê-su nói: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không
phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để
gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ
chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10,34-36).
Nhưng “ai nghẹn ngào
ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 126/125,5: Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Ông Tertuliano nói: “Máu
các thánh Tử Đạo là hạt giống phát sinh các Ki-tô hữu”. Vì “người
ta càng áp bức dân Chúa, thì dân Chúa càng thêm đông đảo bành trướng ra, khiến
thiên hạ phải run khiếp” (Xh 1,12)
ĐỌC THÊM:
TRÍCH BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA GIO-AN PHAO-LÔ II
TRONG ĐẠI LỄ TÔN VINH HIỂN
THÁNH 117 VỊ CHÂN PHƯỚC TỬ ĐẠO VIỆT NAM
TẠI RÔ-MA NGÀY 19/06/1988
“Lên tiếng với anh em để hô vang Chúa Ki-tô Tử nạn Thập
Giá, tất cả chúng tôi hôm nay để lời cám ơn anh em vì tấm gương nhân chứng đặc
biệt các vị thánh Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam anh em đã nêu cao, bất cứ các
ngài là con dân Việt Nam hay là những Thừa sai, xuất xứ từ những nước đã in sâu
mầm mống đức tin Chúa Ki-tô.
Làm sao kể lại cho hết ? Tất cả là 117 vị Tử Đạo, trong số
có 8 vị Giám mục, 50 vị Linh mục, 59 giáo dân, trong số đó có một phụ nữ là
thánh A-nê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con.
Truyền thống còn ghi nhớ lịch sử chết vì đạo của Giáo Hội
Việt Nam rất bao quát, phức tạp ngay từ lúc ban đầu. Từ năm 1533, nghĩa là từ
lúc miền Đông Nam Á Châu vừa được truyền đạo, Giáo Hội Việt Nam đã chịu bách
hại suốt ba thế kỷ, trừ một vài năm cách quãng, giống hệt ba thế kỷ bắt bớ của
Giáo Hội Âu Châu thời xưa. Từng ngàn vạn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã
chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc !
Để lấy một ví dụ: Trong các vị Tử Đạo hôm nay, đi tiên
phong có thánh Vinh-sơn Liêm, dòng Đa-minh là người Việt tử đạo đầu tiên năm
1773. rồi tới Linh mục An-rê Dũng Lạc, sinh trưởng trong một gia đình rất nghèo
khó, bên lương, từ nhỏ đã phải “bán” cho một thầy giảng dạy giáo lý, nhưng rồi
Chúa cũng cho tới chức Linh mục năm 1823, được bổ nhiệm chánh xứ và đương nhiên
thành nhà truyền giáo trong nhiều địa hạt.
Nhiều lần đã bị lao tù, nhưng vẫn được giáo dân tốt lành
đem tiền chuộc về, trong khi bản thân ngài mong chờ được chết vì Chúa. “Những người chết vì đức tin, ngài nói
– thì lên Thiên đàng thẳng rẵng ; tại sao chúng ta cứ phải ẩn náu, phải tốn
tiền đút lót cho quan quyền ; thà để cho chúng tôi bị bắt và rồi tử đạo cho
phải hơn không ?” Thực ra vẫn một ý chí hăng say và được ơn Chúa nâng đỡ, ngài
đã anh dũng chịu trảm quyết tại Hà Nội ngày 21/12/1839.
Một lần nữa, hỡi Giáo đoàn Việt Nam, chúng tôi nói lại cho
anh em rằng: máu các thánh Tử Đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để
anh em thăng tiến trong đức tin. Giữa anh em, đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục
và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai.
Đức tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho
tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước,
nhưng đồng thời vẫn còn là người tín hữu của Chúa Ki-tô.
Ai là người tín hữu đều ý thức rằng: Lời kêu gọi của Phúc
Âm vẫn là phải tuân phục các thể chế loài người, để tôn thờ tình yêu Thiên Chúa
bằng cách làm việc thiện, sống xứng đáng con người tự do, kiêng nể tha nhân,
yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng công quyền và thể chế quốc
gia. (x 1Pr 2,13-17)
Do đó công ích của quốc gia vẫn là thời điểm người công
dân phải dấn thân, nhưng đồng thời phải được tự do tuyên xưng chân lý của Chúa,
được cảm thông với các vị chủ chăn và anh em đồng tín ngưỡng: và như thế là để
sống an bình với mọi người và thực tâm xây dựng hạnh phúc cho toàn dân.”
(Trích Thiên Hùng Sử tr 20-25)
Suy niệm 1: Những vị anh hùng âm thầm– Lc
9,22-26
Dân tộc nào cũng có những vị anh hùng và tôn giáo nào cũng có
những vị anh hùng, được gọi những danh hiệu khác nhau. Kitô giáo có hàng ngũ
các thánh, những tôi trung, con thảo của Chúa, những mẫu mực sống đạo của người
công giáo. Là anh hùng trong đạo nhưng không có ai thắng. Có chăng là thắng
chính mình, thắng những kẻ thù vô hình không mang quốc tịch nào như ma quỷ, xác
thịt và thế gian.
Các vị tử đạo Việt Nam không cuồng tín liều lĩnh, không tự ý
tìm đến cái chết: không ai tự thiêu, tự thắt cổ, tự cắn lưỡi, tự đập đầu mà
chết để giữ chữ trung với đạo (không ai tự tử mà lại được phong thánh).
Trước khi tử đạo, các ngài là những người muốn sống để phục
vụ gia đình, quê hương và Giáo Hội. Muốn sống mà không được sống, tránh không
được thì chấp nhận, để rồi vui nhận. Cam lòng chịu chết mà không oán hận: đó là
tính cách của các vị tử đạo Việt Nam. Kẻ nuôi lòng hận thù không thể làm thánh
vì không xứng danh làm môn đệ của Đấng đã dạy: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho
kẻ ngược đãi mình.
Tôn vinh các vị thánh tử đạo Việt Nam là nêu lên một quan
điểm tích cực: Lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Không khơi lên đống tro tàn để
bùng cháy lòng căm thù, nhưng sáng lên một tinh thần bao dung hoà giải. Romeo
và Juilette chết đi để hoà giải hai dòng họ thâm thù truyền kiếp. Cũng thế,
dòng máu các vị tử đạo đổ ra không phải là vô ích. Các vị ấy về cõi trời nhưng
gởi lại một thông điệp, đã có những người quyết tử để đất nước được hồi sinh,
đã có những người chết vì niềm tin để con cháu được sống đức tin giữa lòng dân
tộc, đã có những người bị đè bẹp vì thành kiến cố chấp để muôn người được thông
cảm hoà đồng với nhau.
Đất nước Việt Nam sản sinh nhiều anh hùng: chiến sĩ anh hùng,
bà mẹ anh hùng... nay có thêm những anh hùng đức tin làm cho kho tàng này được
thêm phong phú.
Hướng về tương lai trong viễn cảnh thái hoà, người công giáo
Việt Nam tiếp bước cha ông tiền bối của mình để sống đời chứng nhân, đem tin
yêu đến cho mọi nhà. Còn biết bao nhiêu người đang phấn đấu sống theo chính
đạo, chống lại bóng đen gian tà, chu toàn bổn phận của mình, làm việc với lương
tâm chức nghiệp, sống lương thiện lành mạnh, chống lại các tệ nạn xã hội, tránh
thoát ma lực của đồng tiền, quên đi lợi nhuận để mưu cầu hạnh phúc cho tha
nhân, hy sinh tiết kiệm để cứu giúp những người bất hạnh. Quả là những anh hùng
âm thầm trong bóng tối mênh mông.
Suy niệm
Đức tin trung thành
Mỗi khi dự lễ các thánh tử đạo Việt Nam là một
lần tôi có dịp suy nghĩ về đức tin của cha ông ngày xưa. Từ đó giúp cho tôi ý
thức hơn về đức tin mà tôi đang kế thừa. Thật vậy, các thánh tử đạo Việt Nam đã
đón nhận đức tin và sống đức tin như lời Chúa trong bài tin mừng này. Cụ thể,
khi đã tin Chúa và theo Chúa thì cho dù có gặp gian nan thử thách, cho dù có bị
chống đối bách hại, cho dù phải hy sinh mạng sống…thì các Ngài vẫn luôn trung
thành với đức tin, vẫn chọn Chúa và theo Chúa đến cùng. Tôi khâm phục và ngưỡng
mộ các thánh tử đạo Việt nam. Tôi luôn biết ơn và tự hào vì mình là người Kitô
hữu Việt Nam.
Trong cuộc sống hiện tại, có thể nói rằng, đời
sống đức tin của tôi không bị người đời, không bị anh em cản trở và bách hại
như các thánh tử đạo đã bị ngày xưa. Nhưng, đời sống đức tin của tôi cũng đối
diện với rất nhiều thử thách. Có thể là vì tội lỗi, là vì công việc, là vì đời
sống vật chất hưởng thụ… Đó là những cám dỗ về danh, lợi, thú…làm cho tôi mất
đức tin, lôi kéo tôi xa Chúa và bỏ Chúa..
Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa vì hạt giống đức tin
đã được gieo vãi trên quê hương đất nước của con. Xin ban cho con ơn Chúa để
con duy trì, phát triển và sống đức tin mà các thế hệ cha ông đã để lại. Xin
cho con ơn Chúa để con chọn Chúa và theo Chúa đến cùng, dám tử đạo trong việc
chu toàn bổn phận sống “mến Chúa và yêu người” qua những việc làm cụ thể mỗi
ngày. Amen.
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Các
Thánh Tử Đạo Việt-Nam
Bài đọc: II Mac 7:1, 20-23, 27b-29; Rom
8:31b-39; Lk 9:23-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự sống, tình yêu, và sự đau khổ
Sự sống, tình yêu, và đau khổ là ba mầu nhiệm khó hiểu trong cuộc sống
con người; vì thế, không phải ai cũng hiểu đúng. Chẳng hạn khi nói về nguồn gốc
của sự sống, có người cho là do cha mẹ, có người cho là tự nhiên, có người cho
là từ Thiên Chúa. Hay khi phải định nghĩa tình yêu, có người định nghĩa
"yêu là chết trong lòng một ít;" có người cho là "cùng nhìn về
một hướng;" hay "yêu ai là muốn mọi sự tốt đẹp cho người ấy."
Khi nói về đau khổ, quan niệm của nhà Phật cho "cần diệt dục để tránh đau
khổ;" trong khi Kitô giáo quan niệm con người không thể tránh đau khổ, và
nó cần thiết để con người chứng tỏ niềm tin yêu nơi Thiên Chúa.
Các Bài Đọc trong ngày Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay giúp chúng
ta thấu hiểu tại sao các bậc tiền nhân của chúng ta sẵn sàng hy sinh thân mình
để làm chứng cho Chúa. Trong Bài Đọc I, bà mẹ của bảy anh em nhà Maccabees xác
tín: Thiên Chúa là Đấng ban sự sống và hơi thở cho con người. Ngài sẽ trả lại
sự sống cho ai trung thành làm chứng cho Ngài. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô
diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người qua biến cố Nhập Thể của Đức
Kitô, Người Con của Ngài; để gánh tội cho nhân loại. Một khi đã cảm nhận được
tình yêu Thiên Chúa, không một ai hay một quyền lực nào có thể ngăn cản con
người đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Đức Kitô mặc khải cho con
người nghệ thuật sống theo thánh ý Thiên Chúa. Đây là cách sống duy nhất mang
lại sự sống đầy tràn cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống.
1.1/ Ai ban cho con người hơi thở và sự sống? Vua Antiochus nghĩ mình có quyền trên sự sống của bảy anh em nhà
Maccabees; nên bắt bảy anh em cùng với bà mẹ thay đổi tôn giáo bằng cách cho
lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Moses cấm.
Sách Khôn Ngoan còn nói rõ hơn: những kẻ ngông cuồng muốn tra tấn như thế để
thử xem Thiên Chúa có đến cứu những ai tin cậy Ngài hay không!
Là con người, ai cũng ham sống và sợ chết; tại sao bà mẹ vẫn bình tĩnh
khi chứng kiến bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày? Có phải
người mẹ và bảy anh em nhà Maccabees khinh thường sự sống? Trình thuật hôm nay
nói rõ lý do: Bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi
nhớ. Bà vẫn can đảm chịu đựng được là nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa.
Là người cưu mang tất cả các con, mà Bà lại nói với các con: "Mẹ
không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các
con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi
người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và
đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả
lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của
Người hơn bản thân mình."
Theo niềm tin Kitô giáo, Thiên Chúa ban sự sống cho con người bằng các
ban hơi thở và thần khí, Ngài có quyền chấm dứt sự sống của con người bằng cách
rút hơi thở ra. Hơn nữa, Ngài còn có quyền ban lại sự sống đời đời cho con
người, nếu họ trung thành làm chứng cho Ngài.
1.2/ Tình yêu mạnh hơn đau khổ và sự chết: Tình mẫu tử được con người ở mọi nơi và mọi thời ca tụng, vì sự hy sinh
chịu đựng của người mẹ dành cho con mình. Rất nhiều bà mẹ đã hy sinh cuộc sống
cả đời cho tương lai của con cái; và nếu có phải chết vì con, nhiều bà mẹ cũng
sẵn sàng hy sinh để con được sống. Tuy nhiên, tình mẫu tử chỉ là phản ánh của
tình yêu Thiên Chúa, chính Ngài đã phú bẩm tình yêu của Ngài vào các bà mẹ để
họ sẵn sàng hy sinh cho con cái. Vì thế, khi phải chọn giữa Thiên Chúa và con
cái, các bà chọn Thiên Chúa, vì các bà biết Thiên Chúa sẽ trả lại con cái cho
các bà. Chúng ta cảm nhận được niềm tin này qua lời của bà mẹ nói với người con
út: "Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã
nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và
muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và
loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy
tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương
xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ."
2/ Bài đọc II: Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể
hiện nơi Đức Giêsu Kitô.
2.1/ Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người: được diễn tả rất hay và đầy đủ qua ngòi viết của thánh-sử Gioan:
"Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con
của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Jn 3:16). Không
phải chỉ Thiên Chúa Cha yêu thế gian, mà Người Con cũng yêu thế gian qua sự
kiện Ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết đau thương trên Thập Giá: "Không có
tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn
hữu của mình" (Jn 15:13). Tuy con người chưa bao giờ nhìn thấy Thiên Chúa,
nhưng khi nhìn lên Thập Giá, con người cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa. Thánh
Phaolô rút ra hai hệ luận quan trọng từ tình yêu vô biên của Thiên Chúa:
(1) Thiên Chúa không tiếc con người bất cứ điều gì: Thánh Thomas Aquinas nói: yêu ai là muốn mọi sự tốt lành cho người ấy.
Thiên Chúa yêu con người và muốn cho con người mọi sự tốt lành như Phaolô diễn
tả: "Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp
vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng
rộng ban tất cả cho chúng ta?" Ngài còn rất nhiều quà tặng cho con người,
và quà tặng quí giá nhất là cho chúng ta được sống đời đời với Ngài trên Thiên
Đàng.
(2) Tình yêu Thiên Chúa không quan tâm đến việc xét xử: Nhiều người sợ Thiên Chúa và coi Ngài như vị hung thần chỉ chờ con
người phạm tội là ra tay trừng phạt. Phaolô hoàn toàn chống lại quan niệm này:
"Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng
làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết,
hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng
ta?" Thánh Gioan đồng ý với quan niệm này và cắt nghĩa rõ hơn: Con người
xét xử chính mình khi không tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa: "Quả vậy,
Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng
là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người,
thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào
danh của Con Một Thiên Chúa" (Jn 3:17-18).
2.2/ Tình yêu con người dành cho Thiên Chúa: Tình yêu chỉ hoàn hảo khi người được yêu chấp nhận tình yêu của người
cho đi; nếu không, muôn đời nó chỉ là tình đơn phương. Để có thể đáp trả tình
yêu Thiên Chúa, con người phải cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa dành cho họ.
Trong cuộc tử đạo của vị thánh trẻ Anrê Phú Yên, ngài khuyên các tín hữu đang
thương khóc ngài những lời cuối cùng: "Anh chị em: chúng ta phải lấy tình
yêu để đáp trả tình yêu, lấy mạng sống để đáp trả mạng sống!" Nếu Đức Kitô
đã yêu thương và chết cho chúng ta, đến lượt, chúng ta cũng phải yêu thương và
chết để làm chứng tình yêu của chúng ta dành cho Ngài.
Chấp nhận hy sinh và chịu đau khổ là hai dấu chứng chắc chắn để bày tỏ
tình yêu. Thánh Phaolô chắc chắn đã cảm nhận được tình yêu của Đức Kitô dành
cho, nên đã đặt câu hỏi cho mình và cho các tín hữu: "Ai có thể tách chúng
ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách,
hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?"
Chấp nhận đau khổ không nhất thiết là hậu quả của tội lỗi một người gây
ra. Như Đức Kitô, Đấng không bao giờ phạm tội, mà Thiên Chúa muốn Ngài gánh mọi
hình phạt của tội lỗi con người. Noi gương Đức Kitô, các môn đệ của Ngài cũng
phải chịu đau khổ để đền tội cho mình và cho mọi người, như có lời chép:
"Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát
sinh" (LXT 43:23, RSV 44:22). Và thánh Phaolô kết luận: "không có gì
tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta."
3/ Phúc Âm: Ai được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân,
thì nào có lợi gì?
3.1/ Nghệ thuật sống trên đời: Biết sống là một nghệ thuật phải học,
vì không phải ai cũng biết sống. Nhiều người tìm đọc cuốn Nghệ thuật
Đắc Nhân Tâm của Dale Carnegie, vì ông dạy cho con người biết sống.
Tuy nhiên, nếu so sánh sách này với sự dạy dỗ của Đức Kitô dành cho các môn đệ,
những lời chỉ giáo của Đức Kitô vượt xa những khôn ngoan của con người.
(1) Ba điều kiện để làm môn đệ Đức Kitô: Đức
Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình hằng ngày mà theo."
- Từ bỏ chính mình: Đây có lẽ là điều khó làm nhất, vì
nó đòi con người phải từ bỏ ý riêng của mình để sống hoàn toàn theo thánh ý
Chúa trong mọi sự.
- Vác thập giá hằng ngày của mình: Thập giá hằng ngày là tất cả những
bệnh tật, hiểu lầm, trái ý, thử thách do tha nhân và hoàn cảnh gây ra.
- Đi theo Đức Kitô: Con người không chỉ tiêu cực từ bỏ
chính mình và vác thập giá suông; nhưng làm tất cả những điều đó cho một mục
đích cao vời như Đức Kitô: đó là làm sao đem Tin Mừng cứu độ đến cho muôn
người.
(2) Nghịch lý của đời sống: Nghệ thuật sống của Đức Kitô dạy
không phải là một trong những cách để sống; nhưng là cách thức duy nhất cho
những ai muốn sống cách sung mãn và có ý nghĩa, vì Chúa Giêsu tuyên bố rõ ràng:
"Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng
sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy." Chúa có ý muốn nói: Nếu
con người không theo nghệ thuật sống trên, mà chỉ sống theo ý riêng mình, họ sẽ
mất mạng sống họ muốn giữ; nhưng nếu họ sống theo thánh ý Thiên Chúa bằng cách
sống hy sinh như Đức Kitô, họ sẽ cứu được mạng sống họ.
3.2/ Hậu quả phải lãnh nhận của những người không biết sống: Sống làm sao sẽ gặt hái hậu quả tương xứng. Đối với những người chỉ
biết vun quén cho mình để trở nên giàu có, Chúa nhắc nhở họ: "Người nào
được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi
gì?" Điều Chúa muốn nói ở đây là phần rỗi linh hồn và cuộc sống đời sau.
Đối với những người không sống Lời Chúa và không làm chứng cho Ngài khi
có dịp, Chúa cho họ biết hậu quả: "Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi,
thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của
mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền trên sự sống: Ngài có quyền ban
sự sống và có quyền lấy đi. Hơn nữa, Ngài còn có quyền cho lại sự sống đã mất
và sự sống trường sinh.
- Thiên Chúa yêu thương con người với tình yêu không biên giới. Ngài
cũng đòi chúng ta yêu thương Ngài và tha nhân như thế, cho dù có phải hy sinh
đến tính mạng của mình.
- Hy sinh chịu đựng đau khổ vì Chúa là cách thức duy nhất chúng ta có
thể làm để minh chứng tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa.
Lm.Anthont ĐINH MINH TIÊN,OP.
25/10/13 THỨ HAI TUẦN 34 TN
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Lc 21,5-19
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Lc 21,5-19
“LINH HỒN TÔI LÀ CỦA CHÚA”
“Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.” (Lc 21,17)
Suy niệm: “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm
khổ thế nào tùy ý, nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến tôi hy
sinh nó được” (Thánh
Phaolô Lê Bảo Tịnh). Các thánh tử đạo bị tước đoạt mọi của cải, chức tước, lại
còn bị săn đuổi, hành hạ, thậm chí giết chết bằng những loại cực hình ghê sợ.
Đang khi ấy, chỉ cần một cái gật đầu chối đạo, một bước chân qua cây thánh giá
là cái ngài nhận lại những gì đã mất, kể cả điều quý giá nhất là mạng sống
mình. Thế nhưng, các ngài đã chấp nhận đánh mất tất cả, miễn là không mất linh
hồn. Qua đó, các ngài cho thấy niềm tin mạnh mẽ vào Chúa Kitô, niềm cậy trông
vào sự sống vĩnh cửu qua việc phục sinh với Ngài, và tình mến nồng nàn, không
gì chia lìa các ngài với Đấng mình yêu mến.
Mời Bạn: Trước khi chịu chém, thánh Micae Hồ Đình Hy,
quan tam phẩm của triều đình, đã xin hút một điếu thuốc, hương vị cuối cùng của
trần thế, trước khi nếm cảm hương vị của thiên quốc. Tựa như ngài, bạn cũng
trân trọng, yêu thích những gì thân thương của trần thế. Thế nhưng, không có gì
quý giá trong cuộc đời này có thể so sánh và khiến bạn đánh đổi niềm tin, niềm
cậy trông và tình mến mình với Chúa.
Sống Lời Chúa: Tôi xác tín rằng sống đạo thật tốt đẹp hôm nay
cũng là một cách làm chứng cho Chúa như Các Thánh Tử Đạo Việt Nam ngày xưa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, vì công trạng của Các Thánh Tử Đạo, xin ban cho dân tộc
Việt Nam chúng con được an vui và thịnh vượng, cho mọi người đón nhận Tin Mừng
cứu rỗi, và bước theo chân lý... Xin cho chúng con được trung thành với Chúa ở
trần gian. Amen.
Thánh Anrê Dũng Lạc và Các Bạn
T
|
hánh Anrê Dũng Lạc là
một trong 117 vị tử đạo ở Việt Nam trong những năm từ 1820 đến 1862. Các ngài
được phong chân phước làm bốn đợt, từ 1900 đến 1951. Sau cùng, các ngài được
Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh vào năm 1988.
Kitô Giáo được người Bồ
Ðào Nha đưa vào Việt Nam qua ba triều đại. Vào năm 1615, các linh mục dòng Tên
mở khu hội truyền giáo đầu tiên ở Ðà Nẵng. Ở đây các cha coi sóc các người Công
Giáo Nhật Bản bị tống ra khỏi nước.
Vua chúa thời ấy cấm các
nhà truyền giáo ngoại quốc không được du nhập vào Việt Nam và họ dụ dỗ người
Việt chối đạo bằng cách bước qua thập giá. Giống như thời kỳ cấm đạo ở bên Anh,
các linh mục ở Việt Nam cũng phải trốn tránh trong nhà của giáo dân.
Có đến ba lần bắt đạo
cực kỳ khủng khiếp trong thế kỷ 19. Kể từ năm 1820, trong sáu thập niên, có
khoảng 100,000 đến 300,000 người Công Giáo đã bị giết hoặc bi đầy ải. Trong đợt
bách hại đầu tiên các nhà truyền giáo ngoại quốc gồm các linh mục của Tu Hội
Thừa Sai Ba Lê, cũng như các linh mục Ða Minh người Tây Ban Nha và các người
dòng ba.
Vào năm 1847 xảy ra cuộc
bách hại lần thứ hai, khi nhà vua nghi ngờ các vị thừa sai và giáo dân Việt Nam
đồng loã với lực lượng phản loạn để giết các con trai của vua.
Các vị tử đạo sau cùng
là 17 giáo dân, trong đó có một em 9 tuổi, được tử đạo năm 1862. Chính năm đó
một hiệp ước được Việt Nam ký kết với Pháp nhằm đảm bảo sự tự do tôn giáo cho
người dân, nhưng hiệp ước đó không được tôn trọng.
Vào năm 1954, có khoảng
một triệu rưỡi người Công Giáo -- khoảng bảy phần trăm dân số -- sống ở miền
Bắc. Người Phật Giáo chiếm khoảng 60 phần trăm dân số. Vỉ sự tàn ác của chế độ
cộng sản, 670,000 người Công Giáo đã từ bỏ đất đai, nhà cửa và tài sản để di cư
vào miền Nam. Sau cuộc chiến Việt Nam, vào năm 1975 cộng sản đã làm chủ toàn
thể lãnh thổ quốc gia này.
Lời Bàn
Lịch sử tử đạo của dân
tộc Việt giúp cho những ai chỉ biết đến Việt Nam qua cuộc chiến giữa tự do và
cộng sản thấy rằng, ngay tự xa xưa, thập giá đã là một phần của đời sống người
Việt. Trong khi lý do của sự can thiệp hoặc bỏ rơi của Hoa Kỳ vào vấn đề Việt
Nam chưa được giải đáp thỏa đáng, thì chính đức tin Kitô Giáo từng ăn sâu vào
lòng đất Việt đã chứng tỏ sự can trường hơn bất cứ sức lực nào muốn tiêu diệt
đức tin ấy.
Lời Trích
"Giáo Hội Việt
Nam thì sống động và đầy sinh lực, với nhiều giám mục trung tín và hăng hái, và
nhiều giáo dân tận tụy và can đảm& Giáo Hội Việt Nam đang sống phúc âm
trong một hoàn cảnh khó khăn và phức tạp với một sức mạnh đáng kể"
(nhận định của ba vị tổng giám mục Hoa Kỳ sau chuyến thăm viếng Việt Nam vào
tháng Giêng 1989).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét