CHÂN DUNG GIÁO LÝ VIÊN HÔM
NAY
Khi Đức Giêsu sắp về Trời
và ra lệnh truyền cho các Tông Đồ: « Anh em hãy đi và làm cho muôn dân
trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em »
(Mt 28, 18-20)
Người đã muốn Giáo Hội
trở nên người loan báo Tin Mừng cứu độ và thày dạy chân lý cho mọi người, tức
là làm Giáo Lý Viên trong ý nghĩa đầy đủ và cao cả nhất của từ này. Các mục tử
kế tục các Tông Đồ – giáo hoàng, giám mục, linh mục cũng có chung sứ mệnh như
thế. Đây là một công việc lớn lao và mênh mông, là trách nhiệm chủ yếu của các
mục tử, nhưng một mình các ngài thì không thể nào làm xuể được. Do đó, Giáo Hội
mời gọi cả các tu sĩ và giáo dân tham gia cộng tác vào công việc này.
Giảng dạy giáo lý, còn
gọi là huấn giáo, bao gồm toàn bộ các nỗ lực được huy động trong Giáo Hội để
đào tạo môn đệ, giúp con người tin vào Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, hầu nhờ đức
tin họ được sống nhân danh Người, để giáo dục và chỉ dẫn họ trong cuộc sống đời
này, và nhờ thế, xây dưng Thân mình Đức Kitô
Huấn giáo mật thiết với
toàn bộ đời sống của Giáo Hội. Chính nhờ Huấn giáo, Giáo Hội không những phát
triển về địa dư và về số lượng mà nhất là sự tăng trưởng bên trong và đáp ứng ý
định cứu độ của Thiên Chúa
Đề tài ban tổ chức giao
cho chúng tôi trình bày là « Chân dung người giáo lý viên hôm nay ».
Vậy chúng tôi xin trình
bày đề tài theo bố cục tổng quát như sau:
§ I. Tình hình giáo lý viên hiện nay.
§ II. Giáo Hội cần có những giáo lý viên như thế
nào ?
§ III. Phải làm gì để có được những giáo viên như
Giáo Hội mong ước ?
I. TÌNH HÌNH GIÁO LÝ VIÊN
HIỆN NAY
Tu sĩ hay giáo dân tham
gia tác vụ giảng dạy giáo lý thì cũng đều có thể được kể là giáo lý viên. Nhưng
trong thực tế, thói quen vẫn hay dùng từ này để chỉ giáo lý viên giáo dân nhiều
hơn, còn giáo lý viên tu sĩ thường vẫn được chỉ danh là tu sĩ thôi. Thói quen
này cũng sẽ thường được áp dụng trong bài thuyết trình này.
Thiếu giáo lý viên được
huấn luyện đúng mức
Trong khi lực lượng tu sĩ
tham gia giảng dạy giáo lý – mà đa số là nữ tu – thường được huấn luyện về giáo
lý cũng như sư phạm, thì không phải mọi giáo lý viên đều được huấn luyện đầy đủ
để thi hành công tác này.
Điều đáng suy nghĩ là
hình như chưa có giáo phận nào ở Việt Nam có được một trường hay trung tâm huấn
luyện giáo lý viên chính danh. Bù đắp lại có chăng là đây đó có được những khóa
huấn luyện mà nội dung chương trình, thời hạn đào tạo cũng rất đa dạng tùy nơi,
tùy thời và tùy hòan cảnh. Có giáo phận, như Giáo phận Kontum, thời gian huấn
luyện tập trung khá dài, hình như lên tới cả vài năm. Các nơi khác thường chỉ
từ vài tuần đến vài tháng với số giờ học cả khóa thường khoảng mấy chục giờ, có
thể được huấn luyện tập trung nhiều buổi trong một thời gian ngắn hoặc một buổi
mỗi tuần trong một thời gian dài. Có khi những khóa huấn luyện là do Giáo phận
tổ chức, điều này ít khi xảy ra ở một số nơi trong thời gian trước đây. Riêng ở
Tổng giáo phận Thành phố HCM, từ khoảng năm năm trở lại đây, Tòa TGM đã liên
tiếp tổ chức các khóa huấn luyện giáo lý viên dành cho các
giáo xứ trong Tổng giáo phận, mà ứng viên được chọn trong những người
trẻ tình nguyện từ các giáo xứ; chương trình huấn luyện gồm có
ba cấp cơ bản và những khóa chuyên sâu nhằm thỏa mãn nhu cầu dạy giáo
lý cho nhiều lọai đối tượng khác nhau. Mỗi khóa có cả ngàn người được huấn
luyện. Các Giáo phận khác cũng càng ngày càng có những nỗ lực tương tự. Khi
chưa tổ chức được một cách quy mô cho cả Giáo phận, thì cũng có những khóa do
từng hạt hay từng liên xứ tổ chức, nhưng không phải nơi nào cũng có điều kiện
tổ chức. Tại một số giáo xứ, đặc biệt tại các giáo xứ lớn có đông giáo dân, cha
xứ có thể tự huấn luyện giáo lý viên cho nhu cầu mục vụ của giáo xứ mình. Nhưng
cũng có nhiều giáo xứ không làm được điều này. Có nhiều khi cha xứ chỉ việc
chọn lựa dăm ba giáo dân có uy tín trong giáo xứ, không có một sự chuẩn bị đặc
biệt nào khác, để phụ giúp ngài trong việc này khi có nhu cầu. Giáo xứ nào may
mắn có được những giáo lý viên vốn là cựu chủng sinh hay cựu tu sĩ có
đầy đủ khả năng cho công việc và vẫn còn nhiệt tình tham gia giảng dạy thì
trách vụ của mục tử nơi đó được nhẹ bớt rất nhiều. Ngoài ra, cũng có những giáo
dân tuy không qua những khóa đào tạo chính quy nào, nhưng đã theo đuổi hoặc
những lớp thần học cơ bản, những lớp Kinh Thánh,v.v…, hay tự trau dồi bằng
những sách giáo lý và tài liệu của Giáo Hội, sẵn sàng chia sẻ công việc này với
cha xứ khi có yêu cầu.
Cũng còn phải nói đến
nhiều trường hợp của những anh chị em giáo dân, tuy không được huấn luyện
chuyên môn bao giờ, nhiều khi cũng không có trình độ văn hóa bao nhiêu, nhưng
do lòng yêu mến Chúa, nhất là do muốn đáp lại lời Chúa mời gọi rộng rãi hết mọi
Kitô hữu vào làm vườn nho nhà Chúa, nên đứng trước nhu cầu cấp bách của việc
loan báo hay tái loan báo Tin Mừng, cũng sốt sắng tham gia công việc tốt lành
này. Có những người sẵn sàng đến chỗ nào thuận tiện đối với thụ viên, kể cả đến
tận nhà dự tòng hay những Kitô hữu lớn bé có nhu cầu, phục vụ luôn cả một nhóm
hay từng cá nhân, tùy theo hoàn cảnh, nhất là ở những nơi thiếu vắng linh mục
và tu sĩ. Những « giáo lý viên » tự nguyện đầy thiện chí này thường không biết
cách trình bày giáo lý cho có hệ thống, nhất là khi căn bản giáo lý lãnh hội từ
xa xưa chưa được củng cố đúng mức, sự truyền đạt nhiều khi có nhiều thiếu sót,
không được kết quả như mong muốn, nhưng chỉ biết một lòng nhiệt thành làm hết
sức mình, vì lợi ích các linh hồn. Đã có những vùng hẻo lánh xa xôi, chỉ có một
số gia đình công giáo vốn là di dân tự do, hay đã bị lôi cuốn trong những
chương trình giãn dân lập ấp, sống rải rác giữa lương dân, không nhà thờ, không
có linh mục hay tu sĩ nào đặt chân đến, nhưng họ vẫn tiếp tục giữ đạo được, nhờ
có những « giáo lý viên » tự phong này. Có những vùng vì hoàn cảnh éo le lại
trở nên những địa điểm nhạy cảm về chính trị, sự lui tới của linh mục, tu sĩ
hay giáo lý viên từ bên ngoài vào hết sức bị hạn chế nếu không phải là bất khả,
thì vai trò của giáo lý viên tại chỗ là hết sức quý báu và cần thiết.
Sau cùng, nhưng không
phải là kém cỏi nhất, đó là một lọai giáo lý viên rất độc đáo của Giáo Hội ở
trên các cao nguyên, là sáng kiến có từ lâu đời của các thừa sai và vẫn còn giữ
nguyên tính cách hợp thời của mình, đó chính là các giáo lý viên người dân tộc
thiểu số được gọi là giáo phu. Có thể nói đây chính là ân huệ đặc
biệt quý giá của Chúa Thánh Thần, và cũng là niềm tự hào của Giáo Hội Việt Nam.
Đó là những giáo dân được chọn lựa từ các buôn làng, được huấn luyện khá cẩn
thận trong một thời gian đáng kể, để trở về phục vụ ở buôn làng của mình, vừa
như một giáo lý viên, vừa như cánh tay nối dài của mục tử để hướng dẫn mục vụ
cho cộng đoàn. Trong tình hình khó khăn hiện tại của một số nơi, sự lui tới của
mục tử trở nên khó khăn, vai trò của chú giáo phu càng chứng tỏ là hết sức quan
trọng.
Nhưng dù mới đây đã có
nhiều nỗ lực đáng mừng về việc huấn luyện giáo lý viên, thì số lượng giáo lý
viên có khả năng vẫn còn khá mỏng so với nhu cầu của Giáo Hội chúng ta, vốn còn
là một giáo hội truyền giáo. Vì tuy chúng ta là một giáo hội đã có một lịch sử
gần nửa thiên niên kỷ, nhưng tỷ lệ giáo dân trên dân số còn hết sức khiêm tốn:
5,5 triệu tín hữu trên dân số 80 triệu người, tức là mới có 6,6%! Việc loan báo
Tin Mừng cũng như giảng dạy giáo lý ở nhiều nơi vẫn còn dựa vào linh mục và tu
sĩ là chính, thiếu sự tham gia đúng mức của giáo dân. Trong số 2308 giáo xứ của
25 Giáo phận có tới 987 giáo xứ không có linh mục. Có nhiều cha xứ phải coi sóc
rất nhiều giáo họ nhỏ, thậm chí có khi con số giáo họ phải đảm trách lên tới
hàng chục. Nhiều nơi, nỗ lực truyền bá Tin Mừng cho lương dân chưa được quan
tâm đúng mức, nếu không muốn nói là còn quá chểnh mảng, ngay ở những nơi thị
tứ, chứ đừng nói gì những nơi thôn quê, những vùng sơn cước xa xôi, vì không có
đủ nhân sự thích hợp. Trước nhu cầu của mùa gặt bao la, giáo dân quen được nghe
nhắc đến một giải pháp có vẻ là duy nhất: cầu xin cho có được nhiều thợ gặt
lành nghề – được hiểu một cách hết sức đơn sơ và phổ biến là cầu xin cho có
thật nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ, chưa mấy khi nghe nói đến việc cầu
nguyện cho có thêm nhiều giáo lý viên truyền giáo.
Trên thực tế, ở đâu họat
động của tu sĩ có được điều kiện dễ dàng, thì việc giảng dạy giáo lý không có
gì khó khăn, khi đó giáo lý viên có thể chiếm thiểu số hay thậm chí không có.
Trong những điều kiện ngược lại thì họat động của giáo lý viên có tính cách
quyết định.
Bên cạnh số giáo lý viên
toàn thời gian càng ngày càng hiếm đi, số giáo lý viên bán thời – vẫn còn đi
học hay phải hành nghề mưu sinh và chỉ tham gia công tác dạy giáo lý một cách
có giới hạn – may thay ngày càng gia tăng ở nhiều nơi, nhất là ở những nơi họat
động này của giáo dân không bị hạn chế và được các vị mục tử tạo điều kiện
thuận lợi và tin tưởng giao phó. Ấy là chưa nói đến những trường hợp không hiếm
những giáo lý viên kiên trì làm công việc này dù phải hy sinh những quyền lợi
chính đáng của mình như: cơ hội thăng tiến trong học tập, nghề nghiệp hay chức
vụ, hoặc những cơ hội làm giàu, thậm chí có khi cả cơ hội hôn nhân, ấy là chưa
kể đến những chuyện bất công khác có thể xảy ra cho họ ở nơi này nơi khác…
Vì nhiều nơi, nhiều lúc,
thiếu sự huấn luyện đúng mức, nên không ít giáo lý viên chưa làm đúng chức năng
của mình, mới chỉ làm công việc truyền thụ kiến thức về đạo Chúa, chuẩn bị một
cách máy móc cho thụ nhân chịu các bí tích, hơn là giáo dục đức tin. Việc dạy
giáo lý nhiều khi chỉ quen với lối truyền thụ cổ điển, không có chỗ cho phản
hồi, trao đổi, đối thọai, không dành thời gian cho học viên nêu câu hỏi hay đưa
ra những thắc mắc, vì thế lớp học thiếu sinh động, học viên thiếu tích cực, nếu
không muốn nói là hoàn toàn thụ động, không chịu động não, không có sự thấu
hiểu, đón nhận cần thiết. Việc dạy giáo lý thường chỉ thu vào thời gian trong
lớp học, không chú ý đến việc thực hành, tức là tập thể hiện trong đời
sống những điều đã được truyền đạt. Có khi giáo lý viên lại dạy rất tùy
hứng, thiếu chuẩn bị, nhiều khi lại còn thiếu quan tâm đến sự khác biệt về tuổi
tác, trình độ, não trạng, hoàn cảnh của các đối tượng, việc giảng dạy thiếu
chiều sâu, nên không đạt được kết quả mong muốn, không giữ được kết quả lâu
dài. Bởi tuy Tin Mừng đã được loan báo, nhưng chưa thực sự cảm nhận, người học
chưa có xác tín, nên chưa thực sự biến đổi.
Nhưng Giáo Hội hiện thời
của chúng ta- Giáo Hội hậu Công đồng Vatican II ở vào đầu thiên niên kỷ thứ ba
này nghĩ thế nào về vị trí và vai trò của giáo lý viên hôm nay? Ngày nay Giáo
Hội coi việc dạy giáo lý như thế nào? Ta hãy khám phá chân dung của giáo lý
viên hôm nay qua câu hỏi:
II. GIÁO HỘI CẦN CÓ NHỮNG
GIÁO LÝ VIÊN NHƯ THẾ NÀO ?
Giáo lý viên mà Giáo Hội
cần có đương nhiên phải là những giáo lý viên đáp ứng mạnh mẽ nhất lệnh truyền
tối hậu của Đức Giêsu: nhanh chóng chinh phục cho Chúa đông đảo các môn
đệ ở khắp nơi.
Trong tài liệu mang tên
« Hướng dẫn dành cho giáo lý viên » công bố năm 1993,
Bộ Truyền giáo dựa vào tình hình thực tế trên toàn thế giới để mô tả nhu cầu
giáo lý viên như sau:
a) Các giáo lý
viên chuyên trách về huấn giáođảm trách các họat động sau đây :
§ * giáo dục đức tin cho ấu nhi, thanh thiếu niên
và người trưởng thành;
§ * chuẩn bị cho các em lãnh nhận các bí tích khai
tâm;
§ * chuẩn bị cho các đôi bạn trẻ lãnh nhận và sống
bí tích hôn phối;
§ * tham gia vào việc nâng đỡ các giáo lý viên như
tĩnh tâm, gặp gỡ để trao đổi kinh nghiệm…
§
b) Các giáo lý
viên họat động tông đồđảm
trách các họat động sau đây:
§ loan báo Tin Mừng cho người ngoài Kitô giáo;
§ dạy giáo lý cho dự tòng;
§ hướng dẫn cộng đoàn chia sẻ Lời Chúa và cầu
nguyện, đặc biệt trong phụng vụ ngày Chúa Nhật khi không có
linh mục;
§ linh họat trong các cộng đoàn cơ bản;
§ giúp đỡ bệnh nhân, cử hành nghi thức tẩm liệm, an
táng;
§ huấn luyện giáo lý viên trong các cơ sở đào tạo;
§ đồng hành với các giáo lý viên tự nguyện;
§ hướng dẫn những sáng kiến mục vụ của cộng đoàn;
§ thăng tiến con người và công lý;
§ giúp đỡ những người nghèo khổ;
§ tổ chức các sinh họat cộng đoàn, v.v…
Những giáo lý viên này
chiếm ưu thế trong các giáo xứ có địa hạt quá rộng, có nhiều cộng đoàn tín hữu
xa trung tâm, hoặc khi các cha xứ, do thiếu linh mục phụ tá, tự chọn người trợ
lực cộng tác toàn thời gian.
« Các nhiệm
vụ và chức vụ đa dạng và phong phú trên cho thấy Chúa Thánh Thần tích cực họat
động trong những giáo hội trẻ. Thánh Bộ yêu cầu các vị Mục Tử quan tâm đến các
nhiệm vụ và chức vụ trên, và củng cố những chức vụ đáp ứng tốt nhất cho nhu cầu
hiện nay, với cái nhìn đặc biệt hướng về tương lai.
« Có một
khía cạnh khác thiết tưởng không nên coi thường, là các giáo lý viên thuộc
nhiều hạng người khác nhau, nên họat động của họ có thể kiến hiệu tùy theo môi
trường và văn hóa mà họ sống. Chẳng hạn, người nam đã lập gia đình thường có
nhiều khả năng hơn để chu toàn nhiệm vụ linh họat cộng đoàn, người nữ thường
thích hợp hơn với việc giáo dục trẻ em và thăng tiến môi trường phụ nữ theo
tinh thần kitô giáo; người lớn đã lập gia đình thì chín chắn và ổn định hơn, nên
có khả năng làm chứng tốt hơn nhờ sự hỗ trợ của giá trị hôn nhân kitô giáo;
người trẻ thích hợp hơn để tiếp xúc với các thiếu niên và để phát huy sáng kiến
vốn đòi hỏi nhiều thời giờ rảnh rỗi hơn.
« Ngoài giáo lý viên giáo
dân, còn có một số đông tu sĩ dấn thân vào việc huấn giáo. Vì được thánh hiến,
tu sĩ đặc biệt phải làm chứng trong lãnh vực truyền giáo, sẵn sàng và chuẩn bị
chuyên môn để lãnh nhận trách vụ huấn giáo. »
Để biết Giáo Hội cần có
những giáo lý viên như thế nào, tưởng cũng cần tìm hiểu xem Giáo Hội coi vai
trò của giáo lý viên ra sao.
1.- Giáo Hội hết sức coi
trọng vai trò giáo lý viên
Trước hết, Ta hãy lắng
nghe tiếng nói đầy thẩm quyền về vấn đề này : Đức Hồng Y Jozep Tomko, Tổng
trưởng Bộ Truyền giáo :
« Trong giai đọan
lịch sử hết sức nhạy bén và thuận lợi này, vì nhiều lý do, do ảnh hưởng của sứ
điệp kitô giáo, Bộ Truyền giáo đặc biệt quan tâm đến một số người giữ
vai trò quyết định trong họat động truyền giáo :Quả vậy, sau khi duyệt xét
việc huấn luyện trong các đại chủng viện (1986), nhận định đời sống và sứ vụ
các linh mục (1989), Bộ quan tâm đến các giáo dân là giáo lý viên, trong Hội
nghị khoáng đại tháng 4 năm 1992.
« Các
giáo lý viên luôn đóng góp phần quan trọng trong công cuộc truyền bá Tin Mừng
của Hội Thánh tại thế. Ngày nay họ vẫn được xem là những người truyền bá Tin
Mừng không thể thay thế được, như Thông điệp Redemptoris Missio đã quả quyết.
Chính Đức Thánh Cha đã
xác định vai trò đặc biệt của giáo lý viên như sau : Trong các cuộc thăm viếng
mục vụ, tôi nhận thấy các giáo lý viên, nhất là trong các xứ truyền giáo, góp
phần đặc biệt và hết sức cần thiết cho việc loan truyền đức tin và mở mang Hội
Thánh ».
Cũng trong Thông Điệp
Redemptoris Missio, Đức Gioan-Phaolô II đã mô tả lực lượng giáo lý viên hôm nay
như « những chuyên viên, những chứng nhân trực tiếp, những người loan
báo Tin Mừng không thể thiếu, những người tiêu biểu cho sức mạnh cơ bản của các
cộng đoàn tín hữu, đặc biệt trong các giáo hội trẻ ».
2.- Giáo Hội coi ơn gọi
làm giáo lý viên là một đặc sủng
« Ơn gọi giáo lý
viên không những bắt nguồn từ bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, mà còn do lời mời
gọi đặc biệt của Chúa Thánh Thần, hay một ‘đặc sủng được Giáo Hội nhìn nhận’ và
được giám mục minh nhiên ủy nhiệm… Trong thực tế truyền giáo, ơn gọi giáo lý viên
vừa có tính ‘ chuyên biệt’ vì dành riêng cho Huấn giáo, vừa có tính ‘tổng quát’
vì tham gia vào các tác vụ tông đồ để gieo trồng và phát triển Giáo Hội.
«Ơn gọi
giáo lý viên trong các miền truyền giáo được xác định bởi bốn yếu tố chung và
riêng:
· lời
mời gọi của Chúa Thánh Thần;
· sứ
mạng của Giáo Hội;
· tham
gia vào tác vụ tông đồ của giám mục;
· mối liên hệ đặc biệt
với họat động truyền giáo của Giáo Hội, họat động đến với muôn dân.
Bởi vậy « giáo lý
viên không phải đơn thuần chỉ là người giúp đỡ vị linh mục, nhưng thực sự
là chứng nhân của Đức Kitô trong cộng đoàn của mình»
« Giáo lý viên, theo định
nghĩa của Bộ Truyền giáo, là một giáo dân được Giáo Hội đặc cử, tùy theo những
nhu cầu tại chỗ, để làm cho Đức Kitô được nhận biết, yêu mến và noi theo, nơi
những người chưa biết Chúa cũng như nơi các tín hữu ».
Giáo luật, khoản 785
triệt 1 mô tả các giáo lý viên dấn thân truyền giáo như « những giáo
dân được huấn luyện đầy đủ và nổi bật về đời sống kitô giáo; dưới sự hướng
dẫn của vị thừa sai, họ sẽ chuyên lo trình bầy giáo lý Tin Mừng, điều hành các
công việc phụng vụ và họat động bác ái».
3.- Giáo Hội cần có những
giáo lý viên là những nhà giáo dục đức tin
Việc truyền thụ kiến thức
tôn giáo là cần thiết, tuy nhiên Giáo Hội không muốn giáo lý viên chỉ là người
đứng lớp để truyền thụ kiến thức tôn giáo mà thôi, nhưng tiên vàn phải là người
‘khai tâm vào mạc khải về Thiên Chúa’, tức là người ‘chuyển giao đức tin’ hay ‘
nhà giáo dục đức tin’, như chính Đức Gioan -Phaolô II đã long trọng xác nhận
trong Tông Huấn Catechesi Tradendae :
« Việc dạy giáo
lý chân chính bao giờ cũng là khai tâm có trật tự và hệ thống vào mạc
khải về Thiên Chúa mà Người đã ban cho nhân lọai, trong Đức Giêsu-Kitô…
« Vì thế, ta có thể áp
dụng cho các giáo lý viên điều mà Công đồng Vatican II đã nói về các linh mục:
họ là nhà giáo dục - về con người và đời sống con người - trong
đức tin.» ( x. CT 22, 3-4).
Công việc khai tâm này
không chú trọng vào cái « có » – tức là công đọan chuyển giao kiến thức – cho
bằng cái « là » – tức là làm sao cho có sự biến đổi nơi tâm hồn con
người. Quá trình mà thánh Phaolô gọi là «chết đối với tội lỗi để sống cho
Thiên Chúa» (Rm 6, 11). Quá trình này đòi hỏi phải có sự lắng đọng tâm hồn, tự
vấn lương tâm, suy nghĩ chín chắn để có quyết tâm, có xác tín, nhất là có sự
hoán cải, mà nhiều khi diễn ra cách tiệm tiến, nghĩa là đòi hỏi có một thời
gian tối thiểu.
Dạy giáo lý là «dẫn
đưa người ta đến chỗ dò thấu Mầu nhiệm Đức Kitô trong mọi chiều kích,… là tỏ
bày trong Ngôi vị Đức Kitô tất cả ý định vĩnh cửu của Thiên Chúa đang hoàn tất,
là giúp người học tìm hiểu ý nghĩa của cử chỉ và lời nói của Đức Kitô…, là làm
cho người ta không những tiếp xúc nhưng còn thông hiệp thân mậtvới
Đức Kitô : vì chỉ một mình Người có thể đưa ta đến tình yêu của Chúa Cha trong
Thần Khí và làm cho ta tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh»
(x. CT 5).
Vì Giáo Hội luôn luôn là
Mẹ và là Thầy, nên Giáo hội cũng cần có những giáo lý viên biết ý thức tác vụ
của mình hôm nay không chỉ dừng ở việc loan báo Tin Mừng và chuẩn bị cho người
ta lãnh nhận các bí tích mà thôi, nhưng còn phải làm cho các thụ viên trưởng
thành trong đức tin, phải chia sẻ cả việc hướng dẫn mục vụ cho cộng
đoàn, nhất là hướng dẫn cầu nguyện và thi hành đức ái :
« Bộ Truyền giáo
chân nhận rằng giáo lý viên giáo dân rõ ràng là một vấn đề có tính cách thời
sự. Dưới sự hướng dẫn của các linh mục, giáo lý viên tiếp tục loan báo Tin Mừng
một cách chân thành cho những anh em thuộc các tôn giáo khác, chuẩn bị cho họ
lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy để gia nhập cộng đoàn Hội Thánh. Qua việc dạy giáo
lý, chuẩn bị cho họ lãnh nhận các bí tích, hướng dẫn cầu nguyện và thực thi bác
ái, giáo lý viên giúp các tín hữu lớn lên trong đời sống kitô hữu nhiệt thành.
Nơi đâu thiếu linh mục, giáo lý viên đảm nhận luôn việc hướng dẫn cộng đoàn nhỏ
ở xa trung tâm. Thông thường, họ được mời gọi chứng tỏ lòng trung thành qua
việc hứng chịu mọi gian nan thử thách và mọi sự thiếu thốn. Lịch sử
truyền bá Tin Mừng trước và gần đây xác nhận lòng trung kiên đến độ hiến cả mạng
sống của họ. Quả thực, họ là niềm tự hào của Giáo Hội truyền giáo»
4.- Giáo Hội cần những
giáo lý viên sống theo linh đạo riêng phát xuất từ ơn gọi của mình.
Công việc giáo dục đức
tin tự bản chất chính là công việc của Chúa Thánh Thần, cho nên linh đạo của
giáo lý viên không có gì khác hơn là sống trong Chúa Thánh Thần,
Đấng không ngừng giúp họ canh tân căn tính đặc thù của mình. Trong linh đạo
giáo lý viên, lời mời gọi nên thánh có thêm cơ sở mới và đặc biệt. Đức
Gioan-Phaolô II nói : « Nhà truyền giáo đích thực, chính là một vị
thánh ». Và câu này có thể áp dụng ngay cho giáo lý viên. Như mỗi Kitô hữu
khác, giáo lý viên được mời gọi « nên thánh và truyền giáo ».
« Linh đạo này
liên kết chặt chẽ với thân phận « Kitô hữu » và « giáo dân » vốn cho họ dự phần
theo cách riêng của họ, vào chức vụ ngôn sứ, tư tế và vương đế của Đức Kitô.
Thân phận riêng của giáo dân là tình trạng « tại thế » với « nghĩa vụ riêng là
làm thấm nhập và kiện toàn trật tự trần thế với tinh thần Tin Mừng, và làm
chứng cho Đức Kitô đặc biệt khi điều hành các sự việc thế trần cũng như lúc thi
hành các nhiệm vụ của mình »
« Khi giáo lý
viên lập gia đình, đời sống hôn nhân là thành phần của linh đạo. Đúng như Đức
Thánh Cha quả quyết: « Giáo lý viên đã lập gia đình phải làm chứng một cách
xứng hợp cho giá trị kitô giáo của hôn nhân, bằng cách sống bí tích qua việc
trung tín trọn vẹn, sinh sản và giáo dục con cái với tinh thần trách nhiệm ».
Linh đạo nối kết với hôn nhân có thể gây ảnh hưởng thuận lợi đặc biệt trên
chính họat động của giáo lý viên.Giáo lý viên sẽ đưa cả vợ con hội nhập vào
việc phục vụ của mình, đến độ cả gia đình thực sự là một đơn vị truyền
giáo.
« Linh đạo giáo lý viên
có liên hệ với ơn gọi tông đồ của họ: do đó biểu hiện qua các dự kiện sau:
§ Đón nhận Lời Chúa: Chức năng của giáo lý viên nối
kết chặt chẽ với việc thông truyền Lời Chúa, vì thế khả năng tinh thần đầu tiên
của giáo lý viên là đón nhận Lời Chúa, là gặp gỡ Đức Kitô ẩn giấu trong Lời
Chúa, trong Bí tích Thánh Thể, và trong anh chị em.
§ Đón nhận Chúa Ba Ngôi: linh đạo giáo lý viên bén
rễ trong Lời Hằng Sống theo chiều kích Ba Ngôi, tức là tham dự vào tình yêu của
Chúa Cha, hiệp thông với Đức Kitô, và để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và biến đổi
thành chứng nhân can đảm cho Đức Kitô.
§ Đón nhận Hội Thánh: giáo lý viên ý thức mình là
thành phần sống động của Hội Thánh, có trách nhiệm đối với Hội Thánh – là Dân
Chúa và Nhiệm Thể của Đức Kitô, và cần phải sống mầu nhiệm và ân sủng đa dạng
của Hội Thánh, để được phong phú hóa và trở nên dấu chỉ sống động trong cộng
đoàn anh chị em.
§ Yêu mến Hội Thánh theo gương Đức Kitô, Đấng
« đã yêu mến Hội Thánh và phó mình cho Hội Thánh » (Ep 5, 25), tình yêu này
thúc đẩy giáo lý viên tham gia vào sứ mạng cứu độ, sẵn sàng hiến đời mình cho
Hội Thánh.
§ Yêu mến thế giới: nơi Thiên Chúa đã và đang thực
hiện chương trình cứu chuộc, nơi Ngôi Lời đã làm người và ban ơn cứu độ, nơi
Thánh Thần được ban tặng để ban ơn thánh hóa cho con người.
§ Sống tri hành hợp nhất: trước khi loan báo Lời
Chúa, linh đạo giáo lý viên đòi hỏi họ phải hiểu, cảm nghiệm và sống Lời Chúa,
và làm chứng nội dung đức tin của mình. Đời sống đích thực của giáo lý viên
được diễn tả qua việc cầu nguyện và cảm nghiệm về Chúa, và sẵn sàng để cho Chúa
Thánh Thần hướng dẫn.
§ Sống thân thiết với Đức Mẹ và học đòi tinh
thần của Ngài
III. PHẢI LÀM GÌ ĐỂ CÓ
ĐƯỢC NHỮNG GIÁO LÝ VIÊN NHƯ GIÁO HỘI MONG ƯỚC?
Phần này chúng tôi ít
trình bày ý riêng mà chủ yếu chỉ xin trưng dẫn hay tóm lược những gì Giáo Hội
dạy mới đây, đặc biệt trong tài liệu đã dẫn của Bộ Truyền giáo.
Cũng xin nói thêm: trong
thời gian chuẩn bị sọan thảo bài thuyết trình này, người viết có tiếp xúc trao
đổi với ít nhiều vị đã từng giảng dạy giáo lý lâu năm hoặc những vị quan tâm
đến vấn đề hệ trọng này, chúng tôi cũng ghi nhận được rất nhiều ý kiến đóng góp
đầy thiện chí. Tuy nhiên chúng tôi thấy tựu chung những đề nghị đó cũng không
có gì mới lạ hơn những điều rất súc tích đã được Bộ Truyền giáo trình bày liên
quan đến các công việc: tuyển chọn, huấn luyện và chăm sóc giáo lý viên.
1/ Cần phải có sự tuyển
chọn nghiêm túc, đó là điều kiện tiên
quyết để có được những giáo lý viên xứng hợp. Để bảo đảm tính khách quan cho
việc tuyển chọn ứng sinh giáo lý viên, các giáo đoàn cần lập một bảng các tiêu
chuẩn đầy đủ, chính xác, thực tế, có thể kiểm chứng được, để những vị hữu trách
có cơ sở quy chiếu. Việc quy định tiêu chuẩn này cần quan tâm đến các chỉ thị
chungcủa Tòa Thánh, đồng thời vẫn tôn trọng những khác biệt cần thiết của mỗi
địa phương. Các tiêu chuẩn phải liên quan đến :
§ đức tin được biểu lộ qua lòng đạo đức và lối sống
hàng ngày;
§ lòng yêu mến Giáo Hội và sự hiệp thông với các
mục tử;
§ tinh thần tông đồ và truyền giáo;
§ lòng bác ái và tinh thần phục vụ;
§ trình độ văn hóa tối thiểu;
§ thanh danh trong cộng đoàn;
§ những đức tính nhân bản cũng như luân lý, những
khả năng cần thiết cho một giáo lý viên như: năng động, khả năng giao tế v.v…
Việc duyệt xét, tuyền
chọn và giao trách nhiệm là do đích thân Đức Giám mục, hoặc qua trung gian một
vị được ngài ủy nhiệm.
2/ Cần có sự huấn luyện
thích đáng: đó là điều Huấn Quyền
luôn đòi buộc, vì “nếu không được đảm nhận bởi những người có đào tạo, mọi họat
động tông đồ chắc chắn sẽ thất bại”. Để được như vậy, sự huấn luyện phải có
tính “toàn diện”, nghĩa là bao gồm mọi chiều kích của nhân cách giáo lý viên,
và “chuyên biệt”, nghĩa là phù hợp với các đặc tính của công việc mà mỗi giáo
lý viên tùy trường hợp được giao phó. Đức Gioan-Phaolô II minh định : “Ưu
tiên cho chất lượng, nghĩa là ưu tiên cho việc huấn luyện căn bản
thích hợp và việc cập nhật hóa luôn luôn. Để bảo đảm cho sứ vụ của Giáo Hội có
nhân sự xứng hợp, cốt thiết phải có chương trình đầy đủ và cơ chế thích hợp để
đảm nhận việc huấn luyện giáo lý viên về các mặt: từ huấn
luyện nhân bản đến huấn luyện thiêng liêng, tín lý, tông đồ và chuyên môn”
Sự huấn luyện này là bắt
buộc đối với các ứng sinh và là trách nhiệm của Đấng Bản quyền và phải nhắm đạt
được những mục tiêu sau đây :
a) làm cho ứng sinh có
được một đời sống thống nhất, chân thực, và hài hòa.
Cần giúp họ biết dõi theo
một chương trình sống có trật tự; đời sống thiêng liêng, đời sống
trần thế và đời sống tông đồ phải hòa quyện vào nhau, chứ không phải là song
hành với nhau, tức là toàn diện cuộc sống phải “gắn bó mật thiết với Chúa
Kitô và Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần”.
b) làm cho các ứng sinh
được trưởng thành về mặt nhân bản và thích hợp cho một trách vụ giữa cộng đoàn
Cụ thể là làm sao giúp họ
có được sự quân bình tâm sinh lý, sức khỏe tốt, tinh thần trách nhiệm,
tính trung thực, tính năng động, đạo đức trong sinh họat gia đình và nghề
nghiệp, tinh thần hy sinh, sự mạnh bạo, tính kiên trì, khả năng thích hợp cho
công tác như : khả năng tiếp xúc, đối thọai với các tôn giáo khác hay với một
nền văn hóa đặc thù, khả năng truyền đạt, cộng tác và hướng dẫn, khả năng phán
đoán chính xác, biết an ủi và khơi dậy niềm hy vọng, khả năng xây dựng hòa
bình, khả năng thăng tiến, phát triển và linh họat văn hóa & xã hội, nhạy
bén trước vấn đề công lý, y tế v.v…Tóm lại có những phẩm tính tạo nên một nhân
cách trưởng thành và trọn vẹn, lý tưởng cho một giáo lý viên.
c) làm cho các ứng sinh
có một đời sống thiêng liêng sâu sắc.
Đây là khía cạnh cao nhất
và quý giá nhất của nhân cách, cũng là chiều kích ưu tiên của việc huấn luyện.
Trọng tâm của chương trình huấn luyện là tập cho các ứng sinh biết sống hiệp
thông sâu xa trong niềm tin vào Đức Kitô và yêu mến Ngài, biết lấy sự chu
toàn ý Chúa Cha là lương thực của mình. Việc huấn luyện thiêng liêng diễn
ra trong sự mau mắn tuân phục ChúaThánh Thần, trong đời sống bí tích và sự cầu
nguyện sốt sắng. Thánh Bộ đề nghị, ít là cho các giáo lý viên điều khiển cộng
đoàn, giáo lý viên toàn thời gian, nhất là những giáo lý viên mệnh danh là cán
bộ khung cần phải:
§ tham dự thánh lễ hàng ngày mỗi khi có thể;
§ sống phụng vụ trong các chiều kích khác nhau;
§ đọc Phụng Vụ các giờ kinh, nhất là Kinh Sáng và
Kinh Chiều;
§ suy niệm hàng ngày, đặc biệt dựa vào Lời Chúa;
§ siêng năng cầu nguyện để nuôi dưỡng sự hiệp thông
với Thiên Chúa;
§ tôn sùng Đức Mẹ;
§ thường xuyên lãnh nhận bí tích hòa giải;
§ tham gia các cuộc tĩnh tâm;
Trong thời điểm cần đến
sự dấn thân truyền giáo hơn bao giờ hết như hiện nay, Thánh Bộ càng chống
lại các giải pháp dễ dãi liều lĩnh bằng lòng với các giáo lý viên có
đời sống thiêng liêng thấp kém, và mong muốn các giáo lý viên được cung cấp
những phương thế thích hợp để có được đời sống thiêng liêng khả quan. Một trong
những phương thế cần lưu ý là việc linh hướng. Các giáo phận nên cử một hay
nhiều linh mục để làm công việc này. Các cha xứ phải gần gũi với các giáo lý
viên và quan tâm theo dõi sự tăng trưởng thiêng liêng của họ. Cũng nên có những
sáng kiến về việc huấn luyện nội tâm cho họ, cũng như các môi trường cầu
nguyện, các hình thức sống huynh đệ và chia sẻ thiêng liêng.
d) chuẩn bị cho các úng
sinh về giáo lý
§ Giúp họ nắm vững trọn vẹn nội dung giáo
lý công giáo để có thể truyền đạt lại một cách rõ ràng và sống động,
không thiếu sót hay lệch lạc.
§ Các ứng sinh phải có trình độ học vấn căn
bản (tất nhiên là so với tình trạng chung của xứ sở) để có thể tiếp
thu những gì sẽ học hỏi.
§ Cần nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt
của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (được soạn thảo và công
bố sau Công Đồng Vatican II) trong việc huấn luyện này. Sách giáo lý này với
tất cả tính thời sự của nó cố ý phục vụ mọi giáo lý viên, và chắc chắn họ sẽ
tìm thấy ở đó một nguồn cảm hứng và một kho tàng kiến thức cần thiết cho họat
động chuyên môn của mình.
Các yếu tố căn bản của
việc huấn luyện này gồm có:
§ Thần học về Chúa Ba Ngôi
§ Kitô học
§ Giáo Hội học
§ Cả ba yếu tố này phải được hiểu trong một tổng
thể có hệ thống và tiệm tiến của sứ điệp Kitô giáo.
§ Phải bảo đảm cho mọi ứng sinh có được trình
độ giáo lý và thần học tối thiểu như đã được Hội Đồng Giám Mục hay mỗi
Giám mục quy định theo tiêu chuẩn chung. Phải liệu sao để việc huấn luyện thần
học được toàn diện, chứ không phiến diện, để họ có được sự hiểu biết thống nhất
về đức tin, nhờ đó có được sự thống nhất và hài hòa giữa nhân cách và việc tông
đồ.
§ Sách Thánh là đề tài chính để giảng dạy và là linh hồn
của cả việc nghiên cứu thần học. Do đó, cần phải tăng cường việc học Kinh Thánh
§ Chung quanh Sách Thánh cần cấu tạo một chưong
trình gồm những ngành chính của thần học.
§ Phụng vụ cần được đào sâu để ứng sinh có thể đảm trách vai trò linh
họat viên trong việc cầu nguyện của cộng đoàn.
e) chuẩn bị cho ứng sinh
về tri thức
§ Cần quan tâm đến cả những chủ đề làm cho việc
chuẩn bị tri thức của họ được vững chắc và cụ thể như: hội nhập văn hóa
kitô giáo vào nền văn hóa cụ thể; thăng tiến con người và thăng tiến công
lý trong tình hình xã hội kinh tế đặc thù; lịch sử quốc gia; các tập tục tôn
giáo, ngôn ngữ; những vấn đề và những đòi hỏi của môi trường ứng sinh đang sinh
sống.
§ Có thể thêm cả các môn giúp ứng viên ứng
phó với các vấn đề như: các hiện tượng đô thị hóa, thế tục hóa, kỹ
nghệ hóa, di dân, những đổi thay chính trị xã hội, sự biến chuyển của giới trẻ
v.v…
§
f) chuẩn bị cho ứng sinh
chu toàn các công tác mục vụ
Ứng sinh phải được hướng
dẫn không chỉ để loan báo Tin Mừng và dạy giáo lý, mà còn phải được huấn luyện
để giúp đỡ anh chị em sống đức tin và thờ phượng Thiên Chúa cho phải đạo, chu
toàn các công tác mục vụ được giao phó trong cộng đoàn. Phải giúp họ có tinh
thần trách nhiệm mục vụ và thuật lãnh đạo, có tinh thần quảng đại phục vụ, năng
động và sáng tạo, hiệp thông với Giáo Hội và vâng phục các vị mục tử.
Họ cần được hướng dẫn về
các lãnh vực tông đồ có thể đảm trách, để nắm bắt được các yêu cầu và biết cách
đáp ứng các yêu cầu đó.
Họ được tìm hiểu đặc điểm
của từng hạng đối tượng thụ giáo và những cách thức thích hợp để hướng dẫn họ.
Cách riêng phải huấn
luyện cho họ về mục vụ các bí tích để họ có thể giúp các tín hữu hiểu
rõ hơn ý nghĩa của các dấu chỉ này và tin tưởng đến với các nguồn mạch sự sống
siêu nhiên không hề vơi.
g) huấn luyện ứng sinh
trở nên nhà truyền giáo nhiệt thành
Phải bảo đảm cho mỗi ứng
sinh được chuẩn bị thích hợp cho việc dấn thân với tư cách là giáo dân, thông
qua các giai đoạn tiệm tiến vốn là các đặc điểm của họat động truyền giáo: hiện
diện tích cực trong xã hội bằng chứng tá đời sống, loan báo cách
thẳng thắn sự thật về Đức Kitô, gặp gỡ tín đồ các tôn giáo khác để đối thọai
cởi mở, chuẩn bị cho người dự tòng đến với mầu nhiệm Cứu độ, xây dựng cộng đoàn
bằng cách chuẩn bị cho các đối tượng gia nhập Giáo Hội. Việc huấn luyện này
phải làm cho ứng sinh nhạy bén về truyền giáo, giúp họ khám phá mọi hoàn cảnh thuận
lợi để loan báo Tin Mừng và dấn thân vào đó.
h) huấn luyện ứng sinh có
ý thức về Giáo Hội
Phải giúp ứng sinh xác
tín rằng: họat động tông đồ không phải là hành vi cá nhân và đơn độc, vàhọat
động này được hoàn tất trong sự hiệp thông của Giáo Hội, khởi từ giáo hột địa
phương với Giám mục của mình. Họ cần ý thức rằng vai trò của giáo lý viên thực
sự thuộc về Hội Thánh, do đó mang tính cộng đoàn, hành động của họ nối kết với
hành động của Giáo Hội toàn cầu, trên bình diện thể chế và ân sủng. Vì thế họ phải sẵn
sàng vâng phục các vị mục tử trong tinh thần đức tin, với tư cách là thừa tác
vụ giáo lý viên.
Ý thức cộng đoàn này cần
khơi dậy nơi ứng sinh thái độ cộng tác: biết lưu tâm đến các thành viên trong
cộng đoàn mình đang phục vụ và cộng tác với họ, biết chịu lao nhọc khi làm việc
tông đồ chung với nhau và chấp nhận những bất toàn của các thành viên trong
Giáo Hội.
3/ Việc huấn luyện phải
được tổ chức chu đáo
Huấn luyện viên
Cần phải cung ứng các
phương thế cần thiết cho việc huấn luyện giáo lý viên. Nhưng vấn đề then chốt
trong việc này là làm sao cho có đủ những huấn luyện viên thuần thục.
Những huấn luyện viên này đóng vai trò quan trọng và cống hiến phần đóng góp vô
cùng quý báu cho Giáo Hội.
Nhưng trước tiên, các ứng
viên phải xác tín vị Huấn Luyện Viên đầu tiên và đích thực của họ không ai khác
hơn là chính Đức Kitô, Vị Tôn Sư Duy Nhất, Đấng huấn luyện họ qua Chúa Thánh
Thần (Ga 16, 12-15). Điều này đòi hỏi các ứng sinh phải có tinh thần đức tin,
biết cầu nguyện và lắng nghe để Chúa có thể dạy bảo họ. Huấn luyện tông đồ
chính yếu là một nghệ thuật được thể hiện trên bình diện siêu nhiên. Và các ứng
viên phải chịu trách nhiệm trước hết về sự tăng trưởng nội tâm của bản thân
mình, nghĩa là về cách mình đáp trả lời mời gọi của Chúa.
Kế đến là các vị
mục tử với tư cách là các nhà giáo dục các giáo lý viên. Đức Giám mục và
cha xứ, xét theo vai trò, là những huấn luyện viên đầu tiên của ứng viên. Rồi
đến các nhà giáo dục, hay huấn luyện viên, tức là những vị được Đấng bản quyền
giao phó trách nhiệm thực hiện chương trình huấn luyện này. Trước hết, đó là
các vị đặc trách các Trường hay Trung tâm huấn luyện giáo lý viên, sau nữa là
những vị đảm trách huấn luyện căn bản và huấn luyện thường xuyên. Các vị này
phải có đủ khả năng, có nhiều phẩm tính thiêng liêng, luân lý và sư phạm, được
chuẩn bị thích đáng cho nhiệm vụ, có kinh nghiệm cá nhân từng giảng dạy giáo
lý, đặc biệt phải có đời sống đạo sâu sắc, để có thể giảng dạy trước nhất
qua chứng từ của mình, phải sống gần gũi với ứng viên, để thông truyền cho
họ lòng đạo đức và nhiệt thành. Ước gì mỗi giáo phận cố hết sức để có được
một Ban huấn luyện gồm các linh mục, tu sĩ và giáo dân, là những
người có thể được sai đến các giáo xứ để chuẩn bị ứng sinh ngay trong cộng đoàn
và chuẩn bị từng người một.
Huấn luyện căn bản
Phải tuyệt đối lo cho mọi
giáo lý viên tối thiểu có được sự giáo dục sơ khởi, nếu không, giáo lý viên
không thể đáp ứng đầy đủ sứ vụ của mình. Do đó, cần phải có một số nguyên tắc
và chỉ dẫn chi phối các lựa chọn trong việc huấn luyện:
Phải có kiến thức
cơ bản thuộc môi trường văn hóa của mình, nhờ đó việc đào luyện nhân
cách mới có cơ thực hiện.
Quan tâm đến thực
tại xã hội và Giáo Hội: việc huấn luyện các ứng sinh gắn liền với thực tại
họ sống và làm việc, cho nên sự quan tâm đến tình hình Giáo Hội và xã hội sẽ
cung cấp nhiều điểm quy chiếu cụ thể, và đảm bảo cho việc huấn luyện ở trình độ
cao.
Huấn luyện liên
tục và tiệm tiến: nhờ đó ứng sinh từng bước đạt đến các mục tiêu huấn
luyện. Chúng ta không đòi hỏi ứng sinh phải toàn hảo ngay từ đầu, nhưng cần
giúp họ tiến bộ liên tục và quân bình.
Một phương pháp có quy củ
và đầy đủ quan tâm đến lãnh vực truyền giáo và các nguyên tắc của khoa sư phạm
hoàn hảo, như thế phương pháp huấn luyện phải:
§ thực nghiệm: có nhiều sự đối chất được xếp đặt và
hướng dẫn đối với tình hình Giáo Hội, văn hóa và xã hội của môi trường.
§ toàn vẹn: nhắm đến sự tăng trưởng con người về
mọi khía cạnh và mọi giá trị của họ;
§ trọng tự do: bảo đảm cho ứng sinh được tự do
trong bất cứ điều kiện ý thức hoặc vô thức nào.
§ hài hòa: hướng đến cái cốt yếu và dẫn đến sự hiệp
nhất nọi tâm.
* Dự phóng đời
sống: khoa sư phạm kiến hiệu giúp cá nhân xây dựng cho mình một dự phóng
đời sống vốn ấn định các mục tiêu và phương tiện để đạt đến các mục tiêu ấy.
Ngay từ đầu mỗi ứng sinh sẽ được huấn luyện để thiết lập cho mình một chương
trình qui củ, trong đó họ chăm lo trước tiên đến căn tính và lối sống, rồi đến
các phẩm tính cần thiết cho họat động tông đồ.
* Đối thọai để
huấn luyện: tạo điều kiện đối thọai giữa ứng sinh và huấn luyện viên để họ
được soi sáng, khuyến khích và đồng hành với những tiến bộ trong huấn luyện.
Trong việc đối thọai này, việc linh hướng chiếm một vị trí đặc biệt.
* Trong cộng đoàn:
Ứng sinh có thể dần dần khám phá ra nơi cộng đoàn cách thức thể hiện chương
trình cứu độ của Thiên Chúa. Không có sự huấn luyện tông đồ đích thực nào được
thực hiện ngoài cộng đoàn cả.
Huấn luyện thường xuyên
Sự tiến triển của con
người, sự tăng trưởng trong đời sống kitô hữu, sự canh tân văn hóa và sự tiền
triển xã hội đòi hỏi giáo lý viên phải được huấn luyện luôn trong suốt thời kỳ
họat động tích cực. Bổn phận này cũng liên quan đến các vị lãnh đạo về huấn
giáo, đến các giáo lý viên thường, và bao hàm mọi chiều kích huấn luyện
như nhân bản, thiêng liêng, giáo lý, và tông đồ. Mục tiêu là tạo được một
tổ chức đầy đủ và thúc đẩy những sáng kiến cụ thể, để bất kỳ một giáo lý viên
nào cũng được chăm sóc trong việc tăng trưởng liên tục.
Trong số các sáng kiến về
việc huấn luyện thường xuyên, hàng đầu là các sáng kiến do các Trung tâm thực
hiện, để tiếp tục chăm sóc các cựu học viên, ít là trong những thời kỳ đầu, qua
thư luân lưu và thư riêng, qua việc gửi tài liệu, thăm viếng tại chỗ với tư
cách huấn luyện viên, những cuộc gặp gỡ để kiểm điểm ngay trong các Trung tâm.
Những Trung tâm này cũng thích hợp cho việc tổ chức những khóa canh tân và tu
nghiệp cho các giáo lý viên vào bất cứ lúc nào.
Nơi nào chưa có Trường
hay Trung tâm, nên tìm các cách khác để thực hiện chương trình huấn luyện
thường xuyên, gồm những khóa ngắn hạn hoặc các cuộc gặp gỡ, hội thảo. Cần tổ
chức những chương trình tu nghiệp liên quan đến các khía cạnh
khác nhau của nhân cách giáo lý viên. Tu nghiệp về chuyên môn chưa đủ.,., còn
cần ưu tiên cho việc bồi dưỡng căn tính giáo lý viên.
Sau cùng, ngoài các sáng
kiến có tổ chức, việc huấn luyện thường xuyên nằm trong tầm tay của chính các
đương sự. Bởi vậy mỗi giáo lý viên phải để tâm thăng tiến không ngừng và ra sức
tìm tòi nghiên cứu với xác tín rằng không ai có thể thay thế mình trong trách
nhiệm đầu tiên này.
Phương tiện và cơ cấu
huấn luyện
Trong số các phương tiện
huấn luyện, nổi bật là các Trường hay Trung tâm dành cho giáo
lý viên. Các văn kiện của Giáo Hội như Sắc lệnh Ad Gentes hay Thông điệp
Redemptoris Missio đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc thành lập và củng
cố các Trường hoặc các Trung tâm này. Ước gì mọi Giáo phận ở Việt Nam cũng đều
có mỗi nơi ít nhất một cơ sở như thế.
Khi nói đến các Trung tâm
huấn giáo, người ta có thể nghĩ đến những thực tại rất khác nhau: từ những cơ
ngơi đồ sộ, có khả năng đón nhận những ứng sinh lâu dài với chương trình họat
động được tổ chức chu đáo, cho đến các cơ sở dành cho các nhóm nhỏ,
hoặc những khóa ngắn hạn trong giáo phận hay giáo xứ, hoặc chỉ
là cuộc gặp gỡ trong một ngày, tùy theo hòan cảnh mỗi nơi mỗi lúc.
Tuy nhiên, cần có sự liên kết giữa các Trường hay Trung tâm, hay những hình
thức tổ chức tương tự, nhất là trên bình diện quốc gia, do Hội đồng Giám mục
đảm trách. Sự liên kết này nên được cổ võ bằng những cuộc gặp gỡ đều đặn giữa
tất cả những huấn luyện viên thuộc các nơi, các cấp khác nhau, và bằng việc
trao đổi tài liệu giảng dạy. Nhờ đó, chúng ta tiến đến chỗ thống nhất chương
trình huấn luyện, và mỗi nơi được củng cố nhờ sự phong phú phát sinh từ kinh
nghiệm của những nơi khác.
Ngoài các Trường
và Trung tâm nói trên, cũng nên kể đến các giảng khóa và những cuộc
hội thảo hay gặp gỡ dành cho các thành viên ban giảng huấn hay các giáo lý viên
mà các giáo phận, các hạt hay các giáo xứ tổ chức. Đó là những phương thế huấn
luyện rất có giá trị. Trong ít nhiều nơi hay hoàn cảnh, chúng trở thành cách
huấn luyện duy nhất. Các giảng khóa này chẳng những không đối nghịch với các
chương trình huấn luyện tại các Trung tâm, mà lại còn giúp nối dài ảnh hưởng
hoặc bổ túc cho các chương trình ấy.
Ước mong mọi Giáo phận
trước mắt có thể huấn luyện một số giáo lý viên hoặc ít là các cán bộ khung cho
một Trường hay Trung tâm.
Cung ứng tài chánh cho
công việc huấn giáo.
Như hầu hết mọi họat động
khác của con người, việc huấn giáo cũng cần có tài chánh để giải quyết các vấn
đề cơ sở và phương tiện vật chất cũng như ít nhiều yếu tố nhân sự cho việc huấn
luyện đào tạo cũng như việc giảng dạy giáo lý.
1. Tài chánh cho việc
huấn luyện :
Trước hết, phải nói đến
việc xây dựng cơ sở, trang bị các phương tiện làm việc : thông
tin liên lạc, dụng cụ thính thị, phương tiện tham khảo, in ấn, phổ biến tài
liệu…nhất là cho các Trường hay Trung tâm, và việc điều hành, tổ chức các khóa
huấn luyện, học hỏi hay hội thảo rất đa dạng… Tất cả đều đòi hỏi rất nhiều sức
người sức của mà Hội Đồng Giám mục cũng như mỗi Giáo phận phải tài trợ hay tìm
cách vận động các nguồn tài trợ khác nhau trong dân Chúa.
a. Thù lao cho giáo lý
viên:
Về vấn đề này, như đã nói
trong phần I của bài thuyết trình, chúng ta vui mừng biết rằng tuyệt đại đa số
các giáo lý viên của chúng ta đều là tình nguyện và không nhận thù lao.
Tuy nhiên, không phải là
không có những trường hợp vấn đề thù lao cần phải đặt ra. Vì có những nơi không
thể tìm ra tu sĩ hay những giáo lý viên tình nguyện có sẵn nguồn thu nhập cố
định, không cần lo việc mưu sinh mà vẫn có thể tự túc và dùng một phần hay tất
cả thời gian để lo việc giảng dạy giáo lý. Trong trường hợp này Bộ Truyền giáo
dạy rõ ràng: mong rằng việc trả công cho giáo lý viên được thực hiện
như là sự công bằng, chứ không phải muốn trả thế nào cũng được. Các giáo lý
viên làm trọn thời gian hay bán thời gian phải được trả công theo những nguyên
tắc chính xác, do Giáo phận và do giáo xứ lập ra, lưu ý đến điều kiện tài chánh
của giáo hội địa phương, đến hoàn cảnh cá nhân và gia đình của mỗi giáo lý viên
nói ở đây trong bối cảnh kinh tế chung của đất nước. Phải đặc biệt quan
tâm đến các giáo lý viên ốm đau, mất sức hay già yếu.
Tòa Thánh mong ước
các tín hữu nhận bảo trợ cho các giáo lý viên (có nhu cầu),
nhất là khi họ phục vụ cho chính khu vực mình. Tòa Thánh đặc biệt khuyến khích
việc đóng góp tài chánh cho các Trường hay trung tâm huấn luyện giáo lý viên,
vì điều này chắc chắn góp phần vào việc phát triển đời sống kitô hữu trong
tương lai gần, vì huấn giáo tích cực và hữu hiệu là nền tảng của việc huấn
luyện dân Chúa.
Và Thánh Bộ khuyên: Nơi
đâu có thể thì gia tăng số giáo lý viên tự nguyện, nghĩa là dấn thân cộng tác
một cách ổn định không cần nhận thù lao, vì đã có việc làm mưu sinh hay nguồn
lợi cố định.
Đồng thời, Thánh Bộ
khuyên cần phải giáo dục tín hữu coi ơn gọi giáo lý viên như
một sứ vụ hơn là một việc làm để kiếm sống.
Quan trọng nhất là phải
tìm ra một giải pháp tận căn, đặc biệt đối với việc quản trị khôn ngoan vốn tôn
trọng các ưu tiên tông đồ và nhờ việc giáo dục cộng đoàn đóng góp cách nhưng
không.
b. Trách nhiệm cổ võ và
huận thuẫn của cộng đoàn dân Chúa
Trong cuộc trường chinh
nhằm thu phục các môn đệ về cho Chúa, “các giáo lý viên là những tông
đồ tiền phương, không có họ, các giáo hội hôm nay đang triển nở đã không
được lập ra”, cho nên Bộ Truyền giáo mong ước vai trò các giáo lý viên ngày một
được chú ý hơn trong cộng đoàn dân Chúa.
Cách đây hơn 10 năm, số
giáo lý viên thuộc các miền truyền giáo trên thế giới xê dịch khỏang 250.000
đến 350.000 người (ghi nhận của Thánh Bộ vào năm 1993), và con số này vẫn ngày
một tiếp tục gia tăng (thật đáng tiếc chúng tôi không có được con số giáo lý
viên hiện thời tại Việt nam). Đương nhiên, tính chất của các cộng đoàn kitô hữu
tương lai tùy thuộc vào sự dấn thân của lực lượng giáo lý viên này. Ngày nay, trong
bối cảnh của nền thần học giáo dân, hẳn các giáo lý viên lại càng chiếm một vị
trí quan trọng hơn nữa. Điều này cho thấy càng phải khẩn trương gia tăng số
giáo lý viên bằng cách vận động cho ơn gọi này, và củng cố chất lượng bằng
chương trình huấn luyện đầy đủ và liên tục. Chính vì thế, ta mới hiểu tại sao
Đức Gioan-Phaolô II nhắn nhủ các vị Giám mục: “Vai trò chính của Chư Huynh
là khơi dậy và gìn giữ trong Giáo phận của Chư Huynh một sự say mê dạy giáo lý,
sự say mê được thể hiện trong một tổ chức thích hợp và hữu hiệu, vận dụng
người, phương tiện, dụng cụ, và cả các tài nguyên cần thiết”.
Sau cùng, xin hãy lưu ý
đến một số công việc hay lãnh vực mà Bộ Truyền Giáo nêu ra trong tài liệu đã
dẫn nhiều lần ở đây:
§ * Gây ý thức cho cộng đoàn giáo
phận và các cộng đoàn giáo xứ, đặc biệt là nơi các linh mục, về tầm quan trọng
và vai trò của giáo lý viên.
§ * Thiết lập hoặc canh tân các
chỉ thị về huấn giáo đối với việc tuyển chọn và huấn luyện giáo lý viên cho rõ
ràng và thống nhất chiếu theo chỉ thị của Tòa Thánh.
§ * Bảo đảm trang bị tối thiểu cho
việc chuẩn bị chuyên môn của các giáo lý viên cấp giáo phận và giáo xứ, để
không một ai nhận công tác mà không được chuẩn bị.
§ * Đào tạo cán bộ khung cho mỗi
giáo phận và giáo xứ… để họ có thể cộng tác với các mục tử trong việc huấn
luyện và đồng hành với các giáo lý viên tự nguyện khác.
§ * Trợ cấp cho các nhu cầu liên
quan đến việc huấn luyện, đến sinh họat và đời sống giáo lý viên, bằng một
chương trình kinh tế cẩn trọng gồm cả cộng đoàn.
§ * Chăm sóc từ phía các linh mục: cần
nhận ra, cổ võ và phối hợp những đoàn sủng khác nhau trong cộng đoàn, đặc biệt
theo dõi các giáo lý viên và chia sẻ với họ các nỗi vất vả khi rao giảng Tin
Mừng, nhìn nhận họ như những người đặc trách thực sự tác vụ được ủy thác.
§
Chính theo hương này mà
Thánh Bộ khuyến cáo:
Phải giáo dục từ trong
chủng viện, để hàng giáo sĩ biết nhìn nhận, giúp đỡ và đánh giá đúng mức giáo
lý viên, như hình ảnh tuyệt vời của người tông đồ và như cộng tác viên đặc biệt
của mình trong vườn nho của Chúa.
Thay lời kết luận
Chúng ta, Giáo hội Việt
Nam, đang ở vào thời điểm 470 năm kể từ khi Tin Mừng được loan báo lần đầu tiên
cho con cháu Lạc Hồng. Cũng bằng một thời gian như thế, nhiều dân tộc đã được
Phúc Âm hóa gần như hòan toàn.
Đàng khác, hãy xem trường
hợp một giáo hội cùng ở lục địa Á châu với chúng ta, cùng trong vòng ảnh hưởng
của các tôn giáo lớn của Phương Đông như chúng ta, cũng từng trải qua một thời
gian dài bị cấm cách và bách hại như chúng ta, đã bước vào thời kỳ công nghiệp
hóa và hiện đại hóa trước chúng ta cả vài chục năm, lại đang bị thu hút vào
hiện tượng toàn cầu hóa còn hơn chúng ta: Giáo Hội Hàn quốc! Thế mà Giáo Hội
này lại đang có một nhịp độ phát triển mau lẹ đến lạ lùng: trong vòng có hơn
hai thập niên trở lại đây, số tín hữu gia tăng gấp đôi, tức là 100%.
Những điều này không thể
khiến chúng ta không suy nghĩ. Những sai lầm của Giáo hội trong quá khứ truyền
giáo xa xưa cho dù thế nào đi nữa cũng có thể và phải được khắc phục với thời
gian, nhất là nếu chúng ta có những nỗ lực thực sự.
Nỗ lực đó chính là quyết
tâm thực hịên lệnh truyền ra khơi thả lưới của Đức Kitô, với điều kiện là phải
có những ngư phủ lành nghề, nhiệt tình và trung kiên, những ngư phủ được rèn
luyện kỹ càng trong lò của Thánh Thần, theo những dẫn dắt của Giáo Hội hậu công
đồng. Có thể chúng ta phải tốn sức người sức của rất nhiều, nhưng nếu chúng ta
quyết tâm thực hiện lệnh truyền đó thì nhất định sẽ có được những kỳ gặt hái
bội thu. Nếu cần phải nói thêm thì chỉ xin hãy nhớ lời nói nóng bỏng này của
Đức Giêsu: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi
lửa ấy đã bùng lên !” (Lc 12, 49)
Những gì cần phải làm để
cho ngọn lửa ấy được bùng lên, cho dù hoàn cảnh thế nào đi nữa, thực ra lúc nào
cũng ở trong tầm tay của chúng ta, và luôn luôn là một thách thức thực
sự cho chúng ta.
Vấn đề là chúng ta có
muốn chiến thắng hay không.
Riêng về Đấng ra lệnh
truyền thì Ngài đã đoan chắc chiến thắng cho chúng ta rồi: “Thầy đã thắng thế
gian!”(Ga 16, 33).
Antôn Uông Đại Bằng
(Tọa Đàm Huế)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét