Thượng Hội Đồng Đặc Biệt về Gia Đình: Tài Liệu Chuẩn Bị
Tháng trước, Đức Phanxicô tuyên bố sẽ triệu tập một
Thượng Hội Đồng Đặc Biệt về Gia Đình trong các ngày 5-18 tháng Mười, năm 2014 với
chủ đề “Các Thách Đố Mục Vụ Của Gia Đình Trong Bối Cảnh Tân Phúc Âm Hóa”.
Ngày 5 tháng Mười Một vừa qua, một buổi họp báo đã được tổ chức tại Phòng Báo Chí của Tòa Thánh. Trong buổi họp báo này, Đức TGM Lorenzo Baldisseri, Tổng Thư Ký của THĐ, cho hay: để chuẩn bị cho THĐ vào năm tới, cuộc họp lần thứ năm của Hội Đồng THĐ Thường Lệ đã diễn ra trong các ngày 7-8 tháng Mười vừa qua để đưa ra Tài Liệu Chuẩn Bị. Tài liệu này bao gồm một trình bày tổng quát về chủ đề, các trích dẫn thánh kinh và huấn quyền về chủ đề, và một bản câu hỏi về các thách đố chính của gia đình hiện đại. Sau đây là nguyên văn Tài Liệu Chuẩn Bị.
I. Thượng Hội Đồng: Gia Đình và Việc Phúc Âm Hóa
Sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, được Chúa trực tiếp ủy thác cho các môn đệ của Người, vẫn tiếp diễn trong Giáo Hội trong suốt giòng lịch sử. Cuộc khủng hoảng xã hội và tâm linh, hết sức hiển nhiên trong thế giới ngày nay, đang trở thành một thách đố mục vụ trong sứ mệnh phúc âm hóa của Giáo Hội liên quan tới gia đình, vốn là viên đá sinh tử xây dựng nên xã hội và cộng đồng Giáo Hội. Trước đây, chưa bao giờ việc công bố Tin Mừng về gia đình trong bối cảnh này đã khẩn trương và cần thiết hơn. Sự quan trọng của chủ đề này được phản ảnh trong sự kiện Đức Thánh Cha đã quyết định triệu tập một THĐ Giám Mục; THĐ này sẽ là một hành trình gồm hai giai đoạn: đầu tiên, một Phiên Khoáng Đại Đặc Biệt trong năm 2014, nhằm xác định “status quaestionis” (tình huống của vấn đề) và thu lượm kinh nghiệm và đề nghị của các giám mục trong việc công bố và sống thực Tin Mừng Gia Đình một cách khả tín; thứ hai, một Phiên Khoáng Đại Thường Lệ trong năm 2015 nhằm đưa ra các chỉ dẫn có thể áp dụng được trong lãnh vực chăm sóc mục vụ cho các con người và gia đình.
Các lo âu chưa từng nghe thấy cho tới những năm gần đây nay đã xuất hiện do hậu quả của nhiều tình huống khác nhau, từ tập tục sống chung khá phổ biến mà không dẫn tới hôn nhân, đôi khi còn loại bỏ cả ý niệm hôn nhân nữa, cho tới các cuộc kết hợp đồng tính giữa những người thường được phép nhận con nuôi. Các tình huống mới đòi Giáo Hội phải chú tâm và chăm sóc mục vụ là những tình huống này: các cuộc hôn nhân hỗn hợp và khác đạo; gia đình có cha hoặc mẹ đơn lẻ; đa thê; hôn nhân với vấn đề hồi môn sau đó, một hồi môn đôi khi bị hiểu như giá mua người đàn bà; hệ thống đẳng cấp (caste); văn hóa phi cam kết và giả thiết rằng dây hôn phối chỉ có tính tạm thời; các hình thức duy nữ phản Giáo Hội; di dân và việc tái lên công thức đối với chính ý niệm gia đình; chủ nghĩa đa nguyên duy tương đối trong quan niệm về hôn nhân; ảnh hưởng truyền thông đối với nền văn hóa bình dân trong cái hiểu về hôn nhân và đời sống gia đình; các khuynh hướng tiềm ẩn về tư duy trong các đề xuất luật pháp nhằm hạ giá ý niệm vĩnh viễn và lòng trung thành của giao ước hôn nhân; gia tăng tập tục làm mẹ mướn (surrogate motherhood, cho thuê dạ con); và các giải thích mới lạ về điều được coi là nhân quyền. Bên trong Giáo Hội, có nhiều dấu hiệu cho thấy đức tin vào tính bí tích của hôn nhân và sức mạnh hàn gắn của Bí Tích Sám Hối càng ngày càng yếu đi hoặc hoàn toàn bị loại bỏ.
Thành thử, ta hiểu được tính khẩn trương của việc mời gọi hàng giám mục thế giới họp “cum et sub Petro” (cùng với và dưới quyền Phêrô) để bàn thảo các thách đố này. Thí dụ, chỉ cần nghĩ tới sự kiện: do tình huống hiện nay, rất nhiều trẻ em và người trẻ sẽ không bao giờ được thấy cha mẹ chúng lãnh nhận các bí tích, là đủ để ta hiểu các thách đố đối với việc phúc âm hóa do tình huống hiện nay tạo ra khẩn trương như thế nào; ta có thể nhận thấy những thách đố này ở hầu hết mọi nơi trên thế giới. Song hành với thực trạng này, ta thấy đại đa số hiện nay chấp nhận giáo huấn lòng thương xót Chúa và sự quan tâm đối với người đau khổ, đang đứng bền lề xã hội, cả theo nghĩa địa dư lẫn nghĩa hiện sinh. Thành thử, đại đa số đang mong chờ các quyết định mục vụ sẽ được đưa ra liên quan tới gia đình. Ngoài tính cần thiết và khẩn trương ra, sự suy tư về các vấn đề này của THĐ Giám Mục còn được coi như một bổn phận đức bác ái đối với những ai được trao phó cho các giám mục coi sóc và đối với toàn thể gia đình nhân loại.
II. Giáo Hội và Tin Mừng Gia Đình
Tin vui tình thương Thiên Chúa phải được công bố cho mọi người đang đích thân sống kinh nghiệm nhân bản nền tảng là lứa đôi và hiệp thông dẫn tới hồng ân con cái, tức cộng đồng gia đình. Các giáo huấn đức tin về gia đình phải được trình bày theo cách truyền thông và hữu hiệu, để chúng tới được các tâm hồn và biến đổi chúng theo thánh ý Thiên Chúa, một thánh ý vốn được tỏ lộ nơi Chúa Giêsu Kitô.
Về các nguồn Thánh Kinh liên quan tới hôn nhân và gia đình, tài liệu này chỉ trích dẫn các tham chiếu chủ yếu. Điều này cũng đúng đối với việc trích dẫn Huấn Quyền: chỉ trích dẫn các điều có tính phổ quát, trong đó có thêm một số bản văn của Hội Đồng Giáo Hoàng Về Gia Đình. Các giám mục tham dự THĐ được tự do trích dẫn các tài liệu từ các hội đồng giám mục của các ngài.
Ở mọi thời và trong nhiều nền văn hóa khác nhau, không thiếu giáo huấn rõ ràng của các mục tử cũng như các chứng từ cụ thể của tín hữu nam nữ, những người bất chấp các hoàn cảnh khác nhau vẫn luôn sống Tin Mừng Gia Đình như một hồng phúc khôn sánh đối với đời họ và con cái họ. Cam kết của THĐ Đặc Biệt sắp tới được gợi hứng và nâng đỡ bởi ý muốn thông truyền sứ điệp này một cách mạnh mẽ hơn, hy vọng rằng “kho tàng mạc khải, vốn được ủy thác cho Giáo Hội, mỗi ngày mỗi tràn ngập tâm hồn từng người hơn” (Dei Verbum, số 26).
Kế hoạch Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc
Vẻ đẹp của sứ điệp Thánh Kinh về gia đình bắt nguồn từ việc dựng nên người đàn ông và người đàn bà, cả hai giống hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa (xem St 1:24-31; 2:4-25). Được liên kết với nhau bằng sợi dây bí tích bất khả tiêu, những người kết hôn cảm nghiệm được cái đẹp của tình yêu, tình cha, tình mẹ, và phẩm giá tối cao của việc nhờ cách này, được tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Trong hồng ân hoa trái phát sinh từ cuộc kết hợp của mình, họ đảm nhận trách nhiệm dưỡng nuôi và giáo dục những con người khác cho tương lai nhân loại. Nhờ việc sinh sản, người đàn ông và người đàn bà chu toàn trong đức tin ơn gọi trở thành người cộng tác của Thiên Chúa trong việc bảo vệ sáng thế và phát triển gia đình nhân loại.
Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhận định về khía cạnh này trong Familiaris consortio như sau: “Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh và họa ảnh Người (xem St 1:26,27), khi mời gọi họ bước vào hiện hữu qua ngả yêu thương, Người cũng đồng thời kêu gọi họ hướng về yêu thương. Thiên Chúa là yêu thương (xem Ga 1Ga 4:8) và chính nơi Người, Người vẫn sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương đầy tính bản vị. Khi tạo nên nhân loại giống hình ảnh Người và liên tục duy trì họ hiện hữu, Thiên Chúa đã ghi khắc nơi nhân tính người đàn ông và người đàn bà ơn gọi, và do đó khả năng và trách nhiệm, yêu thương và hiệp thông (Gaudium et spes, số 12). Do đó, yêu thương là ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của mọi con người nhân bản” (FC, số 11).
Kế hoạch của Thiên Chúa Hoá Công, một kế hoạch bị tội nguyên tổ gây trở ngại (xem St 3:1-24), đã tự vén mở qua giòng lịch sử trong các biến cố của dân riêng cho tới tận thời viên mãn, lúc, với cuộc nhập thể của Con Thiên Chúa, không những ý muốn cứu vớt của Thiên Chúa được xác nhận, mà cả ơn cứu chuộc đem lại ơn thánh theo thánh ý này nữa.
Con Thiên Chúa, Ngôi Lời thành xác phàm (xem Ga 1:14) trong cung lòng Mẹ Đồng Trinh, đã sống và lớn lên trong gia đình Nadarét và tham dự tiệc cưới tại Cana, nơi Người làm tăng tầm quan trọng của lễ hội bằng “dấu lạ” đầu tiên (xem Ga 2:1-11). Trong hân hoan, Người hoan nghinh việc tiếp rước Người trong gia đình các môn đệ Người (xem Mc 1:29-31; 2:13-17) và an ủi gia đình bằng hữu của Người đang gặp tang chế tại Bêtania (xem Mc 10:38-42; Ga 11:1-44). Chúa Giêsu Kitô phục hồi vẻ đẹp của hôn nhân, vì một lần nữa, Người đề xuất kế hoạch của Thiên Chúa từng bị bỏ ngang vì sự cứng lòng của trái tim con người, ngay bên trong truyền thống dân Israel (xem Mt 5:31-32; 19:3-12; Mc 10:1-12; Lc 16:18). Trở về thời nguyên thủy, Chúa Giêsu dạy ta sự đơn nhất và lòng trung thành của vợ chồng, bác bỏ tập quán đuổi vợ và ngoại tình.
Chính qua vẻ đẹp phi thường của tình yêu nhân bản, vốn được đề cao bằng âm sắc linh hứng trong Diễm Ca, và dây hôn phối do các tiên tri như Hôxêa (xem Hs 1:2; 3:3) và Malaki (xem Ml 2:13-16) kêu gọi và bảo vệ, Chúa Giêsu đã xác quyết phẩm giá nguyên thủy của tình yêu hôn nhân nơi người đàn ông và người đàn bà.
Giáo huấn của Giáo Hội về gia đình
Ngay trong cộng đồng Kitô Giáo tiên khởi, gia đình đã xuất hiện như một “Giáo Hội tại gia” rồi (xem Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, số 1655): Trong các điều gọi là “qui luật về gia đình” (family canons) của các tông thư Tân Ước, gia đình trong thế giới cổ thời được nhận diện như là nơi diễn ra sự liên đới sâu sắc giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con cái, và giữa người giầu và người nghèo (xem Eph 5:21-6:9; Cl 3:18-4:1; 1Tm 2:8-15; Tt 2:1-10; 1Pr 2:13-3:7; xem thêm Thư Philêmôn). Cách riêng, Thư Êphêsô nhìn nhận tình yêu phu thê giữa một người đàn ông và một người đàn bà là “một mầu nhiệm lớn”, vì đã biến tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo Hội của Người thành hiện thực (xem Eph 5:31-32).
Trong nhiều thế kỷ, nhất là từ thời cận đại cho tới nay, Giáo Hội đã đưa ra một giáo huấn liên tục và tiệm tiến về gia đình và hôn nhân là định chế vốn làm nền cho nó. Một trong các phát biểu đáng lưu ý nhất đã được Công Đồng Vatican II đề xuất trong Hiến Chế Mục VụGaudium et spes; hiến chế này, khi bàn tới một số vấn đề khẩn trương, đã dành trọn một chương để cổ vũ phẩm giá hôn nhân và gia đình, như được thấy trong đoạn mô tả các giá trị của chúng đối với việc tạo lập xã hội: “gia đình, nơi gặp gỡ của nhiều thế hệ giúp nhau đạt được sự khôn ngoan sâu rộng hơn và hoà hợp được các quyền lợi bản thân với các đòi hỏi khác của đời sống xã hội, đã tạo nên nền tảng cho xã hội” (GS, số 52).
Điều đặc biệt đáng lưu ý là lời kêu gọi của nó đối với một nền linh đạo lấy Chúa Kitô làm trung tâm sinh hoạt đức tin của vợ chồng: “Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa hằng sống và thừa hưởng phẩm giá nhân vị chân chính, vợ chồng hãy kết hợp với nhau trong cùng một tình âu yếm, trong cùng một tư duy và trong cùng một sự thánh thiện hỗ tương, ngõ hầu, theo gương Chúa Kitô, Đấng vốn là nguyên lý của sự sống, vợ chồng có thể nhờ các hân hoan và hy sinh trong ơn gọi của mình, nhờ lòng trung tín trong tình yêu của mình, mà trở nên các chứng nhân của mầu nhiệm yêu thương mà Chúa đã tỏ lộ cho thế giới qua cái chết và sự sống lại của Người” (GS, số 52).
Sau Công Đồng Vatican II, các vị kế nhiệm Thánh Phêrô cũng đã dùng huấn quyền của các ngài mà phong phú hóa giáo huấn về hôn nhân và gia đình, nhất là Đức GH Phaolô VI với thông điệp Humanae vitae, là thông điệp đưa ra các giáo huấn chuyên biệt cả về nguyên tắc lẫn hướng dẫn. Sau đó, trong Tông Huấn Familiaris consortio, Đức GH Gioan Phaolô II muốn nhấn mạnh tới việc đề xuất kế hoạch Thiên Chúa nhân nói tới các sự thật về nguồn gốc tình yêu vợ chồng và nguồn gốc gia đình: “ ‘Nơi’ duy nhất làm cho việc tự hiến theo nghĩa thật sự trọn vẹn này trở thành khả hữu chính là hôn nhân, tức giao ước tình yêu hay sự lựa chọn có ý thức và tự do qua đó, người đàn ông và người đàn bà chấp nhận cộng đồng sự sống và tình yêu đầy thân ái, vốn được chính Thiên Chúa mong muốn” (xem GS, số 48), một cộng đồng chỉ biểu lộ được ý nghĩa chân thực của nó dưới ánh sáng này mà thôi. Định chế hôn nhân không phải là một can thiệp không nên có của xã hội hay của một thẩm quyền nào đó, cũng không phải là việc áp đặt một hình thức ngoại tại nào. Đúng hơn, nó là một đòi hỏi nội tại của giao ước yêu thương phu phụ, một giao ước được công khai xác nhận là duy nhất và độc chiếm, để hai bên sống tuyệt đối trung thành với nhau theo kế hoạch của Thiên Chúa Hóa Công. Tự do bản vị, thay vì bị lòng trung thành này giới hạn, thực ra đã được che chở khỏi mọi hình thức duy chủ quan hay duy tương đối, để trở thành người tham dự vào Sự Khôn Ngoan sáng thế” (FC 11).
Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo đã gom lại một nơi các khía cạnh căn bản của giáo huấn này: “Giao ước hôn nhân, qua đó, một người đàn ông và một người đàn bà thành lập với nhau một cộng đồng thân mật sống và yêu thương nhau, đã được Đấng Tạo Hóa thiết lập và ban cho những luật lệ riêng biệt. Do chính bản chất của nó, giao ước này được sắp đặt cho thiện ích của vợ chồng, cũng như việc sinh sản và giáo dục con cái. Chúa Kitô đã nâng hôn nhân giữa những người đã rửa tội lên hàng một bí tích” [xem Công Đồng Vatican II,Gaudium et spes, số 48; Bộ Giáo Luật, số 1055,1]” (Sách GLCGHCG, 1660).
Học lý trình bày trong Sách Giáo Lý này xem sét cả các nguyên tắc thần học lẫn các tác phong luân lý, được khai triển dưới hai đầu đề riêng biệt: Bí Tích Hôn Nhân (các số 1601-1658) và Điều Răn Thứ Sáu (các số 2331-2391). Đọc cẩn thận các phần này của Sách Giáo Lý, ta sẽ có được một cái hiểu cập nhật về học thuyết của đức tin, để hỗ trợ hành động của Giáo Hội trước các thách đố hiện nay. Nguyên tắc mục vụ của Giáo Hội được gợi hứng từ sự thật về hôn nhân, một sự thật được xem sét dưới ánh sáng kế sách Thiên Chúa, Đấng đã tạo nên người đàn ông và người đàn bà, và là Đấng, vào thời viên mãn, đã mạc khải nơi Chúa Giêsu tính tròn đầy của tình yêu vợ chồng, lúc được nâng lên hàng bí tích. Đặt cơ cở trên sự ưng thuận, hôn nhân Kitô Giáo cũng được ban cho nhiều hiệu quả như thiện ích và bổn phận vợ chồng. Nhưng, hôn nhân không được miễn nhiễm khỏi hậu quả tội lỗi (Xem St 3:1-24), một việc có thể gây ra những vết thương sâu xa, thậm chí còn hạ thấp cả phẩm giá của bí tích nữa.
Thông điệp mới đây của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, tựa là Lumen Fidei (ánh sáng đức tin) có đề cập tới gia đình trong bối cảnh một suy tư về việc đức tin cho ta biết “các sợi dây nối kết người ta lại với nhau bền vững ra sao khi Thiên Chúa hiện diện ở giữa họ” (LF, số 50). “Khung cảnh đầu tiên trong đó đức tin soi sáng cho kinh thành con người là gia đình. Tôi nghĩ trước hết và đầu hết tới sự kết hợp bền vững giữa một người đàn ông và một người đàn bà trong hôn nhân. Sự kết hợp này phát sinh từ tình yêu của họ, như là dấu chỉ và là sự hiện diện của chính tình yêu Thiên Chúa, và phát sinh từ việc nhìn nhận và chấp nhận sự tốt lành của dị biệt hóa giới tính, nhờ đó, các người phối ngẫu có thể trở nên một thân xác (xem St 2:24), và có khả năng sinh ra một sự sống mới, vốn là điều nói lên sự tốt lành, khôn ngoan và kế hoạch yêu thương của Đấng Hóa Công. Đặt cơ sở trên tình yêu này, người đàn ông và người đàn bà có thể thề hứa yêu thương nhau trong một cử chỉ vận dụng được trọn cả đời họ và phản ảnh được nhiều đặc điểm của đức tin. Thề hứa yêu thương nhau mãi mãi chỉ có thể có khi ta nhận thức được một kế hoạch lớn hơn chính các dự án của ta, một kế hoạch nâng đỡ ta và giúp ta khả năng trao phó trọn tương lai ta cho người ta yêu” (LF, số 52). “Đức tin không phải là nơi trú ẩn của những người nhát gan, nhưng là một điều thăng tiến đời ta. Nó làm ta ý thức được tiếng gọi kỳ diệu, tức lời mời gọi của tình yêu. Nó bảo đảm với ta rằng tình yêu này đáng tin tưởng và đáng ôm lấy, vì nó đặt căn bản trên lòng trung thành của Thiên Chúa, một lòng trung thành mạnh hơn sự yếu đuối của ta” (LF, số 53).
III. Bản Câu hỏi
Các câu hỏi dưới đây cho phép các Giáo Hội đặc thù tham dự tích cực vào việc chuẩn bị THĐ Đặc Biệt nhằm mục đích công bố Tin Mừng trong các thách đố ngày nay liên quan tới gia đình.
1. Về việc phổ biến Sách Thánh và Huấn Quyền Giáo Hội liên quan tới gia đình
a) Các giáo huấn của GHCG về giá trị của hôn nhân trong Thánh Kinh, trong Gaudium et spes, Familiaris consortio và các văn kiện khác của Huấn Quyền sau Công Đồng đã được người thời nay hiểu biết ra sao? Các tín hữu của ta đã được dào tạo ra sao liên quan tới giáo huấn của Giáo Hội về đời sống gia đình?
b) Trong các trường hợp giáo huấn của Giáo Hội được biết đến, nó có được chấp nhận trọn vẹn không? Hay là gặp khó khăn khi đem ra thực hành? Các khó khăn này là các khó khăn nào?
c) Việc giáo huấn của Giáo Hội trong các chương trình mục vụ cấp quốc gia, cấp giáo phận và cấp giáo xứ được phổ biến ra sao? Loại giáo lý nào đã được giảng dạy về gia đình?
d) Mức độ và các khía cạnh đặc biệt nào trong việc dạy dỗ này đã thực sự được biết đến, được chấp nhận, bị bác bỏ và/hoặc bị chỉ trích trong các môi trường ở bên ngoài Giáo Hội? Đâu là các nhân tố văn hóa làm cản trở việc tiếp nhận trọn vẹn giáo huấn của Giáo Hội về gia đình?
2. Về hôn nhân theo luật tự nhiên
a) Ý niệm luật tự nhiên có vị trí nào trong các môi trường văn hóa của xã hội: trong các định chế, trong giáo dục, trong các giới học thuật và trong dân chúng nói chung? Các ý niệm nhân học nào nằm dưới cuộc thảo luận về căn bản tự nhiên của gia đình?
b) Ý niệm luật tự nhiên trong việc kết hợp giữa một người đàn ông và một người đàn bà có được chấp nhận phổ quát giống như các người đã chịu phép rửa nói chung chấp nhận hay không?
c) Trong lý thuyết và trong thực hành, luật tự nhiên trong việc kết hợp nam nữ đã bị thách thức ra sao dưới ánh sáng tạo lập gia đình? Luật này đã được đề xuất và đào sâu ra sao trong các định chế dân sự và Giáo Hội?
d) Trong các trường hợp người Công Giáo không giữ đạo hoặc người tự tuyên bố vô tín ngưỡng yêu cầu cử hành hôn phối, hãy cho biết thách thức mục vụ này đã được xử trí ra sao?
3. Chăm sóc mục vụ gia đình trong việc phúc âm hóa
a) Trong mấy thập niên gần đây, kinh nghiệm nào đã diễn ra liên quan tới việc chuẩn bị hôn nhân? Đâu là các cố gắng nhằm kích thích trách vụ phúc âm hóa các cặp vợ chồng và các gia đình? Làm thế nào để cổ vũ việc hiểu gia đình như là “Giáo Hội tại gia”?
b) Qúy vị thành công ra sao khi đề xuất một cách cầu nguyện trong gia đình có thể thắng vượt được các phức tạp của cuộc sống và nền văn hóa ngày nay?
c) Trong cuộc khủng hoảng giữa các thế hệ hiện nay, các gia đình Kitô hữu đã thành công ra sao trong việc chu toàn ơn gọi lưu truyền đức tin của mình?
d) Làm cách nào các Giáo Hội địa phương và các phong trào về linh đạo gia đình đã có thể tạo ra cách thế hành động gương mẫu?
e) Các cặp vợ chồng và các gia đình đã có thể đóng góp được gì trong việc truyền bá ý niệm khả tín và có tính toàn diện về lứa đôi và gia đình Kitô Giáo ngày nay?
f) Giáo Hội đã cung cấp loại chăm sóc mục vụ nào để nâng đỡ các cặp vợ chồng đang thành hình và các cặp vợ chồng đang trong các tình huống khủng hoảng?
4. Chăm sóc mục vụ trong một số tình trạng khó khăn
a) Việc sống chung hay sống thử có phải là một thực tại mục vụ trong Giáo Hội đặc thù của qúy vị không? Qúy vị có thể ước đoán phần trăm của nó không?
b) Có những cuộc kết hợp không được nhìn nhận cả về tôn giáo và dân sự hay không? Có các số thống kê đáng tin về vấn đề này hay không?
c) Các cặp ly thân và những người ly dị và tái hôn có phải là một thực tại mục vụ trong Giáo Hội đặc thù của qúy vị hay không? Qúy vị có thể phóng đoán phần trăm hay không? Qúy vị xử lý ra sao các tình huống này trong các chương trình mục vụ thích đáng?
d) Trong tất cả các trường hợp trên, người đã chịu phép rửa sống ra sao trong hoàn cảnh bất bình thường? Họ có ý thức việc đó không? Hay họ chỉ đơn giản dửng dưng thôi? Họ có cảm thấy bị cho ra rìa hay đau khổ vì việc không được chịu các bí tích không?
e) Người ly dị và tái hôn đặt cho Giáo Hội những câu hỏi nào liên quan tới các bí tích Thánh Thể và Hòa Giải? Trong số những người thấy mình ở trong tình huống này, bao nhiêu người xin được chịu các bí tích?
f ) Việc đơn giản hóa các thủ tục giáo luật nhằm nhìn nhận việc tuyên bố vô hiệu dây hôn phối có đóng góp gì tích cực cho việc giải quyết các vấn đề của những người liên lụy này không? Nếu có, nó sẽ mang hình thức nào?
g) Có chăng một thừa tác vụ đảm nhiệm các trường hợp này? Hãy mô tả thừa tác mục vụ này? Có chăng các chương trình cấp quốc gia và cấp giáo phận? Lòng thương xót của Thiên Chúa đã được công bố ra sao cho những cặp ly thân và những người ly dị và tái hôn và Giáo Hội đã đem vào thực hành thế nào sự hỗ trợ của mình dành cho họ trong hành trình đức tin của họ?
5. Về các cuộc kết hợp của những người đồng tính
a) Tại quốc gia của qúy vị, có luật thừa nhận các cuộc kết hợp dân sự của những người đồng tính và đặt chúng ngang hàng với hôn nhân không?
b) Đâu là thái độ của các Giáo Hội địa phương và đặc thù đối với cả Nhà Nước trong tư cách người cổ vũ các cuộc kết hợp dân sự giữa những người đồng tính lẫn những người liên hệ tới loại kết hợp này?
c) Chú tâm mục vụ nào có thể dành cho những người chọn sống trong loại kết hợp này?
d) Trong các vụ kết hợp của người đồng tính đã nhận con nuôi, ta có thể làm gì về phương diện mục vụ liên quan tới việc lưu truyền đức tin?
6. Việc giáo dục con cái trong các cuộc hôn nhân bất bình thường
a) Đâu là tỷ lệ ước lượng con số các trẻ em và thiếu niên sống trong các trường hợp này so với các trẻ em sinh ra và được dưỡng dục trong các gia đình được tạo lập cách bình thường?
b) Các cha mẹ trong các tình huống này đã tiếp cận Giáo Hội ra sao? Họ yêu cầu những gì? Họ chỉ yêu cầu chịu bí tích hay còn muốn việc dạy giáo lý và giảng dạy tổng quát về tôn giáo nữa?
c) Các Giáo Hội đặc thù cố gắng ra sao nhằm thỏa mãn nhu cầu của các cha mẹ các trẻ em này, khi họ muốn cung cấp nền giáo dục Kitô Giáo cho chúng?
d) Trong các trường hợp này, thực hành bí tích diễn tiến ra sao: chuẩn bị, ban bí tích và đồng hành?
7. Vợ chồng cởi mở đối với sự sống
a) Các Kitô hữu ngày nay biết gì cụ thể về giáo huấn của Humanae Vitae liên quan tới việc làm cha mẹ có trách nhiệm? Họ ý thức ra sao về việc lượng giá luân lý các phương pháp khác nhau trong việc kế hoạch hóa gia đình? Về phương diện mục vụ, qúy vị có thể nêu ra một số đào sâu nào đó liên quan đến vấn đề này không??
b) Giáo huấn luân lý trên có được chấp nhận không? Những khía cạnh nào gây khó khăn hơn cả cho đa số các cặp vợ chồng trong việc chấp nhận giáo huấn này?
c) Các phương pháp tự nhiên nào được các Giáo Hội đặc thù cổ vũ giúp các cặp vợ chồng áp dụng được giáo huấn của Humanae Vitae?
d) Kinh nghiệm của qúy vị ra sao về chủ đề này trong việc thực hành bí tích hoà giải và tham dự Bí Tích Thánh Thể?
e) Về vấn đề này, người ta thấy những dị biệt nào giữa giáo huấn của Giáo Hội và nền giáo dục dân sự?
f) Làm thế nào để cổ vũ một thái độ cởi mở hơn đối với việc có con cái? Làm thế nào để cổ vũ việc gia tăng sinh sản?
8. Liên hệ giữa gia đình và con người
a) Chúa Giêsu Kitô vốn mạc khải mầu nhiệm và ơn gọi của con người nhân bản. Làm thế nào để gia đình có thể là nơi lợi thế để mầu nhiệm và ơn gọi này diễn ra?
b) Các tình huống gay cấn nào trong gia đình ngày nay có thể cản trở cuộc gặp gỡ của con người với Chúa Kitô?
c) Các khủng hoảng đức tin mà người ta có thể trải nghiệm hiện nay ảnh hưởng đến mức nào tới cuộc sống gia đình?
9. Các thách đố và đề nghị khác
Còn các thách đố và đề nghị nào khác liên quan tới các chủ điểm trong các câu hỏi trên đây mà qúy vị cho là khẩn trương và hữu ích cần xem sét không?
Ngày 5 tháng Mười Một vừa qua, một buổi họp báo đã được tổ chức tại Phòng Báo Chí của Tòa Thánh. Trong buổi họp báo này, Đức TGM Lorenzo Baldisseri, Tổng Thư Ký của THĐ, cho hay: để chuẩn bị cho THĐ vào năm tới, cuộc họp lần thứ năm của Hội Đồng THĐ Thường Lệ đã diễn ra trong các ngày 7-8 tháng Mười vừa qua để đưa ra Tài Liệu Chuẩn Bị. Tài liệu này bao gồm một trình bày tổng quát về chủ đề, các trích dẫn thánh kinh và huấn quyền về chủ đề, và một bản câu hỏi về các thách đố chính của gia đình hiện đại. Sau đây là nguyên văn Tài Liệu Chuẩn Bị.
I. Thượng Hội Đồng: Gia Đình và Việc Phúc Âm Hóa
Sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, được Chúa trực tiếp ủy thác cho các môn đệ của Người, vẫn tiếp diễn trong Giáo Hội trong suốt giòng lịch sử. Cuộc khủng hoảng xã hội và tâm linh, hết sức hiển nhiên trong thế giới ngày nay, đang trở thành một thách đố mục vụ trong sứ mệnh phúc âm hóa của Giáo Hội liên quan tới gia đình, vốn là viên đá sinh tử xây dựng nên xã hội và cộng đồng Giáo Hội. Trước đây, chưa bao giờ việc công bố Tin Mừng về gia đình trong bối cảnh này đã khẩn trương và cần thiết hơn. Sự quan trọng của chủ đề này được phản ảnh trong sự kiện Đức Thánh Cha đã quyết định triệu tập một THĐ Giám Mục; THĐ này sẽ là một hành trình gồm hai giai đoạn: đầu tiên, một Phiên Khoáng Đại Đặc Biệt trong năm 2014, nhằm xác định “status quaestionis” (tình huống của vấn đề) và thu lượm kinh nghiệm và đề nghị của các giám mục trong việc công bố và sống thực Tin Mừng Gia Đình một cách khả tín; thứ hai, một Phiên Khoáng Đại Thường Lệ trong năm 2015 nhằm đưa ra các chỉ dẫn có thể áp dụng được trong lãnh vực chăm sóc mục vụ cho các con người và gia đình.
Các lo âu chưa từng nghe thấy cho tới những năm gần đây nay đã xuất hiện do hậu quả của nhiều tình huống khác nhau, từ tập tục sống chung khá phổ biến mà không dẫn tới hôn nhân, đôi khi còn loại bỏ cả ý niệm hôn nhân nữa, cho tới các cuộc kết hợp đồng tính giữa những người thường được phép nhận con nuôi. Các tình huống mới đòi Giáo Hội phải chú tâm và chăm sóc mục vụ là những tình huống này: các cuộc hôn nhân hỗn hợp và khác đạo; gia đình có cha hoặc mẹ đơn lẻ; đa thê; hôn nhân với vấn đề hồi môn sau đó, một hồi môn đôi khi bị hiểu như giá mua người đàn bà; hệ thống đẳng cấp (caste); văn hóa phi cam kết và giả thiết rằng dây hôn phối chỉ có tính tạm thời; các hình thức duy nữ phản Giáo Hội; di dân và việc tái lên công thức đối với chính ý niệm gia đình; chủ nghĩa đa nguyên duy tương đối trong quan niệm về hôn nhân; ảnh hưởng truyền thông đối với nền văn hóa bình dân trong cái hiểu về hôn nhân và đời sống gia đình; các khuynh hướng tiềm ẩn về tư duy trong các đề xuất luật pháp nhằm hạ giá ý niệm vĩnh viễn và lòng trung thành của giao ước hôn nhân; gia tăng tập tục làm mẹ mướn (surrogate motherhood, cho thuê dạ con); và các giải thích mới lạ về điều được coi là nhân quyền. Bên trong Giáo Hội, có nhiều dấu hiệu cho thấy đức tin vào tính bí tích của hôn nhân và sức mạnh hàn gắn của Bí Tích Sám Hối càng ngày càng yếu đi hoặc hoàn toàn bị loại bỏ.
Thành thử, ta hiểu được tính khẩn trương của việc mời gọi hàng giám mục thế giới họp “cum et sub Petro” (cùng với và dưới quyền Phêrô) để bàn thảo các thách đố này. Thí dụ, chỉ cần nghĩ tới sự kiện: do tình huống hiện nay, rất nhiều trẻ em và người trẻ sẽ không bao giờ được thấy cha mẹ chúng lãnh nhận các bí tích, là đủ để ta hiểu các thách đố đối với việc phúc âm hóa do tình huống hiện nay tạo ra khẩn trương như thế nào; ta có thể nhận thấy những thách đố này ở hầu hết mọi nơi trên thế giới. Song hành với thực trạng này, ta thấy đại đa số hiện nay chấp nhận giáo huấn lòng thương xót Chúa và sự quan tâm đối với người đau khổ, đang đứng bền lề xã hội, cả theo nghĩa địa dư lẫn nghĩa hiện sinh. Thành thử, đại đa số đang mong chờ các quyết định mục vụ sẽ được đưa ra liên quan tới gia đình. Ngoài tính cần thiết và khẩn trương ra, sự suy tư về các vấn đề này của THĐ Giám Mục còn được coi như một bổn phận đức bác ái đối với những ai được trao phó cho các giám mục coi sóc và đối với toàn thể gia đình nhân loại.
II. Giáo Hội và Tin Mừng Gia Đình
Tin vui tình thương Thiên Chúa phải được công bố cho mọi người đang đích thân sống kinh nghiệm nhân bản nền tảng là lứa đôi và hiệp thông dẫn tới hồng ân con cái, tức cộng đồng gia đình. Các giáo huấn đức tin về gia đình phải được trình bày theo cách truyền thông và hữu hiệu, để chúng tới được các tâm hồn và biến đổi chúng theo thánh ý Thiên Chúa, một thánh ý vốn được tỏ lộ nơi Chúa Giêsu Kitô.
Về các nguồn Thánh Kinh liên quan tới hôn nhân và gia đình, tài liệu này chỉ trích dẫn các tham chiếu chủ yếu. Điều này cũng đúng đối với việc trích dẫn Huấn Quyền: chỉ trích dẫn các điều có tính phổ quát, trong đó có thêm một số bản văn của Hội Đồng Giáo Hoàng Về Gia Đình. Các giám mục tham dự THĐ được tự do trích dẫn các tài liệu từ các hội đồng giám mục của các ngài.
Ở mọi thời và trong nhiều nền văn hóa khác nhau, không thiếu giáo huấn rõ ràng của các mục tử cũng như các chứng từ cụ thể của tín hữu nam nữ, những người bất chấp các hoàn cảnh khác nhau vẫn luôn sống Tin Mừng Gia Đình như một hồng phúc khôn sánh đối với đời họ và con cái họ. Cam kết của THĐ Đặc Biệt sắp tới được gợi hứng và nâng đỡ bởi ý muốn thông truyền sứ điệp này một cách mạnh mẽ hơn, hy vọng rằng “kho tàng mạc khải, vốn được ủy thác cho Giáo Hội, mỗi ngày mỗi tràn ngập tâm hồn từng người hơn” (Dei Verbum, số 26).
Kế hoạch Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc
Vẻ đẹp của sứ điệp Thánh Kinh về gia đình bắt nguồn từ việc dựng nên người đàn ông và người đàn bà, cả hai giống hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa (xem St 1:24-31; 2:4-25). Được liên kết với nhau bằng sợi dây bí tích bất khả tiêu, những người kết hôn cảm nghiệm được cái đẹp của tình yêu, tình cha, tình mẹ, và phẩm giá tối cao của việc nhờ cách này, được tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Trong hồng ân hoa trái phát sinh từ cuộc kết hợp của mình, họ đảm nhận trách nhiệm dưỡng nuôi và giáo dục những con người khác cho tương lai nhân loại. Nhờ việc sinh sản, người đàn ông và người đàn bà chu toàn trong đức tin ơn gọi trở thành người cộng tác của Thiên Chúa trong việc bảo vệ sáng thế và phát triển gia đình nhân loại.
Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhận định về khía cạnh này trong Familiaris consortio như sau: “Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh và họa ảnh Người (xem St 1:26,27), khi mời gọi họ bước vào hiện hữu qua ngả yêu thương, Người cũng đồng thời kêu gọi họ hướng về yêu thương. Thiên Chúa là yêu thương (xem Ga 1Ga 4:8) và chính nơi Người, Người vẫn sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương đầy tính bản vị. Khi tạo nên nhân loại giống hình ảnh Người và liên tục duy trì họ hiện hữu, Thiên Chúa đã ghi khắc nơi nhân tính người đàn ông và người đàn bà ơn gọi, và do đó khả năng và trách nhiệm, yêu thương và hiệp thông (Gaudium et spes, số 12). Do đó, yêu thương là ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của mọi con người nhân bản” (FC, số 11).
Kế hoạch của Thiên Chúa Hoá Công, một kế hoạch bị tội nguyên tổ gây trở ngại (xem St 3:1-24), đã tự vén mở qua giòng lịch sử trong các biến cố của dân riêng cho tới tận thời viên mãn, lúc, với cuộc nhập thể của Con Thiên Chúa, không những ý muốn cứu vớt của Thiên Chúa được xác nhận, mà cả ơn cứu chuộc đem lại ơn thánh theo thánh ý này nữa.
Con Thiên Chúa, Ngôi Lời thành xác phàm (xem Ga 1:14) trong cung lòng Mẹ Đồng Trinh, đã sống và lớn lên trong gia đình Nadarét và tham dự tiệc cưới tại Cana, nơi Người làm tăng tầm quan trọng của lễ hội bằng “dấu lạ” đầu tiên (xem Ga 2:1-11). Trong hân hoan, Người hoan nghinh việc tiếp rước Người trong gia đình các môn đệ Người (xem Mc 1:29-31; 2:13-17) và an ủi gia đình bằng hữu của Người đang gặp tang chế tại Bêtania (xem Mc 10:38-42; Ga 11:1-44). Chúa Giêsu Kitô phục hồi vẻ đẹp của hôn nhân, vì một lần nữa, Người đề xuất kế hoạch của Thiên Chúa từng bị bỏ ngang vì sự cứng lòng của trái tim con người, ngay bên trong truyền thống dân Israel (xem Mt 5:31-32; 19:3-12; Mc 10:1-12; Lc 16:18). Trở về thời nguyên thủy, Chúa Giêsu dạy ta sự đơn nhất và lòng trung thành của vợ chồng, bác bỏ tập quán đuổi vợ và ngoại tình.
Chính qua vẻ đẹp phi thường của tình yêu nhân bản, vốn được đề cao bằng âm sắc linh hứng trong Diễm Ca, và dây hôn phối do các tiên tri như Hôxêa (xem Hs 1:2; 3:3) và Malaki (xem Ml 2:13-16) kêu gọi và bảo vệ, Chúa Giêsu đã xác quyết phẩm giá nguyên thủy của tình yêu hôn nhân nơi người đàn ông và người đàn bà.
Giáo huấn của Giáo Hội về gia đình
Ngay trong cộng đồng Kitô Giáo tiên khởi, gia đình đã xuất hiện như một “Giáo Hội tại gia” rồi (xem Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, số 1655): Trong các điều gọi là “qui luật về gia đình” (family canons) của các tông thư Tân Ước, gia đình trong thế giới cổ thời được nhận diện như là nơi diễn ra sự liên đới sâu sắc giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con cái, và giữa người giầu và người nghèo (xem Eph 5:21-6:9; Cl 3:18-4:1; 1Tm 2:8-15; Tt 2:1-10; 1Pr 2:13-3:7; xem thêm Thư Philêmôn). Cách riêng, Thư Êphêsô nhìn nhận tình yêu phu thê giữa một người đàn ông và một người đàn bà là “một mầu nhiệm lớn”, vì đã biến tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo Hội của Người thành hiện thực (xem Eph 5:31-32).
Trong nhiều thế kỷ, nhất là từ thời cận đại cho tới nay, Giáo Hội đã đưa ra một giáo huấn liên tục và tiệm tiến về gia đình và hôn nhân là định chế vốn làm nền cho nó. Một trong các phát biểu đáng lưu ý nhất đã được Công Đồng Vatican II đề xuất trong Hiến Chế Mục VụGaudium et spes; hiến chế này, khi bàn tới một số vấn đề khẩn trương, đã dành trọn một chương để cổ vũ phẩm giá hôn nhân và gia đình, như được thấy trong đoạn mô tả các giá trị của chúng đối với việc tạo lập xã hội: “gia đình, nơi gặp gỡ của nhiều thế hệ giúp nhau đạt được sự khôn ngoan sâu rộng hơn và hoà hợp được các quyền lợi bản thân với các đòi hỏi khác của đời sống xã hội, đã tạo nên nền tảng cho xã hội” (GS, số 52).
Điều đặc biệt đáng lưu ý là lời kêu gọi của nó đối với một nền linh đạo lấy Chúa Kitô làm trung tâm sinh hoạt đức tin của vợ chồng: “Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa hằng sống và thừa hưởng phẩm giá nhân vị chân chính, vợ chồng hãy kết hợp với nhau trong cùng một tình âu yếm, trong cùng một tư duy và trong cùng một sự thánh thiện hỗ tương, ngõ hầu, theo gương Chúa Kitô, Đấng vốn là nguyên lý của sự sống, vợ chồng có thể nhờ các hân hoan và hy sinh trong ơn gọi của mình, nhờ lòng trung tín trong tình yêu của mình, mà trở nên các chứng nhân của mầu nhiệm yêu thương mà Chúa đã tỏ lộ cho thế giới qua cái chết và sự sống lại của Người” (GS, số 52).
Sau Công Đồng Vatican II, các vị kế nhiệm Thánh Phêrô cũng đã dùng huấn quyền của các ngài mà phong phú hóa giáo huấn về hôn nhân và gia đình, nhất là Đức GH Phaolô VI với thông điệp Humanae vitae, là thông điệp đưa ra các giáo huấn chuyên biệt cả về nguyên tắc lẫn hướng dẫn. Sau đó, trong Tông Huấn Familiaris consortio, Đức GH Gioan Phaolô II muốn nhấn mạnh tới việc đề xuất kế hoạch Thiên Chúa nhân nói tới các sự thật về nguồn gốc tình yêu vợ chồng và nguồn gốc gia đình: “ ‘Nơi’ duy nhất làm cho việc tự hiến theo nghĩa thật sự trọn vẹn này trở thành khả hữu chính là hôn nhân, tức giao ước tình yêu hay sự lựa chọn có ý thức và tự do qua đó, người đàn ông và người đàn bà chấp nhận cộng đồng sự sống và tình yêu đầy thân ái, vốn được chính Thiên Chúa mong muốn” (xem GS, số 48), một cộng đồng chỉ biểu lộ được ý nghĩa chân thực của nó dưới ánh sáng này mà thôi. Định chế hôn nhân không phải là một can thiệp không nên có của xã hội hay của một thẩm quyền nào đó, cũng không phải là việc áp đặt một hình thức ngoại tại nào. Đúng hơn, nó là một đòi hỏi nội tại của giao ước yêu thương phu phụ, một giao ước được công khai xác nhận là duy nhất và độc chiếm, để hai bên sống tuyệt đối trung thành với nhau theo kế hoạch của Thiên Chúa Hóa Công. Tự do bản vị, thay vì bị lòng trung thành này giới hạn, thực ra đã được che chở khỏi mọi hình thức duy chủ quan hay duy tương đối, để trở thành người tham dự vào Sự Khôn Ngoan sáng thế” (FC 11).
Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo đã gom lại một nơi các khía cạnh căn bản của giáo huấn này: “Giao ước hôn nhân, qua đó, một người đàn ông và một người đàn bà thành lập với nhau một cộng đồng thân mật sống và yêu thương nhau, đã được Đấng Tạo Hóa thiết lập và ban cho những luật lệ riêng biệt. Do chính bản chất của nó, giao ước này được sắp đặt cho thiện ích của vợ chồng, cũng như việc sinh sản và giáo dục con cái. Chúa Kitô đã nâng hôn nhân giữa những người đã rửa tội lên hàng một bí tích” [xem Công Đồng Vatican II,Gaudium et spes, số 48; Bộ Giáo Luật, số 1055,1]” (Sách GLCGHCG, 1660).
Học lý trình bày trong Sách Giáo Lý này xem sét cả các nguyên tắc thần học lẫn các tác phong luân lý, được khai triển dưới hai đầu đề riêng biệt: Bí Tích Hôn Nhân (các số 1601-1658) và Điều Răn Thứ Sáu (các số 2331-2391). Đọc cẩn thận các phần này của Sách Giáo Lý, ta sẽ có được một cái hiểu cập nhật về học thuyết của đức tin, để hỗ trợ hành động của Giáo Hội trước các thách đố hiện nay. Nguyên tắc mục vụ của Giáo Hội được gợi hứng từ sự thật về hôn nhân, một sự thật được xem sét dưới ánh sáng kế sách Thiên Chúa, Đấng đã tạo nên người đàn ông và người đàn bà, và là Đấng, vào thời viên mãn, đã mạc khải nơi Chúa Giêsu tính tròn đầy của tình yêu vợ chồng, lúc được nâng lên hàng bí tích. Đặt cơ cở trên sự ưng thuận, hôn nhân Kitô Giáo cũng được ban cho nhiều hiệu quả như thiện ích và bổn phận vợ chồng. Nhưng, hôn nhân không được miễn nhiễm khỏi hậu quả tội lỗi (Xem St 3:1-24), một việc có thể gây ra những vết thương sâu xa, thậm chí còn hạ thấp cả phẩm giá của bí tích nữa.
Thông điệp mới đây của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, tựa là Lumen Fidei (ánh sáng đức tin) có đề cập tới gia đình trong bối cảnh một suy tư về việc đức tin cho ta biết “các sợi dây nối kết người ta lại với nhau bền vững ra sao khi Thiên Chúa hiện diện ở giữa họ” (LF, số 50). “Khung cảnh đầu tiên trong đó đức tin soi sáng cho kinh thành con người là gia đình. Tôi nghĩ trước hết và đầu hết tới sự kết hợp bền vững giữa một người đàn ông và một người đàn bà trong hôn nhân. Sự kết hợp này phát sinh từ tình yêu của họ, như là dấu chỉ và là sự hiện diện của chính tình yêu Thiên Chúa, và phát sinh từ việc nhìn nhận và chấp nhận sự tốt lành của dị biệt hóa giới tính, nhờ đó, các người phối ngẫu có thể trở nên một thân xác (xem St 2:24), và có khả năng sinh ra một sự sống mới, vốn là điều nói lên sự tốt lành, khôn ngoan và kế hoạch yêu thương của Đấng Hóa Công. Đặt cơ sở trên tình yêu này, người đàn ông và người đàn bà có thể thề hứa yêu thương nhau trong một cử chỉ vận dụng được trọn cả đời họ và phản ảnh được nhiều đặc điểm của đức tin. Thề hứa yêu thương nhau mãi mãi chỉ có thể có khi ta nhận thức được một kế hoạch lớn hơn chính các dự án của ta, một kế hoạch nâng đỡ ta và giúp ta khả năng trao phó trọn tương lai ta cho người ta yêu” (LF, số 52). “Đức tin không phải là nơi trú ẩn của những người nhát gan, nhưng là một điều thăng tiến đời ta. Nó làm ta ý thức được tiếng gọi kỳ diệu, tức lời mời gọi của tình yêu. Nó bảo đảm với ta rằng tình yêu này đáng tin tưởng và đáng ôm lấy, vì nó đặt căn bản trên lòng trung thành của Thiên Chúa, một lòng trung thành mạnh hơn sự yếu đuối của ta” (LF, số 53).
III. Bản Câu hỏi
Các câu hỏi dưới đây cho phép các Giáo Hội đặc thù tham dự tích cực vào việc chuẩn bị THĐ Đặc Biệt nhằm mục đích công bố Tin Mừng trong các thách đố ngày nay liên quan tới gia đình.
1. Về việc phổ biến Sách Thánh và Huấn Quyền Giáo Hội liên quan tới gia đình
a) Các giáo huấn của GHCG về giá trị của hôn nhân trong Thánh Kinh, trong Gaudium et spes, Familiaris consortio và các văn kiện khác của Huấn Quyền sau Công Đồng đã được người thời nay hiểu biết ra sao? Các tín hữu của ta đã được dào tạo ra sao liên quan tới giáo huấn của Giáo Hội về đời sống gia đình?
b) Trong các trường hợp giáo huấn của Giáo Hội được biết đến, nó có được chấp nhận trọn vẹn không? Hay là gặp khó khăn khi đem ra thực hành? Các khó khăn này là các khó khăn nào?
c) Việc giáo huấn của Giáo Hội trong các chương trình mục vụ cấp quốc gia, cấp giáo phận và cấp giáo xứ được phổ biến ra sao? Loại giáo lý nào đã được giảng dạy về gia đình?
d) Mức độ và các khía cạnh đặc biệt nào trong việc dạy dỗ này đã thực sự được biết đến, được chấp nhận, bị bác bỏ và/hoặc bị chỉ trích trong các môi trường ở bên ngoài Giáo Hội? Đâu là các nhân tố văn hóa làm cản trở việc tiếp nhận trọn vẹn giáo huấn của Giáo Hội về gia đình?
2. Về hôn nhân theo luật tự nhiên
a) Ý niệm luật tự nhiên có vị trí nào trong các môi trường văn hóa của xã hội: trong các định chế, trong giáo dục, trong các giới học thuật và trong dân chúng nói chung? Các ý niệm nhân học nào nằm dưới cuộc thảo luận về căn bản tự nhiên của gia đình?
b) Ý niệm luật tự nhiên trong việc kết hợp giữa một người đàn ông và một người đàn bà có được chấp nhận phổ quát giống như các người đã chịu phép rửa nói chung chấp nhận hay không?
c) Trong lý thuyết và trong thực hành, luật tự nhiên trong việc kết hợp nam nữ đã bị thách thức ra sao dưới ánh sáng tạo lập gia đình? Luật này đã được đề xuất và đào sâu ra sao trong các định chế dân sự và Giáo Hội?
d) Trong các trường hợp người Công Giáo không giữ đạo hoặc người tự tuyên bố vô tín ngưỡng yêu cầu cử hành hôn phối, hãy cho biết thách thức mục vụ này đã được xử trí ra sao?
3. Chăm sóc mục vụ gia đình trong việc phúc âm hóa
a) Trong mấy thập niên gần đây, kinh nghiệm nào đã diễn ra liên quan tới việc chuẩn bị hôn nhân? Đâu là các cố gắng nhằm kích thích trách vụ phúc âm hóa các cặp vợ chồng và các gia đình? Làm thế nào để cổ vũ việc hiểu gia đình như là “Giáo Hội tại gia”?
b) Qúy vị thành công ra sao khi đề xuất một cách cầu nguyện trong gia đình có thể thắng vượt được các phức tạp của cuộc sống và nền văn hóa ngày nay?
c) Trong cuộc khủng hoảng giữa các thế hệ hiện nay, các gia đình Kitô hữu đã thành công ra sao trong việc chu toàn ơn gọi lưu truyền đức tin của mình?
d) Làm cách nào các Giáo Hội địa phương và các phong trào về linh đạo gia đình đã có thể tạo ra cách thế hành động gương mẫu?
e) Các cặp vợ chồng và các gia đình đã có thể đóng góp được gì trong việc truyền bá ý niệm khả tín và có tính toàn diện về lứa đôi và gia đình Kitô Giáo ngày nay?
f) Giáo Hội đã cung cấp loại chăm sóc mục vụ nào để nâng đỡ các cặp vợ chồng đang thành hình và các cặp vợ chồng đang trong các tình huống khủng hoảng?
4. Chăm sóc mục vụ trong một số tình trạng khó khăn
a) Việc sống chung hay sống thử có phải là một thực tại mục vụ trong Giáo Hội đặc thù của qúy vị không? Qúy vị có thể ước đoán phần trăm của nó không?
b) Có những cuộc kết hợp không được nhìn nhận cả về tôn giáo và dân sự hay không? Có các số thống kê đáng tin về vấn đề này hay không?
c) Các cặp ly thân và những người ly dị và tái hôn có phải là một thực tại mục vụ trong Giáo Hội đặc thù của qúy vị hay không? Qúy vị có thể phóng đoán phần trăm hay không? Qúy vị xử lý ra sao các tình huống này trong các chương trình mục vụ thích đáng?
d) Trong tất cả các trường hợp trên, người đã chịu phép rửa sống ra sao trong hoàn cảnh bất bình thường? Họ có ý thức việc đó không? Hay họ chỉ đơn giản dửng dưng thôi? Họ có cảm thấy bị cho ra rìa hay đau khổ vì việc không được chịu các bí tích không?
e) Người ly dị và tái hôn đặt cho Giáo Hội những câu hỏi nào liên quan tới các bí tích Thánh Thể và Hòa Giải? Trong số những người thấy mình ở trong tình huống này, bao nhiêu người xin được chịu các bí tích?
f ) Việc đơn giản hóa các thủ tục giáo luật nhằm nhìn nhận việc tuyên bố vô hiệu dây hôn phối có đóng góp gì tích cực cho việc giải quyết các vấn đề của những người liên lụy này không? Nếu có, nó sẽ mang hình thức nào?
g) Có chăng một thừa tác vụ đảm nhiệm các trường hợp này? Hãy mô tả thừa tác mục vụ này? Có chăng các chương trình cấp quốc gia và cấp giáo phận? Lòng thương xót của Thiên Chúa đã được công bố ra sao cho những cặp ly thân và những người ly dị và tái hôn và Giáo Hội đã đem vào thực hành thế nào sự hỗ trợ của mình dành cho họ trong hành trình đức tin của họ?
5. Về các cuộc kết hợp của những người đồng tính
a) Tại quốc gia của qúy vị, có luật thừa nhận các cuộc kết hợp dân sự của những người đồng tính và đặt chúng ngang hàng với hôn nhân không?
b) Đâu là thái độ của các Giáo Hội địa phương và đặc thù đối với cả Nhà Nước trong tư cách người cổ vũ các cuộc kết hợp dân sự giữa những người đồng tính lẫn những người liên hệ tới loại kết hợp này?
c) Chú tâm mục vụ nào có thể dành cho những người chọn sống trong loại kết hợp này?
d) Trong các vụ kết hợp của người đồng tính đã nhận con nuôi, ta có thể làm gì về phương diện mục vụ liên quan tới việc lưu truyền đức tin?
6. Việc giáo dục con cái trong các cuộc hôn nhân bất bình thường
a) Đâu là tỷ lệ ước lượng con số các trẻ em và thiếu niên sống trong các trường hợp này so với các trẻ em sinh ra và được dưỡng dục trong các gia đình được tạo lập cách bình thường?
b) Các cha mẹ trong các tình huống này đã tiếp cận Giáo Hội ra sao? Họ yêu cầu những gì? Họ chỉ yêu cầu chịu bí tích hay còn muốn việc dạy giáo lý và giảng dạy tổng quát về tôn giáo nữa?
c) Các Giáo Hội đặc thù cố gắng ra sao nhằm thỏa mãn nhu cầu của các cha mẹ các trẻ em này, khi họ muốn cung cấp nền giáo dục Kitô Giáo cho chúng?
d) Trong các trường hợp này, thực hành bí tích diễn tiến ra sao: chuẩn bị, ban bí tích và đồng hành?
7. Vợ chồng cởi mở đối với sự sống
a) Các Kitô hữu ngày nay biết gì cụ thể về giáo huấn của Humanae Vitae liên quan tới việc làm cha mẹ có trách nhiệm? Họ ý thức ra sao về việc lượng giá luân lý các phương pháp khác nhau trong việc kế hoạch hóa gia đình? Về phương diện mục vụ, qúy vị có thể nêu ra một số đào sâu nào đó liên quan đến vấn đề này không??
b) Giáo huấn luân lý trên có được chấp nhận không? Những khía cạnh nào gây khó khăn hơn cả cho đa số các cặp vợ chồng trong việc chấp nhận giáo huấn này?
c) Các phương pháp tự nhiên nào được các Giáo Hội đặc thù cổ vũ giúp các cặp vợ chồng áp dụng được giáo huấn của Humanae Vitae?
d) Kinh nghiệm của qúy vị ra sao về chủ đề này trong việc thực hành bí tích hoà giải và tham dự Bí Tích Thánh Thể?
e) Về vấn đề này, người ta thấy những dị biệt nào giữa giáo huấn của Giáo Hội và nền giáo dục dân sự?
f) Làm thế nào để cổ vũ một thái độ cởi mở hơn đối với việc có con cái? Làm thế nào để cổ vũ việc gia tăng sinh sản?
8. Liên hệ giữa gia đình và con người
a) Chúa Giêsu Kitô vốn mạc khải mầu nhiệm và ơn gọi của con người nhân bản. Làm thế nào để gia đình có thể là nơi lợi thế để mầu nhiệm và ơn gọi này diễn ra?
b) Các tình huống gay cấn nào trong gia đình ngày nay có thể cản trở cuộc gặp gỡ của con người với Chúa Kitô?
c) Các khủng hoảng đức tin mà người ta có thể trải nghiệm hiện nay ảnh hưởng đến mức nào tới cuộc sống gia đình?
9. Các thách đố và đề nghị khác
Còn các thách đố và đề nghị nào khác liên quan tới các chủ điểm trong các câu hỏi trên đây mà qúy vị cho là khẩn trương và hữu ích cần xem sét không?
Vũ Văn An11/8/2013(vietcatholic)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét