04/08/2015
Thứ Ba sau Chúa Nhật
18 Quanh Năm
Thánh Gioan Maria
Vianê linh mục. Lễ nhớ. – Bổn mạng các linh mục
* Thánh nhân sinh năm 1786 tại Lyon. Sau
biết bao khó khăn gian khổ, người làm linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm
cha sở họ Ars thuộc giáo phận Benle. Người quả là vị mục tử gương mẫu: hoàn
toàn lo việc loan báo lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyện và hãm mình. Có nhiều
lúc, khuôn mặt người rạng rỡ khác thường, nhờ tình yêu bắt nguồn từ bí tích
Thánh Thể mà người đem hết lòng sốt sắng để vừa cử hành, vừa thờ phượng. Người
qua đời năm 1859.
Bài
Ðọc I: (Năm I) Ds 12, 1-13
"Môsê
không như tiên tri khác; sao các ngươi dám nói xấu ông ta?"
Trích
sách Dân Số.
Trong
những ngày ấy, Maria và Aaron nói xấu ông Môsê, vì vợ ông này là người xứ
Êthiôpia. Họ nói: "Thiên Chúa chỉ phán với một mình Môsê mà thôi ư? Người
chẳng phán cùng chúng ta như thế sao?" Chúa nghe biết sự ấy - vì Môsê là
người hiền lành nhất trong thiên hạ - Chúa liền phán cùng Môsê, Aaron và Maria
rằng: "Cả ba hãy đến nhà xếp giao ước".
Khi
cả ba ra đi, thì Chúa ngự xuống trong cột mây, đứng ngay ở cửa nhà xếp, gọi
Aaron và Maria. Hai người tiến tới, và Chúa phán rằng: "Hãy nghe lời Ta
nói đây: Nếu trong các ngươi có ai là tiên tri của Chúa, thì Ta hiện ra cùng
người ấy trong thị kiến; hay Ta nói truyện với người ấy trong giấc mộng. Nhưng
Môsê tôi tớ của Ta không phải thế. Ông rất trung thành trong cả nhà Ta. Ta trực
tiếp đối diện nói truyện với ông, ông thấy Chúa tỏ tường, không bí ẩn hay là
hình bóng. Vậy sao các ngươi dám chê trách Môsê tôi tớ của Ta?" Chúa nổi
giận họ mà bỏ đi, và đám mây trên nhà xếp cũng bay đi. Thế là Maria bị phung
cùi, mình trắng như tuyết.
Aaron
ngoảnh lại thấy bà ấy đã bị phung cùi, nên nói với Môsê rằng: "Thưa Ngài,
xin đừng phạt chúng tôi đã dại phạm tội. Xin đừng để em tôi nên như kẻ chết và
như trẻ sinh non? Ðây phân nửa thịt nó đã bị bệnh phung cùi làm thối nát".
Môsê kêu van cùng Chúa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin Chúa cứu chữa bà ấy".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 50, 3-4. 5-6a. 6bc-7. 12-13
Ðáp: Lạy Chúa, nguyện
thương con theo lòng nhân hậu Chúa, vì con đã phạm tội (c. 3a).
Xướng:
1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng
cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. -
Ðáp.
2)
Vì sự lỗi con thực là con biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội
phản nghịch cùng một Thiên Chúa. - Ðáp.
3)
Con thi hành điều ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán.
Này coi, con đã chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con. - Ðáp.
4)
Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương
nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh
Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 24, 4c và 5a
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con
trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 14, 22-36
"Xin
truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ
bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên
núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã
ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh
tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt
biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa" và các ông sợ hãi kêu
la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy
đây, đừng sợ". Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì
xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán:
"Hãy đến". Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng
Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng:
"Lạy Thầy, xin cứu con". Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà
nói: "Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền
thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng:
"Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!"
{Khi đã sang qua biển
hồ, các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra Ngài, dân địa phương liền
loan tin đi khắp cả vùng xung quanh, và người ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm
đau. Họ nài xin Ngài cho họ rờ đến tua áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến
thì đều được chữa lành}.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Chúa
Ði Trên Biển
Thiên
Chúa tỏ ra là một nhà giáo dục đại tài: Ngài luôn tôn trọng tư tưởng, dự định của
con người, nhưng với thời gian và qua dòng lịch sử, Ngài thanh lọc, kiện toàn
những gì không phù hợp với Nước Trời. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm
người cũng đi theo đường lối đó, như chúng ta có thể thấy trong bài Tin Mừng
hôm nay.
Sau
khi cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên đò sang bờ bên kia. Giải
tán dân chúng xong, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện một mình. Các môn đệ vâng lời
Thầy ra đi, nhưng có lẽ các ông không được hài lòng. Các ông đã hết sức kiên nhẫn
chờ đợi ngày Chúa Giêsu làm vua, cơ hội đó hôm nay đã đến, nhưng Chúa lại từ chối.
Không những bỏ lỡ cơ hội, Chúa còn ra lệnh cho các ông lập tức rời bỏ hiện trường.
Bất mãn, chán nản và mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Chúa Giêsu biết rõ tâm
trạng của các ông, không những bằng ánh mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu
nguyện trên triền núi. Ngài thấy các ông chèo chống ngược với sóng gió và ngược
với cả ý muốn. Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông. Ngài đã
làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài có quyền năng trên các tạo vật, Ngài có
chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy khi giờ của Ngài đến.
Lời
Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt tất cả niềm tin vào quyền năng của Chúa. Ngài
có chương trình cho mỗi người chúng ta. Ðiều quan trọng không phải là chúng ta
bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng
ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, chúng ta hãy đặt hết tin tưởng
vào Chúa, Ngài vẫn hiện diện để sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Hãy phó thác vào
quyền năng yêu thương của Ngài và như thế tâm hồn chúng ta sẽ được bình an.
Veritas Asia
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Thứ
Ba Tuần 18 TN1
Bài
đọc:
Num 12:1-13; Mt 14:22-36.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tội hoài nghi, kẻ
thù của đức tin.
Con
người cần phân biệt rõ ràng hai lãnh vực trong cuộc đời: (1) lãnh vực tự nhiên,
những gì con người có thể hiểu và điều khiển được; và (2) lãnh vực siêu nhiên,
những gì con người cần sự trợ giúp và sức mạnh của Thiên Chúa vì chúng vượt quá
sức con người.
Các
Bài Đọc hôm nay muốn nhắn nhủ con người phải biết phân biệt hai lãnh vực này và
tuyệt đối tin tưởng nơi Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, khi bà Miriam kiêu ngạo
cho mình cũng có uy quyền của Thiên Chúa và nghi ngờ uy quyền của Thiên Chúa hoạt
động qua ông Moses, Chúa đã phạt Bà bị cùi trong 7 ngày. Trong Phúc Âm, Chúa nhận
lời yêu cầu của Phêrô và cho phép ông đi trên mặt nước như Chúa; nhưng khi ông
sợ hãi sóng gió, ông bắt đầu chìm xuống và kêu cầu cùng Chúa. Ngài đến nắm tay
và trách ông: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?"
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Bà Miriam và ông Aaron nghi ngờ về thế giá của ông Moses.
1.1/
Lý do nghi ngờ:
Bà Miriam và ông Aaron phản đối ông Moses về người đàn bà xứ Cushite mà ông đã
lấy làm vợ. Họ nói: "Đức Chúa chỉ phán với một mình Moses sao? Người đã chẳng
phán với cả chúng ta nữa ư?" Và Đức Chúa nghe được.
+
Cushite thường được dùng để chỉ nước Ethiopia, nhưng cũng có thể chỉ một phần của
phía Bắc Arabia (Hab 3:7). Rất có thể người đàn bà mà ông Moses lấy làm vợ là
bà Zipporah của xứ Midian (Exo 2:21).
+
Cuộc kết hôn với người phụ nữ nước ngoài chỉ là một lý do phụ thuộc cho sự chống
đối; lý do thực sự là lòng ghen tỵ với địa vị của Moses như là một người trung
gian duy nhất giữa Thiên Chúa và dân chúng. Bà Miriam và ông Aaron rất khôn
ngoan che đậy lòng ghen tỵ của mình bằng cách nêu lên một lý do bên ngoài: ông
Moses đã kết hôn với người nước ngoài! Họ muốn địa vị như của ông Moses, và muốn
dân chúng kính phục họ như kính phục ông Moses.
+
Bà Miriam, người chị em của Aaron, được coi như là một nữ tiên tri (Exo 15:20).
Bài ca chiến thắng trong biến cố Xuất Hành được coi là của Bà.
+
Ông Moses là người "hiền lành" nhất trên đời. Danh từ Do-thái được
dùng ở đây là "anawim," có nghĩa là người biết khiêm nhường nhận
ra vị thế của mình và biết kính sợ Thiên Chúa. Nếu phải dịch chính xác hơn:
"người khiêm cung." Tác giả muốn đối chiếu đức tính của ông Moses với
bà Miriam.
1.2/
Thiên Chúa can thiệp: Đột
nhiên Đức Chúa phán với ông Moses, ông Aaron và bà Miriam: "Cả ba hãy đi
ra Lều Hội Ngộ!" Và ba người đã ra. Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và dừng
lại ở cửa Lều. Người gọi ông Aaron và bà Miriam, và hai người đi ra. Thiên Chúa
muốn làm sáng tỏ địa vị của Moses với địa vị của các ngôn sứ.
(1)
Vị thế của ngôn sứ: Người phán: "Hãy nghe Ta nói đây! Nếu trong các ngươi
có ai là ngôn sứ, thì Ta, Đức Chúa, Ta sẽ tỏ mình ra cho nó trong thị kiến, hoặc
sẽ phán với nó trong giấc mộng." Thị kiến và giấc mộng là hai hình thức phổ
thông nhất Thiên Chúa dùng để chuyển thông những gì Ngài muốn nói cho các ngôn
sứ, để họ loan báo lại cho dân chúng.
(2)
Vị thế độc tôn của ông Moses: "Nhưng với Moses tôi tớ Ta thì khác: tất cả
nhà Ta, Ta đã trao cho nó. Ta nói với nó trực diện, nhãn tiền, chứ không nói bí
ẩn, và hình dáng Đức Chúa, nó được ngắm nhìn. Vậy tại sao các ngươi không sợ
nói động đến Moses, tôi tớ Ta?" Ông Moses là người duy nhất được nhìn thấy
Thiên Chúa nhãn tiền mà không chết (Exo 33:20).
1.3/
Thiên Chúa trừng phạt bà Miriam: Đức Chúa nổi cơn thịnh nộ với họ mà bỏ đi. Khi mây bốc
lên khỏi Lều, thì bà Miriam bị cùi, mốc thếch như tuyết.
-
Phản ứng của ông Aaron: Ông Aaron nói với ông Moses: "Lỗi tại tôi, thưa
ngài, nhưng xin ngài đừng kết tội chúng tôi; chúng tôi đã dại dột mà phạm lỗi
và đáng tội. Xin đừng để cho cô ấy nên như đứa chết yểu, vừa lọt lòng mẹ đã bị
ăn mòn mất một nửa phần thịt mình rồi." Tại sao Thiên Chúa không phạt
Aaron? Có lẽ vì ông không chống đối ông Moses, nhưng chỉ hùa theo bà Miriam mà
thôi.
-
Phản ứng của ông Moses: Ông Moses kêu cầu lên Đức Chúa rằng: "Ôi, lạy
Chúa, xin chữa lành cô ấy!" Ông Moses được Đức Chúa cho biết bà Miriam phải
sống cách biệt với dân chúng trong 7 ngày; sau đó, Bà sẽ được chữa lành và cho
trở về sống với dân chúng. Bà chết và được an táng khi con cái Israel đến sa mạc
Sin (Num 20:1). Tính kiêu ngạo được nhiều tác giả ví như bệnh cùi hủi trước mặt
Thiên Chúa có lẽ cũng là do từ biến cố này.
2/
Phúc Âm:
"Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?"
2.1/
Các môn đệ sợ hãi khi phải đương đầu với gió bão: Sau khi đã làm phép
lạ cho hơn 5,000 người ăn, Chúa Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ
bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên
núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình. Còn chiếc thuyền của
các môn đệ đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. Nhiều người
đặt câu hỏi tại sao phép lạ này lại được các thánh-sử tường thuật ngay sau phép
lạ "Bánh hóa nhiều?" Có người cho Chúa Giêsu muốn thử đức tin của các
môn đệ để xem họ có tuyệt đối tin tưởng nơi uy quyền của Ngài không. Ý kiến
khác cho Chúa Giêsu muốn tỏ cho các môn đệ biết Ngài có toàn quyền trên các sức
mạnh của thiên nhiên như: gió bão, sóng nước.
Từ
trên núi, Chúa Giêsu có thể nhìn rõ những gì xảy ra trong Biển Hồ. Khi thấy các
môn đệ vất vả chống trả với gió bão, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn
đệ. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: "Ma đấy!"
và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây,
đừng sợ!"
2.2/
Hậu quả khi con người nghi ngờ Thiên Chúa: Ông Phêrô thưa với Chúa Giêsu: "Thưa Ngài, nếu
quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài." Đức
Giêsu bảo ông: "Cứ đến!" Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt
nước, và đến với Đức Giêsu. Ông đi được trên mặt nước vì ông hoàn toàn tin tưởng
nơi Thiên Chúa, không một chút nghi ngờ gì nơi quyền năng của Ngài. Cuộc đời
con người cũng thế, nếu chúng ta hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ ra
tay uy quyền hướng dẫn cuộc đời chúng ta. Người có đức tin làm được những chuyện
vượt quá khả năng con người, vì họ được trợ giúp bởi uy quyền và sự hướng dẫn của
Thiên Chúa. Sự nghi ngờ xảy ra khi Phêrô quá chú tâm đến những nguy hiểm chung
quanh và không hướng nhìn vào Chúa Giêsu; vì thế, ông sợ hãi và bắt đầu chìm.
Chính Chúa Giêsu đã khiển trách khi Ngài nắm lấy tay ông: "Người đâu mà
kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?"
Sự
hoài nghi là kẻ thù số một của đức tin: khi con người nghi ngờ uy quyền của
Thiên Chúa, họ sẽ tin tưởng nơi sức mạnh của họ hoặc những quyền lực của thế
gian; và vì thế, họ bắt đầu xa lánh Thiên Chúa. Nhiều người còn cho cần gì phải
trông chờ và van xin Thiên Chúa khi họ có thể làm được: kiếm tiền để sinh sống,
cố gắng để thành công trong cuộc đời ... Những người này sẽ nhận ra sự cần thiết
của đức tin khi họ phải đương đầu với đau khổ, thất bại, bệnh tật, và những
nguy hiểm khác trong cuộc đời; lúc mà sức mạnh con người không đủ để giúp họ vượt
thoát. Lúc đó e quá muộn để họ bắt đầu trau dồi đức tin!
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta cần học hỏi để biết mình trong tương quan với Thiên Chúa, với tha
nhân, và với thế giới. Một thái độ kiêu căng không biết mình sẽ gây nhiều thiệt
hại hơn làm lợi.
-
Chúng ta cần có một đức tin vững mạnh và đừng bao giờ nghi ngờ quyền năng và sự
quan phòng của Thiên Chúa. Một đức tin như thế sẽ giúp chúng ta khi phải đương
đầu với sóng gió của cuộc đời và vượt qua cách tốt đẹp.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
04/08/15 THỨ BA TUẦN 18
TN
Th. Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê, linh mục
Mt 15,1-2.10-14
Th. Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê, linh mục
Mt 15,1-2.10-14
Suy niệm: “Sông
sâu còn có kẻ dò, nào ai bẻ thước mà đo lòng người”. Người ta đã chế tạo ra
kính thiên văn để nhìn những ngôi sao thật xa, kính hiển vi để nhìn những vi
khuẩn nhỏ xíu, máy siêu âm để có thể nhìn thấy vật dụng trong va ly túi xách,
nhưng chưa có dụng cụ nào để biết rõ lòng người! Đức Giê-su nói với chúng ta
rằng chính lòng người hay tâm hồn lại là bộ chỉ huy điều hành tất cả những gì
xuất phát ra bên ngoài; và chính lòng người phải chịu trách nhiệm về những điều
đó. Nếu tâm hồn chúng ta nghiêng về tình dục, thì từ đó sẽ phát sinh những tư
tưởng dâm ô ngoại tình. Nếu tâm hồn chúng ta hiểm độc, thì sẽ có những bạo
động, ganh ghét, hận thù. Còn nếu lòng chúng ta quảng đại, thì từ đó sẽ có bao
nghĩa cử yêu thương, chia sẻ, tha thứ…
Mời Bạn: Loại
bỏ khỏi tâm hồn mình những tư tưởng dâm ô, hận thù, tham lam, hưởng thụ; và
thay vào đó, nuôi dưỡng những ước muốn sống quảng đại, yêu thương, chia sẻ, tha
thứ. Sau một thời gian “nâng cấp tâm hồn” như vậy, bạn sẽ cảm thấy lòng bạn
thanh thản hơn, cuộc sống với người khác an vui hơn, và chắc chắn bạn sẽ dễ
thương hơn trước mặt Thiên Chúa.
Sống Lời Chúa: Mỗi
ngày loại bỏ một ước muốn bất chính đang chế ngự mình, và thay thế bằng một ước
muốn lành thánh theo các giá trị của Tin Mừng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa là Đấng thấu suốt lòng người. Chúa biết rõ
chúng con đang ước muốn gì. Xin thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi những ước ao
bất chính, và thay thế bằng những ước muốn đạo đức, tốt lành.
Xin cứu con
Chúng ta tưởng Chúa bỏ rơi, Chúa vắng mặt, Chúa
là ma làm ta sợ hãi. Đơn giản Chúa là Thầy biết cách làm ta trưởng thành qua
kinh nghiệm. Cuối cùng chúng ta sẽ nhìn nhận: “Quả thật Thầy là Con Thiên...
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay là một
loạt những kinh nghiệm thiêng liêng.
Có thể chúng ta ít nhiều đều
đã có những kinh nghiệm này.
Thầy Giêsu là một nhà giáo
nhân từ và cương quyết.
Ngài giáo dục các môn đệ
bằng cách đưa họ vào những kinh nghiệm.
Kinh nghiệm bị Thầy bắt buộc
phải qua bờ bên kia (c. 22),
dù họ rất muốn ở lại bờ bên
này để nếm dư vị của thành công vừa rồi.
Sau phép lạ nhân bánh, người
ta định tôn Thầy lên làm vua (Ga 6, 15).
Chỉ cần Thầy gật đầu là trò
được chia sẻ tiếng tăm và quyền lực.
Các môn đệ đã bị ép lên
thuyền, ngay lập tức, lúc chạng vạng tối.
Kinh nghiệm bị sóng đánh vì
ngược gió.
Thuyền đã xa bờ mấy cây số,
tiến tới không được, lùi lại cũng không xong.
Vào lúc khó khăn ấy lại
không có Thầy ở trong thuyền.
Hầu như suốt đêm các môn đệ
phải vất vả chèo chống với sóng gió.
Họ phải tập chiến đấu trong
đêm tối khi không có Thầy ở bên.
Họ có nghĩ quyết định của
Thầy là sai lầm, vội vã không ?
Kinh nghiệm hốt hoảng, sợ
hãi và được trấn an.
Mãi đến lúc gần sáng, Thầy
Giêsu mới đi trên biển mà đến với các môn đệ.
Ngài đến khi họ chưa thấy rõ
mặt Ngài.
Ngài đến vào lúc bất ngờ và
đến theo cách bất ngờ, khiến họ khiếp kinh.
Ngài đến đem bình an mà họ
tưởng là ma quái đe dọa (c. 26).
Quả thật có những lúc không
dễ nhận ra là Chúa đang đến với mình.
Chúa đến làm các môn đệ sợ
hãi hơn cả sóng gió.
Nhưng “Cứ yên tâm, chính
Thầy đây. Đừng sợ !” (c. 27).
Kinh nghiệm tự đưa mình vào
một thách đố của lòng tin.
Một mặt Phêrô vẫn chưa tin
trọn vẹn khi nói câu: Nếu quả là Thầy…(c. 28).
Nhưng mặt khác ông lại rất
táo bạo khi dám xin ơn đi trên mặt nước.
Ông coi đó là cách thức chắc
chắn nhất để biết có phải là Thầy không.
Nếu đúng là Thầy thì Thầy
cũng có thể cho mình làm được như Thầy.
Chỉ cần Thầy truyền lệnh là
đủ, Phêrô tin như thế.
Kinh nghiệm đi trên mặt nước
và kinh nghiệm bị chìm.
Khi được Thầy cho phép,
Phêrô đã dám từ thuyền bước xuống biển động.
Và ông đã đi được một quãng
không rõ bao xa (c. 29).
Mặt nước cứng như đá hay
người ông trở nên nhẹ bổng?
Bây giờ thì đúng là Thầy rồi,
chỉ Thầy mới cho mình làm được như Thầy.
Phêrô sung sướng tiến về
phía Thầy với lòng tin đang lớn lên.
Nhưng khi gặp gió thổi mạnh
thì ông lại sợ, lại hoài nghi, yếu tin.
Ông mất tập trung vào sự
hiện diện quyền năng của Thầy và bị chìm.
Người ta có thể bị chìm ngay
khi biết Chúa ở trước mặt.
Kinh nghiệm được Thầy nắm
tay mà dắt vào thuyền.
Khi Phêrô kêu cứu, Thầy
Giêsu đã giữ ông khỏi bị nước nuốt chửng.
Sau đó hẳn hai Thầy trò đã
cùng nhau đi trên sóng mà về thuyền.
Khi cả hai lên thuyền thì
gió lặng, chẳng cần Thầy phải dẹp yên sóng gió.
Các kinh nghiệm môn đệ vừa
trải qua thật kinh khủng và gần gũi với ta.
Buồn bực, sợ hãi, căng
thẳng, bình an, nghi ngờ, chới với, hạnh phúc.
Đời Kitô hữu là một chuỗi
những kinh nghiệm như thế.
Chúng ta tưởng Chúa bỏ rơi,
Chúa vắng mặt, Chúa là ma làm ta sợ hãi.
Đơn giản Chúa là Thầy biết
cách làm ta trưởng thành qua kinh nghiệm.
Cuối cùng chúng ta sẽ nhìn
nhận: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa” (c. 33).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con
cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG TÁM
Chúng Ta Không Đau Khổ Một Mình
Đối với câu hỏi bằng cách nào hòa giải sự dữ
và đau khổ trên trần đời với chân lý về sự quan phòng của Thiên Chúa, chúng ta
không thể đưa ra một câu trả lời đầy đủ mà không qui chiếu đến Đức Kitô. Một
đàng, qua cuộc sống khó nghèo và khiêm nhường của Người – và nhất là qua cuộc
Khổ Nạn và cái chết của Người – Đức Kitô xác nhận rằng Thiên Chúa có mặt với mọi
người trong đau khổ của họ.
Hơn th ế nữa, Đức Kitô đã đảm nhận nơi
chính Người tất cả những đau khổ của cuộc hiện sinh con người trên trái đất
này. Đồng thời, Đức Giê-su Kitô mạc khải rằng đau khổ ấy có một giá trị và năng
lực cứu độ. Trong đau khổ ấy có sự chuẩn bị của “một gia tài không thể hư hại,
tàn phai” mà Thánh Phêrô đề cập đến trong Thư thứ nhất của ngài: “một gia tài
được giữ trên trời cho anh em” (1Pr 1,4).
Như vậy, chân lý về sự quan phòng đạt được
ý nghĩa cánh chung cuối cùng của nó xuyên qua “sức mạnh và sự khôn ngoan” của
Thập Giá Đức Kitô. Câu trả lời đầy đủ cho vấn đề sự dữ và đau khổ được cung ứng
bởi mạc khải của Thiên Chúa qua sự tiền định nơi Đức Kitô. Vì sự tiền định này
cho ta thấy rằng ơn gọi của con người là đạt đến sự sống vĩnh cửu – tức tham dự
vào trong chính sự sống của Thiên Chúa. Và đây là câu trả lời chính xác mà Đức
Kitô đã đem lại cho chúng ta. Người đã xác nhận câu trả lời này qua Thập Giá và
cuộc Phục Sinh của Người.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
04-8
Thánh
Gioan Maria Vianney, linh mục
Ds
12, 1-13; Mt 14, 22-36.
LỜI
SUY NIỆM: “Thưa Ngài xin cứu con với”
Khi
Chúa Giêsu trong đêm tối, đã đi trên mặt nước mà đến với các môn đệ. Đang khi
các ông còn trên thuyền với sóng gió. Làm cho các ông run sợ. Nhưng nhờ giọng
nói quen thuộc. Các ông đã nhận ra Chúa. Phêrô vốn tính bộc trực đã xin Chúa
Giêsu được đi trên mặt nước để đến với Chúa. Chúa đã cho Phêrô được như ý. Khởi
đầu, ông mạnh dạn bước đi trên mặt nước; Nhưng bởi gặp sóng gió và thiếu niềm
tin. Phêrô đã bị chìm, khi biết mình lâm nạn, Phêrô đã cất tiếng cầu xin: “Thưa
Ngài xin cứu con với”. Điều này giúp cho mỗi người trong chúng ta, mỗi bước tiến
về Chúa, luôn gặp khó khắn, đôi khi làm cho chúng ta hoảng sợ, mỗi khi như vậy,
chúng ta vững tin có Chúa trước mặt đầy quyền năng và yêu thương mà kêu lên:
“Xin cứu con với” Chúa sẽ giơ tay nâng đỡ kéo chúng ta ra khỏi nguy khốn.
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con rất hạnh phúc khi có Chúa hiện diện trong đời sống của
chúng con và luôn đáp ứng những ước muốn thánh thiện. Xin cho mọi thành viên
trong gia đình chúng con luôn sống ơn gọi mà Chúa đã gọi.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
04-08
Thánh
GIOAN MARIA VIANEY
Linh
Mục (1786 - 1859)
Gioan
Maria Vianney sinh ngày 8 tháng 5 năm năm 1786 tại Dardilly. Cha mẹ Ngài là những
nông dân trung kiên với đức tin. Suốt thời cách mạng Pháp, họ thường bí mật tiếp
rước các linh mục đến trú ngụ. Vì vậy Gioan là một trẻ em có mặt trong các buổi
lễ cử hành lén lút tại lẫm lúa và được chứng kiến rất nhiều mẫu gương anh hùng
với đức tin.
Năm
lên 11, Gioan được cha Greboz cho xưng tội lần đầu. Tháng 5 năm 1798 Gioan được
mẹ dẫn sang nhà bà dì ở Ecully để dọn mình rước lễ vỡ lòng. Mùa xuân năm 1799
Gioan cùng với 15 em khác được rước lễ vỡ lòng trong một thánh lễ được cử hành
giữa đống rơm. Ngài rước lễ rất sốt sắng và đã giữ cho đến chết tràng chuỗi Mân
côi kỷ niệm ngày hạnh phúc này.
Năm
1800 thanh bình trở lại với các tín hữu, khi Napoléon nhận biết rằng không có
tôn giáo thì không có một tổ chức nào có thể tồn tại vững bền được. Từ nhỏ
Gioan đã muốn làm linh mục. Khi bày tỏ ý định tốt đẹp này, Ngài đã 17 tuổi và mới
chỉ qua bậc tiểu học. Mẹ Ngài tán thành chí nguyện, nhưng cha Ngài với óc thực
tế đã băn khoăn rất nhiều và không chấp nhận. Mãi tới năm 1805, Gioan đến sống
với cha Belley, họ Ecully. Theo học với các bạn tuổi còn nhỏ, mà trí khôn Ngài
lại quá trì trệ. Đã vậy vào năm 1890, Ngài lại còn phải nhập ngũ. Năm sau Ngài
may mắn được trở về nhà.
Năm
1810, Gioan gia nhập tiểu chủng viện Verrières. Hai năm trôi qua, Ngài là một
chủng sinh học hành rất kém. Dầu vậy Ngài cũng nhận vào đại chủng viện. Tại đây
chuyển ngữ là tiếng Latinh, mà Gioan lại quá dở về môn này, khiến ban giám đốc
khuyên thầy hồi tục. Không thất vọng một lần nữa cha Balley đảm nhận việc dạy dỗ
người chủng sinh gương mẫu nhưng chậm trí này. Sau khi hoàn tất chương trình học,
ngày 13 tháng 8 năm 1815, Gioan Maria Vianney thụ phong linh mục tại nguyện đường
đại chủng viện Grênoble. Ngài được gọi lên chức linh mục chính vì đời sống đạo
đức.
Sau
khi thụ phong, cha Gioan Maria Vianney được cử làm phó xứ Ecully. Tháng 12 năm
1817, cha Balley qua đời, cha Vianney được cử về làm chánh sở họ Ars. Khi bổ
nhiệm, cha tổng đại diện nhắn nhủ : - "Đây là một họ đạo nhỏ bé nghèo nàn,
thiếu vắng tình yêu Chúa. Cha hãy mang tình yêu đến cho họ".
Ngày
9 tháng 2 năm 1818 cha đến xứ lần đầu với hành lý khiêm tốn chất trên một chiếc
xe tay, gồm một chiếc giường cũ, một rương sách và ít đồ vặt vãnh khác. Tới gần
làng, Ngài dừng chân hỏi đường. Bọn trẻ chăn chiên không hiểu tiếng nói khác với
thổ ngữ chúng vẫn dùng nhưng cũng đoán biết và chỉ lối cho cha. Khi biết được
điạ sở, cha Gioan quì gối cầu nguyện cho những người sẽ là đoàn chiên của mình.
Tới nơi Ngài vào thẳng nhà thờ và chìm trong kinh nguyện.
Nhà
xứ Ars thật nghèo nàn với vài đồ vật thật sơ sài. Chính cha sở trẻ họ đạo lại
coi đời sống cầu nguyện hãm mình là phương thế để thành công. Trong khi mọi người
còn triền miên giấc điệp, Ngài đã xách đèn từ nhà xứ sang nhà thờ để cầu nguyện.
Trước nhà tạm, nhiều lần với nước mắt ướt cả sàn nhà, Ngài tha thiết cầu nguyện
: - Lạy Chúa, con xin lãnh chịu tất cả, nhưng xin Chúa cải hóa họ đạo của
con... Con bằng lòng chịu mọi đau khổ như Chúa muốn, miễn sao họ biết hồi tâm hối
cải.
Chìm
đắm trong kinh nguyện, cha Gioan không quan tâm tới nhu cầu thể xác, mà Ngài
coi như cái thây ma. Ngủ đã ít, Ngài lại thường nằm trên sàn nhà. Đồ đạc người
ta dâng cúng, Ngài đem cho người nghèo... Vui cười Ngài nói: - Tôi không hề mất
áo choàng bao giờ. Chuyện ăn uống Ngài cũng chẳng quan tâm đến, tự mình nấu ăn,
Ngài chỉ nấu một nồi khoai rồi treo lên tường.
Khi
đói Ngài ăn một hai củ và củ thứ ba là "để cho vui miệng". Nồi khoai
thường để lâu cho đến nỗi những củ cuối cùng thường bị mốc meo. Ngài hãm mình
như vậy cho tới năm 1827, khi các chị dòng Chúa quan phòng nấu ăn cho Ngài.
Hơn
nữa thánh nhân còn tự ý hãm mình. Mỗi đêm Ngài đều đánh tội trước khi ngủ. Trên
tường phòng Ngài còn loang lổ nhiều vết máu.
Với
một đời sống cầu nguyện hy sinh như vậy, thánh nhân nỗ lực canh tân họ đạo. Về
xứ được ít lâu, Ngài sớm nhận ra được ba tệ đoan trong họ đạo là sự lãnh đạm với
việc đạo đức, thói quen làm việc xác ngày Chúa nhật và tật ham khiêu vũ.
Để
chấn hưng lại tình trạng suy dồi kia, dĩ nhiên thánh nhân gia tăng lời cầu nguyện
và việc hãm mình. Trong hoạt động Ngài đi thăm viếng các gia đình. Sửa lại tình
trạng thiếu hiểu biết về đạo, Ngài lo dạy giáo lý cho trẻ em. Suốt 27 năm, cha
thánh Gioan ngày nào cũng trung thành với viêc dạy giáo lý. Đối với người lớn
cha dọn bài giảng rất kỹ lưỡng. Ngồi trong phòng thánh cạnh nhà tạm, cha viết
bài giảng, Đêm thứ bảy cha học và tập giảng - cho hôm sau lời giảng của cha rất
đơn sơ, nhưng xoáy vào lòng người nghe.
Chẳng
hạn Ngài nói: - Không có gì vững bền cả. Đời sống sẽ qua đi... danh giá cũng sụp
đổ, của cải rồi sẽ tiêu tan, sức khỏe cũng bị tấn công, chúng ta ra đi như làn
gió.
-
Càng cầu nguyện người ta càng ham thích, như một con cá trồi lên mặt nước rồi
chìm mình trở lại và luôn bơi đi mãi. Linh hồn đắm chìm trong lời cầu nguyện sẽ
mất hút trong sự êm dịu của cuộc đàm thoại với Chúa.
Các
câu chuyện nhỏ cha kể nhiều khi có giá trị như một bài giảng. Chẳng hạn cha nói
về một em nhỏ bị đau bịnh :- Con đau đớn lắm không ?
Cậu bé trả lời "Hôm qua con không đau đớn gì và ngày mai con cũng hết khổ".
Cha hỏi lại : - Vậy con muốn được lành bệnh không ?
- Trước khi bệnh con hung dữ, khỏi bệnh con dám như vậy lắm. Để như thế nầy là tốt hơn cả.
Cậu bé trả lời "Hôm qua con không đau đớn gì và ngày mai con cũng hết khổ".
Cha hỏi lại : - Vậy con muốn được lành bệnh không ?
- Trước khi bệnh con hung dữ, khỏi bệnh con dám như vậy lắm. Để như thế nầy là tốt hơn cả.
Chống
lại tật làm việc xác, cha nói: - Ngày chủ nhật là của Chúa. Mà anh em ăn trộm
cũng chẳng lợi ích gì cho anh em. Tôi biết có hai phương thế chắc chắn để nên
nghèo khó là làm việc ngày Chúa nhật và lấy của kẻ khác.
Để
chống lại tật ham khiêu vũ, đã có lần cha đến giữa đám để giải tán. Lần khác
cha bỏ tiền trả cho nhạc công để anh rút lui. Tích cực hơn, cha lập hội Mân Côi
để tập họp các thiếu nữ vào việc thực hành đạo đức này.
Hơn
nữa, trong họ có bảy quán rượu cha hết sức khuyên nhủ và cả chúc dữ nữa để họ đổi
nghề. Cuối cùng cả 7 quán đều đóng cửa.
Thấy
trọng trách của một chủ chiên quá nặng nề. Đã bốn lần cha Gioan tìm cách trốn
khỏi họ đạo. Nhưng rồi cha đã bị phát giác, tiếng chuông reo vang và người ta đổ
xô ra đường để giữ cha lại. Nỗ lực của cha không dễ dàng được tiếp nhận. Người
ta tìm nhiều cách để vu khống cho cha nhiều tội tày trời. Thành công của cha
khiến cho nhiều người nghi ngờ và ghen tị, đến nỗi tòa giám mục phải mở cuộc điều
tra. Sau nữa chính quỉ dữ cũng phải công khai phá cha dưới nhiều hình thức như
xê dịch đồ đạc, la lối om sòm, hiện hình kỳ quái... đến độ đốt cháy cả giường nằm.
Nhớ
lại tất cả những gì đã trải qua, cha nói:
- Khi đến Ars, nếu biết được tất cả những gì tôi phải chịu chắc tôi chết liền.
- Khi đến Ars, nếu biết được tất cả những gì tôi phải chịu chắc tôi chết liền.
Nhưng
ơn thánh Chúa đã nâng đỡ Ngài. Mỗi ngày trong thánh lễ, Ngài được thấy chính
Chúa Giêsu. Dần dần họ Ars đã được biến đổi, hương thơm thánh thiện còn bay lan
rộng ra khỏi ngôi làng bé nhỏ và hẻo lánh này. Khách thập phương từ khắp nơi đổ
xô đến, để được chiêm ngưỡng một cha sở thánh thiện, để được nghe lời Ngài, để
xưng tội. Cha Gioan đã làm vui lòng mọi người.
Suốt
hai mươi năm trời, cha như chôn mình trong tòa giải tội, từ sau lễ tới 11 giờ
trưa, rồi từ 1 giờ chiều tới 8 giờ tối. Sau này khi được qua đời, cha được chôn
cất tại nhà nguyện thánh Gioan tẩy giả, cạnh tòa giải tội mà người ta gọi là
phép lạ lớn nhất ở Ars.
Tận
tụy với các linh hồn, cha Gioan cũng được ơn thấu tỏ lòng người. Ngày kia có một
du khách tới Ars để đi săn. Nhìn ông với con chó bên cạnh, Ngài nói : "Con
chó của ông thật đẹp, nhưng linh hồn chẳng đẹp tí nào". Cúi mặt người du
khách vào toà xưng tội.
Một
người đàn bà khác nghe cha nói: "Ông ấy đã được rỗi. Giữa thành cầu và
giòng nước, ông đã kịp ăn năn tội...". Thế là cha đã biết nỗi lo âu sầu của
bà, vì cái chết mới đây của chồng bà. Ngài đã mang lại cho bà niềm an ủi khi
cho biết rằng: nhờ những bó hoa và vài lần cầu nguyện với vợ mỗi tháng Đức Mẹ,
mà người chồng xấu số kia đã được cứu rỗi.
Đời
sống của cha Gioan là một mẫu gương tận tụy vì Chúa và vì các linh hồn, Ngài
thường nói: "Hạnh phúc cho một vị linh mục được hao mòn vì Chúa và các
linh hồn".
Quả
thực, cha Gioan đã hao mòn vì phụng sự. Ngày 2 tháng 8 năm 1859 cha chịu các
phép bí tích sau hết. Ngày 4 tháng 8 năm 1859 cha trút hơi thở cuối cùng với sự
mãn nguyện.
- Phải chết lành khi người ta sống trên thánh giá.
- Phải chết lành khi người ta sống trên thánh giá.
Ngày
tháng 5 năm 1925, cha Gioan được tôn phong hiển thánh và năm 1925 được đặt làm
bổn mạng các cha sở trên toàn thế giới.
(daminhvn.net)
04
Tháng Tám
Sức mạnh Của Thiên
Chúa
Ðược
biết đến và được yêu mến như cha sở họ Ars, cha Gioan Maria Vianney, vị thánh
được giáo hội mừng kính hôm nay, là một trong những người làm chứng về lời
thánh Phaolô đã nói: "Thiên Chúa đã chọn những người không ra gì, để làm rối
loạn những người mạnh mẽ".
Năm
1815, thầy Gioan được truyền chức linh mục.
Sau
ba năm tập sự dưới sự hướng dẫn của cha Balley, cha Gioan được chỉ định đến xứ
Ars. Trên đường đi nhận họ đạo, khi đi đến khúc đường chật hẹp, cỏ mọc ngụp đầu
người, giữa lúc không còn biết hướng đi, cha Gioan đã dừng lại hỏi cậu bé mười
tuổi tên Anton đang chăn cừu gần đấy. Cậu bé lịch sự chỉ lối cho cha.
Ngày
nay tại nơi đây, dân làng Ars đã dựng một tượng đài để kỷ niệm cuộc gặp gỡ này,
gồm có tượng đồng diễn tả thánh Gioan Vianney đang đứng trò chuyện với cậu
Anton, một tay ngài đặt lên vai cậu, một tay chỉ lên trời. Dưới chân tượng, người
ta ghi câu cám ơn của thánh nhân: "Cám ơn con đã chỉ cho cha đường đi tới
Ars. Rồi đây, cha sẽ chỉ cho con đường về Thiên Ðàng".
Thực
ra, cha Gioan đã không những giữ lời mình đã hứa chỉ đường cho một mình em
Anton về quê Trời mà thôi, nhưng cho cả giáo xứ Ars và trăm ngàn người khác từ
khắp nơi kéo đến hành hương, để được xưng tội và được hướng dẫn trở về đường
ngay nẻo chính.
Ý
thức bổn phận của linh mục là dấn thân phục vụ cho đàn chiên, cha Gioan đã hoạch
định cho mình một chương trình sống, một chương trình chúng ta có thể gói gém
vào ba hoạt động chính sau đây: Nếp sống khắc khổ hy sinh, tôn sùng Phép Thánh
Thể và thi hành việc mục vụ qua lời giảng dạy cũng như trong tòa Giải Tội.
Ðể
thi hành việc mục vụ, cha Gioan đã cho tha nhân thời giờ của mình: Mỗi ngày cha
chỉ dùng 2 hay 3 giờ để nghỉ ngơi lấy sức. Giờ còn lại cha dùng để cầu nguyện
và giải tội.
Quỳ
lâu trong nhà thờ vào lúc canh khuya, cha Gioan duyệt lại trước Thánh Thể hoàn
cảnh của tất cả 230 tín hữu trong họ đạo Ars, từng người một, từng nhu cầu của
mỗi người.
Ngoài
ra, mỗi ngày vào mùa đông lạnh lẽo, cha Gioan giải tội trung bình khoảng 11 hay
12 tiếng đồng hồ. Vào mùa hè, có khi ngài sử dụng đến 16 giờ để giao hòa các hối
nhân lại với Thiên Chúa.
Cha
Gioan thường gọi những giờ giải tội lâu dài này là "Giờ của Thiên
Chúa". Trong suốt 41 năm mục vụ, cha Gioan có dịp nghe những tội lỗi của
con người, những vấn đề, những khó khăn của trần gian. Ðể xoa dịu, mỗi sáng bước
lên bàn thờ dâng Thánh Lễ, cha mang theo hết mọi ý nguyện, mọi hoài bão cũng
như mọi yếu đuối, mọi lỗi lầm của toàn dân, để xin Thiên Chúa thanh luyện, cải
hóa. Qua đó, tòa giải tội trở nên như một giếng nước trong lành, nơi giáo dân đến
múc lấy Tình Thương Yêu của Thiên Chúa.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét