14/08/2015
Thứ Sáu sau Chúa Nhật
19 Quanh Năm
Thánh Mácximilianô
Maria Kônbê, linh mục, tử đạo. Lễ nhớ
* Thánh nhân sinh ngày 8 tháng 1 năm
1894 tại Ba Lan. Người gia nhập Dòng Anh Em Hèn Mọn và năm 1918 thụ phong linh
mục tại Rôma. Đầy lòng yêu mến nồng nàn đối với Đức Trinh Nữ Maria Thánh Mẫu
Thiên Chúa, người lập một hội đạo đức lấy tên là “Đạo binh Đức Maria Vô Nhiễm”.
Hội này đã được truyền bá rộng rãi cả ở quê hương của người lẫn ở nhiều miền
khác. Người đã đến Nhật Bản để truyền giáo, hăng say loan báo đức tin Kitô giáo
dưới sự chăm sóc và bảo trợ của Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Khi đã trở về
Ba Lan, người phải chịu biết bao cơ cực, nhọc nhằn một thời gian dài trong trại
tập trung Ốt-suýt vì chính sách kỳ thị chủng tộc. Người đã hiến dâng mạng sống
mình làm lễ toàn thiêu vì lòng bác ái ngày 14 tháng 8 năm 1941.
Bài
Ðọc I: (Năm I) Gs 24, 1-13
"Ta
đã đem tổ phụ các ngươi từ Mêsôpôtamia về, đã dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập, đã
đem các ngươi vào đất nước".
Trích
sách ông Giosuê.
Trong
những ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem, rồi gọi các kỳ
lão, các thủ lãnh gia tộc, quan án, sĩ quan đến, và họ đứng trước mặt Thiên
Chúa. Giosuê liền nói với toàn dân như thế này:
Chúa
là Thiên Chúa Israel phán rằng: Thuở xưa tổ tiên các ngươi là Tharê, cha của
Abraham và Nacor, đã ở bên kia sông, và đã thờ các thần ngoại. Bấy giờ Ta đã
đem Abraham, tổ phụ các ngươi, từ bên kia sông và đã dẫn đưa ông vào đất
Canaan. Ta lại làm cho con cháu ông trở nên đông đúc, đã ban cho ông được
Isaac. Ta lại ban cho Isaac được Giacóp và Êsau. Trong hai người này, Ta đã ban
cho Êsau miền núi Sêir làm sản nghiệp. Còn Giacóp và con cái thì xuống Ai-cập.
Sau
đó, Ta đã sai Môsê và Aaron, và trừng phạt Ai-cập bằng những phép lạ. Rồi Ta đã
dẫn các ngươi và cha ông các ngươi ra khỏi Ai-cập, và các ngươi đã đi tới Biển.
Người Ai-cập đuổi theo cha ông các ngươi với chiến xa binh mã cho đến Biển Ðỏ.
Bấy giờ con cái Israel kêu cầu Chúa và Người đã khiến sự tối tăm ngăn giữa các
ngươi và quân Ai-cập, và làm cho biển tràn ra mà vùi lấp chúng. Chính mắt các
ngươi đã thấy tất cả những gì Ta đã làm ở Ai-cập, rồi các ngươi đã ở lâu trong
hoang địa.
Sau
đó, Ta đã đưa các ngươi vào xứ Amorê, bên kia sông Giođan. Chúng đã giao chiến
với các ngươi và Ta đã trao chúng trong tay các ngươi. Các ngươi đã chiếm được
đất đai của chúng, và Ta đã tiêu diệt chúng trước mặt các ngươi. Rồi Balac, con
Sêphor, vua xứ Moab, dấy lên giao chiến với Israel. Vua ấy đã cho mời Balaam,
con của Bêor, đến để chúc dữ các ngươi. Ta không muốn nghe Balaam. Nhưng trái lại
Ta đã dùng nó chúc phúc cho các ngươi và Ta đã cứu các ngươi thoát khỏi bàn tay
nó.
Sau
đó, các ngươi đã qua sông Giođan và đến Giêricô, dân thành này, cũng như các
người Amorê, Phêrêsê, Canaan, Hêthê, Gergêsê, Hêvê, Giêbusê, đã giao chiến với
các ngươi. Nhưng Ta đã trao chúng trong tay các ngươi. Ta đã cho ong bò vẽ đi
trước các ngươi, và Ta đuổi hai vua xứ Amorê ra khỏi các địa hạt của họ mà
không cần nhờ đến cung kiếm của các ngươi. Ta đã ban cho các ngươi một vùng đất
mà các ngươi không mất công đánh chiếm. Ta đã cho các ngươi được ở những thành
mà các ngươi không phải xây cất, Ta đã cho các ngươi những vườn nho và vườn
ôliu mà các ngươi không vun trồng.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 135, 1-3. 16-18. 21-22 và 24
Ðáp: Bởi đức từ bi
Người muôn thuở.
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Hãy ca ngợi Chúa, vì Người hảo tâm, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Hãy ca ngợi
Thiên Chúa của chư thần, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Chỉ mình Người làm những
việc kỳ diệu vĩ đại, bởi đức từ bi Người muôn thuở. - Ðáp.
2)
Người đã dẫn đưa dân Người qua sa mạc, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã
đánh dẹp các đại vương đế, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã giết các vua
quyền thế, bởi đức từ bi Người muôn thuở. - Ðáp.
3)
Người đã ban đất chúng để làm gia sản, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Làm gia sản
của Israel tôi tớ Người, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã giải thoát
chúng ta khỏi quân thù địch, bởi đức từ bi Người muôn thuở. - Ðáp.
Alleluia:
1 Ga 2, 5
Alleluia,
alleluia! - Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt
hảo nơi người ấy. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 19, 3-12
"Vì
lòng chai đá của các ngươi mà Môsê đã cho phép các ngươi rẫy vợ; nhưng từ ban đầu
thì không có như vậy".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, có những người biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng:
"Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?" Người đáp: "Nào các
ông đã chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài người có nam
có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ
mình, và cả hai sẽ nên một thân xác? Cho nên họ không còn là hai, nhưng là một
thân xác. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân
ly". Họ hỏi lại: "Vậy tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy
vợ?" Người đáp: "Vì lòng chai đá của các ông mà Môsê đã cho phép các
ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy. Tôi bảo các ông rằng: Ai rẫy
vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác, thì phạm tội ngoại tình. Và ai cưới
người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại tình".
Các
môn đệ thưa Người rằng: "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn
đừng cưới vợ". Người đáp: "Không phải mọi người hiểu được điều ấy,
nhưng chỉ những ai được ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn nhân từ lòng mẹ
sinh ra, có những hoạn nhân do người ta làm nên, và có những người vì Nước Trời,
tự trở thành hoạn nhân. Ai có thể hiểu được thì hiểu".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Vấn
Ðề Ly Dị
Vào
thời Chúa Giêsu, dựa trên luật Môsê được ghi lại trong sách Tl 14, 1-4, thì mọi
trường phái giải thích luật đều phải nhìn nhận việc ly dị, nhưng có điểm khác
nhau về lý do ly dị. Trường phái Hillel cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, còn
trường phái Shammai gắt gao hơn, chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình
mà thôi. Những người Biệt phái đến chất vấn Chúa Giêsu như được ghi lại trong
Tin Mừng hôm nay, không phải về việc có được phép ly dị hay không, nhưng về lý
do của việc ly dị: họ muốn Chúa Giêsu phải chọn một trong hai lập trường: hoặc
cho phép ly dị vì bất cứ lý do gì, hoặc chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại
tình.
Trong
câu trả lời, Chúa Giêsu không theo lập trường của con người, không đứng về nhóm
nào, nhưng Ngài kêu gọi trở về với chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa khi
tạo dựng con người: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được
phân ly". Ðời sống hôn nhân và gia đình giữa người nam và người nữ là một
định chế do chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng con người, chứ không do
con người thiết định. Môsê cho phép ly dị vì chiều theo lòng dạ chai đá của dân
chúng, chứ ngay từ đầu không có như vậy.
Chứng
kiến cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái, các môn đệ phản ứng:
"Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì thà đừng lấy vợ còn hơn".
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu cho các ông biết là cần phải có ơn Chúa, con người
mới có thể hiểu rõ ơn gọi cao cả của đời sống hôn nhân cũng như của đời sống độc
thân trinh khiết vì Nước Trời. Bậc sống độc thân hoặc lập gia đình, không phải
thuần túy tùy thuộc ý định con người, nhưng là một ơn ban đến từ Thiên Chúa. Nếu
không tin có Thiên Chúa và bị ảnh hưởng của tinh thần thế tục, con người sẽ
không hiểu giá trị cũng như không thể sống trọn vẹn ơn gọi độc thân hoặc lập
gia đình. "Ai có thể hiểu được thì hiểu", ơn ban của Thiên Chúa tùy
thuộc tự do của con người. Con người thời nay đã lạm dụng tự do để quyết định
những điều nghịch lại chương trình của Thiên Chúa. Con người đã trần tục hóa cả
bậc độc thân lẫn bậc hôn nhân và gia đình. Tất cả đều được phép, kể cả việc hai
người cùng phái tính được luật pháp cho phép sống với nhau như vợ chồng, để rồi
tình thương của cha mẹ đối với con cái trong trường hợp nào cũng bị hạ thấp.
Người
Kitô hữu chúng ta đừng để mình bị cám dỗ chạy theo tâm thức trần tục. Giải pháp
cho vấn đề không phải là luật lệ do con người đặt ra, nhưng là tình thương, là
trở về với Thiên Chúa và chương trình nguyên thủy của Ngài khi tạo dựng con người.
Ðiều này đòi hỏi nhiều cố gắng hy sinh, nhưng đó là bí quyết để con người sống
trọn ơn gọi của mình và đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng ta đừng sợ cố gắng hy sinh,
bởi vì Thiên Chúa sẽ trợ giúp chúng ta, nếu chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận
Ngài và để Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Xin
Chúa canh tân tình yêu chúng ta, cho tình yêu chúng ta hòa nhập vào tình yêu thần
thiêng của Chúa, để chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của chúng ta theo đúng chương
trình của Chúa.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 19 TN1
Bài đọc: Jos 24:1-13; Mt
19:3-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống trung thành với
ơn gọi của mình.
Có
nhiều lý do con người vịn vào để từ chối giữ lòng trung thành: tại không biết,
tại hoàn cảnh, tại gia đình, tại người khác, tại yếu đuối ... Nhưng Thiên Chúa
dạy: Để chu toàn hai giới răn "mến Chúa, yêu người," con người phải
trung thành với Thiên Chúa và với tha nhân trong mọi trạng huống của cuộc đời.
Con người dễ dàng trung thành lúc vui vẻ, hạnh phúc, bình an; nhưng những lúc
khó khăn hoạn nạn mới chứng tỏ tình yêu trung thành của con người. Thánh M.
Kolbe mà chúng ta mừng hôm nay, đã chứng tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa và tha
nhân bằng cách tình nguyện chết thay cho một chàng thanh niên để anh có thể sống
và chăm sóc vợ con của anh.
Các
Bài Đọc hôm nay đưa ra những lý do tại sao con người cần phải trung thành với
Thiên Chúa và với tha nhân. Trong Bài Đọc I, ông Joshua triệu tập tất cả con
cái Israel lại để nhắc nhở cho họ biết sự trung thành của Thiên Chúa qua những
gì Ngài đã làm cho tổ tiên và dân tộc Israel. Mục đích là để họ nhận ra tình
yêu của Thiên Chúa và sống trung thành với Ngài. Trong Phúc Âm, những người
Pharisees đến hỏi Chúa về việc có được ly dị vợ vì bất cứ lý do gì hay không?
Chúa Giêsu trả lời cách tuyệt đối: không được; vì đó là thánh ý của Thiên Chúa
ngay từ ban đầu. Ngoài ra, Chúa Giêsu cũng muốn nói tới sự trung thành trong đời
sống độc thân vì Nước Trời: vì yêu Chúa và tha nhân, có những người tình nguyện
hy sinh cả cuộc đời cho phần rỗi linh hồn của tha nhân.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Vì Thiên Chúa đã luôn trung thành, anh em cũng phải trung thành với Ngài:
Ông
Joshua quy tụ mọi chi tộc Israel ở Shechem, và nhắc nhở cho toàn dân biết tất cả
những gì Thiên Chúa đã làm cho dân tộc họ:
(1)
Những gì Ngài đã làm cho các tổ-phụ Abraham, Isaac và Jacob: Đây là ba Tổ phụ của
con cái Israel. Bắt đầu với Abraham, Thiên Chúa chọn ông khi ông chưa biết
Thiên Chúa và vẫn đang thờ kính các thần ngoại. Ngài chọn ông và hứa sẽ ban hai
điều: con cái đông đúc như sao trên trời dù ông hiếm hoi, và cho ông xem miền Đất
Hứa, nơi mà con cháu ông sẽ chiếm hữu và sinh sống sau này. Điều thứ nhất được
khơi mào khi Thiên Chúa ban cho ông Isaac trong lúc tuổi già. Từ đó, Ngài đã
ban cho Isaac sinh ra hai giòng tộc lớn là Jacob và Esau. Ngài cho Esau chiếm hữu
núi Seir. Còn Jacob và các con thì xuống Ai-cập.
(2)
Những gì Ngài đã làm cho Moses và con cái Israel: Khi Giuse bị bán sang Ai-cập,
Thiên Chúa quan phòng để ông Giuse đưa cha và tất cả anh em sang Ai-cập để
tránh nạn đói lớn đang xảy ra thời đó. Khi con cái Israel bị đối xử tàn nhẫn
như nô lệ bên Ai-cập, Thiên Chúa đã truyền cho Moses và Aaron lãnh đạo dân ra
khỏi Ai-cập bằng những uy quyền qua việc gieo rắc bảy tai ương và đưa dân vượt
qua Biển Đỏ.
(3)
Những gì Ngài đã chuẩn bị cho dân chúng trước khi vào Đất Hứa: Ta đã đem các
ngươi vào đất người Amorites. Chúng ở bên kia sông Jordan. Chúng đã giao chiến
với các ngươi, nhưng Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Các ngươi đã chiếm đất
của chúng, và Ta đã tiêu diệt chúng trước mắt các ngươi.
(4)
Những gì Ngài đã làm cho con cái Israel trong Đất Hứa: "Các ngươi đã qua
sông Jordan và tới Jericho. Những người làm chủ Jericho giao chiến với các
ngươi: Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Ta đã thả ong bầu bay đi trước các
ngươi; chúng đuổi hai vua Amorites đi cho khuất mắt các ngươi; chính ong bầu chứ
không phải cung kiếm của các ngươi đã đuổi chúng.
Kết
luận: Với chiến thắng Jericho va những chiến thắng sau này, Thiên Chúa đã hoàn
tất lời hứa thứ hai là đem dân vào Đất Hứa mà Ngài đã hứa với Abraham: ''Ta ban
cho các ngươi đất các ngươi đã không vất vả khai phá, những thành các ngươi đã
không xây mà được ở, những vườn nho và vườn ô-liu các ngươi đã không trồng mà
được ăn." Khi nhắc nhở những điều này, ông Joshua muốn cho con cái Israel
thấy tình yêu và lòng trung thành của Thiên Chúa: Ngài luôn thực hiện những gì
Ngài hứa dù con cái Israel luôn cứng lòng phản bội Ngài. Ông Joshua mong muốn
dân nhận ra để rồi họ biết trung thành yêu thương và giữ các Lề Luật của Ngài,
như chúng ta sẽ nghe ngày mai.
2/
Phúc Âm:
Thiên Chúa ban ơn thánh đủ để con người trung thành trong ơn gọi của mình.
2.1/
Trung thành trong ơn gọi gia đình: Trước tiên, chúng ta cần biết một ít kiến thức về
hôn nhân và lề luật liên quan đến ơn gọi gia đình và sự ly dị của người
Do-thái. Người Do-thái coi trọng việc kết hôn vì qua đó, họ giữ lệnh truyền của
Thiên Chúa: "Hãy sinh sôi cho đầy mặt đất." Vì thế, kết hôn là một bổn
phận phải làm, trừ những người muốn đình hoãn việc kết hôn để học hỏi Lề Luật.
Về vấn đề ly dị, Sách Đệ Nhị Luật viết: "Nếu một người đàn ông đã lấy vợ
và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy
thấy nơi nàng có điều gì chướng (indecency, ervat trong MT,askemon trong
LXX), thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi
nhà" (Deut 24:1). Từ indecencyrất mơ hồ và có hai nghĩa chính:
(1) không thích hợp; và (2) những hành vi vô luân. Có hai trường phái chính cắt
nghĩa chữ này như sau: Trường phái bảo thủ Shammai hiểu từ này có nghĩa
"ngoại tình;" người chồng chỉ có thể ly dị vợ mình vì lý do vợ ngoại
tình mà thôi. Trường phái cấp tiến Hillel hiểu theo nghĩa thứ nhất: tất cả những
gì người chồng thấy không xứng đáng nơi người vợ: không biết nấu nướng, đầu xù
tóc rối nơi công cộng, mạ lỵ chồng... Rabbi Akiba còn đi xa hơn: nếu chồng
không còn thấy nét quyến rũ nơi vợ mình nữa. Với sự hiểu biết đó, có mấy người
Pharisees đến gần Đức Giêsu để thử Người. Họ nói: "Thưa Thầy, có được phép
rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?"
Chúa
đáp: "Các ông không đọc thấy điều này sao: "Thuở ban đầu, Đấng Tạo
Hoá đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: "Vì thế, người ta
sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như
vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên
Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly."" Trước hết, đây là
ý muốn và là nguyên lý sống của Thiên Chúa cho con người; điều mà con người phải
cố gắng giữ để nên trọn lành như Thiên Chúa, Đấng luôn trung thành với con người.
Họ
thưa với Người: "Thế sao ông Moses lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?"
Người bảo họ: "Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Moses đã cho phép các
ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu. Tôi nói cho các ông biết: Ngoại
trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại
tình." Thiên Chúa cũng như ông Moses quá hiểu sự cứng lòng của con người,
nên có những luật riêng để giải thoát con người khỏi những trường hợp khó khăn
ngoài ý muốn. Dù con người không đạt tới mức trọn lành như Thiên Chúa mong muốn,
ông Moses hay Giáo Hội cũng phải giúp con người vượt qua các khó khăn cách tốt
nhất có thể; nhưng không bao giờ như phái Hillel chủ trương.
2.2/
Trung thành trong ơn gọi độc thân vì Nước Trời: Các môn đệ thưa Người: "Nếu
làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn."
Chúa
Giêsu lợi dụng cơ hội hay do Matthew sắp xếp, để đề cập tới những người sống
trong ơn gọi độc thân. Ngài đưa ra ba trường hợp: Thứ nhất, những người không
có khả năng để sống ơn gọi gia đình ngay từ lúc lọt lòng mẹ. Kế đến những người
không thể kết hôn vì bị người ta hoạn, như trường hợp các hoạn quan trong triều
đình. Sau cùng là những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời, những người hy
sinh để hoàn toàn dành thời giờ cho việc rao giảng Tin Mừng và cứu rỗi linh hồn
tha nhân. Đối với hạng người sau cùng này, Thiên Chúa ban ơn thánh đủ để họ có
thể trung thành với ơn gọi tu trì.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Để yêu thương Thiên Chúa và tha nhân, chúng ta cần phải trung thành với ơn gọi
của mình; nhất là trong những lúc đương đầu với thử thách và đau khổ của cuộc đời.
-
Khi Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên trọn lành, Ngài ban ơn thánh đủ để
chúng ta có thể làm chuyện đó. Chúng ta không làm được là tại chúng ta không sống
bằng sức mạnh của Thiên Chúa, vì quá lơ là với Thiên Chúa và với các Bí-tích Đức
Kitô đã thiết lập.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
14/08/15 THỨ SÁU TUẦN
19 TN
Th. Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê, linh mục, tử đạo
Mt 19,3-12
Th. Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê, linh mục, tử đạo
Mt 19,3-12
Suy niệm: Bước
vào đời sống hôn nhân, ai cũng muốn được sống trăm năm chung thủy với người bạn
đời của mình. Thế nhưng, tình trạng ly dị hiện nay xảy ra như cơm bữa, thậm chí
được khích lệ một cách nào đó bởi một số quốc gia cho phép ly dị. Tại sao xảy
ra thảm cảnh này trong đời hôn nhân? Chúa Giêsu đã giải thích rõ lý do như sau:
“vì họ lòng chai dạ đá” (Mt 19,8), chứ ban đầu không có thế đâu. Nói cách khác,
vì người ta “lòng chai dạ đá” trước thánh ý của Thiên Chúa, nên người ta xem
thường sự chung thủy trong hôn nhân. Chúa Giê-su nói, từ ban đầu, Thiên Chúa
nối kết hai người nam nữ và hôn ước của họ có giá trị bất khả phân ly. Khi Chúa
Giê-su đến, Ngài đã nâng hôn nhân lên thành bí tích, vừa tác thánh đôi vợ chồng,
vừa để đôi vợ chồng dùng tình yêu chung thủy của họ diễn tả sự chung thủy của
Chúa Giê-su với Hội Thánh. Chúa Giê-su yêu Hội Thánh đến cùng, vì thế, đời sống
hôn nhân đòi buộc hai người vợ chồng bước vào cuộc sống gắn bó với nhau cho đến
chết. “Lòng chai dạ đá” đã làm nhiều người cố tình quên điều cốt lõi này của
hôn nhân, nên “vội đến, vội đi”, khi hợp khi tan. Vả lại, hôn nhân là một sự
chọn lựa, chọn lựa người mình yêu, chứ hôn nhân đâu phải vì thích hay không
thích. Chúng ta có thể chọn yêu một người dẫu không thích. Chúa Giêsu chọn
chúng ta và làm cho chúng ta đáng yêu đấy thôi!
Mời Bạn: Hội Thánh dạy, “do hôn ước, người nam và người
nữ tạo nên một cộng đồng sống chung suốt đời ”.
Sống Lời Chúa: Cầu
nguyện cho các đôi vợ chồng được chung thủy với nhau.
Cầu nguyện: Đọc kinh Gia Đình.
Một xương một thịt
Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm
thời. Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh Luật Môsê và khai mở ý muốn trọn vẹn của
Thiên Chúa về hôn nhân.
Suy niệm:
“Sự gì Thiên Chúa đã phối
hợp, loài người không được phép phân ly.”
Lời của Đức Giêsu đã vang
vọng qua hai mươi thế kỷ,
và vẫn thường được chọn để
in trên thiệp cưới.
Phải chăng người ta ngầm
nhắc nhau rằng
ly dị là từ không nên có trong
từ điển của các đôi vợ chồng.
Tiếc thay số vụ ly hôn nơi
các Kitô hữu đã gia tăng đáng kể.
Sống với nhau đến đầu bạc
răng long trở thành một giấc mơ.
Trong xã hội Do thái giáo
thời Đức Giêsu,
người phụ nữ không được bình
đẳng với nam giới.
Người vợ là một thứ tài sản
của người chồng,
nên chỉ người chồng mới có
quyền ly dị vợ, có khi chỉ vì một lý do cỏn con.
Trước câu hỏi: “Chồng có
được phép ly dị vợ vì bất cứ lý do nào không?”
Đức Giêsu đã kiên quyết nói
không (c. 6).
Ngài bênh vực các bà vợ bị
áp chế.
Họ không phải là một món
hàng bỏ đi khi không cần hay không ưng.
Lập trường của Ngài đi ngược
với nền văn hóa và tôn giáo thời đó.
Điều này khiến chính các môn
đệ bị sốc (c. 10).
Hóa ra các ông vẫn cho mình
có quyền bỏ vợ khi họ muốn.
Người Pharisêu trích sách Đệ
Nhị Luật (24, 1)
để biện minh cho việc được
phép ly dị đúng theo Luật Môsê (c. 7).
Còn Đức Giêsu lại trích sách
Sáng Thế (2, 24)
để nhấn mạnh cho sự hiệp
nhất vĩnh viễn giữa đôi vợ chồng.
“Cả hai thành một xương một
thịt” không chỉ về mặt thân xác,
mà còn trở nên một lòng, một
ý, một ước mơ, một hành động.
Ngài khẳng định điều này đã
có từ thuở ban đầu (cc. 4. 8)
và nằm trong ý định nguyên
thủy của Thiên Chúa.
Việc Môsê cho phép ly dị chỉ
là một nhượng bộ tạm thời (c. 8).
Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh
Luật Môsê
và khai mở ý muốn trọn vẹn
của Thiên Chúa về hôn nhân.
Hôn nhân không phải chỉ là
chuyện của hai người yêu nhau và lấy nhau.
Trong Lễ Cưới có sự hiện
diện của Thiên Chúa là Đấng phối hợp.
Ngài tiếp tục bảo vệ tình
yêu, cả khi hai người cùng muốn chia tay.
Hôn nhân không phải là một
bản hợp đồng
mà hai bên được phép xé bỏ
khi muốn.
Chung thủy mãi mãi là chuyện
khó đối với con người thời nay.
Khi thịnh vượng, lúc gian
nan, khi mạnh khỏe, lúc đau yếu,
khi buồn chán và thất vọng
về nhau, khi yếu đuối và vấp ngã,
khi đổ vỡ quá lớn tưởng như
không sao hàn gắn được,
khi đời sống vợ chồng thành
như hỏa ngục trần gian…
khi ấy người ta cần Thiên
Chúa để tiếp tục yêu thương và kính trọng nhau.
Xin bớt một chút ích kỷ tự
ái, thêm một chút khiêm hạ yêu thương,
bớt một chút tự do đam
mê, thêm một chút hy sinh tha thứ…
để gìn giữ tình nghĩa vợ
chồng như quà tặng mong manh của trời cao.
Cầu nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,
xin Cha nhìn xuống
những gia đình sống trên mặt đất
trong những khu ổ chuột tồi tàn
hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến
những gia đình thiếu vắng tình yêu
hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,
những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ
hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục
vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu
đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình;
nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ
hạnh phúc luôn ở trong tầm tay
của từng người chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
14 THÁNG TÁM
Mục Đích Phổ Quát Của Con Người Trong
Kế Hoạch Của Thiên Chúa
Tuy nhiên, Công Đồng không nhắm mắt trước những
vấn đề ngổn ngang mà con người đối mặt khi phát triển trái đất, cả những vấn đề
trong chính mình lẫn những vấn đề trong cuộc sống với người khác. Sẽ là thiếu
thành thật nếu phớt lờ những vấn đề ấy; cũng vậy, sẽ là một sai lầm nếu trình
bày các vấn đề ấy một cách không đúng đắn và không phù hợp qua việc không qui
chiếu đến sự quan phòng và ý định của Thiên Chúa.
Công Đồng nói: “Ngày nay, tuy đã tự hào trước
những khám phá và quyền lực mình, nhân loại vẫn thấy lo lắng thắc mắc về sự tiến
hóa hiện nay của thế giới, về chỗ đứng và phận vụ của con người trong vũ trụ, về
ý nghĩa của những cố gắng cá nhân cũng như tập thể, và sau hết về cùng đích của
con người và muôn loài” (MV 3).
Rồi Công Đồng tiếp tục giải thích: “Cũng
như trong bất cứ cơn khủng hoảng tăng trưởng nào, sự biến đổi này kéo theo những
khó khăn không nhỏ. Chẳng hạn như đang khi bành trướng quá rộng quyền lực của
mình, không phải lúc nào con người cũng có thể bắt nó phục vụ mình. Cố gắng đi
sâu hơn vào thâm tâm mình, con người nhiều khi lại tỏ ra hoang mang hơn về
chính mình. Dò dẫm tìm hiểu rõ hơn những luật lệ của đời sống xã hội, con người
lại do dự không dám định đoạt hướng đi cho mình” (MV 4).
Một cách rất ấn tượng, Công Đồng nói về “những
mâu thuẫn và chênh lệch” là hệ lụy của sự thay đổi “nhanh chóng và lộn xộn”
trong các điều kiện kinh tế xã hội, trong tập quán, trong văn hóa, trong suy
nghĩ và trong lương tâm con người, trong gia đình, trong các mối quan hệ xã hội,
trong quan hệ giữa các nhóm, các cộng đồng và các quốc gia. Điều này gây ra “những
ngờ vực và thù nghịch nhau, những xung đột và thống khổ mà chính con người là
nguyên nhân và nạn nhân.” (MV 8-10).
Cuối cùng, Công Đồng vạch ra gốc rễ của vấn
đề nói trên khi tuyên bố: “Những chênh lệch dày vò thế giới ngày nay gắn kết với
một chênh lệch căn bản hơn phát xuất từ đáy lòng con người” (MV 10).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
14-8
Thánh
Maximilianô Maria Kolbê, Linh muc tử đạo
Gs
24, 1-13; Mt 19, 3-12.
LỜI
SUY NIỆM: “Tôi nói thật cho các ông biết: Ngoại trừ
trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại
tình.”
Với
Giới luật hôn nhân gia đình của Chúa Giêsu. Sẽ giúp cho người nam và người nữ gắn
chặt với nhau trong một tình yêu chung thủy, hạnh phúc, nâng đỡ nhau, xây dựng
người nam và người nữ sống đúng phẩm chất và phẩm giá của mình, để chu toàn bổn
phận và trách nhiệm của mình. Điều này thật là một thách đố đầy khó khăn cho
người nam và người nữ trong xã hội trần thế này trước những cám dỗ. Nhưng điều
luật của Chúa đã đưa ra, không chỉ để dạy bảo một cách chung chung; Nhưng tùy
vào hoàn cảnh của mỗi người, Chúa ban thêm những ơn cần thiết để họ chu toàn lề
luật đó.
Lạy
Chúa Giêsu. Hôn nhân Kitô giáo, một vợ một chồng, bất khả phân ly là điều thật
tốt đẹp cho xã hội loài người. Xin Chúa ban cho mọi gia đình Công Giáo luôn biết
quý trọng, gìn giữ với lời cầu nguyện: “Xin cho chúng con yêu thương nhau mỗi
ngày” như lời đề nghị của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Mạnh
Phương
14
Tháng Tám
Còn Tình Nào Cao
Quý Hơn
Vào
khoảng cuối tháng 7/1941, một tù nhân đã trốn khỏi trại tập trung Auschwitz.
Theo quy định của những người Ðức quốc xã đang điều khiển trại, cứ một tù nhân
đào thoát, thì 10 người khác phải thế mạng.
Duyệt
qua khu biệt giam, viên chỉ huy Fritsch trỏ tay vào hàng rào các tù nhân và ông
đếm từ 1 đến 10. Mười người bị tử thần chiếu cố đã lần lượt tiến đến trước mặt
người đồ tể. Người thứ mười đứng cạnh cha Maximiliano Kobel chợt la lên thảm
thiết: "Vợ tôi, con tôi, trời ơi! Tôi sẽ không bao giờ gặp được vợ con
tôi". Cha Maximiliano Kobel đã kéo người tử tội thứ mười đó lại và ngài tiến
ra đứng thế chỗ cho anh...
Sau
này, Francis Gajownizcek, người đàn ông đã được cha Maximiliano Kobel chết thế
đã kể lại: Tinh thần trong trại thay đổi hẳn. Sự kiện này đã tạo ra một ấn tượng
cao đẹp vàsâu xa... Vị linh mục dòng Fanxico đó không những chỉ chia sẻ cho các
bạn tù một mẩu bánh, vài muỗng xúp, nhưng là chính mạng sống của mình để chuộc
mạng cho người khác...
Liên
tiếp trong hai tuần, cha Maximiliano Kobel đã phải nhịn đói, nhịn khát để chờ
chết. Cơn hấp hối kéo dài quá lâu khiến những người Ðức quốc xã không thể chờ đợi
được. Sau cùng, viên lý hình đã kết thúc cuộc đời của cha bằng một mũi thuốc độc.
Thân
xác của cha đã được hỏa táng và tro tàng đã được rắc trên đồng lúa như phân
bón. Nguyện ước lúc thiếu thời của cha đã được thành tựu: "Tôi ước ao được
hóa thành tro bụi vì Ðức Trinh Nữ Vô Nhiễm nguyên tội. Ước gì tro đó được reo rắc
khắp nơi trên thế giới để không còn một mảnh thi hài nào còn sót lại...".
Nhà
tù nào cũng có thể là một hỏa ngục: hỏa ngục của hận thù, của ích kỷ, của phản
bội. Có lẽ nhiều người Việt Nam đã và đang trải qua những hành hạ dã man gấp bội
phần những gì đã diễn ra trong các trại tập trung thời Ðức quốc xã...
Nhà
tù có thể là hỏa ngục, nhưng cũng có thể là Thiên Ðàng: Thiên Ðàng của hy sinh,
nhẫn nhục, yêu thương, tha thứ, quảng đại... Biết bao nhiêu hoa thơm đã chớm nở
trong cảnh khốn cùng ấy. Khốn khổ càng nhiều, hy sinh càng cao.
"Không
có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người thí mạng sống vì người mình
yêu". Chúa Giêsu đã tuyên bố như thế và Ngài đã đi đến cùng cam kết của
Ngài. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không những là sự thể hiện của sự độc
ác dã man của con người, nó còn là dấu chỉ của mối tình của một người đã yêu và
yêu cho đến cùng...
Cái
chết hy sinh vì người khác, Chúa Giêsu muốn luôn được tiếp tục qua cuộc sống của
người Kitô. Ðã có rất nhiều người đã lập lại cái chết đó qua suốt lịch sử của
Giáo Hội và hiện nay, còn biết bao nhiêu người vẫn còn tái diễn cái chết đó qua
những hy sinh hằng ngày của mình...
Hôm
nay, chúng ta kính nhớ thánh Maximiliano Kobel, người đã chết thay cho một người
bạn tù. Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài ngày 10/10/1982
và đặt ngài làm quan thầy của thời đại khó khăn. Kinh nghiệm của ngài chắc chắn
đang tái diễn hằng ngày trong xã hội chúng ta, trong đó người Kitô không ngừng
được mời gọi để quên mình và sống cho người khác.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét