16/08/2015
Chúa Nhật 20 Quanh
Năm Năm B
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa:
Chúa Nhật XX Thường Niên - năm B
CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN-B
Cn 9,1-6; Ep 5,15-20; Ga 6,51-58
Cn 9,1-6; Ep 5,15-20; Ga 6,51-58
SỐNG KHÔN NGOAN
“Ai ăn thịt và uống máu tôi
thì được sống muôn đời
và tôi sẽ cho người ấy sống lại
trong ngày sau hết,
vì thịt tôi thật là của ăn
và máu tôi thật là của uống”
(Ga 6,54)
thì được sống muôn đời
và tôi sẽ cho người ấy sống lại
trong ngày sau hết,
vì thịt tôi thật là của ăn
và máu tôi thật là của uống”
(Ga 6,54)
Ai
cũng muốn chọn cho mình cách sống khôn ngoan. Bạn và tôi, đã nhiều lần chúng ta
tự hào vì đã chọn cách sống khôn ngoan. Có thể các bài đọc Lời Chúa hôm nay gợi
ý cho chúng ta một cách sống khôn ngoan khác, không hề giống với kiểu sống khôn
ngoan của con người.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc
1:
Đoạn
sách Châm Ngôn trình bày Đức Khôn Ngoan được nhân cách hóa để biết xây nhà và
mở tiệc đãi khách. Đối tượng khách mời của Đức Khôn Ngoan là những người ngu si
và những kẻ ngây thơ. Qua bữa tiệc, Đức Khôn Ngoan muốn họ được sống và bước đi
trên con đường hiểu biết.
Trước
hết, như một con người, Đức Khôn Ngoan tiến hành việc xây nhà. Nhà của Đức Khôn
Ngoan là nhà có “bảy cây cột”, một ngôi nhà lớn. Đức Khôn Ngoan hẳn phải là một
người khá giả. Khi hoàn tất việc xây dựng, Đức Khôn Ngoan “hạ thú vật, pha chế
rượu, dọn bàn ăn” để chuẩn bị mở tiệc mừng tân gia. Cách Đức Khôn Ngoan mời
khách đến dự tiệc thật đặc biệt. Đức Khôn Ngoan sai các tỳ nữ “lên các nơi cao
trong thành phố” và kêu gọi khách đến dự tiệc. Có lẽ khi chọn những nơi cao
trong thành phố để công bố lời mời, Đức Khôn Ngoan không muốn bỏ sót bất cứ một
vị khách đáng mời nào.
Thứ
đến, đối tượng khách mời mà Đức Khôn Ngoan nhắm đến cũng gây ngạc nhiên không
kém: “hỡi người ngây thơ, hãy lại đây; hỡi người ngu si, hãy đến mà ăn bánh của
ta và uống rượu do ta pha chế” (Cn 9,4-5). Đức Khôn Ngoan không mời các
khách quen, trọng vọng, giàu có theo cấp bậc hay địa vị của mình, mà là những
người ngây thơ và những kẻ ngu si. Xét cho cùng, những người ngây thơ và ngu si
lại là những đối tượng cần đến Đức Khôn Ngoan hơn cả.
Sau
cùng, thức ăn mà Đức Khôn Ngoan dùng để thết đãi khách chính là những lời giáo
huấn. Giáo huấn của Đức Khôn Ngoan đem lại sự sống và sự hiểu biết (x. Is
55,1-3; Am 8,11). Đức Khôn Ngoan ở đây chính là Thiên Chúa, Đấng ban lời giáo
huấn mang lại sự sống cho người nghe và biết đón nhận: “Hãy lắng tai và đến với
Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống” (Is 55,3).
Vậy,
khôn ngoan là biết lắng nghe giáo huấn của Thiên Chúa để được sống.
2. Bài đọc 2:
Thư
Êphêxô khuyên các tín hữu hãy bắt chước Thiên Chúa bằng cách sống bác ái
(5,1-2), thanh khiết (5,3-7), sống trong ánh sáng (5,8-14) và sống khôn ngoan,
biết cân nhắc, lựa chọn và cầu nguyện tạ ơn (5,15-20). Đoạn thư Êphêxô hôm nay
(5,15-20) làm nổi bật chủ đề sống khôn ngoan.
Trước
hết, sống khôn ngoan là biết tận dụng thời gian hiện tại. Theo cái nhìn thần
học của thánh Phaolô thì thời gian hiện tại là khoảng thời gian trước khi Chúa
quang lâm (Rm 8,18; 13,11). Đây là thời gian được xem là vắn vỏi (1 Cr 7,29) và
đầy những khó khăn, trắc trở (Ep 5,16). Biết sử dụng thời gian hiện tại là biết
tận dụng mỗi phút giây hiện tại, những cơ hội mình đang có được để lo sao cho
mình được cứu độ và đồng thời cũng giúp anh chị em cũng được cứu độ (Gl 6,10).
Hơn
nữa, sống khôn ngoan còn là biết tìm hiểu xem đâu là ý Chúa và thấm nhuần Thần
Khí. Thánh Phaolô khuyên các tín hữu đừng hóa ra ngu xuẩn khi không biết đâu là
ý Chúa, đừng say sưa mà không nhận ra Thần Khí. Dưới cái nhìn thần học của
Phaolô, những ai không nhận biết ý Chúa và không thấm nhuần Thần Khí đều là kẻ
ngu xuẩn và say sưa. Đó không phải là cách sống khôn ngoan.
Sau
cùng, sống khôn ngoan là biết chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa. Lời ngợi khen
chúc tụng cao đẹp là lời ca do Thần Khí linh hứng, được dâng lên để cảm tạ
Thiên Chúa, nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Sống khôn ngoan không chỉ là biết chúc
tụng ngợi khen Thiên Chúa mà còn là ngợi khen chúc tụng sao cho đúng cách: đó
là, nhờ Chúa Thánh Thần tác động mà ca hát chúc tụng Đức Giêsu Kitô là Chúa và
nhờ Người dâng lên Thiên Chúa Cha lời cảm tạ.
Vậy,
sống khôn ngoan, theo thư Êphêxô, là biết tận dụng thời gian hiện tại để được
cứu độ, là tìm kiếm thánh ý Chúa và thấm nhuần Thần Khí, và là biết chúc tụng
ngợi khen Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần.
3. Bài Tin Mừng
Nếu
sống khôn ngoan theo sách Châm Ngôn là đón nhận giáo huấn của Thiên Chúa để
được sự sống, thì khôn ngoan theo lời Đức Giêsu trong diễn từ về bánh hằng sống
là ăn thịt và uống máu Người để được sự sống đời đời. Chúa Giêsu nêu lên ba
hiệu quả của việc đón nhận thịt và máu Người.
Thứ
nhất, những ai ăn thịt và uống máu Người thì ngay ở đời này được liên kết mật
thiết với Chúa Giêsu, được ở lại trong Người, được sự sống từ Người. Và sự sống
của Chúa Giêsu không phát xuất từ Người mà là từ Chúa Cha, Đấng đã sai Người.
Sự sống thần linh phát xuất từ Thiên Chúa Cha, và qua Chúa Giêsu, sự sống này
được thông truyền cho những ai ăn thịt và uống máu Người. Sự sống thần linh này
không chỉ là một lời hứa xa xôi mà đã được ban cho người lãnh nhận ngay từ đời
này.
Thứ
hai, những ai ăn thịt và uống máu Đức Giêsu thì được Người hứa ban sự sống đời
đời. Sự sống thần linh phát xuất từ Thiên Chúa không chỉ được ban cho con người
cách tạm bợ nơi trần gian này, mà còn là lời hứa chắc chắn cho cuộc sống đời
đời. Quả vậy, thịt và máu Đức Giêsu không chỉ là lương thực thiêng liêng cho
con người trong cuộc lữ hành trần thế, mà còn là bảo đảm cho con người sự sống
viên mãn mai sau.
Thứ
ba, thịt và máu Chúa Giêsu còn là bảo đảm cho cuộc phục sinh mai sau: “Ai ăn
thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại
trong ngày sau hết” (Ga 6,54). Sự phục sinh là cuộc chiến thắng và hiển trị của
Chúa Giêsu trên sự chết. Một khi đón nhận thịt và máu Chúa Giêsu, con người
được thông dự vào cuộc chiến thắng và vinh quang phục sinh với Người.
Chúa
Giêsu khẳng định thịt Người thật là của ăn và máu Người thật là của uống. Thứ
lương thực thần linh này phát xuất từ Thiên Chúa, và được ban qua Chúa Giêsu để
những ai lãnh nhận thì không chỉ được thông dự vào sự sống thần linh ở đời này,
được bảo đảm cho cuộc sống mai sau mà còn được hiển trị cùng Chúa Giêsu trong
cuộc phục sinh của Người. Đó thật là cách sống khôn ngoan mà Chúa Giêsu muốn
mạc khải cho con người.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1/ Đức
Khôn Ngoan mở tiệc mời những người ngây thơ và những kẻ ngu si và thết đãi bằng
chính giáo huấn của Ngài để những ai đón nhận thì được sự sống. Tôi có sẵn sàng
nhận mình là người ngây thơ hay kẻ ngu si để được Đức Khôn Ngoan mời dự tiệc
lời Ngài? Tôi có sẵn lòng để cho lời Chúa trở thành lời khôn ngoan hướng dẫn
cuộc đời tôi?
2/ Sống
khôn ngoan, theo thư Êphêxô, là biết tận dụng thời gian hiện tại để được cứu
độ, là tìm kiếm thánh ý Chúa và thấm nhuần Thần Khí, và là biết chúc tụng ngợi
khen Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần. Tôi có muốn
sống khôn ngoan theo tiêu chuẩn của thư Êphêxô? Tôi có biết tận dụng thời gian
hiện tại để được cứu độ? Tôi có tìm kiếm thánh ý Chúa và để cho Thánh Thần
hướng dẫn đời mình? Tôi có biết ngợi khen Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, trong
Chúa Thánh Thần?
3/ Chúa
Giêsu vạch ra con đường khôn ngoan dẫn đến sự sống không chỉ ở đời này, đời sau
mà còn bảo đảm cho cuộc phục sinh mai hậu. Tôi có xác tín thịt và máu Chúa
Giêsu thật sự là lương thực thần linh cho tôi ở đời này và cuộc sống vĩnh cửu
mai sau? Tôi đã đón nhận thịt và máu Chúa Giêsu thế nào để nên lương thực thật
sự cho cuộc đời tôi?
III. LỜI NGUYỆN
CHUNG
Chủ tế: Anh
chị em thân mến! Thiên Chúa đã yêu thương tái sinh chúng ta qua Bí tích Rửa
tội, và còn tận tình nuôi dưỡng chúng ta mỗi ngày bằng Lời của Người và Bí tích
Thánh Thể. Chúng ta hãy thành tâm cảm tạ Chúa và khiêm tốn dâng lời cầu xin:
1. “Ai ăn
thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy.” Chúng ta cùng cầu
nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh luôn khao khát kết hợp mật thiết với Chúa
Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, và biết dọn mình xứng đáng mỗi khi đón rước
Chúa.
2. “Ta là
bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời.” Chúng ta
cùng cầu nguyện cho con người trong thế giới hôm nay, đang khi miệt mài với
những tiện nghi và của ăn trần thế, cũng thao thức tìm kiếm sự sống đích thực
nơi Thiên Chúa.
3. Thánh
Thể là dấu chỉ của yêu thương và hiệp nhất. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những
nơi đang xảy ra tranh chấp, chia rẽ, bất hòa ở trên thế giới; để những ai có
trách nhiệm liên quan luôn biết hành động khôn ngoan theo tiếng Chúa và tiếng
lương tâm thúc giục.
4. “Hãy
luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa là Cha trong mọi nơi mọi sự.” Chúng ta cùng cầu
nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn ý thức những ân huệ Chúa
ban, và sống tâm tình tạ ơn bằng cách trở nên tấm bánh bẻ ra cho mọi người theo
gương Chúa Giêsu.
Chủ tế: Lạy
Chúa là Cha rất nhân từ, Chúa đã quy tụ và không ngừng nuôi dưỡng chúng con
trong Hội Thánh Chúa. Xin nhận lời chúng con tha thiết cầu xin và giúp chúng
con luôn biết thể hiện sự khôn ngoan của con cái Chúa ở giữa thế gian. Chúng
con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
SCĐ CHÚA NHỰT XX TN.B
Chủ đề :
Bàn tiệc Chúa
"Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là
của uống"
(Ga 6,55)
(Ga 6,55)
Sợi chỉ đỏ :
Hai ý tưởng lớn của các bài
đọc hôm nay là Bàn tiệc Mình Chúa và Bàn tiệc Khôn ngoan của Lời Chúa.
- Bài đọc I (Cn
9,1-6) : Đức Khôn Ngoan mời người ta đến dự tiệc
- Đáp ca (Tv 33) : Kêu
mời học sự Khôn ngoan
- Tin Mừng (Ga
6,51-58) : Mình thánh Đức Kitô là lương thực
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta đói khát nhiều thứ,
và chỉ có Chúa mới thỏa mãn được tất cả cho chúng ta. Thánh lễ chính là một bữa
tiệc. Trong Thánh lễ, chúng ta được lắng nghe Lời Chúa, chúng ta được ăn Mình
Thánh Chúa.
Chúng ta hãy chuẩn bị tâm
hồn cho xứng đáng tham dự Bàn tiệc Chúa.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta chưa thực sự tin
rằng Mình Thánh Chúa là lương thực rất cần thiết cho cuộc sống chúng ta.
- Chúng ta chưa thiết tha
học hỏi sự khôn ngoan trong Lời Chúa.
- Chúng ta không siêng năng
dự tiệc Thánh Lễ.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Cn 9,1-6)
Cựu Ước rất quý chuộng sự
Khôn ngoan, đến nỗi đã nhân hình hóa sự Khôn ngoan như một Mệnh phụ hào phóng
dọn một bữa tiệc thịnh soạn và kêu mời mọi người đến dự, tức là đế học hỏi sự
khôn ngoan của mình.
Hình tượng về sự Khôn ngoan
này sẽ được thực hiện bởi Đức Giêsu.
2. Đáp ca (Tv 33)
Thánh vịnh này quảng diễn
tiếp bài đọc I về sự khôn ngoan : khôn ngoan thật là biết kính sợ Chúa.
3. Tin Mừng (Ga 6,51-58)
Tiếp tục bài giảng sau phép
lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu hướng thính giả về bí tích Thánh Thể :
Ngài nói rõ hơn về bánh ban sự sống, đó là Thịt và Máu Ngài : "Ai ăn
thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời".
- Ở cuối đoạn tuần trước,
Đức Giêsu đã nói rõ : "Bánh ta sẽ ban chính là thịt ta đây" (câu
51).
- Câu đó đã khiến những người
do thái tranh luận với nhau. Sở dĩ họ tranh luận vì trong họ có người hiểu theo
nghĩa đen (ăn thịt sống của Đức Giêsu), có người hiểu theo nghĩa bóng (tin vào
Ngài).
- Phần Đức Giêsu, Ngài muốn
hiểu theo nghĩa nào ? Thưa theo nghĩa đen. Bởi đó Đức Giêsu dùng những
động từ rất mạnh và cụ thể. Động từ "ăn" nguyên gốc là Trôgô nghĩa
là "nhai", lấy răng mà nhai một thức ăn nào đó. Và động từ trôgô này
được lặp đi lặp lại nhiều lần (các câu 53-54). Tới câu 55 Ngài tuyên bố dứt
khoát "Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của uống".
- Như thế là Đức Giêsu nói
tới bí tích Thánh thể, trong đó Ngài ban chính thịt và máu Ngài làm của ăn của
uống cho loài người.
- Hiệu quả của việc rước
lễ : "Ai ăn thịt Ta và uống máu ta thì có sự sống đời đời... thì ở
trong ta và ta ở trong kẻ ấy".
4. Bài đọc II (Êp 5,15-20)
Đoạn thư này cũng trùng hợp
với hai bài đọc Cựu Ước và Tin Mừng vì cũng đề cập đến sự khôn ngoan. Thánh
Phaolô khuyên tín hữu đừng sống như kẻ khờ dại, mà hãy sống như người khôn
ngoan. Theo ngài, khôn ngoan là
- biết tận dụng thời buổi
hiện tại
- biết tìm hiểu đâu là thánh
ý Chúa
IV. Gợi ý giảng
Theo tạp chí Times, gần đây
có nhiều vụ tự tử trong giới doanh nghiệp Nhật Bản. Ông Saysi, 40 tuổi mạnh
khỏe, là quản lý của công ty bảo hiểm Taiho, ông có đủ điều kiện để sống hạnh
phúc, an khang. Nhưng vào tháng 11-97 ông Saysi đã nhảy lầu tự vẫn vì công ty
mẹ là Yematri bị phá sản. Cũng trong thời gian này, một quan chức trong Bộ tài
chánh và hai viên chức khác thuộc công ty xã hội Nhật cũng kết liễu đời mình
khi bị kết án có dính líu đến tham nhũng.
Theo thống kê của cục cảnh
sát Nhật Bản năm 1996 có đến 23.000 người Nhật tự tử, gấp hai lần số người chết
vì tai nạn giao thông. Trong đó 3025 người tự tử vì thất bại về kinh tế. Các
nhà tâm lý giải thích cho những người mất việc rằng : "Thất
nghiệp là chuyện bình thường trong cuộc sống. Hơn nữa, trong cuộc sống còn có
một cái gì khác hơn việc làm".
*
Trong cuộc hành trình tìm về
quê trời, người tín hữu Kitô còn phải tìm kiếm một điều gì khác hơn là công
việc, tiền của, danh vọng và chức quyền.
Chúng ta luôn được nhắc
nhở : "Sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian" (x.Ga.15,19).
Đừng gắn bó với của cải chóng qua nhưng hãy tìm kiếm những giá trị trường tồn.
Đó chính là Đức Giêsu Kitô. Tấm bánh được trao ban cho nhân loại : "Bánh
Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga.6,51).
Tấm Bánh ấy không chỉ là bí
tích Thánh Thể mà còn là Tấm Bánh Lời Chúa. Hiến chế về Phụng vụ quả
quyết : "Chúa Kitô hiện diện trong Lời của Người, vì chính
Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Giáo hội" (Pv.7). Đức
Giêsu vẫn trao cho ta sức sống của Người chính là Tấm Bánh Lời
Chúa : "Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn nhờ
mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt.4,4).
Hiến chế Tín lý Mạc khải số
21 viết : "Giáo hội luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Thân Thể Chúa,
nhất là trong Phụng vụ Thánh, Giáo hội không ngừng lấy Bánh ban Sự sống từ bàn
tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu".
Mỗi thánh lễ là một bữa
tiệc. Chúng ta được mời đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa, trước khi cử hành bàn
tiệc Thánh Thể. Cả hai đều là lương thực cần thiết cho cuộc sống đời đời.
Mọi tín hữu đều biết ích lợi
vô song của Bí tích Thánh thể, nhưng lại dễ dàng bỏ qua việc rước lễ, chưa kể
là thiếu chuẩn bị, thiếu sốt sắng và thiếu thân tình.
Mọi tín hữu đều biết Lời
Chúa là cần thiết, nhưng lại ít quan tâm suy niệm và sống Lời Chúa.
Mahatma Gandhi, vị thánh của
dân tộc Ấn Độ có nói : "Tôi sẵn sàng trở thành một Kitô hữu, nếu tôi
thấy những người Kitô hữu thực thi Tám mối phúc thật".
*
Lạy Đức Giêsu, xin cho Lời
Chúa luôn tỏa sáng lối đường chúng con đi. Xin cho Mình Thánh Chúa là lương
thực hàng ngày cho chúng con. Xin dạy chúng con cũng trở nên tấm bánh được bẻ
ra cho anh chị em. Xin giúp chúng con không chỉ lắng nghe mà còn biết thực thi
lời Chúa ; không chỉ yêu mến, mà còn biết sống Lời Ngài ; không chỉ
tuyên xưng, mà còn biết thực hành đức tin. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 2. Chỗ trong bàn tiệc
Một thương gia giàu có kia
sống chung với con trai và con dâu mình. Người con trai rất thương người nghèo,
hay làm việc thiện nguyện trong những tổ chức giúp đỡ người nghèo, và cũng
thường bố thí cho người nghèo. Ít lâu sau vợ chồng người con trai sinh được đứa
con đầu lòng. Ông thương gia rất mừng và định tổ chức một bữa tiệc mừng rất
lớn.
Người con hỏi người
cha : "Cha định sắp xếp chỗ ngồi cho khách thế nào ? Có phải là
để những người giàu ngồi những bàn trên còn những người nghèo ngồi những bàn
gần cửa không ?" Người Cha xác nhận đúng như thế. Người con mới
xin : "Vì đây là bữa tiệc mừng đứa con của con, nên xin Cha hãy chìu
ý con mà đảo ngược lại, nghĩa là hãy đề những người nghèo ngồi bàn trên và
những người giàu ngồi bàn dưới". Người Cha đáp : "Con ơi, khó mà
thay đổi thế giới được. Này nhé con hãy suy nghĩ thử xem : Những người
nghèo đến dự tiệc là để ăn, còn những người giàu đến đây không phải để ăn mà để
được vinh dự. Vậy nếu ta xếp những người nghèo ở bàn trên thì họ phải cố gắng
giữ tư thế cho đàng hoàng, không dám ăn uống tự nhiên, cho nên dù có ăn họ cũng
ăn không ngon. Thà để họ ngồi các bàn dưới thì họ sẽ thoải mái hơn và muốn ăn
uống thế nào và bao nhiêu tuỳ thích. Còn những người giàu đến đây thực ra không
cần ăn, vì họ đã ăn uống đầy đủ ở nhà rồi. Xếp họ ngồi các bàn dưới thì họ sẽ
buồn ; cho nên xếp họ ngồi bàn trên thì hợp ý họ hơn".
Nghe người cha giải thích
như vậy, người con thấy hợp lý và không nài nỉ nữa.
Câu chuyện trên không có ý
dạy ta coi trọng người giàu và coi nhẹ người nghèo, nhưng muốn giúp ta so sánh
với Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là một bàn tiệc. Nhưng bàn tiệc này
khác với những bàn tiệc của loài người ở chỗ là mọi người đều được mời, bất kể
họ giàu hay nghèo. Những chỗ ngồi trong bàn tiệc Thánh Thể cũng bình đẳng như
nhau, không ai cao mà cũng không ai thấp. Tất cả chúng ta đến dự tiệc Thánh Thể
đều là những người nghèo về mặt thiêng liêng, cho nên đến đây tất cả chúng ta
đều được ăn uống no nê. Chẳng những thế tất cả chúng ta còn được vinh dự vì
được tham dự bàn tiệc của Thiên Chúa. Và hơn nữa những người cùng tham dự bàn
tiệc Chúa sẽ liên kết với nhau bằng sợi dây tình nghĩa, vì cùng chia xẻ một
thức ăn và một tình yêu của Đức Giêsu Kitô. (Viết theo Flor McCarthy)
3. Chuyện minh họa
Mẹ Têrêxa Calcutta có một
quy luật là khi một thiếu nữ nào đến xin nhập Dòng thì ngay ngày hôm sau sẽ
được gửi tới Nhà Lâm Chung (nơi chăm sóc những người sắp chết).
Một hôm, có một thiếu nữ đến
xin nhập Dòng. Theo thông lệ, Mẹ Têrêxa gửi chị này đến Nhà Lâm Chung. Mẹ căn
dặn : "Con đã thấy các Linh mục chạm đến Mình Thánh Chúa một cách
cung kính và trìu mến thế nào. Bây giờ con hãy đến Nhà Lâm Chung và cũng hãy
làm như thế, bởi vì Đức Giêsu trong Mình Thánh Chúa cũng là một với Đức Giêsu
đang ở trong những người khốn khổ ấy".
Ba giờ sau, thiếu nữ trở về
với một nụ cười rạng rỡ trên mặt. Cô trình với Mẹ Têrêxa : "Thưa Mẹ,
con đã được chạm đến Mình Thánh Chúa suốt 3 giờ đồng hồ". "Sao ?
Con đã làm gì ?" Mẹ Têrêxa hỏi. Cô đáp : "Khi con đến đấy
thì người ta cũng vừa mang đến một ông bị rơi vào một cái cống và phải nằm
trong đó một thời gian. Mình mẩy ông rất dơ bẩn và rất nhiều thương tích. Con
đã rửa cho ông và lau các vết thương của ông. Đang lúc con làm thế, con biết là
con đang chạm chính Mình Thánh Đức Kitô".
* 4. Lương thực thần linh
"Có thực mới vực
được đạo." Câu nói đó chắc chắn không áp dụng với người giáo dân tên là
Têrêxa Niu Man, là người đã trải qua 36 năm trời không ăn uống gì mà vẫn sống
và giữ đạo sốt sắng. Têrêxa sinh ngày 8 tháng 4, 1898, trong một gia đình Công
Giáo ngoan đạo miền Bắc Baveria của nước Đức. Người dân trong làng Cổ Môn
Trường gồm gần 1,000 người, hầu hết sống bằng nghề nông. Gia đình của Têrêxa
rất nghèo như phần đông các gia đình trong làng. Học xong tiểu học, Têrêxa 14
tuổi và em là Maria 13 tuổi, đi làm thuê cho những điền chủ ở các làng lân cận
để có tiền giúp đỡ cha mẹ. Công việc nặng nhọc nhưng Têrêxa không ngại vì bản
tính vốn ưa thích việc đồng ruộng và chăm sóc súc vật. Giống như mấy em gái của
nàng, Têrêxa cũng có những chàng trai để ý ngắm nghía, nhưng nàng đã có mơ ước
riêng. Từ nhỏ nàng đã mơ ước là một nữ tu truyền giáo ở Phi Châu và đã nhiều
lần liên lạc với các tu sĩ truyền giáo Dòng Biển Đức. Nhưng Thiên Chúa đã an
bài một hướng truyền giáo khác cho Têrêxa.
Ngày 13 tháng 11,
1925, Têrêxa bị đau ruột dư dữ dội, cơn sốt cao khủng khiếp. Bác sĩ chăm sóc
cho nàng đề nghị một cuộc giải phẫu tức khắc tại một bệnh viện gần đó. Mẹ nàng
khóc hết nước mắt. Cha sở Ngô Biên (Nobert) có mặt. Têrêxa xin cha Biên đặt
thánh tích của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu lên chỗ đau và chính nàng cầu
xin : "Lạy thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, chỉ có Ngài mới có thể
chữa con lành bệnh, Ngài đã chữa lành con nhiều lần rồi. Con không xin Ngài vì
con nhưng vì mẹ con."
Đáp lại thánh Têrêxa
Hài Đồng Giêsu đã cho nàng lập tức khỏi bệnh. Cùng với mẹ nàng đến nhà thờ tạ
ơn Chúa trước sự ngỡ ngàng của mọi người có mặt. Nhưng trước đó thánh nhân đã
nói cho Têrêxa Niu Man biết rằng : Sự tuân phục và vui tươi chấp nhận đau
khổ của con làm ta rất hài lòng. Để mọi người nhận thức đây là một biến cố phi
thường, con sẽ không cần phải trải qua cuộc giải phẫu và hãy mau mau tạ ơn
Chúa. Con sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn nữa, nhưng đừng sợ điều gì, cả những
đau khổ trong nội tâm. Chỉ có cách này con mới cứu được các linh hồn. Con phải
từ bỏ mình nhiều hơn, nhưng hãy luôn sống trong sạch, đơn sơ như hiện nay.
Quả thật, không đầy
bốn tháng sau, Têrêxa cảm thấy mệt mỏi phải nằm giường cả hơn tháng trời cho
tới lễ Phục Sinh. Đêm thứ năm ngày 4 tháng 3 khi nằm nghỉ trên giường, nàng
chợt thấy trong một thị kiến, Đức Giêsu đang quì cầu nguyện ở vườn cây dầu và
thấy các môn đệ đang ngủ. Nàng cảm thấy dấy lên nơi tâm hồn niềm thương cảm vô
biên đối với Đấng Cứu Chuộc. Cùng lúc Đức Giêsu nhìn chằm chặp vào nàng. Nàng
cảm thấy đau đớn tột độ ở gần nơi trái tim đến nỗi có thể chết được. Khi tỉnh
lại, Têrêxa thấy ở cạnh sườn bên trái của nàng một vết thương, máu rỉ ra cho
đến ngày hôm sau. Nàng băng vết thương lại để mọi người không thấy và nói với
em gái ở chung phòng với nàng là nàng bị phỏng.
Một tuần lễ sau cũng
vào giờ đó Têrêxa lại thấy Đức Giêsu trong vườn cây dầu, và sau đó cảnh Ngài bị
đánh bằng roi. Tuần lễ sau nữa, nàng chứng kiến cảnh Chúa đội mão gai. Mỗi lần
như thế, vết thương cạnh sườn nàng chảy máu chan hoà đến ngày hôm sau. Ngày thứ
sáu 26 tháng 3, Têrêxa thấy Chúa vác thánh giá và té ngã dưới sức nặng. Khi
tỉnh lại nàng thấy một vết thương hiện lên nơi bàn tay trái của nàng, không
cách chi che giấu được. Khi mẹ nàng hỏi tại sao bị thương như thế, Têrêxa trả
lời rằng vết thương ấy đã xuất hiện cách tự nhiên. Trong đêm thứ năm tuần
thánh, tức ngày 1 tháng 4, lần đầu tiên Têrêxa được mục kích trọn đường thánh
giá từ vườn cây dầu tới đỉnh núi Sọ và cái chết của Chúa trên thập giá.
Sau đó những vết
thương khác xuất hiện thêm trên tay mặt và hai chân của nàng. Cha sở Ngô Biên
được mời đến. Cha vội đến nói với một linh mục khác và cha đã ghi như sau trong
nhật ký của cha : " Têrêxa nằm đó như một vị tử đạo, cặp mắt nàng đầy
máu và hai giọt máu chảy xuống má nàng. Gương mặt nàng nhợt nhạt như một người
chết. Đến 3 giờ chiều, giờ chết của Đấng Cứu Chuộc, nàng phải chịu những cơn
đau khủng khiếp đến chết đi được. Sau đó, nàng trở nên yên lặng hoàn toàn. Cha
sở bị đánh động mạnh trước biến cố. Các dấu thánh ấy đồng thời khiến cha mẹ và
cả gia đình của Têrêxa sầu khổ tột độ.
Ngày 4 tháng 4 là Chúa
Nhật Phục Sinh, Têrêxa được thấy Đấng Cứu Chuộc Phục Sinh. Nàng cảm thấy khoẻ
khoắn trong người để có thể ra khỏi giường.
Ban đầu gia đình
Têrêxa nghi ngờ về những dấu lạ này nên cố gắng chữa trị cho Têrêxa. Nhưng càng
chạy chữa, xức thuốc và băng bó, những vết thương ấy càng lở loét và gây thêm
đau nhức. Têrêxa lấy làm lạ về hiện tượng đó nên thỉnh ý thánh nữ Têrêxa Hài
Đồng Giêsu và được Ngài cho biết là không nên chữa trị những vết thương đó.
Chúng không làm độc và chỉ mở ra mỗi thứ sáu.
Tháng 11 cùng năm đó,
giữa hai ngày 18 và 19, tức thứ năm và thứ sáu, trong khi Têrêxa nhận được thị
kiến về Đức Giêsu chịu đội mão gai, người ta thấy xuất hiện 3 vết máu trên
chiếc khăn màu trắng nàng đội trên đầu. Khi cất khăn đi người ta thấy đầu nàng
ướt sũng máu và rất đau đớn. Tuần kế tiếp có 8 vết máu trên đầu nàng. Những vết
ấy sẽ ở mãi trên đầu nàng.
Từ lễ Giáng Sinh 1926,
Têrêxa kinh nghiệm một sự thay đổi đột ngột là ngưng hẳn việc ăn uống. Hằng
ngày sau khi rước lễ nàng chỉ dùng vài giọt nước để giúp nàng nuốt trôi Mình
Thánh Chúa. Nhưng cha sở Ngô Biên chứng thực rằng sau tháng 9, 1927, nàng không
cần những giọt nước này nữa.
Từ đó trở đi, trong 36
năm liền, Têrêxa sống mà không cần ăn uống gì cả. Mình Thánh Chúa là thức ăn
duy nhất của nàng. Cha Ngô Biên, người đã cho Têrêxa rước lễ mỗi ngày cho đến
khi nàng chết, đã ghi trong nhật ký của ngài rằng Têrêxa thường nói với mọi
người là nàng sống nhờ vào Đấng Cứu Chuộc. Và cha còn thêm rằng nơi Têrêxa thực
đã ứng nghiệm lời tuyên bố của Đức Giêsu khi nói : "Thịt Ta thật là
của ăn. Máu Ta thật là của uống."
Câu chuyện vừa kể minh
họa lời Đức Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay là "Ai ăn thịt và uống máu
tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (c.56). Câu chuyện cho
thấy Chúa ở lại một cách lạ lùng : (1) Chúa ở lại và tỏ lộ quyền năng của
Người nơi một giáo dân chỉ cần chịu lễ mà thôi… không cần ăn uống gì khác trong
suốt thời gian 36 năm, mà vẫn mạnh khỏe ! (2) Chúa còn ở lại và cho người
ấy dự phần vào cuộc thương khó của Chúa cả nơi thân xác lẫn nơi nội tâm người
đó. (3) Mục tiêu nhắm tới là : "Con đừng sợ đau khổ, kể cả đau khổ
nội tâm. Chỉ có cách đó, con mới cứu được các linh hồn. Con phải từ bỏ mình
nhiều hơn, phải luôn sống trong sạch và đơn sơ như hiện nay" - mục tiêu ấy
được tiết lộ qua trung gian thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu trong một thị kiến.
Nhân vật trong câu
chuyện có thực, vì ta biết rõ lý lịch. Sự kiện mà người đó chịu lễ và không ăn
uống gì khác suốt 36 năm, cũng như sự kiện về năm dấu thánh nơi thân xác người
đó với những đau đớn người đó phải chịu các ngày thứ sáu, những hiện tượng đó
đã được kiểm chứng đầy đủ do các bác sĩ có thẩm quyền của Toà Thánh và của giáo
phận Ratisbon của Đức Quốc. Đồng thời, vụ án phong chân phước cho bà Têrêxa Niu
Man đang được xúc tiến.
Chẳng ai buộc người
Kitô phải tin vào ơn mạc khải riêng bao giờ. Nhưng mọi Kitô hữu đều phải bén
nhạy đối với những việc Chúa làm nơi thọ tạo. (Lm Augustine sj, Vietcatholic
2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân
mến, Đức Giêsu đã nói : "Tôi là bánh từ Trời xuống, bánh Tôi sẽ ban
tặng chính là thịt và máu Tôi. Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn
đời". Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện :
1. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các giáo sĩ, tu sĩ các giáo dân trong
Hội thánh / biết sốt sắng tham dự thánh lễ và siêng năng Rửa tội / để
luôn sống hiệp thông với Đức Giêsu và với nhau.
3. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các dân tộc /
được ơn khôn ngoan sáng suốt để chọn đường lối tốt đẹp nhất mà phục vụ cho đồng
bào mình.
2. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người chưa biết Đức Giêsu
Kitô / được sớm nhận ra Người chính là Đường, là sự Thật và là Sự Sống của
mọi người.
4. Chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo
chúng ta / ngày càng hiểu biết hơn tầm quan trọng của bí tích thánh thể
trong cuộc sống hằng ngày của mỗi Kitô hữu.
Chủ tế : Lạy Đức
Giêsu, xin cho mỗi người chúng con hiểu biết rằng, chỉ nhờ sức sống của Chúa
ban cho trong bí tích Thánh Thể, chúng con mới có thể sống yêu thương và phục
vụ tốt cho gia đình và xã hội. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước lúc rước lễ :
Chúng ta hãy nhớ lại lời Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng : "Đây là
bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời"
VII. Giải tán
Chúng ta tạ ơn Chúa đã cho
chúng ta tham dự Thánh lễ này, vì nhờ đó chúng ta được nghe những Lời khôn
ngoan của Chúa và được rước lấy Mình Thánh Ngài. Ước gì Lời Chúa và Mình Chúa
giúp chúng ta sống thật tốt suốt tuần này.
Lm.
Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa
Nhật XX Thường Niên (B)
Chúa Nhật, 16 Tháng 8, 2015
Đức Giêsu, Bánh Hằng Sống
Ga 6:51-58
Chúng ta hãy cầu xin sự hiện diện của Thiên Chúa
Lạy Thiên Chúa toàn năng,
Chúa đã biến đời sống mỏng manh của chúng con thành đá tảng đền
thờ Chúa ngự.
Xin hãy hướng dẫn tâm trí chúng con biết đập vỡ những phiến đá
trong sa mạc,
để cho nước có thể tuôn tràn ra hầu làm dịu cơn khát của chúng
con.
Nguyện xin cho sự nghèo nàn về cảm xúc của chúng con che phủ
chúng con như tấm áo choàng trong bóng tối của đêm đen.
Và xin Chúa hãy mở lòng trí chúng con để chúng
con có thể nghe được tiếng vang vọng của sự im lặng cho đến lúc bình minh,
Xin hãy ấp ủ chúng con trong ánh sáng của buổi
rạng đông,
Xin hãy mang đến cho chúng con,
Với than hồng từ lửa của những mục tử của Đấng
Tuyệt Đối
Là những người canh thức cho chúng con được
gần với Thầy Chí Thánh, hương vị của kỷ niệm thánh.
1. Bài Đọc
a) Tin Mừng:
51 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái
rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ
sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được
sống". 52 Vậy người Do-thái tranh luận với nhau
rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn
được?" 53 Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ:
"Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và
uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. 54 Ai
ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống
lại ngày sau hết. 55 Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật
là của uống.56 Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và
Ta ở trong kẻ ấy. 57 Cũng như Cha, là Đấng hằng sống đã
sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ
Ta. 58 Đây là bánh bởi trời xuống. Không phải như cha ông
các ngươi đã ăn manna và đã chết, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".
b) Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Hãy để cho Lời Chúa vang vọng ở trong lòng
chúng ta.
2. Suy Gẫm
a) Một vài câu hỏi gợi ý:
- Ta là bánh hằng sống… Đức Giêsu,
mình và máu, bánh và rượu. Những lời này làm nên một sự thay đổi
trên bàn thờ, như thánh Augustinô đã nói: “Nếu bạn cất đi những lời
ấy, bạn chỉ còn lại bánh và rượu; thêm vào các lời ấy vào và nó trở nên một cái
gì khác. Cái gì khác này là mình và máu Đức Kitô. Bỏ
những chữ này đi, bạn chỉ còn lại bánh và rượu; thêm những chữ này vào và chúng
trở thành nhiệm tích”. Lời của Chúa đối với tôi quan trọng như thế
nào? Nếu lời được tuyên bố trên xác thịt tôi thì nó có thể nào khiến
tôi trở thành bánh cho thế gian không?
b) Chúng ta
hãy bước vào bài Tin Mừng:
Câu 51: “Ta
là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ
ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Tin Mừng theo Gioan không kể lại
việc thành lập Bí Tích Thánh Thể, mà là ý nghĩa của nó được giả định trong đời
sống của cộng đoàn Kitô hữu. Biểu tượng việc rửa chân và giới răn
mới (Ga 13:1-35) hướng về việc bẻ bánh và rượu được rót. Nội dung về
thần học thì tương tự như trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Tuy nhiên,
nghi lễ truyền thống của Gioan có thể được tìm thấy trong “bài giảng về
nhiệm tích Thánh Thể” theo sau phép lạ bánh hóa nhiều (Ga
6:26-65). Văn bản này làm nổi bật ý nghĩa sâu xa về sự hiện diện của
Chúa Kitô cho thế gian, một ân sủng về nguồn gốc sự sống và dẫn đến sự hiệp
thông sâu sắc trong giới răn mới cho những người gia nhập. Việc nhắc
đến phép lạ xưa kia về bánh manna giải thích biểu tượng lễ vượt qua nơi mà ý
tưởng về cái chết được đề cập đến và bị khắc phục bởi sự sống: “Cha
ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi
trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết” (Ga 6:49-50). Bánh
bởi trời (xem Es 16; Ga 6:31-32) theo nghĩa bóng hoặc trong thực tế
không mang ý nghĩa nhiều cho cá nhân như cho cộng đoàn các tín hữu, ngay cả khi
mọi người được kêu gọi tham dự để cùng chia sẻ của ăn được ban cho tất cả mọi
người. Bất cứ ai ăn bánh hằng sống sẽ không bị chết: Thức
ăn của sự mặc khải là nơi mà sự sống không bao giờ kết thúc. Từ việc
bánh, Gioan tiếp tục dùng một biểu hiện khác để chỉ về thân thể: Sàrx. Trong
Kinh Thánh, chữ này bao hàm ý nghĩa một phàm nhân trong thực tại mong manh và
yếu đuối của mình trước Thiên Chúa, và trong Tin Mừng Gioan, nó bao hàm ý nghĩa
con người thực của Ngôi Lời Thiên Chúa đã trở nên người phàm (Ga
1:14a): bánh được xác định với chính thịt của Chúa
Giêsu. Ở đây không phải là một vấn đề về bánh ẩn dụ, đó là về sự mặc
khải của Đức Kitô trong thế gian, mà là về bánh Thánh Thể. Trong sự
mặc khải, đó là bánh ban sự sống được xác định với con người
của Đức Giêsu (Ga 6:35), là món quà ân sủng của Chúa Cha (động từ ban
cho được dùng ở thì hiện tai, câu 32), bánh Thánh Thể, đó chính là
thân thể của Chúa Giêsu sẽ được ban phát bởi Người qua cái chết trên thập giá
được miêu tả trước trong việc truyền phép bánh và rượu tại bữa tiệc
ly: “và bánh Ta sẽ ban tặng chính là thịt Ta đây, để cho thế gian
được sống” (Ga 6:51).
Câu 52: Vậy người Do-thái tranh luận với
nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn
được?" Ở đây bắt đầu câu chuyện của lối suy nghĩ dừng
lại ở ngưỡng cửa của vật thể và việc có thể trông thấy được và không dám lấn
qua bức màn của sự mầu nhiệm. Đây là một sự chướng tai gai mắt cho
những kẻ tin mà không tin… của những kẻ giả vờ biết mà không
biết. Thịt để ăn: việc cử hành lễ Vượt Qua, nghi thức lưu niên sẽ
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, một bữa tiệc vì Thiên Chúa và một lễ
tưởng niệm (xem Es 12:14), mang ý nghĩa là Chúa Kitô. Lời mời của
Đức Giêsu để làm những gì Người đã làm để “tưởng nhớ” về Người, song song với
những lời của ông Môisen khi ông đặt luật quy định cho lễ hồi tưởng ngày vượt
qua: “Các ngươi phải lấy ngày này làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng
Đức Chúa. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này” (Xh
12:14), Bây giờ, chúng ta biết rằng đối với người Do Thái việc cử hành ngày Lễ
Vượt Qua không chỉ là một sự tưởng nhớ về một sự kiện đã xảy ra trong quá khứ,
mà nó cũng là một nghi thức, theo ý nghĩa là Thiên Chúa đã sẵn sàng để ban phát
lần nữa ơn cứu độ cần thiết cho dân của Người trong những hoàn cảnh mới và khác
nhau. Do đó, quá khứ đã xâm nhập vào hiện tại, dấy men bằng quyền năng cứu rỗi
của nó. Trong cùng một cách hy lễ Thánh Thể “sẽ có thể” ban cho hằng
thế kỷ đời sau “thịt để ăn”.
Câu 53: Bấy
giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi
không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong
các ngươi. Phúc Âm Gioan, cũng như các sách Tin Mừng Nhất
Lãm, dùng các sự diễn đạt khác nhau khi nói về việc Chúa Giêsu hiến mình trong
cái chết, không muốn truyền đạt riêng rẽ từng phần như thế, mà là toàn cả con
người đã cho tặng: Sự hữu hình được sinh động hóa của Chúa Kitô Phục Sinh, hoàn
toàn tràn ngập bởi Chúa Thánh Thần trong biến cố mầu nhiệm của Lễ Vượt Qua, sẽ
trở thành nguồn gốc sự sống cho tất cả các tín hữu, đặc biệt là qua Bí Tích
Thánh Thể, liên kết chặt chẽ mỗi người với Đức Kitô vinh hiển ngự bên hữu Đức
Chúa Cha, và làm cho mỗi người dự phần vào đời sống thiêng liêng của chính
mình. Gioan không đề cập đến bánh và rượu, nhưng lại trực tiếp nói
đến những gì được biểu thị: thịt để ăn bởi vì Đức Kitô hiện diện để
nuôi dưỡng và máu để uống – một hành động báng bổ đối với người Do Thái – bởi
vì Đức Kitô là chiên hiến tế. Nhân vật phụng vụ hiến tế hiển nhiên ở đây: Chúa
Giêsu khẳng định trên thực tế về thịt và máu đề cập đến cái chết của Người, bởi
vì trong hành động hiến tế vật hy sinh thì thịt bị tách rời khỏi
máu.
Câu 54: Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta
thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Lễ
Vượt Qua được cử hành bởi Chúa Giêsu, người Do Thái, và bởi các Kitô hữu tiên
khởi tạo nên một linh hồn mới: về sự phục sinh của Đức Kitô, cuộc ra
đi cuối cùng của sự tự do đầy đủ và hoàn hảo (Ga 19:31-37), trong Bí Tích Thánh
Thể có sự tưởng niệm mới, biểu tượng Bánh của sự sống đã duy trì suốt cuộc hành
trình trong sa mạc, hy tế và sự hiện diện duy trì dân của Thiên Chúa, Giáo Hội,
đã vượt qua vùng nước tái sinh, sẽ không mệt mỏi về việc làm lễ tưởng nhớ, như
Người đã nói, (Lc 22:19; 1Cr 11:24) cho đến ngày Lễ Vượt Qua đời
đời. Được thu hút và thấm nhập bởi sự hiện diện của Ngôi Lời làm
người, các Kitô hữu sẽ sống ngày Lễ Vượt Qua của họ trong suốt dòng lịch sử,
chuyến vượt qua từ sự nô lệ cho tội lỗi đến sự tự do làm con cái Thiên
Chúa. Trong việc noi gương Đức Kitô, họ sẽ có thể loan truyền các kỳ
công tuyệt vời đáng ngưỡng mộ của Người, việc ban phát phép Thánh Thể hữu hình
của Người: của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa
trong cách thức thờ phượng xứng hợp (Rm 12:1) giúp ích cho dân chúng vì vinh
quang của Người, là dân riêng của Thiên Chúa, là hàng tư tế vương giả (xem 1 Pr
2:9).
Các câu 55-56: Vì thịt Ta thật là của ăn,
và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở
trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Lời hứa này về sự sống của Đức
Kitô ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của các tín hữu: “Ai ăn
thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga
6:56). Sự hiệp thông của sự sống mà Chúa Giêsu có với Chúa Cha thì
được ban cho tất cả những ai ăn thịt hy tế của Đức Kitô. Điều này
không phải để được hiểu như là sự nhượng bộ kỳ diệu về của ăn bí tích tự động
ban sự sống đời đời cho những ai ăn thịt ấy. Ân sủng của mình và máu
này cần sự giải thích để làm cho nó dễ hiểu và cung cấp sự hiểu biết cần thiết
về việc làm của Thiên Chúa, nó cần đức tin về phần của những kẻ đã dự phần vào
bàn tiệc Thánh Thể, và nó cần tác động của Thiên Chúa trước, đó là Chúa Thánh
Linh, không có Người thì không có sự lắng nghe hoặc đức
tin.
Câu 57: Cũng
như Cha, là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính
người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Sự nhấn mạnh không được đặt ở sự tôn kính như tột
đỉnh và là nền tảng của tình yêu, mà vào sự hiệp nhất của thể cách Đức Kitô
hằng sống và hoạt động trong cộng đoàn. Không có nghi thức phụng vụ
mà không có sự sống. “Một Bí Tích Thánh Thể không có tình huynh đệ
thì bằng như tự lên án, bởi vì thân thể Đức Kitô, là cộng đoàn, bị xem
thường”. Thật vậy, trong phần phụng vụ Thánh Thể, lịch sử ơn cứu độ của
quá khứ, hiện tại và tương lai tìm thấy một biểu tượng hữu hiệu cho cộng đoàn
Kitô hữu, biểu lộ nhưng không bao giờ thay thế cho những kinh nghiệm đức tin mà
luôn phải hiện diện trong lich sử. Qua Bữa Tiệc Ly và Thập Giá không
thể tách rời, dân Thiên Chúa đã bước vào những lời hứa xưa, miền đất thực sự
vượt biển, vượt sông, vượt sa mạc, miền đất của sữa và mật ong, của khả năng tự
do vâng phục. Tất cả các dự tính xưa được tìm thấy trong giờ này
(xem Ga 17:1) sự viên mãn của chúng; từ lời hứa với tổ phụ Abraham (St 17:1-8)
đến bữa Lễ Vượt Qua của thời kỳ Lưu Đày (Xh 12:1-51). Đây là thời
điểm quyết định tập họp lại toàn bộ lịch sử của dân riêng (xem GL 4) và Bí Tích
Thánh Thể đầu tiên cao quý nhất được cử hành về giao ước mới thì được ban bởi
Chúa Cha: sự hoàn thành có kết quả của tất cả các kỳ vọng trên bàn tế lễ thập
giá.
Câu 58: Đây là bánh bởi trời xuống.
Không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, ai ăn bánh này thì sẽ
sống đời đời". Khi Đức Giêsu công bố những
lời: “Đây là mình Ta” và “Đây là máu Ta”, Người thiết lập một mối
quan hệ đích thực và khách quan giữa những nguyên tố vật chất và mầu nhiệm về
cái chết của Người, điều mà tìm thấy sự vinh quang của nó trong sự sống
lại. Đây là những lời sáng tạo về một tình thế mới với các nguyên tố
phổ biến trong kinh nghiệm của con người, những lời sẽ và luôn luôn nhận thực
được sự hiện diện mầu nhiệm của Đức Kitô hằng sống. Các nguyên tố
được lựa chọn có mục đích phải là biểu tượng và khí cụ cùng một
lúc. Nguyên tố bánh, bởi vì sự tương quan của nó với sự sống tự nó
có một ý nghĩa cánh chung (xem Lc 14:15), dễ dàng được xem như là một thức ăn
không thể thiếu và phương tiện chung của sự chia sẻ. Nguyên tố rượu,
bởi vì sự tượng trưng tự nhiên của nó, bao hàm sự viên mãn của sự sống và sự
phấn khởi của lòng người (xem Tv 103:15). Trong quan điểm hiện sinh
Semite, sự hữu hiệu của hệ thống các phép lạ bị xem là chuyện đương
nhiên. Nó tạo ra những nét đặc thù để có thể thấu hiểu những nhiệm
tích bằng đức tin khi mà các giác quan không thể nhận ra được. Bằng
cách đề cập đến sa mạc và bánh manna, điều này khác với lễ “Vượt Qua”, vật chất
và phép lạ hợp cùng với nhau, nhưng nhục dục, đến từ xác thịt, biến đổi phép lạ
trở thành vật thể, trong khi lòng ước muốn, đến từ tinh thần, biến đổi vật thể
trở thành phép lạ” (P. Beauchamp, L’uno e l’altro testament, ấn bản
Paideia, Brescia, trang 54). Thực ra, bánh manna bởi trời đến từ
Thiên Chúa trong dạng thức vô hình và vì thế thiếu đặc tính. Việc
thiếu bằng chứng này được thấy cách rõ ràng trong từ nguyên của chữ
“manna”: “Cái gì đây?” (Xh 16:15). Điều này nói cái gì
đây, một tên hầu như không có ý nghĩa gì, một phép lạ và không phải là một vật
thể, một phép lạ được ký kết. Nó được chứng minh tại thời điểm nó biến
mất, bởi vì người ta cố gắng khắc phục những gì biến mất, dự trữ bánh manna để
không phải lo thiếu thức ăn. Đây là giá phải trả cho những gì biến
mất theo các giác quan. Sự xen kẽ là thời gian ở sa
mạc. Manna là bánh mà tuân theo lề luật của Đấng ban
nó. Lề luật, mà bánh manna biểu thị, là tất cả mong đợi từ
Người: Điều đòi hỏi là lòng tin. Bởi vì không có thực
thể, bánh manna tạo ra lòng ước muốn cho sự hỗ trợ vững chắc hơn; nhưng ở nơi
được gọi là “ngôi mộ tham lam”, thiếu thốn phép lạ, mang đến sự chết chóc (Ds
11:34). Trong sa mạc điều thôi thúc người ta tiếp tục với lòng tự
tin là điều trông thấy bánh manna như là một phép lạ hay như một vật tự nó mà
có và vì thế mà hoặc là tin hoặc là chết.
c) Chúng ta
hãy suy
niệm:
Chúa Giêsu hoàn thành
lễ Vượt Qua thực sự của lịch sử nhân loại: “Trước lễ Vượt Qua, Đức
Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa
Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và
Người yêu thương họ đến cùng. Nên trong bữa ăn…” (Ga
13:1). Vượt qua: lễ Vượt Qua mới chính là sự vượt qua
khỏi thế gian này của Đức Kitô về cùng Chúa Cha qua máu hiến tế hy sinh của
Người. Bí tích Thánh Thể là sự tưởng niệm, bánh của sa mạc và sự
hiện diện cứu rỗi, giao ước của lòng trung tín và sự hiệp thông được viết trong
con người của Ngôi Lời. Lịch sử cứu độ cho dân tộc Israel được tạo
bởi những biến cố, tên và địa điểm, đưa đến một sự phản ảnh đức tin qua kinh
nghiệm của cuộc sống làm cho danh Đức Gia-Vê không chỉ là một tên trong số rất
nhiều tên mà là Danh duy nhất. Tất cả mọi việc bắt đầu từ một cuộc
gặp gỡ, một sự kiện đối thoại giữa Thiên Chúa và nhân loại chuyển thành một
giao ước liên đới, cũ và mới. Biển cả của sự vội vàng là biên giới cuối
cùng của chế độ nô lệ và đàng sau đó là giải đất của sự tự do. Trong
ngôi mộ ngập nước này thi thể cũ của dân tộc Israel được đặt yên nghỉ và một
dân tộc Israel tự do và mới mẻ sống dậy. Đây là nơi mà danh phận dân
Israel được khai sinh. Mỗi lần đoạn Tin Mừng này đi qua biển tái
sinh thì được gợi lại hơn chỉ là một biến cố lịch sử được ghi nhớ, biến cố mang
tính cách cánh chung sẽ phát sinh, có khả năng làm sự viên mãn Thiên Chúa trở
thành hiện tại, nhiệm tích về sự trung tín của Thiên Chúa khởi xướng ngày nay
cho các thế hệ mới, trong niềm kỳ vọng về sự giải thoát cuối cùng mà Chúa sẽ
ban cho. Đó là sự kinh ngạc của một người trong đêm trước lễ Vượt
Qua tìm thấy căn tính sâu sắc cá biệt của họ và cũng như của một dân tộc, trong
đêm trước khi Con Một Thiên Chúa hằng sống hiến cả thân mình dưới hình thức
bánh và rượu.
3. Cầu Nguyện
Thánh Vịnh 116
Biết
lấy chi đền đáp CHÚA bây giờ
vì mọi ơn lành Người đã ban cho?
Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ
và kêu cầu thánh danh ĐỨC CHÚA.
Lời khấn nguyền với CHÚA, tôi xin giữ trọn,
trước toàn thể dân Người.
Đối với CHÚA thật là đắt giá
cái chết của những ai trung hiếu với Người.
Vâng lạy CHÚA, thân này là tôi tớ,
tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài,
xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi.
Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh ĐỨC CHÚA.
vì mọi ơn lành Người đã ban cho?
Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ
và kêu cầu thánh danh ĐỨC CHÚA.
Lời khấn nguyền với CHÚA, tôi xin giữ trọn,
trước toàn thể dân Người.
Đối với CHÚA thật là đắt giá
cái chết của những ai trung hiếu với Người.
Vâng lạy CHÚA, thân này là tôi tớ,
tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài,
xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi.
Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh ĐỨC CHÚA.
Lời khấn nguyền với CHÚA, tôi xin giữ trọn,
trước toàn thể dân Người,
tại khuôn viên đền CHÚA, giữa lòng ngươi, hỡi Giêrusalem!
4. Chiêm Niệm
trước toàn thể dân Người,
tại khuôn viên đền CHÚA, giữa lòng ngươi, hỡi Giêrusalem!
4. Chiêm Niệm
Lạy Chúa, khi chúng con nghĩ đến Chúa, chúng
con không gợi nhớ lại những biến cố đã xảy ra và đã được hoàn thành từ lâu lắm
rồi, nhưng chúng con đến gặp gỡ Chúa trong sự hiện diện thực sự và sống động
của Chúa, chúng con thấy sự chuyển động liên tục của Chúa giữa chúng
con. Chúa can thiệp vào trong đời sống chúng con để khôi phục lại
chúng con cho giống hình ảnh Chúa, để chúng con không thể bị biến dạng bởi
những hòn đá của lề luật, mà chúng con có thể tìm thấy sự thể hiện đầy đủ nhất
trong thánh nhan của Chúa là Chúa Cha, được mặc khải trong luôn mặt của người phàm,
Đức Giêsu, lời hứa về lòng trung tín và tình yêu cho đến chết. Không
cần thiết phải bước ra khỏi sự hiện hữu thông thường để được gặp Chúa bởi vì sự
chăm sóc mà Chúa lo cho các tạo vật của Người mở ra về những việc của loài
người chúng con như một cuốn sách trong phạm trù của kinh
nghiệm. Lạy Chúa, Đấng tác tạo nên trời và đất, thật sự ẩn mình
trong các trang sử, và mặc dù lúc đầu che khuất và ẩn mặt, Chúa đã cho chúng
con được gặp gỡ Chúa trong sự siêu nhiên của Chúa, điều mà không bao giờ thiếu
trong các sự việc bình thường. Khi việc suy gẫm của chúng con về đời
sống mang lại cho chúng con việc thừa nhận về sự hiện diện khắp nơi của Chúa,
cuộc gặp gỡ này chỉ có thể được tán dương, ca tụng, diễn tả bằng những biểu
tượng thiêng liêng, làm sống lại tưng bừng trong niềm hân hoan lớn
lao. Vì thế, chúng con không chỉ đến với Chúa, mà như là dân tộc của
sự giao ước. Điều kỳ diệu của sự hiện diện của Chúa là luôn luôn
nhưng không: trong các thành viên của Giáo Hội, nơi có hai hoặc ba
người tụ họp nhau lại trong danh của Đức Giêsu (Mt 18:20), trong những trang
của Kinh Thánh, trong những buổi rao giảng Tin Mừng, trong những người nghèo
khó và đau khổ (Mt 25:40), trong các hoạt động bí tích của các linh mục. Nhưng
chính trong hy lễ thánh thể sự hiện diện của Chúa mới trở nên thực sự; trong
Mình và Máu Thánh có đầy đủ bản thể con người và thiên tính của Chúa Phục Sinh,
thực sự hiện diện.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét