15/10/2018
Thứ Hai tuần 28 thường niên
Thánh Têrêxa Giêsu, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ.
BÀI ĐỌC I: Gl 4, 22-24. 26-27. 31
– 5, 1
“Chúng ta không phải là con của
nữ tỳ, nhưng là con của người vợ tự do”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ
gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, có lời chép rằng:
Abraham có hai người con trai: một sinh bởi người nữ tỳ, và một sinh bởi người
vợ tự do. Nhưng con sinh bởi nữ tỳ, thì đã sinh ra theo lối xác thịt, còn con
sinh bởi người vợ tự do, đã sinh ra bởi lời hứa. Những sự ấy đã được nói cách
bóng bảy, vì hai người vợ tiêu biểu cho hai giao ước: một bởi núi Sanai, sinh
con cái làm nô lệ, đó là Agar. Còn Giêrusalem ở trên cao thì được tự do, đó là
mẹ chúng ta, vì có lời chép rằng: “Hỡi người son sẻ, chẳng sinh con, hãy hân
hoan! Hỡi người không sinh sản, hãy vui reo và hò lên! Vì con cái của người vợ
bị ruồng bỏ, lại đông hơn con của gái có chồng”.
Bởi đó, anh em thân mến, chúng
ta không phải là con của nữ tỳ, nhưng là con của người vợ tự do; chính để chúng
ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta. Anh em hãy đứng vững, đừng để
bị đặt dưới ách nô lệ một lần nữa. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 112, 1-2. 3-4. 5a và
6-7
A+B=Nguyện danh Chúa được
chúc tụng đến muôn đời! (c. 2).
A=Hãy ngợi khen, hỡi những người
tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa! Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ
bây giờ và cho đến muôn đời!
B=mặt trời mọc lên tới khi lặn
xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen! Chúa siêu việt trên hết thảy chư
dân, trên muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa.
A=Ai được như Thiên Chúa chúng
ta, Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất? Người nâng kẻ hèn hạ lên
khỏi trần ai, và rước người nghèo khó khỏi nơi phẩn thổ.
A+B=Nguyện danh Chúa được chúc tụng
đến muôn đời! (c. 2).
ALLELUIA: Tv 118, 27
-Xin Chúa cho con hiểu đường
lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. –
Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 11, 29-32
“Không ban cho dòng giống này
điềm lạ nào ngoài điềm lạ của tiên tri Giona”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, thấy dân chúng từng đoàn
lũ tụ tập lại, Chúa Giêsu phán rằng: “Dòng giống này là dòng giống gian ác.
Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của
tiên tri Giona. Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con
Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy. Đến ngày phán xét, nữ
hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì bà đã từ tận
cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở đây còn có người
hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này,
vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa”.
Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Dấu Lạ Ông Giôna
Chắc mỗi người chúng ta ít nhiều
đều trải qua kinh nghiệm gặp một con người ngoan cố, cãi bướng, không biết phục
thiện, không bao giờ có lòng khiêm tốn đủ để nhìn nhận lỗi lầm hay sự sai trái
của mình. Họ sẽ tìm đủ mọi lý do để biện hộ, để tránh né vấn đề, để khỏi phải
nhìn nhận sự thật. Trong số những người Do Thái nghe Chúa Giêsu rao giảng và
nhìn thấy tận mắt những dấu lạ Ngài thực hiện cũng có những người ngoan cố
không tin, thậm chí còn tìm cách giải thích khác đi.
Nơi câu 14 chương 11, Phúc Âm
theo thánh Luca, trong khi đã chứng kiến tận mắt phép lạ Chúa Giêsu trừ quỉ thì
có kẻ trong đám đông đưa ra lời giải thích đầy ác ý: "Ông ấy dựa trên quỉ
vương Bêendêbun, quỉ cả mà trừ quỉ con", kẻ khác lại muốn thử Ngài nên đòi
Ngài một dấu lạ từ trời. Ðoạn Phúc Âm mà chúng ta vừa nghe đọc lại trên đây có
thể được ta hiểu trong khung cảnh sự ngoan cố không tin của những người Do
Thái, nhất là của những vị lãnh đạo đầy ác ý và ganh tị với Chúa. Chúa Giêsu nhận
định về họ như sau: "Thế hệ này là một thế hệ gian ác, chúng xin dấu lạ,
nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào ngoài dấu lạ ông Gioan". Xin
Chúa ban cho một dấu lạ để củng cố một quyết định không phải là một điều xấu nếu
ta xin bởi lòng khiêm tốn, tin tưởng vào Chúa. Các thánh thường làm như vậy để
được củng cố giữa những thử thách. Khiêm tốn xin Chúa một dấu lạ với một tâm hồn
ngay thẳng, tin tưởng, phó thác khác với một thái độ ác ý, thách thức. Và Chúa
Giêsu từ chối chiều theo thách thức ác ý của những kẻ ngoan cố không tin.
Ðể tin nhận Chúa, cần phải thực
hiện một ăn năn hoán cải, chừa bỏ những thói hư tật xấu của mình, những ác ý của
mình như dân thành Ninivê khi nghe lời rao giảng của tiên tri Giôna ngày xưa.
Vì thế mà Chúa Giêsu nói tiếp: "Quả thực, ông Giôna là một dấu lạ cho dân
thành Ninivê thế nào, thì Con Người đây cũng sẽ làm một dấu lạ cho thế hệ này
như vậy". Sự ăn năn hối cải là bước đầu tiên cần thực hiện để đón nhận sứ
điệp Tin Mừng của Chúa, không có phương thế nào khác để thay đổi sự ngoan cố của
con người, bằng chính lời mời gọi người đó khiêm tốn hối cải, thoát ra khỏi những
tật xấu và thái độ tự mãn tự kiêu, thoát ra khỏi những ác ý của họ. Dân thành
Ninivê đã được Chúa nhắc lại để nêu gương vì họ đã tỏ ra mau mắn đáp lại lời
rao giảng của tiên tri Giôna mà ăn năn thống hối. Chúng ta hôm nay thì sao?
Chúng ta có thái độ như thế nào trước những dấu lạ Chúa thực hiện trong cuộc đời
chúng ta, để mời gọi ăn năn hối cải trở về tin nhận Chúa. Ðức tin không phải là
kết luận đương nhiên của những dấu lạ nhưng là hồng ân nhưng không Thiên Chúa
ban cho những tâm hồn khiêm tốn, biết ăn năn hoán cải vì những lỗi lầm của
mình.
Lạy Chúa, Xin thương ban cho con
một tinh thần khiêm tốn để có thể nhìn thấy và hiểu được những ý nghĩa dấu lạ
Chúa thực hiện trong con và quanh con để mời gọi con canh tân đời sống, từ bỏ
những ác ý trở về cùng Chúa.
Lạy Chúa, Xin hãy thương ban cho
con một tâm hồn khiêm tốn, trong sạch. Xin ban cho con đức tin. Con tin nhưng
hãy thương ban ơn trợ giúp cho đức tin còn non yếu nơi con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin
Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 28 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Gal
4:22-24, 26-27, 31-5:1; Lk 11:29-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kế họach Cứu
Độ của Thiên Chúa.
Trong chương trình Cứu Độ của
Thiên Chúa, Ngài đã chọn Dân Do-Thái ngay từ đầu và ký kết với họ một giao ước
trên Núi Sinai. Theo giao ước cũ này, nếu họ giữ cẩn thận các giới răn Chúa
truyền thì Ngài sẽ bảo vệ họ, và họ sẽ là Dân Riêng của Ngài. Nhưng như lịch sử
đã chứng minh, họ đã không tôn trọng giao ước và Thiên Chúa đã để mặc họ cho kẻ
thù phương Bắc xâm lấn và bắt làm nô lệ. Tuy nhiên, vì lòng thương xót, Thiên
Chúa đã ký với tòan thể con người (cả Do-Thái và Dân Ngọai) một giao ước mới.
Theo giao ước mới này, con người sẽ được cứu độ: không bằng việc giữ cẩn thận
các Lề Luật (việc không thể cho con người), nhưng bằng niềm tin vào Chúa Kitô
và ân sủng của Thánh Thần. Dẫu vậy, nhiều người Do-Thái vẫn ngoan cố tin vào
giao ước cũ và bắt Dân Ngọai cũng phải làm như họ. Trong Bài đọc I, thánh
Phaolô dùng Cựu Ước để chứng minh giao ước mới đã được báo trước để thay thế
giao ước cũ qua câu truyện của Sarah và Hagar. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cảnh
cáo người Do-Thái đừng nên khinh thường Dân Ngọai. Tuy họ không được hưởng các
đặc quyền như Dân Do-Thái, nhưng họ đã biết tận dụng những gì Chúa ban để học hỏi
và ăn năn xám hối.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Anh em là những người con sinh ra do lời Thiên Chúa hứa.
1.1/ Hai giao ước cũ và mới trong
chương trình cứu độ của Thiên Chúa: Thánh
Phaolô dùng cách cắt nghĩa Kinh Thánh theo kiểu lọai suy (allegorical) ở đây:
Ông Abraham có hai người con: Isaac và Ishmael, mẹ của Ishmael là một người là
nô lệ (Hagar), mẹ của Isaac là người tự do (Sarah). Con của người mẹ nô lệ thì
sinh ra theo luật tự nhiên (ăn ở giữa Abraham và Hagar); còn con của người mẹ tự
do thì sinh ra nhờ lời hứa của Thiên Chúa với tổ phụ Abraham.
Thánh Phaolô cắt nghĩa: Truyện
đó ngụ ý thế này: Hai người đàn bà là tượng trưng cho hai giao ước. Giao ước thứ
nhất tại núi Si-nai, thì sinh ra nô lệ: đó là Ha-gar. Ha-gar chỉ núi Si-nai
trong miền Ả-rập, và tương đương với Giê-ru-sa-lem ngày nay, vì thành này cùng
với các con đều là nô lệ. Còn Giê-ru-sa-lem thượng giới thì tự do: đó là mẹ
chúng ta. Thật vậy, có lời chép: Reo mừng lên, hỡi người phụ nữ son sẻ, không
sinh con; hãy bật tiếng reo hò mừng vui, hỡi ai chưa một lần chuyển dạ, vì con
của phụ nữ bị bỏ rơi thì đông hơn con của phụ nữ có chồng!
1.2/ Như Isaac, anh em là những người
con sinh ra do lời Thiên Chúa hứa: “Nhưng
cũng như thuở ấy đứa con sinh ra theo luật tự nhiên đã ngược đãi đứa con sinh
ra theo thần khí, thì bây giờ cũng vậy. Thế nhưng Kinh Thánh nói gì? Kinh Thánh
nói: Tống cổ người nô lệ và con của nó đi, vì con của nô lệ không đời nào được
thừa kế gia tài cùng với con của người tự do.”
Vì thế, giao ước cũ đã được thay
thế bằng giao ước mới; sự nô lệ cho Lề Luật đã được thay thế bằng sự tự do sống
theo Thánh Thần, như thánh Phaolô khuyên các tín hữu của ngài: “Ấy vậy, thưa
anh em, chúng ta không phải là con của một người nô lệ, nhưng là con của người
tự do. Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta. Vậy,
anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa.”
2/ Phúc Âm: Hưởng đặc quyền càng nhiều, bị phán xét càng nặng.
2.1/ Đòi hỏi phép lạ: Người Do-Thái tìm kiếm phép lạ, và Chúa đã làm nhiều phép
lạ giữa họ. Nhưng mục đích của phép lạ là để khơi dậy niềm tin. Sau khi đã làm
nhiều phép lạ mà họ vẫn không tin nên Đức Giê-su bắt đầu nói: “Thế hệ này là một
thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào,
ngoài dấu lạ ông Jonah. Quả thật, ông Jonah đã là một dấu lạ cho dân thành
Nineveh thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy.” Tại
đây Chúa Giêsu muốn nói: như tiên tri Jonah đã ở trong bụng cá 3 ngày 3 đêm,
Chúa Giêsu cũng ở trong mồ 3 ngày 3 đêm như vậy, và sau đó Ngài sẽ sống lại.
2.2/ Cần phản ứng thích đáng khi được
hưởng đặc quyền: Chúa Giêsu đưa ra 2 ví dụ
cho người Do-Thái phải suy nghĩ:
2.2.1/ Nữ Hòang Phương Nam: là
người đến với Vua Solomon từ Phi Châu để học sự khôn ngoan của Vua. Thế mà Chúa
Giêsu còn khôn ngoan hơn Vua Solomon đang ở giữa và dạy dỗ họ, họ đã từ chối
không nghe và tin vào Ngài. Vì thế, “trong cuộc Phán Xét, Nữ Hoàng Phương Nam sẽ
đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ
tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Solomon; mà Chúa Giêsu còn
hơn vua Solomon nữa.”
2.2.2/ Dân Thành Nineveh: là
thành của Dân Ngọai (Bắc của Iraq hiện giờ). Họ đã sẵn sàng nghe lời giảng dạy
của tiên tri Jonah dù chỉ một lần và đã ăn chay, xức tro, và mặc áo nhặm trở về
với Chúa. Thế mà Chúa Giêsu còn cao trọng hơn tiên tri Jonah đang đứng giữa họ
để dạy dỗ và kêu gọi họ bỏ đàng tội lỗi, ăn năn trở lại với Thiên Chúa, mà họ vẫn
giả điếc làm ngơ. Vì thế, “trong cuộc Phán Xét, dân thành Nineveh sẽ chỗi dậy
cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông
Jonah rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Jonah nữa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải siêng năng học hỏi
để nhận ra những đặc quyền mình đang được hưởng. Đừng ngoan cố như những người
Do-Thái, mặc dầu đã được thánh Phaolô chỉ dạy cho là họ không thể nào được cứu
rỗi bằng việc giữ Luật (giao ước cũ), mà chỉ có thể được cứu độ bằng việc tin
vào Chúa Kitô (giao ước mới); thế mà họ cứ ngoan cố trong niềm tin của họ vào
Luật và dạy các tín hữu Galat làm như thế.
– Chúng ta cần biết nắm lấy cơ hội
Thiên Chúa gởi đến trong cuộc đời. Như Nữ Hòang Phương Nam lặn lội tìm đến để học
sự khôn ngoan của Vua Solomon, chúng ta cũng cần chạy đến với những người rao
giảng để học hỏi sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong Kinh Thánh. Như dân Thành
Nineveh đã nghe lời giảng dạy của tiên tri Jonah mà ăn năn trở lại, chúng ta
cũng cần biết nghe lời mời gọi của Mẹ Giáo Hội qua các Mục Tử để năng kiểm điểm
cuộc sống và quay trở về làm hòa cùng Thiên Chúa.
– Nếu không biết tận dụng các cơ
hội của Chúa ban, chúng ta sẽ không có lý do nào để trách Chúa trong Ngày Phán
Xét; vì sẽ có nhiều người tố cáo chúng ta là nếu họ có được những cơ hội như
chúng ta đã có, thì họ đã ăn năn trở lại từ lâu rồi.
Linh mục Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
15/10/2018 – THỨ HAI TUẦN 28 TN
Th. Tê-rê-xa Giê-su, tiến sĩ Hội Thánh
Lc 11,29-32
LỜI MỜI GỌI SÁM HỐI
“Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với
thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng;
mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa.” (Lc 11,32)
Suy niệm: Trong các tôn giáo, sám hối
không phải là một ý tưởng xa lạ. Đặc biệt, Phật giáo dạy phải sám hối nhằm loại
bỏ những nghiệp căn để trở thành người tốt ở kiếp này và cả kiếp sau. Chúa
Giê-su Ki-tô, Đấng sáng lập Ki-tô giáo, cũng khởi đầu công cuộc rao giảng bằng
lời mời gọi sám hối: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Lời mời
gọi sám hối của Đức Ki-tô mang tính cách đòi buộc và khẩn thiết như một mệnh lệnh.
Là mệnh lệnh, trước hết, vì thế giá của Đức Ki-tô, người truyền lệnh, “còn lớn
hơn ông Gio-na nữa.” Thứ đến là vì Chúa Giê-su kêu gọi sám hối không chỉ để tu
dưỡng bản thân để trở nên người tốt, mà mục đích tối hậu của mệnh lệnh ấy là để
chúng ta được trở nên một với Đức Ki-tô và được hưởng hạnh phúc với Ngài.
Mời Bạn: Trong Phụng Vụ của Giáo Hội
không thiếu những lời kêu gọi sám hối. Ngoài bí tích Hoà Giải, mỗi thánh lễ đều
bắt đầu bằng nghi thức sám hối. Mùa Vọng, mùa Chay là thời gian mời gọi con người
hoán cải để chuẩn bị tâm hồn cử hành những mầu nhiệm trọng đại. Phụng Vụ Lời
Chúa trong những tuần lễ cuối của Năm Phụng Vụ mời gọi các tín hữu ăn năn sám hối
để hướng về ngày cánh chung. Qua đó, bạn thấy, sám hối cần thiết cho đời sống
thiêng liêng là dường nào!
Sống Lời Chúa: Kiểm điểm đời sống mỗi
ngày và xin ơn biết hoán cải.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
Chúa không ngừng kêu gọi chúng con hoán cải trở về với Chúa. Xin giúp chúng con
hoán cải mỗi ngày. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Tìm kiếm dấu lạ (15.10.2018 – Thứ hai Tuần 28 Thường niên)
Suy niệm:
Theo
nhận xét của thánh Phaolô trong thư gửi giáo hữu Côrintô,
“Người Do Thái đòi hỏi dấu lạ,
còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1, 22).
Có vẻ người Do Thái sính dấu lạ và đòi hỏi dấu lạ để tin.
Đối với họ, dấu lạ là một bảo đảm cho tính chân thực của lời rao giảng.
“Người Do Thái đòi hỏi dấu lạ,
còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1, 22).
Có vẻ người Do Thái sính dấu lạ và đòi hỏi dấu lạ để tin.
Đối với họ, dấu lạ là một bảo đảm cho tính chân thực của lời rao giảng.
Đức
Giêsu đã làm nhiều dấu lạ trong mấy năm rao giảng Tin Mừng.
Trừ quỷ và chữa những bệnh nan y là những dấu lạ Ngài hay làm.
Ngài chữa người mù bẩm sinh, người phong, người nhiều năm bất toại.
Ngài hoàn sinh con gái ông Giairô, con trai bà góa thành Nain,
và nhất là cho anh Ladarô chết chôn trong mồ bốn ngày được sống lại.
Có những dấu lạ Ngài làm trên thiên nhiên mà chỉ các môn đệ biết,
như bắt bão táp phải lặng yên hay đi trên mặt nước lúc sóng gió.
Cũng có dấu lạ trước mặt cả ngàn người như làm cho bánh hóa nhiều.
Không ai có thể phủ nhận chuyện Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ (Ga 11, 47).
Trừ quỷ và chữa những bệnh nan y là những dấu lạ Ngài hay làm.
Ngài chữa người mù bẩm sinh, người phong, người nhiều năm bất toại.
Ngài hoàn sinh con gái ông Giairô, con trai bà góa thành Nain,
và nhất là cho anh Ladarô chết chôn trong mồ bốn ngày được sống lại.
Có những dấu lạ Ngài làm trên thiên nhiên mà chỉ các môn đệ biết,
như bắt bão táp phải lặng yên hay đi trên mặt nước lúc sóng gió.
Cũng có dấu lạ trước mặt cả ngàn người như làm cho bánh hóa nhiều.
Không ai có thể phủ nhận chuyện Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ (Ga 11, 47).
Nhưng
Ngài không làm dấu lạ để biểu diễn phô trương.
Ngài cũng không dùng dấu lạ để mua lòng tin của dân chúng.
Dấu lạ của Đức Giêsu không qui về vinh quang hay lợi lộc cho Ngài,
nhưng nhắm đến việc khai mở Nước Thiên Chúa và hạnh phúc nhân loại.
Nhiều lần Ngài thắng được cám dỗ làm dấu lạ.
Ngài đã không biến đá thành bánh để ăn cho no bụng
hay nhảy xuống từ nóc Đền thờ để dân chúng kinh ngạc tung hô.
Ngài cũng không biểu diễn vài dấu lạ trước mặt Hêrôđê để được tha.
Trên thập giá, Ngài đã không đáp lại thách đố của các nhà lãnh đạo.
“Hắn đã cứu người khác, thì hãy cứu lấy mình đi!” (Lc 23, 35).
Đức Giêsu đã làm dấu lạ cho người khác, nhưng không làm cho mình.
Ngài không tự cứu lấy mình, nghĩa là không xuống khỏi thập giá.
Ngài cũng không dùng dấu lạ để mua lòng tin của dân chúng.
Dấu lạ của Đức Giêsu không qui về vinh quang hay lợi lộc cho Ngài,
nhưng nhắm đến việc khai mở Nước Thiên Chúa và hạnh phúc nhân loại.
Nhiều lần Ngài thắng được cám dỗ làm dấu lạ.
Ngài đã không biến đá thành bánh để ăn cho no bụng
hay nhảy xuống từ nóc Đền thờ để dân chúng kinh ngạc tung hô.
Ngài cũng không biểu diễn vài dấu lạ trước mặt Hêrôđê để được tha.
Trên thập giá, Ngài đã không đáp lại thách đố của các nhà lãnh đạo.
“Hắn đã cứu người khác, thì hãy cứu lấy mình đi!” (Lc 23, 35).
Đức Giêsu đã làm dấu lạ cho người khác, nhưng không làm cho mình.
Ngài không tự cứu lấy mình, nghĩa là không xuống khỏi thập giá.
Hôm
nay, chúng ta có thể không mãn nguyện như người Do Thái xưa.
Tuy Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ trong đời ta,
nhưng, như họ, ta vẫn đòi một dấu lạ đầy ấn tượng từ trời.
Chúng ta muốn một dấu chỉ không thể chối cãi được
để tin thật sự có Thiên Chúa, tin Ngài mạnh hơn sự dữ ở quanh ta.
Nhưng chúng ta quên rằng Thiên Chúa cũng là Đấng ẩn mình,
và quyền năng của Ngài được biểu lộ qua sự bao dung khiêm hạ.
Chúng ta chờ dấu lạ về việc Đức Giêsu hùng mạnh đến giải thoát ta,
nhưng lại quên rằng Ngài cũng thích cùng ta âm thầm chịu đau khổ.
Tuy Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ trong đời ta,
nhưng, như họ, ta vẫn đòi một dấu lạ đầy ấn tượng từ trời.
Chúng ta muốn một dấu chỉ không thể chối cãi được
để tin thật sự có Thiên Chúa, tin Ngài mạnh hơn sự dữ ở quanh ta.
Nhưng chúng ta quên rằng Thiên Chúa cũng là Đấng ẩn mình,
và quyền năng của Ngài được biểu lộ qua sự bao dung khiêm hạ.
Chúng ta chờ dấu lạ về việc Đức Giêsu hùng mạnh đến giải thoát ta,
nhưng lại quên rằng Ngài cũng thích cùng ta âm thầm chịu đau khổ.
Làm
sao tôi nhận ra được những dấu rất lạ mà lại rất đỗi bình thường,
những dấu lạ lớn lao mà nhỏ bé Chúa vẫn làm cho đời tôi?
Làm sao tôi nhận ra được cái bình thường của đời tôi cũng là dấu lạ?
Ngỡ ngàng như trẻ thơ trước những điều mà nhiều người coi là tự nhiên,
tôi dần dần hiểu rằng đời tôi được bao bọc bởi tình yêu là dấu lạ.
Thay vì bôn chôn tìm kiếm và đòi hỏi những điều ngoạn mục, ly kỳ,
tôi khám phá ra Chúa vẫn ở bên tôi trong những điều đơn sơ nhỏ bé.
Xin được ơn sám hối chỉ vì những dấu lạ bình thường Chúa ban cho đời tôi.
những dấu lạ lớn lao mà nhỏ bé Chúa vẫn làm cho đời tôi?
Làm sao tôi nhận ra được cái bình thường của đời tôi cũng là dấu lạ?
Ngỡ ngàng như trẻ thơ trước những điều mà nhiều người coi là tự nhiên,
tôi dần dần hiểu rằng đời tôi được bao bọc bởi tình yêu là dấu lạ.
Thay vì bôn chôn tìm kiếm và đòi hỏi những điều ngoạn mục, ly kỳ,
tôi khám phá ra Chúa vẫn ở bên tôi trong những điều đơn sơ nhỏ bé.
Xin được ơn sám hối chỉ vì những dấu lạ bình thường Chúa ban cho đời tôi.
Cầu nguyện:
Con
tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con
thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ
ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin
cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
15 THÁNG MƯỜI
Tình Yêu Chúa Kitô Thúc Bách
Các Nhà Thừa Sai Bác Ái
Sứ mệnh cứu thế của Đức Giêsu
Na-da-rét đã được triển khai ở Ấn Độ, đặc biệt ở Calcutta, bằng một cách thế hết
sức hùng hồn, thể hiện một lời chứng đích thực về Thiên Chúa. Đó là một lời chứng
làm cho cả thế giới phải thán phục, một chứng tá làm rung động lương tâm nhân
loại. Tôi đang muốn nói đến cuộc sống và hoạt động của một người phụ nữ: dù bà
không sinh ra ở Ấn Độ, mọi người vẫn gọi bà là Mẹ Têrêsa Calcutta.
Cách đây ít năm, người phụ nữ
này đã được tình yêu Chúa Kitô thúc bách để phục vụ Ngài nơi những người khốn
khổ và bất hạnh nhất. Mẹ đã bỏ công việc dạy học để thành lập Hội Dòng Thừa Sai
Bác Aùi. Qua những công việc phục vụ đầy ấn tượng cho những người nghèo khổ nhất,
Mẹ Tê-rê-sa thi hành một cách cụ thể sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu: “mang niềm
vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Mẹ đã trao cho thế giới một bài học đầy
khích lệ về lòng trắc ẩn và tình yêu chân thành đối với những ai cần được giúp
đỡ. Tấm gương của mẹ đã biểu lộ sức mạnh cứu độ. Tấm gương ấy đang thôi thúc
nhiều người nam cũng như nữ thể hiện những chứng tá phục vụ rất anh hùng. Quả
thật, tấm gương của Mẹ Tê-rê-sa vẫn còn tiếp tục động viên họ kiên trì phục vụ
không mệt mỏi.
– suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope
John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 15/10
Thánh Têrêxa Giêsu, trinh nữ
tiến sĩ Hội Thánh
Gl 4, 22-24.26-27.31-5,1; Lc
11, 29-32.
LỜI SUY NIỆM: “Khi dân chúng tụ
họp đông đảo, Đức Giêsu bắt đầu nói: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng
xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giona.
Quả thật, ông Giona đã là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người
cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy.”
Chúa Giêsu đang sống và giảng dạy về Nước Thiên Chúa, cùng làm nhiều phép lạ giữa
đám đông dân chúng, trong số họ có những người tin vào Người, nhưng cũng có những
người hoài nghi, nên đã cố nài xin Người tỏ cho họ một dấu lạ. Nhưng Người đã từ
chối. Bởi điều này Người đã công khai nói và làm, để tỏ cho họ biết rồi: “Phần
các con, mắt các con có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe. Quả
thật, Thầy bảo các con, nhiều sứ ngôn, nhiều người công chính đã ao ước được thấy
điều các con thấy mà không được, nghe điều các con nghe mà không được.” (Mt
13,16..). Trong đó họ đã nghe gì và thấy gì? Trước hết là việc trừ quỷ,
chính Chúa Giêsu đã giải thích: “Nếu tôi lấy quyền phép Thiên Chúa mà trừ quỷ
thì quả là Thiên Chúa đã đến với các ông.” (Lc 11,20..)
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con đang được tình yêu của Chúa thúc đẩy phải mang ánh
sáng của Thiên Chúa hằng sống đến cho những ai không biết Chúa, hoặc chối từ
Chúa. Xin cho chúng con thể hiện bằng chính đời sống đức tin của mình.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 15-10
Thánh TÊRÊXA AVILA
Đồng Trinh, Tiến Sĩ Hội Thánh
(1515 – 1585)
Sinh ngày 28 tháng 3 năm 1515,
Têrêxa là một trong 12 người con của ông Anphong Cpêda, lớn lên tại Avila,
vương quốc Castille, miền đất của mộng mơ và của các thánh “. Ngài ham thích đọc
các sách dạy sống khổ hạnh và suy gẫm cuộc đời các thánh. Với lòng nhiệt thành,
Ngài ngây ngất vì hạnh phúc vĩnh cửu ân thưởng cho những đau khổ của các thánh,
cũng như kính sợ những khốn khổ của hoả ngục tồn tại mãi mãi. Ngài đã nói trong
run sợ: – Ai có thể chịu nổi cái ý nghĩ như vậy được ?
Mong mỏi được tử đạo, một ngày
kia, Ngài lén dẫn cậu em Rodrigue đi về miền dân dữ tợn đang hành hạ các Kitô hữu
này. Nhưng mới đi được nửa dặm đường thì ông cậu bắt được và dẫn đưa về nhà.
Không tử đạo được, các em sẽ trở thành những nhà ẩn tu. Các em làm những cái hầm
và cầu nguyện lâu giờ tại đó. Nhưng rồi một ngày kia, những bức tường nhỏ bằng
đá bị sập. Các em nhỏ thánh thiện này thường nhịn ăn để làm việc bác ái.
Năm 13 tuổi, tức năm 1528,
Têrêxa mất mẹ, Ngài khấn nài Mẹ Maria là Mẹ. Chuỗi Mân Côi trở thành vịệc sùng
kính đặc biệt của Ngài.
Têrêxa có một bản chất ngay thẳng,
nhiệt hành và tha thiết mến Chúa. Khoảng 15 tuổi, Ngài lén đọc các truyện kiếm
hiệp làm cho Ngài ra mơ mộng, lúc này, Ngài muốn mặc đẹp, xức dầu thơm, lo
trang sức và thích được ve vãn. Chị em cho Ngài xinh đẹp. Một cô em họ ngây ngất
không muốn rời xa Ngài. Họ nói truyện phiếm với nhau hàng giờ. Têrêxa nói: –
Tôi được cứu thoát, chính là vì kính sợ Chúa, điều mà tôi không bao giờ bỏ mất,
và vì sợ mất danh dự.
Ngài còn nói: – Tôi đã rất ghê tởm
những điều bất lương.
Dầu vậy cha Ngài cũng lo âu và
quyết định gởi Ngài học nội trú ở nơi các nữ tu dòng thánh Augustinô. Têrêxa
không thích thú gì, nhất là đã không hề muốn rằng sau này mình sẽ là nữ tu.
Nhưng Ngài phải vâng lời. Và Ngài sắp tìm lại được lòng đạo đức nhiệt thành của
tuổi thơ khi sống gần các bậc thầy này. Hơn khi nào, Ngài khao khát những của cải
đời đời. Nhưng đời sống khắc khổ trong tu viện làm Ngài run sợ.
Têrêxa ngã bệnh. Ngài trở về nhà
cha và nghe ông cậu nhắc lại rằng mọi sự đời này chỉ là phù vân và sẽ qua mau
như chớp. Sau cùng Ngài hiểu rằng: ơn gọi của mình là sống đời tu sĩ. Nhưng những
chống đối dữ dội nổi lên trong lòng. Hơn nữa, Ngài phải coi thường những chối từ
của cha Ngài. Năm 1536, Ngài vào dòng kín Camelô, sau khi phải chịu đựng cuộc
chiến đấu kinh khủng với chính mình: để giã từ nhà cha, Ngài khổ sở đến dộ
xương cốt như rã rời và tan nát con tim. Nhưng rồi Ngài đã mạnh mẽ thắng vượt mọi
cám dỗ đau khổ.
Têrêxa đã trải qua 27 năm tại tu
viện Nhập Thể, là nơi luật lệ được châm chước cho phép giải trí và tiếp khách,
Ngài còn phải qua một bước dài trước khi dấn mình vào con đường cực nhọc để xây
dựng và cải sửa các dòng tu. Trước hết, sức khỏe của Ngài xem ra không chịu đựng
nổi. Bệnh tật, Ngài trở về nhà, các bác sĩ tuyên bố là bất trị, Ngài tín thác
vào thánh Giuse và khỏi bệnh sau một cơn ngất trí. Trở lại tu viện, Ngài được
chị em yêu mến.
Cách nói chuyện hấp dẫn của Ngài
lôi kéo nhiều cuộc viếng thăm. Ngài kể lại:
– Một đàng Chúa gọi tôi, đang khác thì thế gian lôi kéo. Cuộc chiến nội tâm xâu xé tôi.
– Một đàng Chúa gọi tôi, đang khác thì thế gian lôi kéo. Cuộc chiến nội tâm xâu xé tôi.
Ngày kia trong một câu chuyện trần
tục, Ngài đã được thị kiến thấy Chúa Giêsu đầy thương tích. Têrêxa thấy đau
lòng, nhưng Ngài còn phải chiến đấu nhiều để đạt tới chỗ chỉ yêu các tạo vật
trong Chúa và vì Chúa. Trong nhiều năm, Ngài đã trải qua sự khô khan, qua cơn sợ
hãi hỏa ngục. Trong vòng 20 năm Ngài đã không tìn ra cha giải tội hiểu được
Ngài và muốn bàn về việc thị kiến. Thánh Phanxicô Borgia đã trấn an Ngài.
Sau cùng, các cha giải tội buộc
Ngài ghi lại điều đã xảy ra trong tâm hồn. Và thánh nữ, một con người ít học,
đã viết nên được những tác phẩm có giá trị, đến nỗi Ngài đã đáng được danh hiệu
là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Nếu trước hết, sự sợ hãi các khổ
cực đời đời đã dẫn Têrêxa vào đường hẹp đưa tới chỗ cứu rỗi thì bây giờ tình
yêu Chúa xâm chiếm Ngài như cơn hỏa hào. Các cuộc xuất thần tăng thêm. Ba Ngôi,
Đức Trinh nữ, các thiên thần và các thánh hiện ra với Ngài. Ngài được nâng lên
khỏi mặt đất và ở nguyên như vậy khi cầu nguyện. Vào tuổi 43, thánh nữ thường
thấy Đấng cứu thế và nghe Người nói: – Cha không muốn con nói truyện với loài
người, nhưng với các thiên thần.
Một thiên thần dùng giáo đâm thủng
tim Ngài và Chúa Giêsu gọi Ngài là hiền thê. Cho tới cuối đời, Ngài đã hiệp nhất
với đấng cứu chuộc bị đóng đinh và đã ước được chịu khổ vì Người đến nỗi người
ta thường nghe Ngài kêu lên: – Lạy Chúa, hoặc là chết, hoặc là đau khổ.
Ngài tự ràng buộc bởi lời khân
anh hùng này, là luôn làm điều thiện hảo hơn, nhưng lại chẳng tỏ ra nhiệm nhặt
chút nào, trái lại còn nhanh nhẹn vui tươi duyên dáng tới độ gõ sênh mua vui
cho các nữ tu dòng kín Camêlô. Vị nữ tu chiêm niệm này còn tỏ lộ một sự hiểu biết
tích cực, một tinh thần thực tiễn sẽ đưa Ngài tới cuộc cải đổi dòng Camelô.
ịnh mệnh đặc biệt sắp đưa Ngài
qua mọi chặng đường để thiết lập các tu viện. Trước hết năm 1562, khép mình ở
Avila nhưng một nhà mang danh thánh Giuse, là nơi các nữ tu sống trong thinh lặng,
nghèo khó, cầu nguyện, chay tịnh, đi chân không trong mọi mùa, Têrêxa ra khỏi
nơi này và không ngừng thiết lập, tổ chức những tu viện mới. Hầu như luôn luôn
bệnh hoạn, Ngài theo đuổi những cuộc hành trình mệt lả trước sự nóng nung, làm
mồi cho các côn trùng tấn công hay những đêm lạnh lẽo mùa đông đã giữ Ngài lại
trong những đoạn đường không tên không có nơi trú ẩn. Những cuộc bắt bớ tấn
công Ngài. Ngài viết cho một ân nhân: – Cho tiền bạc chẳng là gì, nhưng khi
chúng tôi như đến lúc bị ném đá, thì công việc lại trôi chảy.
Và khi mẹ đã vượt thắng mọi ngăn
trở và thiết lập các tu viện mới, cơn đau đớn nhức nhối lại đợi chờ Ngài vì phải
giã từ con cái yêu dấu để ra đi xây dựng tu viện ở nơi khác. Đây là: – Nỗi thống
khổ đớn đau nhất. Tim tôi tan nát đau khổ nghĩ rằng: sẽ không còn gặp lại họ nữa.
Thánh Gioan thánh giá trợ lực,
Ngài trải rộng việc canh tân tới các cha dòng Carmes mà Ngài muốn tái lập sự
nghiêm ngặt ban đầu, điều gây nên cho Ngài nhiều xôn xao và dường như làm cho
Ngài bị cầm tù. Nhà vua và đức giáo hoàng bảo vệ Ngài. Ngài đã thiết lập hơn 30
tu viện. Hoạt động chưa từng nghe thấy của Ngài, những việc thiết lập, những cuộc
du hành, những khó khăn vô số… đã không ngăn cản Ngài vui hưởng sự hiện diện của
Chúa, kiên trì cầu nguyện, và thường xuất thần, Ngài nói: – Tôi không hiểu tại
sao người ta bảo tôi là nhà sáng lập, chính Chúa sáng lập chứ không phải tôi.
Người ta còn nói lại những phép
lạ của Ngài, như tăng thêm đống bột để nuôi cả cộng đoàn. Khi đi qua đồng quê,
nhiều gia đình lũ lượt xin Ngài ban phép lành.
Giữa các hoạt động lạ lùng,
Têrêxa vẫn viết về đời mình mà Ngài gọi là sách các kỳ công của Chúa, và “Lâu
Đài Nội Tâm” là nơi tâm hồn Ngài, từng phòng một vươn tới uy linh Chúa. Với sự
linh hoạt, Ngài biết dùng vài lời tóm gọn tất cả sự thánh thiện:
– Phải can đảm để trở thành phụ
nữ của vua trên trời.
– Đừng lo suy nghĩ nhiều, nhưng
là yêu nhiều.
– Ta nhân đức hơn khi liên kết với
nhân đức của Chúa, hơn là dính chặt với phận bụi đất của ta.
– Nỗ lực của ta là bắt chước con
tằm, xây tổ của ta bằng cách tẩy trừ ích kỷ và thực hiện những việc xám hối cầu
nguyện, hy sinh, vâng lời. Thiên Chúa sẽ biến ta thành bướm trắng khi Ngài muốn.
– Quan trọng là biết yêu mến và
kính sợ, hai nhân đức vĩ đại.
– Khi bị đau khổ bên ngoài cần
chăm lo làm việc bác ái và biết hy vọng vào lòng thương xót của Chúa.
Ngài có chút hài hước trong sự
thánh thiện, như lời hóm hỉnh được biết đến nhiều, khi Ngài bị thương ở chân: –
Lạy Chúa, sau bao nhiêu phiền muộn lại đến chuyện đó nữa, Cha đối xử với bạn hữu
của cha như thế đó…. Vâng lạy Chúa của con, không lạ gì mà Chúa ít bạn.
Lòng Ngài rảo khắp thế giới: –
Những người An độ nghèo khổ này làm tôi đổ bao nhiêu là nước mắt.
Têrêxa qua đời tại miền quê ở
Albe de Tormès ngày 04 tháng 10 năm 1583. Chính tình yêu quá mức hơn là con bệnh
đã đưa tới cái chết của Ngài. Khi đưa Thánh thể vào phòng, Ngài đã ngăn cho
Ngài khỏi tung ra khỏi giường. Ngài đã la to: “Lạy Chúa, đến lúc chúng ta gặp
nhau rồi”. Và đời đời, Têrêxa đã hiệp nhất với tình yêu.
Ngài được tuyên thánh năm 1628
và ngày 27 tháng 9 năm 1970, Đức giáo hoàng Phaolô VI đã đặt Ngài làm tiến sĩ Hội
Thánh .
(daminhvn.net)
15 Tháng Mười
Người Ðàn Bà “Rất Ðàn Bà”
Hôm nay là ngày kính nhớ
thánh nữ Têrêxa Avila.
Vị nữ tiến sĩ hội thánh này
đã sống trong một giai đoạn có nhiều xáo trộn nhất đối với Giáo Hội. Thánh nữ
chào đời khi cuộc cải cách của người Tin Lành bắt đầu và qua đời khi Công Ðông
Trento vừa chấm dứt. Ngài đã được Thiên Chúa ban cho Giáo Hội như một đóa hoa đẹp
đẽ nhất giữa những gái góc đang ụp phủ trên Giáo Hội. Nhưng Têrêxa Avila cũng
chỉ là một người đàn bà giống như rất nhiều người đàn bà khác. Ðẹp, có nhiều
năng khiếu, đảm đang, đa tình… Têrêxa lại là một người đàn bà “rất đàn bà”. Thế
nhưng nơi người đàn bà này, người ta thấy có nhiều tương phản: thông minh nhưng
lại thực tế; biết nhiều nhưng không xa vời với kinh nghiệm sống; thần bí nhưng
lại đầy nghị lực để trở thành một nhà cải cách.
Têrêxa là một người đàn bà
hoàn toàn sống cho Chúa, nghĩa là một người đàn bà cầu nguyện, kỷ luật và biết
cảm thông. Trái tim của Têrêxa hoàn toàn thuộc về Chúa. Ðã thách thức tất cả mọi
chống đối của người cha để gia nhập dòng kín, Têrêxa cũng tiếp tục đương đầu với
không biết bao nhiêu chống đối khác khi muốn cải tổ dòng kín. Người đàn bà yếu
đuối này chỉ còn một nơi nương tựa duy nhất: đó là Thiên Chúa.
Là một người sống cho Chúa
hoàn toàn, Têrêxa cũng hoàn toàn sống cho người khác. Canh tân cuộc sống của
mình, Têrêxa cũng không ngừng đi khắp đó đây để giúp người khác canh tân cuộc sống.
Suốt cuộc đời trải qua trong
gian lao và thử thách, về cuối đời, Thánh nữ đã thốt lên: “Ôi lạy Chúa, tất cả
những ai làm việc cho Chúa đều được đpá trả bằng gian lao, khốn khó. Nhưng cao
quý thay phần thưởng dành cho những ai yêu mến Chúa, nếu họ hiểu được giá trị của
nó”.
Hiện nay, người ta nói đến rất
nhiều thứ giải phóng, trong đó có giải phóng người phụ nữ.
Có lẽ tất cả những ai đang tranh
đấu cho nữ quyền nên nhìn vào mẫu gương của thánh nữ Têrêxa Avila. Một người
đàn bà đã có thể thực hiện được nhiều việc vĩ đại, nhưng bản chất đàn bà vẫn
không hề thay đổi trong con người ấy. Phải chăng người đàn bà có thể đóng trọn
vai trò của họ trong Giáo Hội và trong xã hội khi họ biết trung thành với ơn gọi
cao cả mà Thiên Chúa đã trao ban qua nữ tính của họ!
Người nữ có phúc nhất trong những
người nữ, người nữ cũng đã sống trọn vẹn ơn gọi làm người: đó là Ðức Maria. Bí
quyết để người nữ ấy thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm người nữ và làm người của
mình chính là hai tiếng “Xin vâng”. Thiên Chúa đã tạo dựng con người và đã quy
định cho con người một định mệnh: định mệnh đó chính là sống cho Chúa. Ðức
Maria, thánh nữ Têrêxa và bao nhiêu vị thánh nam nữ khác, đã thực hiện được định
mệnh đó qua một cuộc sống hoàn toàn vâng phục ý Chúa. Chỉ có một sự bình đẳng
duy nhất: đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Ðức Maria đã minh chứng được
sự bình đẳng đó qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu rỗi của Ðức Kitô.
Trước mặt Chúa, mỗi người chúng
ta đều có một chỗ đứng. Không có chỗ đứng nào cao trọng hơn chỗ đứng khác. Hạnh
phúc của chúng ta tùy thuộc ở sự đáp trả của chúng ta đối với tiếng gọi của
Chúa.
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét