Chúa Nhật
Ngày 28/07/2013
Tuần 17
Mùa Thường Niên Năm C
(phần I)
BÀI ĐỌC I: St 18, 20-32
"Lạy Chúa, nếu con nói, xin Chúa đừng nổi giận".
Trích sách
Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Chúa phán: "Tiếng kêu la của dân
Sôđôma và Gômôra đã gia tăng, và tội lỗi chúng quá nặng nề! Ta sẽ xuống coi việc
chúng làm có như tiếng kêu thấu đến tai Ta hay không, để Ta sẽ biết rõ".
Các vị ấy bỏ nơi đó, đi về hướng thành Sôđôma. Nhưng Abraham vẫn
còn đứng trước mặt Chúa. Ông tiến lại gần Người và thưa: "Chớ thì Chúa sắp
tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công
chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành
vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao? Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng
sát hại người công chính cùng với kẻ dữ! Xin đừng làm thế! Chúa phán xét thế giới,
Chúa không xét đoán như thế đâu". Chúa phán cùng Abraham rằng: "Nếu
Ta tìm thấy trong thành Sôđôma năm mươi người công chính, Ta sẽ vì họ mà tha thứ
cho cả thành". Abraham thưa lại: "Dù con chỉ là tro bụi, con đã bắt đầu
nói, nên con xin thưa cùng Chúa. Nếu trong số năm mươi người công chính đó còn
thiếu năm người thì sao? Vì bốn mươi lăm người công chính, Chúa có tàn phá cả
thành không?" Chúa phán: "Nếu Ta tìm thấy bốn mươi lăm người công chính,
Ta sẽ không phá huỷ cả thành". Abraham lại thưa cùng Chúa rằng:
"Nhưng nếu có bốn mươi người thì Chúa sẽ làm gì?" Chúa phán: "Ta
sẽ vì bốn mươi người đó mà không trừng phạt cả thành". Abraham thưa:
"Lạy Chúa, nếu con lên tiếng, xin Chúa đừng nổi giận. Nếu ở đây tìm được
ba mươi người công chính thì sao?" Chúa phán: "Nếu Ta tìm được ba
mươi người, Ta sẽ không phạt". Abraham nói: "Vì con đã trót nói thì
con sẽ thưa cùng Chúa: Nếu trong thành tìm được hai mươi người công chính thì
sao?" Chúa phán: "Vì hai mươi người đó Ta sẽ không tàn sát".
Abraham thưa: "Lạy Chúa, xin đừng nổi giận, con chỉ xin thưa lần này nữa
thôi: Nếu tìm được mười người công chính ở đó thì sao?" Chúa phán:
"Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 137, 1-2a. 2bc-3. 6-7ab.
7c-8
Đáp: Lạy Chúa, khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời
con (c. 3a).
1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì
Chúa đã nghe lời miệng con xin: trước mặt các Thiên Thần, con đàn ca mừng Chúa;
con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài.
2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân
hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con; Chúa đã ban
cho tâm hồn con nhiều sức mạnh.
3) Quả thật Chúa cao cả và thương nhìn kẻ khiêm
cung; còn người kiêu ngạo thì Ngài ngó tự đàng xa. Nếu con đi giữa cảnh gian
truân, Chúa giữ gìn con sống; Chúa ra tay phản đối quân thù giận dữ.
4) Tay hữu Chúa khiến con được sống an lành.
Chúa sẽ hoàn tất cho con những điều đã khởi sự. Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn
tại muôn đời; xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Ngài.
BÀI ĐỌC II: Cl 2, 12-14
"Người đã khiến anh em chung sống với Người và tha thứ mọi
tội lỗi".
Trích thư
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôssê.
Anh em thân mến, nhờ phép rửa tội, anh em đã được mai táng làm một
với Đức Kitô, anh em cũng được sống lại với Người, bởi đã tin vào quyền năng
Thiên Chúa, Đấng đã cho Người từ cõi chết sống lại.
Anh em vốn đã chết vì tội lỗi anh em và bởi không cắt bì tính
xác thịt của anh em, nhưng Thiên Chúa đã cho anh em được chung sống với Người,
Người đã ân xá mọi tội lỗi chúng ta, đã huỷ bỏ bản văn tự bất lợi cho chúng ta,
vì làm cho chúng ta bị kết án; Người đã huỷ bỏ bản văn tự đó bằng cách đóng
đinh nó vào thập giá. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 19, 38
Alleluia,
alleluia! - Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời,
và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 11, 1-13
"Các ngươi hãy xin thì sẽ được".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi kia. Khi Người cầu
nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu
nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông". Người nói với các ông:
"Khi các con cầu nguyện, hãy nói: 'Lạy Cha, nguyện xin danh
Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng
ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin
chớ để chúng con sa chước cám dỗ'".
Và Người còn bảo các ông rằng: "Nếu ai trong các con có người
bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: 'Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc
bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi
anh ấy'. Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: 'Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa
đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh
cho anh được'. Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh
cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà
cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.
"Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm
thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ
thì sẽ mở cho.
"Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho
nó hòn đá ư? Hay nó xin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả
trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy, nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết
cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh
Thần cho những kẻ xin Người". Đó
là lời Chúa.
SUY NIỆM : Cầu nguyện không ngừng
Rõ ràng Lời
Chúa hôm nay muốn dạy chúng ta về việc cầu nguyện. Bài sách Khởi nguyên cho
chúng ta thấy gương cầu nguyện nơi Abraham. Thánh Luca trong bài Tin Mừng ghi lại
giáo huấn của Chúa về sự cầu nguyện. Còn bài thư Phaolô khẳng định Thiên Chúa
đã chấp nhận chúng ta nên chúng ta không còn lý do gì để ái ngại khi cầu nguyện.
Chúng ta hãy suy nghĩ những bài Kinh Thánh hôm nay để đổi mới việc cầu nguyện của
chúng ta.
1. Abraham Cầu Nguyện
Chúng ta hẳn
còn nhớ chuyện Abraham tiếp khách. Ông đã tỏ ra quảng đại khiêm cung lạ thường.
Ông mời khách vào nhà, nhào bột làm bánh, bắt dê làm thịt và đứng hầu hạ khách.
Xong rồi ông lại tiếp khách lên đường. Chính đang lúc khách đi về phía Sôđôma
đã xảy ra câu chuyện hôm nay.
Khách đây
là chính Chúa. Người nói cho Abraham biết: có tiếng cáo tội Sôđôma vang đến tai
Người. Người muốn đến tận nơi xem có đúng như vậy không?
Sự thật
thì Chúa đâu cần phải đi quan sát như vậy? Có gì che dấu được mắt Người, ngay cả
những uẩn khúc đen tối nhất của lòng người mà ca dao tục ngữ các dân tộc vẫn bảo
là không thể dò thấu? Ðối với Chúa, chẳng có gì che dấu được. Nhưng sở dĩ tác
giả sách Khởi nguyên viết rằng: Chúa muốn đến tận Sôđôma để biết sự thật thế
nào là để mạc khải sự thật đó cho Abraham, và nhất là để gợi lên ý tưởng Chúa
còn để thời gian cho Abraham có thể thỉnh cầu Người cho dân thành tội lỗi.
Abraham hiểu
như vậy. Hơn nữa tác giả sách Khởi nguyên vừa nhắc (18,18) ơn gọi phổ cập của
ông. Chúa đã chọn ông để mọi dân tộc được chúc phúc. Thế nên hạnh phúc của
Sôđôma, bề ngoài như không dính dáng gì tới ông, nhưng thật sự cũng đang tùy ở
ông.
Abraham đã
đóng vai trò là cha muôn dân của mình. Ông mạnh dạn thưa với Chúa: "Phải
chăng Người sẽ tiêu diệt kẻ lành làm một với người dữ?". Ông muốn nại đến
công bình và công lý sao? Không, ông đã đi xa hơn nữa. Vì nếu chỉ muốn nói đến
công lý và công bình thì ông sẽ xin Chúa đưa người lành ra khỏi thành trước khi
giáng phạt Sôđôma. Công việc tất nhiên Chúa sẽ làm. Không ai phải nhắc Người điều
ấy. Và Abraham cũng chẳng có giá trị gì khi xin một ơn như thế. Nhưng sự thật
ông đã không muốn nói đến công lý và công bình. Ông đã đi xa hơn để đóng đúng
vai trò trở thành nguồn hạnh phúc cứu độ của muôn dân. Ông thỉnh cầu cho chính
dân thành tội lỗi, cho chính những kẻ lẽ ra sẽ bị phạt... Ông muốn xin Chúa, vì
sự hiện diện của những người lành, tha thứ cho kẻ tội lỗi.
Lời cầu
xin của Abraham vì thế là lời cầu bầu. Ông là vị trung gian bầu chữa cho kẻ có
tội. Những người này chẳng thuộc gia đình dòng dõi ông, thành ra Abraham ở đây
là người của mọi người và của mọi dân tộc. Ông đang đóng vai trò tổ phụ muôn
dân. Ông đang thực hiện Lời Chúa hứa làm cho ông trở nên nơi chúc phúc cho các
dân tộc.
Chúng ta
không thể nào không mến phục ông khi thấy ông vừa kính trọng công lý của Chúa
nhưng đồng thời vừa tha thiết với sự rỗi của mọi người. Mỗi khi ông xin Chúa giảm
con số những người công chính từ 50 xuống 45, 40, 30 rồi 20, chúng ta thấy rõ
hai tâm tình ấy. Kiểu cách ông xin cũng tỏ ra rất tế nhị và không thiếu những
ám chỉ thần học. Lúc thì ông thú nhận mình chỉ là tro bụi trước mặt Chúa, lúc
thì ông lại xin Chúa nghĩ xem nếu để kẻ lành bị phạt lây với một kẻ dữ há chẳng
bất công hơn là tha thứ cho một số đông người có tội, vì sự hiện diện của những
người lành kia sao? Có lẽ điểm thần học đáng lưu ý nhất trong câu chuyện này là
sự có mặt của người công chính ở giữa tội nhân có thể là một sự che chở cho những
người này. Nói đúng hơn, xã hội loài người nhiều khi còn được hưởng sự khoan
dung của Chúa, là vì trong xã hội ấy còn có một số ít người công chính.
Và điều
này là một khích lệ đối với chúng ta, những người có niềm tin. Chúng ta giúp
ích cho xã hội trước hết bằng nỗ lực sống thánh thiện. Nếu nơi nào có một số những
con người cố gắng nên thánh, Chúa còn có thể khoan dung đối với xã hội nơi ấy,
cho dù ở đó có nhiều kẻ tội lỗi muốn lôi kéo sự trừng phạt của Chúa công minh.
Nhất là khi những nơi ấy lại có những con người nguyện giúp cầu thay cho kẻ tội
lỗi, tiếp nối thái độ cầu bầu của Abraham trong câu chuyện này.
Và đây
cũng là lý do vì sao trong tôn giáo chúng ta luôn luôn có việc thúc đẩy nhau cầu
nguyện cho mọi hạng người, kể cả những người xa lạ với chúng ta.
Chỉ có điều
tiếc trong câu chuyện này là Abraham đã không dám tiếp tục nài xin Chúa thương
tha cho dân thành tội lỗi, nếu không tìm được 10 người công chính. Ông đã dừng
lại nơi con số này vì ông tưởng đó là con số tối thiểu có thể sánh bằng được với
con số đông đảo những kẻ tội lỗi. Ông chưa hiểu hết lòng Chúa. Người sẽ phán
trong sách Giêrêmia rằng: nếu tìm được ở Giêrusalem một người mà thôi biết giữ
công lý, Người cũng sẽ tha tội cho cả thành (5,1). Và trong sách Êzêkien, Người
cũng nói: nếu tìm được người nào đứng trước nhan Người để bầu chữa cho xứ sở,
Người cũng sẽ ngưng trút thịnh nộ xuống (22,30). Những lời khẳng định ấy phải
làm chúng ta phấn khởi hơn nữa trong nỗ lực nên thánh và cầu nguyện cho xã hội...
Nhưng cũng
chính những lời này có lẽ lại biện minh cho thái độ của Abraham. Có thể tìm được
một người công chính trong thành Sôđôma không? Vẫn biết Chúa sẽ cứu ông Lot với
gia đình ông, nhưng có thể vì Abraham hơn là vì Lot là "người công
chính". Không chỗ nào trong Kinh Thánh, Lot được tuyên dương như vậy. Bởi
vì nói cho cùng mọi xác phàm đều là tội lỗi. Người công chính duy nhất có thể cứu
được loài người tội lỗi và có khả năng giúp cầu thay cho mọi người, là người
tôi tớ Thiên Chúa trong sách của Isaia (53,5-10). Nhưng đó là nhân vật mầu nhiệm,
chưa rõ rệt trong sách Cựu Ước. Phải đợi đến khi Ðức Giêsu Kitô chịu chết trên
thập giá và cầu xin Thiên Chúa "tha tội cho chúng vì chúng lầm chẳng biết",
bấy giờ nhân loại mới có người công chính thật và người cầu bầu có thế lực. Lúc
ấy câu chuyện Abraham hôm nay mới được hoàn toàn; và chúng ta mới thấy hết ý
nghĩa của nó.
Dù sao câu
chuyện này cũng rất sống động và ý nghĩa. Nó khiến chúng ta thêm lòng cảm mến vị
tổ phụ và kính yêu Thiên Chúa nhân lành nhiều hơn. Nó thúc đẩy chúng ta cố gắng
nên thánh hơn nữa cho xã hội và cầu nguyện nhiều hơn cho mọi người nhất là cho
kẻ tội lỗi. Lời cầu nguyện của chúng ta có cơ may hiệu nghiệm nhiều hơn lời cầu
xin của Abraham, nếu chúng ta được phép so sánh như vậy, bởi vì chúng ta đã được
chính Ðức Giêsu Kitô dạy cho biết phải cầu nguyện thê� nào, như trong bài Tin
Mừng chúng ta đã nghe đọc.
2. Chúng Ta Phải Cầu Nguyện
Tác giả
Luca không cho chúng ta biết rõ lần ấy là lần nào và đã xảy ra ở đâu. Nhưng những
lời đầu tiên Người đã viết ra rất là ý nghĩa. Người nói hôm ấy Ðức Giêsu vừa cầu
nguyện xong không những Người muốn nhắc nhở chúng ta nhớ rằng: Ðức Giêsu là con
người cầu nguyện. Ngài hay đi cầu nguyện nơi vắng vẻ; Ngài thường cầu nguyện
lúc đêm khuya; Ngài cầu nguyện thiết tha đặc biệt trước khi làm những công việc
ý nghĩa trọng đại và trong những trường hợp hơi khác thường. Nhưng tác giả Luca
còn muốn làm chứng rằng: luôn luôn Ðức Giêsu làm và dạy. Ngài làm trước và dạy
sau. Ngài cầu nguyện và dạy chúng ta cầu nguyện.
Ở đây,
Luca nói rằng các môn đệ đến xin Ngài dạy họ cầu nguyện như Gioan đã dạy các
môn đệ của ông. Vì sao họ phải nại đến Gioan? Cách Chúa cầu nguyện không đủ lôi
kéo họ muốn cầu nguyện sao? Có lẽ không phải như vậy. Ðúng hơn khi thêm chi tiết,
Gioan đã dạy môn đồ ông cầu nguyện, Luca có ý làm chứng rằng câu chuyện các môn
đệ xin Chúa dạy họ cầu nguyện là có thật vì có chi tiết lịch sử kia làm chứng
và kinh Chúa dạy hôm nay có một nguồn gốc chắc chắn; nhưng đồng thời Luca cũng
muốn ám chỉ rằng cầu nguyện là một yếu tố không thể thiếu trong bất cứ tôn giáo
và phong trào đạo đức nào. Ðến như nhóm Gioan còn có cách cầu nguyện riêng, huống
nữa là chúng ta, các môn đệ của Ðức Giêsu.
Vậy khi cầu
nguyện, chúng ta hãy nói: Lạy Cha...
Tác giả
Luca bỏ chữ "chúng con" hay chúng tôi trong bản văn của Matthêu. Cũng
như Người không viết thêm: "Cha chúng con ở trên trời". Dường như Người
muốn để câu kinh được trực tiếp và gần gũi; Người muốn nó như thật là lời nguyện
thoát ra từ môi miệng Ðức Giêsu... Bản văn của Matthêu có màu sắc Do Thái hơn
vì nói đến Thiên Chúa là Ðấng ngự trên trời và là Cha của mọi loài. Bản văn của
Luca đưa chúng ta vào đạo nhập thể nhiều hơn vì Con Chúa Trời sinh ra làm người,
Ngài vẫn đang ở giữa chúng ta và dạy chúng ta cầu nguyện như Ngài vẫn cầu nguyện.
Rồi chúng
ta cũng thấy Luca bỏ câu "xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời".
Theo ý người tư tưởng này đã được bao hàm trong hai lời xin cho Danh Cha cả
sáng, Nước Cha trị đến. Việc rút gọn này khiến chúng ta phải để ý đến tính cách
tổng hợp đầy đủ của phần đầu kinh Lạy Cha, chứ không phân tách và trải rộng ra
quá nhiều khía cạnh khiến làm mất sức mạnh và sự chú ý của sự cầu nguyện. Theo
ý Luca, đối tượng cầu nguyện của chúng ta là sự hiển thánh của Danh Thiên Chúa,
thể hiện trong việc Nước Cha trị đến (và Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên
trời). Tức là chúng ta phải cầu xin cho Nước Chúa lan rộng, cho Danh Người được
thể hiện. Tất cả những điều đó chỉ là một, diễn tả theo ba lối khác nhau.
Và như vậy
khi cầu nguyện chúng ta phải lập tức đặt mình vào quan điểm của lịch sử cứu độ.
Và cầu nguyện là kết hợp ngay với Thiên Chúa đang muốn cứu độ loài người thêm nữa.
Cầu nguyện là tiến bộ, và tiến bộ trong phạm vi đạo đức, là muốn lịch sử tiến
lên, lịch sử Thiên Chúa cứu độ loài người.
Không có một
chút quan điểm cá nhân ích kỷ nào trong lời cầu nguyện như thế. Phải có tinh thần
cứu thế mới xứng đáng đọc lời cầu nguyện này. Và tinh thần cứu thế ấy bao trùm
tất cả hạnh phúc loài người, cả phần hồn và phần xác. Nó là nguyện ước và khát
vọng đạo đức vì quan niệm hạnh phúc kia nằm trong tình yêu của Chúa và đang ở
trong tay Người.
Ước gì khi
cầu nguyện và khi đọc câu đầu của kinh Lạy Cha, không những chúng ta có lòng sốt
sắng kính mến Chúa, nhưng cũng phải chan chứa tinh thần yêu thương loài người,
tha thiết cho nhân loại được hạnh phúc trong ơn nghĩa của Chúa. Một lời cầu xin
như thế vừa cao cả lại vừa phổ quát hơn lời cầu nguyện của Abraham hôm nay, vì
trong khi vị tổ phụ chỉ quan tâm đến xã hội hiện tại của một thành Sôđôma,
chúng ta mỗi khi đọc kinh Lạy Cha lại trực tiếp muốn đưa lịch sử của tất cả
loài người đến chỗ tốt đẹp hơn.
Như vậy phần
sau của kinh Lạy Cha này có vẻ không còn đẹp nữa sao? Chúng ta xin cho được
lương thực hằng ngày, được ơn tha tội, được thoát cơn thử thách. Thật ra đây là
những lời xin cụ thể và cần thiết để áp dụng lời cầu nguyện trên và làm cho lời
cầu xin này không phải chỉ là ước nguyện suông. Ở trên chúng ta đã cầu nguyện để
lịch sử cứu độ tiến lên, thì giờ đây chúng ta phải muốn điều ấy thực hiện trong
đời sống cụ thể của mọi người. Và ở đây chúng ta thấy bản văn của Luca có nhiều
nét khác bản văn của Mátthêu.
Luca không
xin cho "hôm nay" có của ăn nuôi sống mình, nhưng nguyện rằng mỗi
ngày trong đời sống được Chúa nuôi dưỡng. Người ta có thể tự hỏi cả hai tác giả
muốn nói đến thức ăn phần xác hay lương thực phần hồn tức là Lời Chúa và Thánh
Thể? Nhưng tại sao chúng ta lại không nghĩ đến cả hai, bởi vì con người hằng
ngày vẫn cần cả hai thứ lương thực hồn xác để được đầy đủ. Tuy nhiên điều đáng
chú trọng hơn nữa trong lời xin này chính là thái độ và tư cách đạo đức. Xin
cho hằng ngày dùng đủ là gì nếu chẳng phải là ước nguyện không rơi vào những
thái cực hoặc giàu có hoặc nghèo nàn vì cả hai theo truyền thống của Kinh Thánh
đều không tốt. Ðàng khác thái độ hằng ngày phải cầu xin cho được dùng đủ là tư
cách đạo đức của những thành phần mà Kinh Thánh gọi là "những nghèo khó của
Thiên Chúa", tức là những người được Ngài quan tâm ưu ái nhất. Và như vậy,
đây là lời xin để cho mình luôn được kể trong hàng ngũ những người được Chúa chọn
và dưỡng nuôi, những kẻ khó nghèo được rao giảng Tin Mừng và sống hoàn toàn cậy
dựa vào tình thương của Chúa.
Thế mà điều
cản trở người ta ở trong dân Người chính là tội lỗi. Cũng như điều kiện để Danh
Cha hiển thánh là Nước Cha trị đến. Do đó người ta phải lập tức xin ơn tha thứ
tội lỗi. Và ở đây Luca cũng muốn trải rộng lời xin này ra khắp cả đời sống bởi
vì khác với Mátthêu nói đến những lời "đã" xúc phạm đến chúng ta,
Luca viết chúng ta tha cho mọi kẻ có nợ với mình để tỏ ra mình đang khao khát
ơn được tha thứ.
Luca cũng
không nhắc đến việc xin cho khỏi quỷ dữ mà chỉ kết thúc kinh Lạy Cha bằng câu
xin cho khỏi sa cơn thử thách; vì Người đã hiểu rằng mọi thử thách có hại cho
người đạo đức đều đến bởi Satan, nên câu của Người có tính cách tổng hợp. Nó
cũng có tính cách phổ cập vì cơn thử thách mà Người nói ở đây là bất cứ thử
thách nào có hại cho Nước Trời, chứ không tất nhiên chỉ là những thử thách lớn
lao thời thế mạt thường được nhắc đến trong tác phẩm của Mátthêu.
Chúng ta
có thể kết luận, bản kinh "Lạy Cha" trong cái nhìn của Luca, là lời cầu
nguyện cho Nưới Cha được trị đến, khởi sự từ chính nơi mỗi người, đem kết quả
là ân sủng và đặc biệt là ơn tha thứ đến cho mỗi người và xa tránh hết mọi thử
thách có hại cho ơn cứu độ. Lời cầu nguyện như vậy rõ ràng vừa phổ quát nhưng đồng
thời lại có ý nghĩa dấn thân, xin cho ơn cứu độ phổ quát đến với mọi người, biến
mọi người nên thành phần dân Chúa luôn được hưởng ân huệ và sự bảo hộ của Người.
Ý nghĩa của
lời kinh này được hai ví dụ sau xác định: dĩ nhiên câu chuyện người bạn xin
bánh và người con xin cá trực tiếp muốn nói lên lời khuyên phải cầu nguyện kiên
trì và tin tưởng. Nhưng câu kết luận của hai câu chuyện ấy và của bài Tin Mừng
hôm nay rõ ràng khẳng định là lời cầu nguyện của chúng ta phải nằm trong viễn
tượng Nước Trời. Tác giả Luca viết: Cha các ngươi sẽ ban Thánh Thần cho những
ai xin Người. Ðiều này dường như muốn đáp lại một lời khác của Chúa, là
"các ngươi hãy tìm Nước Thiên Chúa trước và mọi sự khác sẽ được thêm
cho".
Chúng ta
có đủ lý do để kiểm điểm lại việc cầu nguyện của mình. Và ước gì bài Tin Mừng
hôm nay giúp chúng ta đổi mới được việc cầu nguyện! Nhất nữa theo thư Phaolô
hôm nay, chúng ta còn có tư thế hơn Abraham ngày trước nếu chúng ta có thể nói
được như vậy.
3. Tư Thế Của Chúng Ta
Vị tổ phục
không dám nài xin Thiên Chúa cho đến cùng để dân thành Sôđôma khỏi bị phạt, là
vì một đàng Người còn sợ đức công minh của Chúa, và đàng khác Người không chắc
chắn chúng ta ngày nay có một tư thế khác. Thánh Phaolô khuyên ta suy nghĩ về
ơn gọi của mình. Há phép Rửa đã không biến đổi chúng ta nên những người con mới
sao? Chúng ta đã cùng được mai táng với Ðức Kitô và đã cùng được sống lại với
Người. Phép Rửa đã làm cho chúng ta công việc ấy. Và như vậy chúng ta đã chết
cho tội lỗi và đã hồi sinh trong Ðức Kitô. Ân sủng do mầu nhiệm thánh giá của
Người đã ân xá cho ta mọi điều sa ngã, đã thủ tiêu văn khế tội nợ của ta. Chúng
ta đã được trở nên công chính và trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa. Ðiều cần
duy nhất là chúng ta phải ở lại luôn mãi trong tư thế ấy để luôn luôn nhận được
lòng thương xót của Chúa. Nhưng giả như chúng ta không chắc chắn về ân sủng nơi
mình chúng ta vẫn phải tin tưởng chắc chắn vào ân sủng nơi thánh giá Ðức Kitô.
Người đã trở nên của lễ đền tội đời đời cho nhân loại, để Hội Thánh không ngừng
có thể được ơn tha thứ tội lỗi. Như thư Hipri viết: Chúng ta đã có Ðấng cầu bầu
đảm bảo ở trước mặt Thiên Chúa... Thế nên chúng ta hãy dạn dĩ tiến gần đến ngai
ân sủng...
Chúng ta
hãy dạn dĩ cầu nguyện, và cầu nguyện không ngừng. Hãy cầu nguyện cho mình và
cho xã hội. Hãy cầu nguyện như Chúa đã dạy trong kinh Lạy Cha và hãy cầu nguyện
tin tưởng như thư Phaolô khuyên bảo. Chúng ta có tư thế mà trước đây Abraham
không có. Không những chúng ta có Ðấng cầu bầu bảo đảm là Ðức Giêsu Kitô. Chính
chúng ta cũng có khả năng để được Chúa nghe lời vì chúng ta đã trở nên nghĩa tử
của Người và được cầu nguyện bằng chính lời của Con yêu dấu Người... Giờ đây
tham dự thánh lễ chúng ta lại được đổi mới tâm hồn và được đồng hóa với Ðức
Giêsu Kitô nhiều hơn. Ðể làm gì nếu không phải một phần nào để trở nên tư tế của
các dân tộc, luôn luôn cầu nguyện cho thế giới được ơn cứu độ? Chúng ta hãy suy
nghĩ về nhiệm vụ cầu nguyện của mình để không ngừng đổi mới công việc ấy nhờ
giáo huấn của Lời Chúa hôm nay.
(Trích dẫn
từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố
Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Chúa Nhật
17 Thường Niên, Năm C
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cầu nguyện
Có nhiều định
nghĩa khác nhau về cầu nguyện. Có người định nghĩa đơn giản là nâng tâm hồn lên
cùng Thiên Chúa. Người khác cho cầu nguyện là thương lượng với Thiên Chúa. Người
khác nữa cho cầu nguyện là nói chuyện với Thiên Chúa như hai người bạn nói chuyện
với nhau. Và cũng có những người cho cầu nguyện là cầu xin những gì mình đang
túng thiếu và cần Thiên Chúa ban ơn. Tất cả những định nghĩa trên đây nói lên một
khía cạnh của cầu nguyện, tổng hợp tất cả cho chúng ta cái nhìn toàn bộ về việc
cầu nguyện.
Các bài đọc
hôm nay cho chúng ta thấy những khía cạnh khác nhau của việc cầu nguyện. Trong
bài đọc I, tổ phụ Abraham xót thương dân thành Sodom, nên ông can đảm và mạnh bạo
đến thương lượng cùng Thiên Chúa để Ngài bỏ ý định luận phạt dân thành đó. Tuy
không nhận được sự ân xá cho thành, nhưng ông chứng tỏ cho chúng ta thấy chúng
ta có thể thương lượng với Thiên Chúa, và những việc lành của một số người có sức
mạnh để Thiên Chúa tha thứ cho toàn thể dân cư trong thành. Trong bài đọc II,
lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho con người được biểu tỏ qua việc Thiên
Chúa ban cho con người Đức Kitô. Ngài đến để xóa sạch sổ nợ cho con người bằng
cái chết trên Thập Giá và mang nguồn hy vọng cho con người được sống đời đời với
Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Thiên Chúa dạy cho các môn đệ biết cách cầu nguyện
cách xứng hợp qua Kinh Lạy Cha, và hai thái độ cần có trong khi cầu nguyện là
tin tưởng và kiên trì.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I:
Abraham cầu xin cho dân thành Sodom.
1.1/ Trách
nhiệm hỗ tương giữa người và người trong điều thiện cũng như trong tội lỗi:
Đây là một
trong những trình thuật viết bởi truyền thống J: gọi Thiên Chúa là Jahveh và mô
tả sự thân mật giữa Thiên Chúa và con người. Tuy là Thiên Chúa, nhưng vì tình bạn
đối với Abraham, Ngài muốn tỏ cho Abraham biết những gì Ngài sắp làm.
Hai đặc
tính quan trọng của Thiên Chúa là công bằng và nhân từ. Nhiều người, trong đó
có tác giả của Sách Sáng Thế Ký và Abraham, thắc mắc: đặc tính nào Thiên Chúa sẽ
dùng để xét xử và luận phạt con người? Ông Abraham muốn xin Thiên Chúa thương
xót và tha thứ cho dân thành Sodom, nên ông tiến lại gần lại gần Ngài và thưa:
"Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong
thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ
Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao? ... Giết
chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không
được đâu! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao?"
Qua lời
van xin của Abraham, tác giả của Sách muốn nhấn mạnh tội lỗi và sự thánh thiện
không chỉ có tính cá nhân, mà còn mang tính cộng đồng: một người làm lành mọi
người đều hưởng; một người làm ác mọi người đều phải chịu lây. Thiên Chúa cũng
đồng ý như vậy khi Ngài chấp nhận lời khẩn cầu đầu tiên của Abraham.
1.2/ Thiên
Chúa công bằng và nhân từ trong việc luận phạt.
Abraham muốn
khêu gợi lòng nhân từ của Thiên Chúa, vì sự thiện của một nhóm người, để xin
Thiên Chúa ân xá cho dân thành Sodom, trong đó có cháu của ông là Lot và gia
đình của ông này. Abraham thương lượng với Thiên Chúa: bắt đầu từ 50 và giảm dần
cho tới 10, nhưng ông không thể giảm tới con số nhỏ hơn 10. Vì thế, Sodom đã bị
tiêu diệt bởi lửa diêm sinh từ trời, chỉ có ông Lot và gia đình của ông thoát nạn.
Đâu là
tiêu chuẩn Thiên Chúa dùng để phán xét và luận phạt con người? Mặc dù không tìm
được câu trả lời rõ ràng; nhưng tác giả cho thấy cách phán xét của Thiên Chúa:
không quá khắt khe đến độ không thể cầu nguyện hay thương lượng cho được và
cũng không quá dễ dàng đến độ hễ cầu xin là được nhận lời.
2/ Bài đọc II:
Đức Kitô là người bầu chủ cho chúng ta trước Thiên Chúa.
2.1/ Bí tích
Rửa Tội hoàn hảo hơn phép cắt bì.
Nhiều người
Do-thái tin tưởng phép cắt bì là dấu họ thuộc về Thiên Chúa, là dân riêng của
Ngài. Tuy nhiên, nhiều ngôn sứ đã đả phá quan niệm này và chứng minh việc cắt
bì xác thịt không đủ để Thiên Chúa bảo vệ. Họ phải cắt bì cả đôi tai để lắng
nghe lời Thiên Chúa, và cắt bì cả lòng trí để vâng phục và làm theo ý của Ngài.
Thánh
Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu Colossê sự quan trọng của bí tích Rửa Tội: “Trước
kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã, và vì thân xác anh em không
được cắt bì, nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Kitô: Thiên
Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta.”
Thần học của
thánh Phaolô về bí tích Rửa Tội giải thích: khi một tín hữu bị dìm mình trong
nước Rửa Tội, mọi tội lỗi của người đó bị cuốn trôi đi vì cái chết và mai táng
của Đức Kitô; để khi trồi lên khỏi nước, họ là một con người mới trong Đức
Kitô. Họ cùng được trỗi dậy và cùng sống với Ngài. Sự sống của người tín hữu từ
nay gắn liền với sự sống của Đức Kitô, đến nỗi họ có thể thốt lên như thánh
Phaolô: “Từ nay tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Đức Kitô sống trong
tôi.” Qua cái chết của Đức Kitô, Thiên Chúa đã xóa bỏ mọi tội lỗi cho con người,
và nhờ đó, con người được hòa giải với Thiên Chúa.
2.2/ Người đã
huỷ bỏ sổ nợ của chúng ta đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá.
Sổ nợ
(cheirógraphon) là chữ chỉ được dùng một lần ở đây trong toàn Tân Ước. Danh từ
này có nghĩa là những gì viết bằng tay trên giấy trắng mực đen. Trong thương mại,
nó có nghĩa là những gì một người có bổn phận phải trả cho chủ nợ. Trong Lề Luật,
nó có nghĩa là những tội lỗi của một người.
Con người
đã nợ Thiên Chúa rất nhiều về mọi phương diện. Ở đây, thánh Phaolô có lẽ muốn nhấn
mạnh đến sổ nợ của con người theo Lề Luật. Mỗi lần con người không thi hành Luật,
con người phạm một tội, hậu quả của tội nặng và cố tình là sự chết. Cái chết là
hình phạt của sự không vâng phục (Gen 2:17; Deut 30:19). Nếu xét như thế, mỗi
người đã phải chết bao nhiêu lần rồi!
Trong Thư
Rôma, thánh Phaolô giải thích rõ ràng hơn làm thế nào Đức Kitô giải thoát con
người khỏi Lề Luật, tội lỗi, và sự chết (Rom 6-8). Trong Ephesians 2:15, Phaolô
cũng cắt nghĩa lý do của sổ nợ là những Lề Luật. Tất cả sổ nợ của con người bị
hủy diệt đi, khi Đức Kitô đại diện cho toàn thể nhân loại, gánh mọi hình phạt của
tội trên Ngài, khi Ngài tình nguyện đóng đinh vào Thập Giá.
3/ Phúc Âm:
Chúa Giêsu dạy các môn đệ cách cầu nguyện và thái độ phải có.
3.1/ Lời cầu
nguyện lý tưởng nhất: Con người không biết cách cầu nguyện làm sao cho đúng, vì điều cần
cầu xin nhất lại không cầu xin, mà chỉ chú tâm đến điều phụ thuộc; hay cầu xin
những gì không có lợi cho mình trong tương lai, chẳng hạn xin giầu có hay chức
tước, để rồi dần dần lún sâu trong tội và sống xa Chúa.
Khi các
môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cho biết cách cầu nguyện, Ngài dạy cho các ông Kinh Lạy
Cha. Kinh này được Giáo Hội coi là kinh quan trọng nhất, vì nó phát xuất từ Đức
Kitô, Đấng duy nhất biết và thi hành trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa.
Có hai sự
khác biệt giữa kinh Lạy Cha của Luke và Matthew: Thứ nhất, trình thuật của Luke
thiếu câu “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Thứ hai, trình thuật của
Luke cũng thiếu câu “xin cứu chữa chúng con khỏi sự dữ.”
Cả hai
trình thuật đều đặt sự quan trọng của việc cầu xin cho Danh Chúa được cả sáng
và Nước Chúa được trị đến, trước khi hướng tới những nhu cầu căn bản của con
người. Lương thực hằng ngày, sự tha thứ, và sức mạnh để vượt qua mọi cơn cám dỗ
là ba điều quan trọng trong đời sống thường nhật của một Kitô hữu.
3.2/ Thái độ
phải có khi cầu nguyện
(1) Kiên
trì: Ví dụ
Chúa Giêsu đưa ra có mục đích đòi hỏi con người phải có thái độ kiên khi cầu
nguyện. Truyền thống Do-thái rất hiếu khách, nhất là những khách từ xa tới. Người
kêu xin bị đặt trong thế kẹt: một là chịu thất lễ với khách, hai là chịu làm
phiền hàng xóm, anh đã chọn giải pháp thứ hai để bảo vệ sự sống cho người bạn
mình.
Nhà của
người Do-thái ngày xưa không rộng mà nhân số trong nhà lại đông, nên cả gia
đình thường ngủ chung dưới sàn trên chăn chiếu. Vì thế, nếu một người phải thức
và ra mở cửa sẽ làm cho những người khác phải thức theo. Đó là lý do người hàng
xóm từ chối lúc đầu; nhưng khi anh bạn có khách cứ gõ và nói mãi, anh phải chỗi
dậy lấy bánh cho mượn, không phải vì tình bạn; nhưng vì sự lỳ lợm của anh. Lúc
này, chắc những người trong gia đình đang ngủ chung cũng đã thức dậy hết!
(2) Tin tưởng: Thái độ này còn quan
trọng hơn cả thái độ kiên trì, vì nó là động lực giúp con người chạy đến với Thiên
Chúa. Hầu như trong tất cả các phép lạ, Chúa Giêsu chỉ làm khi Ngài nhận thấy
có dấu chỉ của niềm tin. Ngài từ chối không làm bất cứ phép lạ nào khi chỉ thấy
sự cứng lòng hay thử thách.
Chúa Giêsu
mời gọi các môn đệ so sánh người Cha trên trời với các người cha dưới đất: “Ai
trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà
cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu
mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại
không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?"
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta
có bổn phận cầu xin Thiên Chúa cho những người tội lỗi được ăn năn trở lại, vì
đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa.
- Đức Kitô
là căn nguyên của tha thứ, hòa giải, và mọi ơn lành. Để lời cầu nguyện chúng ta
được Thiên Chúa lắng nghe, chúng ta phải cầu xin nhờ danh và công nghiệp của
Ngài.
- Để lời cầu
nguyện có hiệu quả, chúng ta cần có thái độ tin tưởng và kiên trì nơi Thiên
Chúa. Chúng ta cứ việc cầu xin mọi sự đẹp ý Thiên Chúa, nhưng phải sẵn lòng để
chấp nhận thánh ý của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
28/07/13 CHÚA
NHẬT TUẦN 17 TN – C
Lc 11,1-13
Lc 11,1-13
XIN VÀ ĐƯỢC
“Ai xin thì nhận
được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.” (Lc 11,10)
Suy niệm: Lời
Chúa hứa thật chắc nịch và chúng ta đã nghe rất nhiều lần: “Ai xin thì sẽ được”. Thế nhưng chúng ta cũng có lắm kinh nghiệm về
điều này là: không phải lúc nào xin hay tìm hay gõ đều được, đều thấy, đều được
mở ra cho. Vậy phải chăng là Chúa chỉ hứa… cho vui?! Chắc chắn không phải vậy,
mà đó là cơ hội để chúng ta khám phá ý Chúa nơi những việc xảy đến ngoài ý muốn
của chúng ta, như có người nói:
- Chúng ta xin cho có sức khỏe để làm những
việc lớn lao, Chúa lại ban cho ta sự yếu đuối để làm việc cách tốt hơn.
- Chúng ta xin cho được giàu sang để sống hạnh
phúc hơn, Chúa lại ban cho ta nghèo khó để sống khôn ngoan hơn.
- Chúng ta xin cho được quyền lực để người đời
ca tụng, Chúa lại ban cho ta sự hèn mọn để tôi ý thức cần đến Người hơn.
- Chúng ta xin Chúa ban cho mọi sự để tận
hưởng thú vui cuộc sống, Chúa lại cho ta cuộc sống để tận hưởng mọi sự.
- Tuy chúng ta chẳng được tất cả những gì
chúng ta xin, nhưng lại nhận được mọi sự chúng ta cần (Vô danh).
Mời Bạn: Bạn
đã nhiều lần kinh nghiệm xin Chúa điều này điều kia. Khi không được như ý sở
cầu, bạn đã phản ứng thế nào? Còn khi nhận được điều bạn xin, bạn có ý thức tạ
ơn Chúa và sử dụng những ơn mình lãnh nhận để phục vụ tha nhân không?
Sống Lời Chúa: Dâng
lên Chúa một lời nguyện tạ ơn trước mỗi biến cố dù vui hay buồn xảy đến trong
đời bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con cám ơn Chúa đã cho con có cuộc sống này. Xin cho con
biết tận dụng những gì con đang có để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho anh chị
em mình. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Bảy
28 THÁNG BẢY
Những Người Chiến Thắng Trong Đức Kitô Và Còn Hơn Thế Nữa
Chúng ta hãy xem lại bản văn trong Thư Thứ Nhất của Thánh Phê-rô: “Chúc
tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà,
Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức
Giê-su Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại,
không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em…” (1Pr
1,3-4).
Liền sau đó, Tông Đồ Phê-rô nhấn mạnh một điểm vừa rất sáng tỏ vừa đầy
khích lệ: “Trong thời ấy, anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dù còn phải ưu
phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức
tin của anh em là thứ quí hơn vàng gấp bội, – vàng là của phù vân, mà còn phải
chịu thử lửa. Nhờ thế khi Đức Giê-su Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện
đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự” (1Pr 1,6-7).
Vâng, chúng ta có thể an tâm tin tưởng qua sứ điệp ấy! Vì sự tiền định
của thế giới thụ tạo và nhất là của con người trong Đức Kitô là nền móng tất
yếu cho mối quan hệ giữa sự quan phòng cứu độ của Thiên Chúa và thực tại sự dữ
và đau khổ. Ở đây chúng ta có một niềm hy vọng vững chắc về chiến thắng cuối
cùng của mình trên sự dữ và đau khổ. Nhờ sự chiến thắng của Đức Kitô, chúng ta
sẽ chiến thắng sự dữ và đau khổ dù thuộc hình thức nào đi nữa. Chúng ta được
tiền định trong Đức Kitô để toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta (Rm 8,37).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên
tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa Nhật XVII Thường Niên
St 18, 20-32; Cl 2, 12-14; Lc 11,1-13
LỜI SUY NIỆM: Có một lần Đức
Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, có một người trong nhóm môn
đệ nói với Người: “Thưa Thây, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan
dạy môn đệ của ông” (Lc 11,1).
Trong cuộc sống của con người, dù ở bất cứ nơi nào, là tín hữu tôn giáo
nào, đều có sự gắn bó trong cầu nguyện với đấng mà mình tin thờ. Riêng với
người Công Giáo, cầu nguyện còn cần thiết như là hơi thở của con người. Bởi cầu
nguyện là thân thưa và kêu xin Thiên Chúa. Nhưng trong loài người không có ai
biết rõ Thiên Chúa và Thánh ý của Ngài. Chỉ có một mình Chúa Giêsu từ Thiên
Chúa mà đến, là Con Một duy nhất của Ngài. Chỉ có một mình Chúa Giêsu dạy cho
chúng ta biết cách cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là “Kinh Lạy Cha”. Đây là
lời cầu xin hoàn hảo nhất khi cầu nguyện cùng Thiên Chúa, Điều này giúp cho
chúng ta gắn kết với Thiên Chúa và cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa. Cùng cầu xin
cho nhau, cũng như cùng nhau đoan hứa trước mặt Ngài.
Mạnh Phương
28 Tháng Bảy
Những Kỷ Niệm Nhỏ
Tổng
thống Wilson của Hoa Kỳ, người đã đưa nước Mỹ can thiệp vào thế chiến thứ I, là
người rất thận trọng đối với những kỷ niệm nhỏ.
Lần
kia, ông và phu nhân cùng với nhiều nhân vật cấp cao trong chính phủ dừng lại
một thành phố thuộc tiểu bang Montana.
Cảnh
sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần vị tổng thống. Nhưng, không hiểu
làm thế nào mà có hai cậu bé đã chui lọt hàng rào cảnh sát để đến gần chỗ ngồi
của tổng thống. Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thủ quốc gia.
Một cậu bé tìm cách tặng cho kỳ được lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ mà em đang cầm
trên tay. Cảnh sát cố tình ngăn chận cậu bé, nhưng bà Wilson đã đưa tay đón lấy
lá cờ và vẫy tay em một cách nhiệt tình.
Cậu
bé khác cảm thấy buồn hiu vì em không có gì để dâng tặng cho tổng thống. Em cố
gắng mò mãi trong túi quần và cuối cùng lôi ra được một đồng xu nhỏ. Em cố gắng
vượt qua mọi chướng ngại để chạy đến trao cho tổng thống. Em sung sướng vô
cùng, bởi vì chính tổng thống Wilson là người chìa tay ra để đón nhận món quà
của em với tất cả trang trọng.
Năm
năm sau, tổng thống Wilson qua đời. Bà Wilson xếp đặt lại các đồ dùng quen
thuộc của chồng. Mở chiếc ví của ông, bà thấy có một bọc giấy được giữ gìn cẩn
thận. Tháo chiếc bọc giấy, bà nhận ra ngay tức khắc đồng xu nhỏ mà cậu bé đã
tặng cho chồng bà cách đây năm năm. Ông quý đồng xu nhỏ ấy đến độ đi đâu ông
cũng mang nó theo.
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng
ta như thế. Ngài giàu có biết bao, nhưng những đồng xu nhỏ mà chúng ta trao
tặng cho Ngài, Thiên Chúa đón nhận và cất giữ như báu vật... Một Thiên Chúa
giàu sang dường như không ưa thích của cải dư dật của chúng ta cho bằng những
đồng xu nhỏ của lòng thành, sự quảng đại, những âm thầm hy sinh, phục vụ quên
mình của chúng ta...
Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy
được cái nhìn trang trọng của Chúa đối với lòng thành của con người. Lần kia,
Ngài vào đền thờ và quan sát những người đang dâng cúng tiền của. Ai ai cũng bỏ
tiền vào hòm, chợt có một người đàn bà góa chỉ bỏ có một đồng xu nhỏ. Vậy mà
Ngài đã tuyên bố: Người đàn bà này đã dâng cúng nhiều hơn ai hết, bởi vì trong
khi mọi người bố thí những của dư thừa của mình, còn người đàn bà nghèo này lại
dâng cúng tất cả những gì mình có để độ nhật...
Thiên Chúa luôn trân trọng và quý
mến tất cả những gì chúng ta dâng tặng Ngài. Những lễ vật càng đơn sơ, nhỏ bé
dưới mắt người đời, càng có giá trị trước mặt Chúa. Chỉ có Chúa mới thấy được
giá trị của những âm thầm đau khổ, của những hy sinh quên mình từng ngày, của
những việc làm vô danh...
(Lẽ Sống)
28-7
Thánh Leopold Mandic
(1887-1942)
Kitô Hữu Tây Phương đang
nỗ lực hoạt động để thông cảm hơn với Kitô Hữu Chính Thống Giáo, có thể đó là
nhờ lời cầu bầu của Thánh Leopold Mandic.
Thánh Leopold sinh ở
Castelnuovo, một hải cảng nhỏ ở Croatia và là người con thứ mười hai trong gia
đình. Khi rửa tội, cha mẹ đặt tên cho ngài là Bogdan, có nghĩa "con-Chúa-ban."
Mặc dù sức khỏe rất yếu
kém và bị tật nguyền, ngay từ nhỏ ngài đã cho thấy một sức mạnh tâm linh và sự
đoan chính. Vào năm 16 tuổi, Bogdan từ giã quê nhà để sang Ý là nơi ngài theo
học với các tu sĩ Capuchin ở Udine với khao khát được gia nhập Dòng này.
Vào tháng Tư 1884, ngài
được gia nhập đệ tử viện Dòng Capuchin ở Bassano del Grappa và lấy tên là Thầy
Leopold. Bất kể sự khắc khổ của đời sống tu sĩ Capuchin, ngài vẫn can đảm theo
đuổi và đắm chìm trong Linh Ðạo Thánh Phanxicô mà nhờ đó ngài trở nên một trong
những gương mẫu tốt lành nhất.
Sau khi chịu chức linh
mục, Cha Leopold muốn thể hiện giấc mơ từ nhỏ là đi truyền giáo ở Ðông Âu đang
tan nát vì tranh chấp tôn giáo, nhưng bề trên từ chối vì sức khỏe yếu kém của
ngài.
Từ 1890 đến 1906, Cha
Leopold làm việc tại một vài nhà dòng trong tỉnh Venetian. Năm 1906, ngài được
bổ nhiệm về Padua là nơi ngài sống cho đến suốt đời, ngoại trừ một năm phải ở
tù trong thời Thế Chiến I, vì không chịu từ bỏ quốc tịch Croatia.
Chính ở Padua là nơi
ngài đảm nhận việc Giải Tội và Linh Hướng, một công việc mà Thiên Chúa đã dùng
đến người tôi tớ Chúa là Cha Leopold trong gần bốn mươi năm trời, và cũng nhờ
đó mà cha nổi tiếng. Mỗi ngày ngài dành cho công việc mục vụ đó có đến 15 giờ
đồng hồ. Một vài giám mục cũng tìm đến ngài để xin hướng dẫn tâm linh.
Vào tháng Chín 1940, Cha
Leopold mừng Kim Khánh Linh Mục. Nhưng sau đó, sức khoẻ của ngài tàn tạ dần.
Ngài từ trần ở Tu Viện Padua ngày 30 tháng Bảy 1942. Sau đó không lâu, sự mến
mộ ngài ngày càng gia tăng và đã đưa đến việc phong chân phước cho ngài vào năm
1976 và sau cùng, ngài được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh năm
1983.
Lời Bàn
Thánh Phanxicô khuyên
nhủ các môn đệ "hãy theo đuổi điều mà họ phải khao khát trên hết mọi
sự, đó là có được Thần Khí Thiên Chúa và cách làm việc thánh thiện của Chúa"
(Quy Luật 1223, Chương 10) -- đó là những lời mà Thánh Leopold đã sống. Khi bề
trên tổng quyền dòng Capuchin viết thư cho các tu sĩ nhân dịp phong chân phước
cho Cha Leopold, ngài nói đời sống của Cha Leopold đã chứng tỏ "sự tiên
quyết của điều được coi là thiết yếu."
Lời Trích
Thánh Leopold thường hay
tự nhủ: "Hãy nhớ rằng ngươi được sai đi là vì ơn cứu độ của nhân loại,
không phải vì ngươi có công trạng gì, vì chính Chúa Giêsu chứ không phải ngươi
đã chết để cứu chuộc các linh hồn... Tôi phải cộng tác với sự thiện hảo siêu
phàm của Chúa là Người đã đoái hoài và chọn tôi, để qua sứ vụ của tôi, lời Chúa
hứa sẽ được thể hiện, đó là: 'Sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên'"
(Gioan 10:16).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét