Trang

Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013

29-07-2013 : THỨ HAI TUẦN XVII MÙA THƯỜNG NIÊN - THÁNH NỮ MATTA (lễ nhớ)

Ngày 29 tháng 7
Lễ Thánh nữ Martha
Lễ Nhớ



Bài Ðọc I: Lv 23, 1. 4-11. 15-16. 27. 34b-37
"Các ngươi phải kể những ngày của Chúa là những ngày rất trọng thể và là ngày thánh".

Trích sách Lêvi.
Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ðây là những ngày lễ của Chúa mà các ngươi phải mừng lễ trong thời gian của nó. Chiều ngày mười bốn tháng Giêng là Lễ Vượt Qua của Chúa; và ngày mười lăm tháng Giêng, là lễ trọng không men của Chúa: Các ngươi sẽ ăn bánh không men trong bảy ngày. Ngày thứ nhất, các ngươi phải kể là ngày rất trọng thể, và là ngày thánh, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy". Trong bảy ngày, các người phải thiêu hy lễ dâng lên Chúa. Ngày thứ bảy là ngày trọng thể và là ngày thánh hơn, các ngươi không làm việc xác nào trong ngày ấy".
Chúa lại phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy nói cùng con cái Israel và bảo họ rằng: Khi các ngươi đã tiến vào đất Ta sẽ ban cho các ngươi, và khi các ngươi gặt lúa, thì phải mang bó lúa đầu mùa đến cho tư tế, người sẽ giơ bó lúa lên trước mặt Chúa để hôm sau ngày sabbat, người xin Chúa chấp nhận cho các ngươi, và thánh hoá nó. Vậy các ngươi hãy tính từ hôm sau ngày sabbat, là ngày các ngươi đã dâng bó lúa đầu mùa, các ngươi tính đủ bảy tuần, cho đến ngày hôm sau cuối tuần thứ bảy, tức là năm mươi ngày, thì các ngươi phải dâng của lễ mới cho Chúa. Ngày mùng mười tháng Bảy, là ngày đền tội rất trọng thể, gọi là ngày thánh: trong ngày đó, các ngươi phải hãm dẹp tâm hồn, và dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa. Từ ngày mười lăm tháng Bảy sẽ mừng lễ Nhà Xếp kính Chúa trong bảy ngày. Ngày thứ nhất sẽ gọi là ngày rất trọng thể và rất thánh, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy. Và trong bảy ngày, các ngươi phải dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa, ngày thứ tám cũng rất trọng thể và rất thánh, các ngươi phải dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa, vì là ngày cộng đoàn tập họp, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy.
"Ðó là những ngày lễ của Chúa mà các ngươi phải kể là những ngày rất trọng thể và rất thánh, trong những ngày ấy, các ngươi phải dâng lên Chúa lễ vật, của lễ toàn thiêu và lễ quán theo nghi lễ của mỗi ngày".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 80, 3-4. 5-6ab. 10-11ab
Ðáp: Hãy reo mừng Thiên Chúa là Ðấng phù trợ chúng ta (c. 2a).

Xướng: 1) Hãy hoà nhạc và đánh trống râm ran; dạo đàn cầm êm ái cùng với thất huyền. Hãy rúc tù và lên mừng ngày trăng mới, trong buổi trăng rằm, ngày đại lễ của chúng ta. - Ðáp.
2) Vì đó là điều đã thiết lập cho Israel; đó là huấn lệnh của Thiên Chúa nhà Giacóp. Người đã đặt ra luật này cho nhà Giuse, khi họ cất gót lên đường lìa xa Ai-cập. - Ðáp.
3) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác; ngươi cũng đừng thờ tự một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra ngoài Ai-cập. - Ðáp.

Alleluia: x. Lc 2, 25c
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là ánh sáng thế gian; ai theo Ta, sẽ có ánh sáng ban sự sống. - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 11, 19-27
"Con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, nhiều người Do-thái đến nhà Martha và Maria để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy". Chúa Giêsu nói: "Em con sẽ sống lại". Martha thưa: "Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại". Chúa Giêsu nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?" Bà thưa: "Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian".
Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc: Lc 10, 38-42
"Martha đã đón Chúa vào nhà mình, Maria đã chọn phần tốt nhất".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với". Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị ai lấy mất".
Ðó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Chiêm Niệm Và Hoạt Ðộng

"Mácta, con lo lắng chi nhiều việc chỉ có một điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất rồi". Câu trả lời của Chúa Giêsu cho Mácta đáng cho chúng ta suy nghĩ thêm. Các nhà chú giải đề ra hai điểm:
Trước hết Chúa Giêsu không có ý định giảm giá trị của việc đón rước Chúa mà Mácta đang làm, nhưng Ngài trực tỉnh Mácta về nguy hiểm mà chị đang lao vào đó là thái độ ganh tị. Kế đến Chúa Giêsu làm nổi bật một điểm tốt mà Maria đã rút ra từ hoàn cảnh, đó là đến ngồi bên chân Chúa, lắng nghe Người nói.
Việc lắng nghe có ưu tiên hơn "vì con người không chỉ sống nguyên bởi bánh mà thôi nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Vì thế hãy tìm Nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho dư đầy" (Mt 4,4). Tuy nhiên, Chúa Giêsu không đề ra một sự chọn lựa giữa một trong hai điều hoặc thái độ làm việc của Mácta hoặc thái độ chiêm niệm của Maria để rồi chỉ chấp nhận có một thái độ duy nhất của Maria thôi.
Không có sự đối nghịch giữa hoạt động và chiêm niệm trong đời sống của người Kitô, bởi vì cả hai đều phát xuất từ một nguồn mạch là Lời Chúa và cùng hướng đến một việc, một mục tiêu là phục vụ Nước Chúa. Việc lắng nghe Lời Chúa được hướng đến hành động và hành động cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa. Ðây là hai khía cạnh của mối phúc thật "lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa". Ðó là khi trả lời cho người phụ nữ trong dân chúng cất tiếng chúc tụng Mẹ Chúa cũng như khi trả lời cho những kẻ báo tin cho Chúa biết là có Mẹ và anh em Chúa đang chờ, nhưng Chúa trả lời "những kẻ nghe Lời Chúa mà đem ra thực hành, kẻ đó mới là Mẹ Ta và anh em Ta" (Mt 12, 50).
Hai chị em Mácta và Maria nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô cũng như cho mọi người Kitô qua mọi thời đại về hai thái độ luôn bổ túc cho nhau. Ðể tiếp nhận Lời Chúa hiện diện nơi chính Chúa Giêsu Kitô không phải chỉ cầu nguyện chiêm niệm mà thôi, cũng không phải chỉ có hoạt động vì hoạt động. Nhưng chiêm niệm và hoạt động phải là hai chiều kích luôn được kết hợp với nhau của cùng một chức vụ, đây là hai yếu tố không thể nào thiếu vắng đi được trong việc theo Chúa.
Trong những hoàn cảnh cụ thể và tùy theo hoàn cảnh ấy, người đồ đệ Chúa có thể hòa hợp việc làm một cách cụ thể giữa cầu nguyện và hoạt động theo một chương trình riêng. Nhưng thật là sai lầm nếu chúng ta muốn canh tân Giáo Hội mà không cầu nguyện, nghĩa là không lắng nghe Lời Chúa, không đối thoại với Ngài, ngõ hầu để hoạt động của chúng ta có thể trổ sinh kết quả. Người đồ đệ của Chúa cần dành thời giờ im lặng để lắng nghe Lời Chúa và đối thoại với Ngài. Trong ý nghĩa này chiêm niệm là phần tốt nhất mà Maria đã chọn, nhưng không phải tách rời ra khỏi việc làm. Ðức tin phải có sức tác động qua đức bái ái. Ðàng khác, cầu nguyện không làm cho người đồ đệ xa lạ với cuộc sống và những vấn đề của con người, nhưng ngược lại cầu nguyện làm cho người đồ đệ có thêm sức mạnh hoạt động biến đổi xã hội, ngõ hầu Thiên Chúa được tôn vinh và con người được hạnh phúc.
Lạy Chúa,
Xin giúp chúng con hiểu và thành công hòa hợp được hai yếu tố không thể tách rời của đời sống Kitô đích thực là làm việc và cầu nguyện. Ước chi việc chúng con làm đều phát xuất từ lời cầu nguyện là việc lắng nghe Lời Chúa và được nâng đỡ bởi sức mạnh của Chúa, sức mạnh trao ban trong những giây phúc chúng con trở về lắng nghe Chúa nói.
(Veritas Asia)

Thứ Hai Ngày 29/07/2013
Tuần 17 Mùa Thường Niên Năm Lẻ



BÀI ĐỌC I: Xh 32, 15-24. 30-34
"Dân này đã phạm tội nặng nề, và họ đúc bò vàng".

 Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê từ trên núi trở xuống, Tay cầm bia đá có khắc chữ cả hai mặt; và đó là công trình của Thiên Chúa tác tạo, vì chính Chúa đã khắc chữ vào hai bia đá đó. Bấy giờ Giosuê nghe tiếng dân chúng la lối om sòm, nên thưa cùng Môsê rằng: "Có tiếng la giao chiến trong trại". Môsê đáp: "Đó không phải là tiếng kêu la giao chiến, cũng không phải tiếng kêu la thất trận, nhưng tôi nghe tiếng người ta ca hát". Khi đến gần trại, người thấy con bê đực và những người múa. Người quá tức giận, liền ném hai bia đá xuống chân núi và nó bể nát ra. Người đem đốt con bê chúng đã đúc, rồi tán ra thành tro, bỏ vào nước, bắt con cái Israel phải uống.
Người nói cùng Aaron rằng: "Dân này đã nói gì với ông mà ông để nó phạm tội nặng nề như thế?" Aaron thưa: "Xin ngài chớ tức giận, nào ngài không biết dân này hay hướng chiều về đàng tội đó sao? Chúng đã nói với tôi rằng: 'Xin ông hãy đúc cho chúng tôi những vị thần để dẫn dắt chúng tôi đi, vì ông Môsê, người dẫn chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy đến cho ông'. Tôi liền nói với họ: 'Ai trong các ngươi có vàng, hãy mang đến cho tôi. Họ mang đến, tôi quăng vàng vào lửa và đúc nên con bê này'".
Hôm sau Môsê nói với dân: "Các ngươi đã phạm một tội rất lớn, nhưng bây giờ ta sắp lên với Giavê: có lẽ ta sẽ xin được Người xá tội cho các ngươi!" Môsê trở lại với Giavê và nói: "Phải! dân này đã phạm một tội rất lớn, chúng đã làm cho mình những thần bằng vàng! Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng. Bằng không, xin Người hãy xoá con đi khỏi sách Người đã viết".
Giavê phán với Môsê: "Ai phạm tội chống lại Ta, Ta sẽ xoá nó khỏi sách của Ta! Còn bây giờ, ngươi hãy đi, hãy dẫn dân đến nơi Ta đã phán với ngươi! Này thần sứ của Ta sẽ đi trước ngươi, và đến ngày truy phạt của Ta, Ta sẽ trừng phạt chúng vì tội của chúng".  Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:  Tv 105, 19-20. 21-22. 23
Đáp: Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu (c. 1a).

1)  Dân chúng đúc hình bò con tại Horéb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ.    -  Đáp.
2)  Họ đã quên Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình, Đấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Đấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Đỏ.    - Đáp.
3)   Chúa đã nghĩ tới tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi giận và đừng tiêu diệt họ.    -  Đáp.

Alleluia:  Ga 17, 17b và a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là chân lý, xin hãy thánh hoá chúng con trong sự thật. - Alleluia.

PHÚC ÂM:   Mt 13, 31-35
"Hạt cải trở thành cây đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".
Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: "Nước trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men".
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: "Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn: Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian".  Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : . Hạt Cải, Nắm Men
Dụ ngôn hạt cải và nắm men trong Tin Mừng hôm nay đều nhấn mạnh đến sự bất tương xứng của thời kỳ đầu của Nước Trời và của thời kỳ kết thúc. Dụ ngôn hạt cải nói đến sự tăng trưởng của Nước Trời theo chiều rộng, còn dụ ngôn nắm men trong bột ám chỉ chiều sâu, tức là sự biến đổi bên trong. Cũng như cây cải nhỏ bé thường thấy ở miền giáp hồ Tibêria có thể cao tới ba thước, Nước Trời cũng bắt đầu hiện diện từ thời kỳ truyền giáo của Chúa Giêsu và của Giáo Hội tiên khởi trong sự khó nghèo và thiếu thốn. Và đó là giáo huấn nền tảng của dụ ngôn hạt cải và nắm men.
Dựa vào những hình ảnh này, Chúa Giêsu cho thấy kiểu cách truyền giáo của Ngài không phù hợp với những chờ đợi của người Do thái, nghĩa là Nước Trời đến trong thầm lặng, như Chúa Giêsu đã nói: "Nước Thiên Chúa ở giữa các ngươi". Bởi vì thánh sử viết Phúc Âm sau thời kỳ truyền giáo của Chúa Giêsu trên đất Palestin, chúng ta có thể thấy ngay sự bành trướng đầu của Nước Trời và của Tin Mừng nơi các cộng đoàn Kitô tiên khởi. Thánh sử nói rõ: trên cành cây cải, chim trời có thể đến trú ngụ, điều này ám chỉ các dân ngoại được kết nạp vào Giáo Hội do Chúa Giêsu sáng lập.
Dụ ngôn men trong bột, một nắm men có thể làm dậy cả khối bột. Ý nghĩa và bài học của dụ ngôn này đi song song với dụ ngôn hạt cải. Men Nước Trời tức ơn thánh, dù ngấm ngầm, nhưng hiệu nghiệm nơi tâm hồn con người và trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã nói rõ về sức mạnh của men Nước Trời. Ngài không đến theo kiểu cách lôi kéo sự chú ý của con người. "Nước Thiên Chúa ở giữa các ngươi". Trong cử hành Thánh Lễ, Lời Chúa và Mình Chúa như men có sức làm lớn lên và biến đổi tâm hồn con người. Ai biết lãnh nhận với tâm hồn ngay thẳng, người đó sẽ được biến đổi nên giống Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy cầu xin cho Dân Chúa tức là Giáo Hội trở nên dấu chỉ của hạt giống và men của Nước Trời trong thế gian này, cho tới ngày Nước Chúa được hoàn tất trong vinh quang.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 17 TN1, Năm lẻ

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức tin vững mạnh cần thiết để vượt qua gian khổ cuộc đời.

Trong thực tế, biết bao ví dụ đã chứng minh: càng sung sướng hạnh phúc bao nhiêu, con người càng dễ dàng quay lưng lại với Thiên Chúa và chạy theo những cám dỗ của ba thù bấy nhiêu. Vì thế, con người cần học hỏi để biết làm chủ vật chất, trước khi đương đầu với sự thành đạt cuộc đời. Một khí cụ tối cần thiết để con người có thể làm chủ cuộc đời là sự vững mạnh của đức tin và cuộc sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng cho chúng ta thấy sự cần thiết của đức tin trong việc đối đấu với những chước cám dỗ. Trong Bài Đọc I, con cái Israel bỏ quên Thiên Chúa để tự tạo cho mình một con bê bằng vàng để thờ lạy, đang khi Thiên Chúa và ông Moses vất vả để thiết lập Thập Giới cho họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn để dẫn chứng sự cần thiết phải làm cho đức tin vững mạnh.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Các ngươi không được thờ thần nào khác ngoại trừ Ta.

1.1/ Con cái Israel tự tạo cho mình một thần bê vàng để thờ lạy.

(1) Thiên Chúa quan tâm dạy dỗ dân qua Thập Giới: Đã dùng cánh tay uy hùng để đưa dân ra khỏi đất nô lệ cho người Ai-cập, Thiên Chúa còn thân hành dạy dỗ bằng cách ban Thập Giới cho con cái Israel qua vị lãnh đạo là ông Moses. Sau khi đã nhận lãnh Thập Giới từ Thiên Chúa, trình thuật kể: "Ông Moses từ núi trở xuống, tay cầm hai tấm bia Giao Ước; những bia ấy có viết cả hai mặt, mặt trước cũng như mặt sau. Những bia ấy là do Thiên Chúa làm ra, chữ là chữ của Thiên Chúa, khắc trên các bia."

Khi tiến đến gần chân núi, hai ông nghe tiếng dân reo hò. Ông Joshua nói với ông Moses: "Có tiếng giao tranh trong trại!" Nhưng ông Moses nói: "Tôi nghe không phải tiếng ca chiến thắng, không phải lời than bại trận mà là tiếng ca đối đáp!" Và khi đến gần trại, ông thấy con bê và những bọn người đang nhảy múa: "Ông tức giận và ném các tấm bia đang cầm trong tay và đập vỡ dưới chân núi. Ông lấy con bê họ đã làm, đốt đi, tán nhuyễn ra, rắc lên mặt nước, rồi bắt con cái Israel uống."

Ông Moses có ít nhất hai lý do để nổi giận với dân: Thứ nhất, con cái Israel đã mù quáng quay lưng lại với tình yêu của Thiên Chúa: thay vì phải kính mến yêu thương Người đã làm biết bao điều tốt lành cho mình lại chạy theo thờ phượng một con bò vô tri vô giác. Thứ hai, con cái Israel đã quá ngu dốt: trong khi Thiên Chúa đang lo lắng xây đắp một tương lai huy hoàng và vinh quang cho dân, họ lại chạy theo một bức tượng do bàn tay con người nhào lặn nên, chẳng có tí quyền năng gì cả.

(2) Lý do thờ bê vàng: Ông Moses hỏi ông Aaron, người đã ở lại với dân khi ông lên núi gặp gỡ Chúa: "Dân này đã làm gì ông mà ông đưa họ tới chỗ phạm một tội lớn như thế?" Ông Aaron nói: "Xin ngài chớ bừng bừng nổi giận; chính ngài biết dân này có khuynh hướng xấu. Họ nói với tôi: Xin ông làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Moses này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai-cập. Tôi nói với họ: Ai có vàng? Họ đã gỡ đồ vàng đeo tai và đưa cho tôi; tôi ném vào lửa, và đã ra con bê này."

Tục ngữ Việt-nam có câu rất thích hợp cho trường hợp này: "no cơm rửng mỡ." Khi con người sống sung sướng hạnh phúc quá, họ bắt đầu làm chuyện đồi bại. Ngược lại, khi con người phải vất vả làm ăn và nghèo khó, họ biết thờ phượng, kính mến, và năng chạy đến với Chúa để kêu xin. Nhiều người lấy làm lạ tại sao trong hoang địa, không có dụng cụ luyện kim, mà ông Aaron có thể tạo thành con bê vàng này? Mục đích của tác giả không phải ở chỗ làm sao có con bê vàng; nhưng ở chỗ muốn chứng minh khuynh hướng sai lạc của con người khi đã có đầy đủ vật chất.

1.2/ Phạm tội phải đền tội:

(1) Ông Moses bầu cử cho dân: Tuy rất cương nghị trong khi sửa phạt con cái Israel; nhưng ông Moses rất có lòng thương họ. Ngày hôm sau, ông Moses nói với dân: "Anh em đã phạm một tội lớn, nhưng giờ đây tôi sắp lên gặp Đức Chúa; may ra tôi sẽ xin được Người xá tội cho anh em." Đây phải là đức tính của những người lãnh đạo trong Giáo Hội và các bậc làm cha mẹ: vừa phải dứt khoát theo sự thật khi giáo dục, vừa phải thương yêu và tha thứ khi họ đã nhận ra lỗi lầm. Ông Moses trở lại với Đức Chúa và thưa: "Than ôi, dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết." Ông Moses sẵn sàng hy sinh chết để toàn dân được sống.

(2) Thiên Chúa công bằng: Đức Chúa phán với ông Moses: "Kẻ nào phạm tội làm mất lòng Ta, Ta sẽ xoá tên nó khỏi cuốn sách của Ta. Bây giờ, ngươi hãy đi, đưa dân tới nơi Ta đã chỉ cho ngươi. Này thiên sứ của Ta sẽ đi trước mặt ngươi; nhưng đến ngày Ta trừng phạt, Ta sẽ trừng phạt chúng vì tội đã phạm." Tội của ai, người ấy chịu; ông Moses không được phép gánh lấy các hình phạt của dân. Thiên Chúa sẽ sửa phạt họ, nhưng Ngài vẫn cho họ có cơ hội để ăn năn và sửa chữa các khuyết điểm. Nếu cứ ngoan cố trong tội lỗi, họ sẽ tự cách biệt họ khỏi Thiên Chúa ngay từ đời này, chứ chưa cần phải đợi tới đời sau. Con cái Israel bị rắn lửa cắn chết là một điển hình.

2/ Phúc Âm: Phải làm sao cho đức tin lớn mạnh.

2.1/ Dụ ngôn hạt cải: Đức Giêsu còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác về sự cần thiết của Lời Chúa trong tiến trình tăng trưởng của đức tin. Người nói: "Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được."

+ Hạt cải của Palestine có thể trở thành cây: chứ không giống như hạt rau cải của Việt-nam. Nó có thể cho trở thành cây cao rợp bóng cho chim trời đến trú ngụ.

+ Đức tin là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người khi họ lãnh nhận Bí-tích Rửa Tội, tuy bắt đầu nhỏ bé; nhưng con người có thể làm cho đức tin trở nên vững mạnh để sinh ích cho mình và cho người khác.


2.2/ Dụ ngôn nắm men: Người còn kể cho họ một dụ ngôn khác: "Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men."

+ Men cũ: là chút bột lấy từ lần làm bánh trước; tuy nhỏ nhưng có khả năng làm dậy tới ba thúng bột.

+ Đức tin của con người cũng thế, các tín hữu phải làm sao cho đức tin tăng trưởng và thấm nhập mọi khía cạnh của cuộc sống; để không những sinh ích cho bản thân, mà còn lan rộng đến những người trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ, và toàn thế giới.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta luôn luôn phải đương đầu hằng ngày với những cám dỗ của cuộc sống; nếu không có một đức tin vững mạnh, chúng ta dễ bỏ Thiên Chúa để chạy theo cám dỗ của ba thù.

- Đức tin vững mạnh chúng ta có được là do sự luyện tập mỗi ngày qua việc cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, và học hỏi Kinh Thánh để biết về Thiên Chúa và thực hành mỗi ngày.


Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 17 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 13,31-35

A. Hạt giống...
Dụ ngôn hạt cải và nắm men :
1. Vấn đề :  Có người hồ nghi khi thấy thực tế khiêm nhường của công trình Chúa Giêsu và khi nghe Ngài nói về tương lai to lớn huy hoàng của Nước Trời : một nhóm nhỏ bé những môn đệ như thế này, đứng trước những khó khăn như thế đó, mà sẽ tạo thành Nước Trời huy hoàng như thế kia hay sao ?
2. Giải đáp : Chúa Giêsu trả lời rằng "đúng thế", cũng như một hạt cải bé tí sẽ trở nên một cây khổng lồ, hay một nhúm men ít ỏi sẽ làm dậy cả thúng bột, tác động của Thiên Chúa sẽ khiến cho nhóm người bé mọn ít ỏi này trở thành một Dân Mới quy tụ hết mọi dân.

B.... nẩy mầm.
1. Hạt cải và nắm men cũng giống như một hòn sỏi ở chỗ đều bé nhỏ. Nhưng chúng khác hòn sỏi ở chỗ chúng có sức sống bên trong. Ném hòn sỏi xuống đất thì nó vẫn trơ trơ, còn gieo hạt cải xuống đất hoặc vùi nắm men vào thúng bột thì kết quả khác hẳn. Như thế, điều khác nhau và cũng là điều kỳ diệu chính là sức sống bên trong.
Tôi đón nhận những ơn Chúa và những lời Chúa như đón nhận một hòn sỏi hay một hạt cải, một nắm men ?
Là một Kitô hữu, tôi sống giữa những người khác như hòn sỏi hay như hạt cải, nắm men ?
2. “Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn ngồi đó nguyền rủa bóng tối”. Nhiều người khi thấy xã hội đầy dẫy sự xấu thì chán nản. Họ không tin vào sức cải hóa của Tin Mừng, họ không tin vào tác động của ơn Chúa. Hãy dùng ánh sáng Tin Mừng, hãy dùng ơn thánh Chúa ban cho ta để bắt tay vào cuộc cảm hóa môi trường mình sống. Nếu ngày xưa nhóm 12 tông đồ chùn bước trước tình trạng đầy dẫu khó khăn của đế quốc Rôma thì đã không có Giáo Hội như ngày nay.
3. Một nhà kinh tế được mời đến nói chuyện với một nhóm thương gia. Ông lấy một miếng giấy trắng lớn, vẽ trên đó một chấm đen và hỏi người ngồi hàng đầu xem anh ta thấy gì. Anh mau mắn trả lời : “một chấm đen”
Ông lần lượt hỏi từng người, tất cả đều trả lời thấy một chấm đen. Lúc đó, diễn giả mới bình tĩnh nói : “Các anh thấy một chấm đen. Đúng. Nhưng sao không một ai thấy cả một tấm giấy trắng lớn !” (Góp nhặt)
4. “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ gieo trong ruộng mình. Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men” (Mt 13,31-33)
Báo Tuổi Trẻ 96 có giới thiệu khuôn mặt của một nữ triệu phú : Chị đã thoát ra từ cuộc sống dường như đang ở bước đường cùng của mình, với hai bàn tay trắng cùng một tấm thân tật nguyền của chứng bệnh phong cùi mà mọi người xung quanh ai cũng ghê sợ. Chính chị cũng đã có lúc không biết sống để làm gì và làm gì để sống. Nhưng cuối cùng, vì tình yêu dành cho con, chị đã đứng vững và thành công. Nhờ tình yêu và nghị lực của chị, người con trai của chị mới có thể thành đạt, thành công và thành nhân.
Tình yêu mời gọi tình yêu và cứ thế… dậy men cuộc sống.
Lạy Chúa, dẫu có “nhỏ hơn” nắm men, hạt cải, con cũng nguyện xin Chúa cho con can đảm sống và chỉ sống vì yêu thương. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp.Cần Thơ

29/07/13 THỨ HAI TUẦN 17 TN
Th. Mácta
Ga 11,19-27

TRƯỞNG THÀNH TRONG ĐỨC TIN
Đức Giê-su phán :” Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. . .Chị có tin thế không ?” Cô Mác-ta đáp :” Thưa Thầy, có, con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.” (Ga 11,25-27)
Suy niệm: Nhiều người vật vã, ngất xỉu hoặc suy sụp tinh thần trước cái chết của người thân. Sự ra đi của họ luôn là một thử thách cho những người ở lại, nhưng đó cũng là cơ hội để niềm tin vào sự sống đời sau, sự sống đời đời được nảy sinh và trưởng thành. Cô Mácta đã ở trong trường hợp đó khi Ladarô em cô qua đời. Cô đang xúc động than khóc “nếu Thầy ở đây” thì Ladarô em cô đã không chết. Cơ hội cho cô là Chúa Giêsu, người bạn thân của gia đình, đã có mặt để vực cô dậy khi mời gọi cô tuyên xưng đức tin: “Con có tin như thế không?” – nghĩa là tin “Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Lời tuyên xưng long trọng của cô: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” đã được Chúa xác nhận bằng cách gọi Ladarô từ trong mộ đá chỗi dậy và bước ra.
Mời Bạn: Chúa Giêsu là cũng bạn thân của bạn, của gia đình bạn đang hỏi bạn có tin vào Ngài như thế không. Bạn trả lời cho Chúa đi! Để có thể tuyên xưng niềm tin một cách xác tín trong hoàn cảnh bi đát tuyệt vọng như cô Mácta, trước tiên bạn hãy thường xuyên tuyên xưng cách xác tín như thế trong cuộc sống đời thường: trong giờ kinh gia đình, khi tham dự thánh lễ… và cả khi bạn nỗ lực thực thi những giá trị Tin Mừng, những đòi hỏi của đức tin trong công việc, trong cuộc sống hằng ngày.
Sống Lời Chúa: Làm một cử chỉ diễn tả lòng tin hoặc dâng một lời nguyện vắn tắt trước khi làm bất cứ việc gì.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tin. Xin nâng đỡ lòng tin còn non yếu của con.




Đón Người vào nhà
Suy nim:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khuôn mặt Maria khá nổi bật.
Chúng ta dễ thấy là Thầy Giêsu nghiêng về cô em hơn.
Mácta đón Thầy vào nhà trong tư cách là chị.
Còn Maria sau đó là người tiếp Đức Giêsu.
Maria thanh thản, lặng lẽ ngồi bên chân Thầy để lắng nghe.
Còn chị Mácta thì ngược lại.
Hẳn là chị phải xuống bếp ngay để lo bữa ăn.
Cuộc viếng thăm của Thầy Giêsu và các môn đệ là khá bất ngờ.
Làm sao để đãi một số vị khách như thế?
Đó là mối lo chính đáng của chị Mácta.
Mácta là người đảm đang, thạo việc, nhanh nhẹn.
Nhưng trong tình thế này, chị thấy rất cần sự giúp đỡ của cô em.
Rõ ràng là Mácta bị cuống lên vì thấy mình có nhiều việc phải làm gấp.
Chị không muốn khách phải chờ đợi lâu,
và chị cũng muốn đãi khách một bữa ăn tương đối thịnh soạn.
“Xin Thầy bảo em giúp con một tay !”
Đó là ước mơ của Mácta, rất đỗi bình thường.
Tiếc thay, Thầy Giêsu lại đang kể chuyện cho Maria,
và cô này đang lắng nghe một cách thích thú (c. 39).
Nhờ Thầy kêu em xuống bếp là phá vỡ câu chuyện còn dang dở của Thầy.
Mácta bị mối lo về bữa ăn chi phối khiến chị quên cả lịch sự cần có.
Chị quên rằng Thầy Giêsu không chỉ cần bữa ăn, mà còn cần tình bạn.
Và tiếp khách cũng là một cách phục vụ không kém giá trị.
Thầy Giêsu nhìn thấy sự căng thẳng, lúng túng của Mácta.
và nhận ra lòng tốt của chị, khi chị muốn dọn một bữa ăn xứng đáng.
Thầy gọi tên chị hai lần cách trìu mến: Mácta, Mácta.
Ngài nhẹ nhàng trách chị vì đã lo lắng băn khoăn về nhiều chuyện quá.
“Chỉ cần một chuyện thôi. Maria đã chọn phần tốt hơn” (c. 42).
Thầy Giêsu không bảo rằng điều Mácta làm là điều không tốt.
Chắc chắn Thầy và trò đều cần bữa ăn ngon sau những ngày rong ruổi.
Nhưng ngồi nghe Thầy vẫn là điều tốt hơn, cần hơn.
Vì thế Thầy sẽ không kêu cô em xuống bếp để phụ giúp cô chị.
Điều mà Maria đã chọn, chẳng ai có thể lấy đi.
Chị Mácta là thánh nữ được tôn kính trong Giáo Hội.
Chúng ta phải bắt chước chị qua công việc tận tụy và đầy trách nhiệm.
Nhưng chúng ta phải làm một cách an bình, khiêm tốn, vui tươi,
không coi việc mình làm là quan trọng hơn việc người khác.
Cuộc sống hôm nay dễ làm ta trở nên Mácta, bị đè nặng bởi công việc.
Nhưng phải cố dành giờ để làm Maria mỗi ngày.
Phải thu xếp để khỏi phải ở dưới bếp quá lâu, để có người thay mình.
Đời sống của người Kitô hữu là kết hợp của Mácta và Maria.
Vừa đón, vừa tiếp; vừa làm việc của Chúa, vừa gặp gỡ chính Chúa;
nhưng dù hoạt động hay cầu nguyện, lúc nào cũng hướng về Chúa.
Cầu nguyn:

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Suy niệm
Dụ ngôn theo nguyên ngữ Hy Lạp “parabole” (Anh ngữ: parable) là so sánh hai đối tượng trong một câu chuyện kể để dẫn đến ‎ý nghĩa sâu xa. Trong các bài Tin Mừng của tuần này Chúa Giêsu dùng rất nhiều dụ ngôn để nói về mầu nhiệm Nước Trời như dụ ngôn cỏ lùng, hạt cải, tiệc cưới, men trong bột, kho báu và ngọc qu‎ý, chiếc lưới, người mắc nợ không biết thương xót, thợ làm vườn nho, hai người con, những tá điền sát nhân, người đầy tớ trung tín, mười cô trinh nữ, nén bạc…

Trong bài Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu cho ta thấy dụ ngôn hạt cải và men trong bột nói về sự phát triển của nước trời. Nước trời bắt đầu bằng những khởi điểm hết sức nhỏ bé nhưng cuối cùng nhiều nước qui tụ trong đó. Những sự kiện lịch sử đều chứng minh rằng những điều lớn nhất luôn luôn bắt đầu bằng những gì nhỏ nhất.

Qua dụ ngôn Chúa Giêsu muốn dạy cho các môn đệ và những người theo Ngài rằng: nước trời không phải là một nơi nào đó xa vời, lớn lao. Nước trời đang hiện diện trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Chúng ta có bổn phận làm cho nước ấy phát triển bằng tất cả nỗ lực của mình.

Đôi khi chúng ta lo sợ vì cảm thấy rằng làm sao chúng ta có thể nói về Chúa, nói về nước trời cho người khác trong khi chúng ta, những người công giáo, chỉ là thành phần thiểu số trên thế giới, trong làng xã, khu xóm, … Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy rằng hạt cải dù rất nhỏ bé, nhưng với thời gian nó đã phát triển thành cây cải to lớn. Nắm men cũng vậy, phải có một thời gian nhất định nó mới làm cho cả khối bột dậy men. Người công giáo trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng cũng giống như hạt cải, như nắm men nhỏ bé trong một khối bột to lớn. Nếu chúng ta biết khiêm tốn yêu thương và phục vụ cách âm thầm khiêm tốn, thì với thời gian cộng với sự tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta tin tưởng khuôn mặt của người công giáo trở nên thân thiện, dễ mến và hấp dẫn hơn. Điều quan trọng là chúng ta phải biết kiên nhẫn, cứ sống tốt và làm hết khả năng của mình trong các lĩnh vực, mọi nghành nghề mà chúng ta đang sống. Mỗi người Chúa giao cho một khả năng, một công cụ, một nghề nghiệp khác nhau để cùng làm chứng về một Thiên Chúa tình thương và một nước trời đang hiện diện và phát triển.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biêt dùng khả năng Chúa ban để sống phục vụ, yêu thương cách âm thầm trong môi trường chúng con đang sống, để qua những việc chúng con làm, lời chúng con nói mà người khác nhận ra Thiên Chúa tình thương đang hiện diện, để nước Chúa ngày càng phát triển không ngường. Amen

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Bảy

29 THÁNG BẢY

Vấn Đề Đau Khổ

Đối với nhiều người, thực tại sự dữ và đau khổ là trở ngại chính khiến họ khó chấp nhận sự thật về sự quan phòng của Thiên Chúa trên đời sống của họ. Trong một số trường hợp, trở ngại này được thấy là rất lớn lao. Người ta chua cay nguyền rủa Thiên Chúa vì những sự dữ và những đau khổ tung hoành trên thế giới, đến độ họ từ chối sự thật về Thiên Chúa và phủ nhận chính sự hiện hữu của Ngài. Đây là quan điểm của tư tưởng vô thần.

Một cách ít triệt để hơn, nhưng không kém nhũng nhiễu, đó là trường hợp nhiều người chất vấn Thiên Chúa và những ý định của Ngài. Khi người ta cố gắng dung hòa giữa chân lý về sự quan phòng thần linh với thực tại sự dữ và đau khổ mà họ cảm nghiệm, thì bao nhiêu ngờ vực, cật vấn, hay những mâu thuẫn lồ lộ bật lên.

Để thấu hiểu vấn đề này, chúng ta cần trở lại với Thánh Kinh. Cái nhìn về thực tại sự dữ và đau khổ được trình bày đầy đủ trong những trang Thánh Kinh. Thánh Kinh tiên vàn là một quyển sách vĩ đại nói về đau khổ. Vì đau khổ là một trong những thực tại mà Thiên Chúa dạy cho con người nhận hiểu “bằng nhiều cách … qua các tiên tri; và trong những ngày sau hết … qua chính Con của Ngài” (Dt 1,1). Ý nghĩa của đau khổ bật ra trong mạc khải của Thiên Chúa về chính Ngài cũng như bật ra trong chính Tin Mừng cứu độ. Đó là lý do vì sao con đường duy nhất thích hợp để tìm câu trả lời cho vấn nạn về sự dữ và đau khổ trên trần gian này không nằm ở đâu khác ngoài Thánh Kinh.

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II



Lời Chúa Trong Gia Đình


Thánh nữ Martha
1Ga 4, 7-16; Ga 11, 19-27.


LỜI SUY NIỆM: Đức Giêsu liền phán: ”Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” Cô Mác-ta đáp: ”Thưa Thầy có, con vẫn tin Thầy là Đức Ki-Tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11,25-27).

Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta thường vấp phải cách tin của Mác-ta. Khi đứng trước lời tuyên bố của Chúa Giêsu về quyền năng ban sự sống và sự sống lại của Ngài. Mác-ta đã tuyên xưng đức tin là ”có” và còn xác định được: vị thế và vai trò của Chúa Giêsu nữa. Nhưng khi đứng trước mộ em mình; Chúa Giêsu nói ”đem phiến đá này đi” Mác-ta đã thưa: ”Nặng mùi rồi, vì em con ở trong đó đã bốn ngày rồi” (c39). Điều này giúp cho chúng ta phải xét mình lại về đức tin của mình. Khi tin, đừng bao giờ có nghi ngờ. Cũng như trong cầu nguyện vững tin những gì mình đang xin. Bởi đối với Chúa không có gì là không thể làm được.


Mạnh Phương


Gương Thánh nhân

Ngày 29-07
Thánh MARTHA


Chúng ta biết chắc về thánh Martha qua 2 giai thoại trong Tin Mừng. Khi bà nhiệt thành đón rước Chúa Giêsu (Lc 10, 38-42) hay khi bà tín thác vô giới hạn vào Chúa Giêsu trước cái chết của Laxarô (Ga 11,1-44). Martha, theo tiếng tramêô, có nghĩa là bà chủ. Bà hai anh em Maria và Lazarô ở làng Bêtania, là những người bạn thân tình của Chúa Giêsu. Người hay đến trú ngụ ở nhà họ để nghỉ ngơi sau những chuyến hành trình mệt nhọc.
Martha đóng vai gia chủ, đã tỏ ra rất hiếu khách và tận tụy. Ngày kia, trong lúc bận rộn với việc phục dịch, bà nói: - Thưa Thày, Thày không màng nghĩ tới sao, em tôi để cho tôi một mình phục dịch ? Vậy xin Thầy bảo nó đỡ đần tôi .
Chúa Giêsu đáp lại : - Martha, Martha, con lo lắng xôn xao về nhiều chuyện. Cần thì ít thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất rồi và sẽ không bị ai giựt mất.
Như thế Chúa Giêsu đã cho Martha biết rằng đối với Người không có gì quý hơn một tâm hồn biết suy tư cầu nguyện, Martha đã hiểu, bà sẽ để lộ đức tin ấy ra dịp Lazarô từ trần. Bà nhắc tin cho Chúa Giêsu: - Thưa thầy, kẻ Thầy thương đang ốm liệt.
Vượt đường xa, Chúa Giêsu đã đến. Nhưng Người cố ý đến chậm, khi Lazarô đã chết. Đức tin của Martha vẫn không thay đổi.
- Thưa Thầy, nếu thầy có mặt ở đây, em con đã không chết.
Và bà thêm : - Nhưng ngay lúc này, con biết là bất cứ điều gì Thầy xin với Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho thầy.
Khi Chúa Giêsu cho biết Người là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Người thì dù chết cũng sẽ sống, rồi Người hỏi : - Con có tin thế không ?
Martha đã mau mắn tuyên xưng: - Vâng, thưa Thầy, con tin Thầy là đức Kitô Con Thiên Chúa, đấng phải đến trong thế gian.
Và bà đã không lầm. Chúa Giêsu đã phục sinh Lazarô.
Tin Mừng không nói rõ các bạn hữu của Thiên Chúa sẽ ra sao. Chắc chắn Martha có mặt trong số phụ nữ theo Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn và xức xác Người trước khi mai táng.
Có truyền thuyết nói rằng ba chị em làng Bêtania đã bị người Do thái bắt thả trôi trên một con thuyền không buồm không chèo không lái. Nhưng họ đã trôi dạt và cặp bến Marseille nước Pháp. Lazarô đã trở thành Giám mục tiên khởi Chúa thành này. Riêng Martha Ngài đã rao giảng Tin Mừng ở Aix Avignon và Tarascon. Một huyền thoại còn kể thêm việc thánh nữ tiêu diệt quái vật Tarasque. Dân chúng khổ cực vì con vật dữ tợn, mồm phun lửa, đuôi cắn xé. Thánh nữ đã dùng cây thánh giá áp đảo con vật, rồi trói chặt nói lại. Quái vật bị hạ sát và nó bị tiêu diệt, người ta gọi là Tarascon.


(daminhvn.net)



29 Tháng Bảy

Một Tiếng Cám Ơn

Trong một bài huấn đức ngắn ngủi trước khi đọc kinh truyền tin, Ðức Gioan Phaolô I, vị Giáo Hoàng của mỉm cười, đã kể một câu chuyện như sau:
Trong một gia đình nọ, một người đàn bà phải lo phục dịch cho một người chồng, một người anh và hai người con trai lớn. Bà phải làm tất cả mọi sự trong nhà: từ đi chợ, nấu ăn, giặt giũ đến quét dọn trong nhà. Một ngày Chúa Nhật nọ, sau một buổi sáng đi dạo ngoài trời trở về, những người đàn ông bỗng nhận thấy có một điều lạ trong nhà, bàn ăn đã được chuẩn bị cho bữa trưa, nhưng thay vì thức ăn, họ chỉ thấy toàn cỏ khô. Mọi người đều nhao nhao phản đối người đàn bà... Chờ cho mọi người im tiếng, người đàn bà mới bình tĩnh giải thích:
"Tất cả thức ăn đều có sẵn rồi, nhưng cho phép tôi được nói một điều. Tôi phải chuẩn bị thức ăn hằng ngày cho các người, tôi phải dọn dẹp trong nhà, tôi phải giặt giũ quần áo cho các người, tôi phải làm mọi sự trong nhà này, nhưng chưa bao giờ các người mở miệng khen lấy một tiếng, hay nói một lời cám ơn... Các người chỉ chực có một thiếu sót của tôi để la ó, phản đối mà thôi".

Vô ơn là thái độ thường xuyên của mỗi người trong chúng ta. Chúng ta dễ thấy những thiếu sót của người khác đối với chúng ta, nhưng chúng ta lại thiếu nhạy cảm đối với những gì người khác đang làm cho chúng ta. Một chút tế nhị, một chút cảm thông, một lời nói an ủi vỗ về, một tiếng cám ơn, đó là men làm dậy niềm vui trong cuộc sống của chúng ta.


(Lẽ Sống)

Thứ Hai 29-7
Thánh Mácta

Ð
ức Giêsu yêu quý Mácta, Maria và Lagiarô." Câu nói độc đáo này trong Phúc Âm của Thánh Gioan cho chúng ta biết về sự tương giao đặc biệt giữa Ðức Giêsu và Mácta, người em Maria, và người anh Lagiarô của thánh nữ.
Hiển nhiên, Ðức Giêsu là người khách thường xuyên đến nhà Mácta ở Bêtania, một ngôi làng nhỏ bé cách Giêrusalem chừng hai dặm. Chúng ta thấy ba lần đến thăm của Ðức Giêsu được nhắc đến trong Phúc Âm Luca 10:38-42, Gioan 11:1-53, và Gioan 12:1-9.
Nhiều người dễ nhận ra Mácta qua câu chuyện của Thánh Luca. Khi ấy, Mácta chào đón Ðức Giêsu và các môn đệ vào nhà của mình, và ngay sau đó Mácta chuẩn bị cơm nước. Sự hiếu khách là điều rất quan trọng trong vùng Trung Ðông và Mácta là điển hình. Thử tưởng tượng xem ngài bực mình biết chừng nào khi cô em Maria không chịu lo giúp chị tiếp khách mà cứ ngồi nghe Ðức Giêsu. Thay vì nói với cô em, Mácta xin Ðức Giêsu can thiệp. Câu trả lời ôn tồn của Ðức Giêsu giúp chúng ta biết Người rất quý mến Mácta. Ðức Giêsu thấy Mácta lo lắng nhiều quá khiến cô không còn thực sự biết đến Người. Ðức Giêsu nhắc cho Mácta biết, chỉ có một điều thực sự quan trọng là lắng nghe Người. Và đó là điều Maria đã làm. Nơi Mácta, chúng ta nhận ra chính chúng ta -- thường lo lắng và bị sao nhãng bởi những gì của thế gian và quên dành thời giờ cho Ðức Giêsu. Tuy nhiên, thật an ủi khi thấy rằng Ðức Giêsu cũng yêu quý Mácta như Maria.
Lần thăm viếng thứ hai cho thấy Mácta đã thấm nhuần bài học trước. Khi ngài đang than khóc về cái chết của anh mình và nhà đang đầy khách đến chia buồn thì ngài nghe biết Ðức Giêsu đang có mặt ở trong vùng. Ngay lập tức, ngài bỏ những người khách ấy cũng như gạt đi mọi thương tiếc để chạy đến với Ðức Giêsu.
Cuộc đối thoại của ngài với Ðức Giêsu chứng tỏ đức tin và sự can đảm của ngài. Trong cuộc đối thoại, Mácta khẳng định rõ ràng là ngài tin vào quyền năng của Ðức Giêsu, tin vào sự phục sinh, và nhất là tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Và sau đó Ðức Giêsu đã cho Lagiarô sống lại từ cõi chết.
Hình ảnh sau cùng của Mácta trong Phúc Âm đã nói lên toàn thể con người của ngài. Lúc ấy, Ðức Giêsu trở lại Bêtania để ăn uống với các bạn thân của Người. Trong căn nhà ấy có ba người đặc biệt. Lagiarô là người mà ai cũng biết khi được sống lại. Còn Maria là người gây nên cuộc tranh luận trong bữa tiệc khi cô dùng dầu thơm đắt tiền mà xức lên chân Ðức Giêsu. Về phần Mácta, chúng ta chỉ được nghe một câu rất đơn giản: "Mácta lo hầu hạ." Ngài không nổi bật, ngài không thi hành những việc có tính cách phô trương, ngài không được hưởng phép lạ kỳ diệu. Ngài chỉ hầu hạ Ðức Giêsu.
Thánh Mácta được đặt làm quan thầy của các người hầu hạ và đầu bếp.
Lời Bàn
Các nhà chú giải Kinh Thánh nói rằng trong đoạn văn diễn tả việc Lagiarô sống lại, Thánh Gioan có ý nhắn nhủ chúng ta phải coi lời của Mácta nói với Maria (trước khi Lagiarô sống lại) như tóm lược những gì một Kitô Hữu phải vâng theo. "Thầy có mặt ở đây và đang hỏi đến em." Chúa Giêsu kêu gọi mọi người chúng ta đến sự phục sinh -- mà sự phục sinh ấy hiện có trong đức tin khi rửa tội, được chia sẻ vĩnh viễn sự chiến thắng của Người đối với sự chết. Và tất cả chúng ta, cũng như ba người bạn của Chúa Giêsu, được mời gọi kết tình bằng hữu với Chúa trong một phương cách độc đáo.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét