Thứ Năm
Ngày 11/07/2013
Tuần 14
Mùa Thường Niên Năm Lẻ
BÀI ĐỌC I: St 44, 18-21. 23b-29; 45, 1-5
"Để cứu sống anh em mà Thiên Chúa đã sai em xuống Ai-cập
trước anh em".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Giuđa lại gần mà nói thật thà với Giuse rằng:
"Thưa ngài, xin ngài nghe tôi tớ của ngài nói đôi lời, xin ngài đừng phẫn
nộ với tôi tớ của ngài, vì sau vua Pharaon ngài là chủ của tôi. Trước đây ngài
đã hỏi các tôi tớ ngài rằng: 'Các ngươi còn cha, còn đứa em nào nữa chăng?'
Chúng tôi đã trả lời với ngài rằng: Chúng tôi còn cha già, và một đứa em út
sinh ra lúc cha chúng tôi đã già. Anh áp út đã chết rồi: mẹ nó chỉ còn lại một
mình nó, cha chúng tôi thương nó lắm. Vậy mà ngài đã bảo các tôi tớ ngài: 'Hãy
đem nó tới đây cho ta xem thấy nó'. Chúng tôi đã thưa với ngài rằng: 'Đứa nhỏ
không thể bỏ cha nó được'. Nhưng ngài đã nói dứt khoát với các tôi tớ ngài rằng:
'Nếu em út các ngươi không tới với các ngươi, thì các ngươi sẽ không thấy mặt
ta nữa'. Vậy khi chúng tôi trở về cùng tôi tớ của ngài là cha chúng tôi, chúng
tôi đã thuật lại hết mọi điều ngài đã nói. Cha chúng tôi bảo rằng: 'Các con hãy
trở lại mua thêm ít lúa thóc nữa'. Chúng tôi trả lời với người rằng: 'Chúng con
không thể đi được. Nếu em út đi với chúng con, thì chúng con cùng đi chung với
nhau. Nếu em út không đi với chúng con, thì chúng con không dám đến trước mặt
người'. Cha chúng tôi nói: 'Các con biết rằng bạn ta chỉ sinh ra cho ta hai đứa
con trai, một đứa đã ra đi và các con đã nói nó phải thú dữ ăn thịt, và cho đến
nay chưa thấy nó trở về; các con lại đem thằng này đi nữa, nếu dọc đường có gì
rủi ro xảy đến cho nó, thì các con đưa cha già đầu bạc sầu não này xuống suối
vàng cho rồi'".
Khi ấy
Giuse không thể cầm lòng nổi trước mặt mọi người đang đứng đấy, nên truyền cho
mọi người ra ngoài, và không còn người nào khác ở đó lúc ông tỏ cho anh em biết
mình, ông khóc lớn tiếng: những người Ai-cập và cả nhà vua đều nghe biết. Giuse
nói với các anh em rằng: "Tôi là Giuse đây, cha còn sống không?" Các
anh em sợ hãi quá nên không dám trả lời. Giuse nói với anh em cách nhân từ rằng:
"Hãy đến gần tôi". Khi họ đến gần, ông lại nói: "Tôi là Giuse em
các anh mà các anh đã bán sang Ai-cập. Các anh chớ khiếp sợ, và đừng ân hận vì
đã bán tôi sang đất này, vì chưng để cứu sống các anh em mà Thiên Chúa đã sai
tôi sang Ai-cập trước anh em". Đó
là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 104, 16-17. 18-19. 20-21
Đáp: Các ngươi hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm (c. 5a).
1) Chúa đã
gọi cảnh cơ hàn về trên đất nước, và rút đi mọi sự nâng đỡ bằng cơm bánh. Ngài
đã sai một người đi trước họ: Giuse đã bị bán để làm nô lệ. - Đáp.
2) Thiên hạ
đã lấy xiềng để trói chân người, và cổ người bị cột bằng xích sắt, cho tới khi ứng
nghiệm lời tiên đoán của người, lời của Chúa đã biện minh cho người. - Đáp.
3) Vua đã
sai cởi trói cho người, Chúa của chư dân cũng đã giải phóng người. Vua đã tôn
người làm chủ của mình, và làm chúa trên toàn diện lãnh thổ. - Đáp.
ALLELUIA: Tv 94, 8ab
Alleluia,
alleluia! - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. -
Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 10, 7-15
"Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng
không".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con hãy
đi rao giảng rằng 'Nước Trời đã gần đến'. Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho
kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ. Các
con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Các con chớ mang vàng bạc,
tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ
mang giày dép và gậy gộc, vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
"Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở đó ai là người
xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi. Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng:
'Bình an cho nhà này'. Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với
nhà ấy. Nhưng nếu ai không tiếp rước các con và không nghe lời các con, thì hãy
ra khỏi nhà hay thành ấy và giũ bụi chân các con lại. Thật, Thầy bảo các con:
Trong ngày phán xét, đất Sôđôma và Gômôra sẽ được xét xử khoan dung hơn thành ấy". Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Chỉ Thị Truyền Giáo
Trong bài
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ một số chỉ thị cụ thể liên
quan đến việc thi hành sứ mệnh đã lãnh nhận. Trước hết, về chính việc rao giảng
Tin Mừng: Hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy chữa lành người đau
yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong cùi được khỏi bệnh và khử trừ ma
quỉ. Vì là người được Chúa ủy thác, nên phải thi hành đúng chỉ thị của Ngài:
rao giảng Nước Trời, cứu vớt những người nghèo khổ, bị bỏ rơi bên lề xã hội.
Liên hệ đến
tâm thức và cách sống của nhà truyền giáo, Chúa Giêsu nói đến tính cách nhưng
không của việc hiến thân, tinh thần vị tha, giao tiếp hiền hòa với những ai đón
nghe lời rao giảng cũng như với những ai từ chối. Ðã lãnh nhận nhưng không thì
hãy cho nhưng không. Ðừng mang vàng bạc, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng
đi giầy hay cầm gậy. Vì thợ thì có quyền được nuôi ăn. Khi vào nhà nào thì hãy
chào thăm và chúc lành cho nhà đó.
Chúa Giêsu
không những ủy thác việc rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ, Ngài còn muốn đời sống
các ông phù hợp với lời giảng dạy. Nội dung cốt yếu của sứ điệp không do quyết
định tự do hoặc sáng kiến của người rao giảng, mà là do chính Chúa Giêsu ấn định,
đó là Nước Trời. Người được sai đi với tư cách là thừa tác viên phải thi hành
đúng như Chúa đã truyền. Ngài mời gọi họ dấn thân sống đầy đủ mỗi ngày lý tưởng
truyền giáo và lý tưởng của người môn đệ. Ðiều quan trọng phải nhớ là hành
trang của nhà truyền giáo khi theo Chúa Giêsu là lời của Ngài và đời sống nghèo
khó của Ngài. Tất cả những sự khác phải được coi là dư thừa, nhiều khi còn là
ngăn trở cho việc truyền giáo. Kinh nghiệm cho thấy rằng những ai dấn thân sống
nghèo khó và hy sinh cho người khác, sẽ được Chúa cho lại gấp trăm.
Xin Chúa
cho chúng ta luôn ý thức sứ mệnh Chúa đã trao và quảng đại dấn thân để góp phần
mở rộng Nước Chúa nơi trần gian. Xin giải thoát chúng ta khỏi những hành trang
vô ích, dư thừa, cản trở việc rao giảng Tin Mừng, để chúng ta không lạc bước
trong khi thi hành sứ mệnh cao cả đã lãnh nhận.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Thứ Năm
Tuần 14 TN1, Năm lẻ
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải thực hiện thánh ý
Thiên Chúa trong các biến cố của cuộc đời.
Trong sự
quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa, chẳng có một biến cố nào ngẫu nhiên xảy
ra mà không có ý định của Thiên Chúa trong đó cho cá nhân, gia đình, và tập thể.
Thái độ của con người là phải tìm ra và làm theo thánh ý của Thiên Chúa để sinh
ích lợi cho mình và cho tha nhân; chứ đừng kêu la, than khóc, hay trách móc
Thiên Chúa và tha nhân về số phận hẩm hiu của mình.
Các Bài Đọc
hôm nay vạch ra cho chúng ta thấy thánh ý của Thiên Chúa trong mọi biến cố lớn
hay nhỏ của cuộc đời. Trong Bài Đọc I, sau khi đã có thời gian để suy gẫm về cuộc
đời mình và các biến cố đã và đang xảy ra cho gia đình, ông Giuse đã tỏ mình ra
cho anh em và nói: "Chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi
đi trước anh em." Nói rõ hơn, Thiên Chúa đã chuẩn bị cuộc đời Giuse để cứu
sống gia đình, cho dẫu phải ngang qua sự ghen ghét và nhẫn tâm của các anh.
Trong Phúc Âm, chính vì hạnh phúc đời sau của nhân loại mà Chúa Giêsu đã thu thập
các môn đệ để huấn luyện, trao quyền, và sai các ông đi để rao giảng Tin Mừng
cho mọi dân tộc.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I:
Chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em.
1.1/ Nỗi lòng
của cha già: Vì
Giuse muốn gặp em ruột của mình là Benjamin, nên đã giữ một người anh là Simeon
làm con tin ở lại Ai-cập trong chuyến đi mua thực phẩm lần trước. Ông truyền
cho các anh phải đem Benjamin tới gặp, ông mới tha cho tất cả trở về. Nếu
không, đừng bao giờ đến gặp mặt ông nữa.
Khi anh em
ông đem chuyện này để thưa với cha già Jacob, ông tâm sự với các con: "Các
con biết rằng vợ của cha đã sinh cho cha hai đứa. Một đứa đã lìa cha, và cha đã
nói: Đúng là nó đã bị xé xác, và cho đến nay cha chẳng được nhìn lại nó. Nếu
các con đem cả đứa này đi xa cha, và nó gặp tai hoạ, thì các con sẽ làm cho kẻ
bạc đầu này phải đau khổ mà xuống âm phủ." Jacob vẫn tin Giuse đã bị thú dữ
ăn thịt như lời các con nói với ông.
1.2/ Ông
Giuse tỏ mình cho các anh: Khi nghe những lời tường thuật về cha già, ông Giuse không thể cầm
lòng trước mặt tất cả những người đứng bên ông, nên ông kêu lên: "Bảo mọi
người ra khỏi đây!" Khi không còn người nào ở với ông, ông Giuse mới tỏ
cho anh em nhận ra mình. Ông oà lên khóc và người Ai-cập nghe được, triều đình
Pharao cũng nghe thấy.
+ Phản ứng của các anh em: Họ bàng hoàng khi nghe những lời ông nói. Họ cảm thấy xấu hổ về
những thiệt hại họ đã gây ra cho ông. Họ không thể thốt lên một lời nào vì quá
xấu hổ.
+ Phản ứng của ông Giuse: Ông nói với anh em: "Hãy lại gần tôi." Họ lại gần.
Ông nói: "Tôi là Giuse, đứa em mà các anh đã bán sang Ai-cập. Nhưng bây giờ,
các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây: chính là để duy
trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em."
Như một
con người, ông có thể trả thù bằng cách bắt giữ các anh làm nô lệ cho mình;
nhưng ông không làm điều đó, vì ông xác tín mọi việc xảy ra trong đời ông là do
sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài gởi ông qua Ai-cập trước để dọn đường và để
bảo vệ sự sống cho chính ông, cho gia đình, và cho các dân tộc. Nhiều tác giả
đã so sánh Chúa Giêsu cũng mang trong mình sứ vụ như Giuse: Ngài hy sinh chịu mọi
đau khổ để mưu cầu sự sống cho mọi người.
2/ Phúc Âm:
Chính để loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã sai các môn đệ của Ngài đi.
2.1/ Bổn phận
các môn đệ: Chúa
chọn các Tông-đồ để huấn luyện các ông là cho một mục đích. Ngài biết sẽ phải từ
bỏ thế gian để trở về với Chúa Cha, nên Ngài huấn luyện các ông để các ông thay
Ngài tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Mục đích của việc rao giảng
Tin Mừng là để con người nhận ra tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn con người
tin vào Đức Kitô để được chung hưởng hạnh phúc với Ngài trên Thiên Đàng.
(1) Việc
phải làm: Bổn
phận hàng đầu của các môn đệ được Chúa Giêsu nói rất rõ ràng: "Dọc đường
hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần." Để muôn dân tin vào lời các môn
đệ rao giảng, Chúa Giêsu cũng ban cho các ông quyền chữa lành các vết thương hồn
xác: "Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho
người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ." Mục đích của việc chữa
lành là để muôn dân nhận ra quyền năng Thiên Chúa và tin vào Ngài, chứ không phải
để kiếm các lợi lộc vật chất. Ngài truyền cho các ông: "Anh em đã được cho
không, thì cũng phải cho không như vậy."
(2) Việc
không được phép làm: Vì Chúa Giêsu biết trước những cám dỗ vật chất có thể làm các
môn đệ xao lãng bổn phận rao giảng Tin Mừng; nên Ngài ngăn cấm các ông:
+ Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng: Người môn đệ trung thành
của Đức Kitô không bao giờ được phép tìm kiếm những thứ này; ngày nào người môn
đệ tìm kiếm những thứ này, họ không thể là người môn đệ của Đức Kitô, và lời
rao giảng của họ sẽ mất hết hiệu lực.
+ Đừng tích trữ của cải mang theo: "Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc
hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy." Nhiều người cho những lời dạy này không
thực tế, vì lên đường mà không có những vật dụng cần thiết, khi cần đến lấy gì
mà dùng. Điều chính yếu Chúa Giêsu muốn nêu lên ở đây là người môn đệ phải sống
một cuộc đời đơn giản. Nếu người môn đệ có quá nhiều của cải, làm sao ông có thể
sẵn sàng lên đường đến những nơi xa xôi hẻo lánh để rao giảng Tin Mừng? Hơn nữa,
Đức Kitô muốn các môn đệ phải tuyệt đối tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên
Chúa, "vì thợ thì đáng được nuôi ăn." Thiên Chúa sẽ không để những
nhà rao giảng Tin Mừng của Ngài phải chết đói dọc đường.
2.2/ Kiếm người
xứng đáng để ở trọ: Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài sẽ không ngừng thúc đẩy
những tâm hồn có lòng quảng đại để họ lo chăm sóc đời sống vật chất của các nhà
rao giảng. Chính vì điều này mà Đức Kitô đã dạy các môn đệ: "Khi anh em
vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng
đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi."
(1) Phần
thưởng cho những người tiếp đón các môn đệ Chúa: "Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc
bình an cho nhà ấy. Nếu nhà ấy xứng đáng, bình an của anh em sẽ đến với họ; còn
nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em."
(2) Hình
phạt cho những người không tiếp đón các môn đệ Chúa: "Nếu người ta không
đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi nhà hay thành ấy, anh em hãy giũ bụi
chân lại. Thầy bảo thật anh em, trong Ngày Phán Xét, đất Sodom và Gomorrah còn
được xử khoan hồng hơn thành đó."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi một
biến cố xảy ra trong cuộc đời, chúng ta hãy tìm xem Thiên Chúa đang muốn chúng
ta làm gì, và mau mắn thực hiện thánh ý của Ngài.
- Mọi điều
Chúa răn dạy đều có lý do của nó, vì Chúa không bao giờ làm việc vô ích. Nếu
chưa nhận ra lý do, hãy cầu nguyện để Thánh Thần giúp chúng ta nhận ra thánh ý
của Ngài.
- Thiên
Chúa cho chúng ta vào trần gian là cho một mục đích. Chúng ta phải nhận ra
thánh ý của Ngài, và mau mắn chu toàn trước khi trở về với Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 14 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 10,7-15
A. Hạt giống...
Những chỉ dẫn tiếp theo về cách đối xử của người được sai đi giảng
Tin Mừng :
- Công việc sẽ làm : chữa bệnh và trừ quỷ.
- Tinh thần phục vụ quãng đại : Hãy cho cách nhưng không vì trước
đó ta đã lãnh nhận cách nhưng không.
- Đừng quá bận tâm đến những phương tiện vật chất. Có thứ gì thì
dùng thứ đó.
- Cũng đừng quá quan tâm kén chọn chỗ trọ.
- Phải đem bình an đến cho những người mình gặp gỡ.
B.... nẩy mầm.
1. “Các con hãy rao giảng rằng Nước Trời đã đến gần” : nhiều người
không tin có Thiên Chúa, nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa ở quá xa. Sứ giả Tin
Mừng phải làm cho người ta tin rằng Thiên Chúa và Nước Trời đang ở thật gần,
bởi vì Thiên Chúa chính là Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
2. “Chữa lành các bệnh nhân…, làm cho kẻ chết sống lại…, làm cho
những người cùi được sạch… trừ quỷ…” : tông đồ là một con người chuyên làm lành
: xoa dịu những đau khổ, đem lại lẽ sống cho kẻ tuyệt vọng, giúp đỡ những người
bị xã hội khinh chê, giải thoát người ta khỏi tội lỗi…
3. “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không” : Làm
tông đồ cũng là một bổn phận công bình. Tôi đã lãnh nhận rất nhiều từ Chúa và
Giáo Hội cho nên tôi cũng phải biết cho đi.
4. Nhận và cho : Một hôm có một vị bá tước đến cho Thánh Gioan
Thiên Chúa số tiền 25 đồng vàng để ngài giúp những người nghèo khổ. Ngay chiều
hôm ấy, ông ta giả trang làm một người ăn xin đến xin thánh nhân bố thí. Thánh
Gioan Thiên Chúa động lòng thương, lấy cả số tiền 25 đồng vàng đem cho người ấy
kèm với những lời khích lệ an ủi. Ngày hôm sau, vị bá tước đích thân đến thú
nhận tất cả với thánh nhân và xin lỗi vì đã thử lòng bác ái của Ngài. Khi từ
giã, ông đưa tặng thêm 150 đồng vàng nữa ngoài số 25 đồng mà ông xin hoàn lại.
Từ đó cứ mỗi tuần ông lại gởi tới bệnh viện của thánh nhân một số tiền lớn, một
số thuốc men, lương thực và quần áo để thánh nhân giúp đỡ những người nghèo
(Góp nhặt)
5. “Khi vào nhà nào, hãy chào ‘Bình an cho nhà này” : lời nói, việc
làm, cách đối xử của người tông đồ phải luôn luôn tạo được bầu khí bình an.
6. “Đừng sắm vàng bạc hay tiến đồng để giắt lưng. Đi đường đừng
mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày hay cầm gậy” (Mt 10,9-10)
Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan đã lên đường. Họ tức khắc bỏ chài
lưới mà lên đường. Họ muốn tung cánh trong tự do bát ngát. Họ gieo Tin Mừng
khắp cánh đồng Galilê.
Quê hương con, bao thế hệ cũng đã lên đường. Họ kiếm tìm bình đẳng,
bác ái và tự do. Họ đấu tranh cho công bằng xã hội. Họ xâu dựng một thế giới hòa
bình. Và nhiều người đã bỏ mình vì Nước Chúa.
Còn con… Con cần đội chiếc mũ bằng cấp. Con thích mặc chiếc áo sắc
đẹp. Con muốn xỏ đôi giày tình yêu. Con ham vác vài bao của cải, và tay cầm cây
gậy quyền năng. Rồi con trở nên nặng nề vì các tạo vật ấy.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường, nhẹ nhàng và thanh
thoát. Xin sai chúng con lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp.Cần Thơ
11/07/13 THỨ NĂM TUẦN 14 TN
Th. Bênêđitô, viện phụ
Mt 10,7-15
Th. Bênêđitô, viện phụ
Mt 10,7-15
MỆNH LỆNH TRUYỀN GIÁO
Đức Giê-su nói
với các môn đệ :”Anh em hãy loan báo rằng triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Hãy
chữa lành người đau yếu… khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải
cho không như vậy.” (Mt 10,7-8)
Suy niệm: Ta thường cho rằng những lời trên đây là những
lời khuyên, muốn làm cũng được, không thích cũng chẳng sao. Đang khi ấy, đây là
những mệnh lệnh. Đức Giêsu như một tướng lãnh ra lệnh cho binh sĩ trước khi ra
trận, như một vị vua truyền lệnh cho sứ giả, như một ông thầy ra bài cho học trò,
như một người kêu cầu bạn bè trợ giúp. Đàng nào cũng là những việc thuộc loại
phải làm và phải làm ngay. Như thế mệnh lệnh truyền giáo, rao giảng Tin Mừng là
loại lệnh truyền khẩn cấp, bắt buộc và áp dụng cho mọi người. Có lẽ ta đã quá
quen với việc khoán trắng lệnh này cho những người tu hành, mà quên mất đây là
lệnh truyền mỗi người giáo dân.
Mời
Bạn: Sửa chữa lại một cách nhìn sai
về bổn phận của bạn: bổn phận rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho người chung
quanh. Đức Giêsu mời gọi bạn thi hành bổn phận này bằng hai cách: lời nói giới
thiệu về Nước Trời và việc làm phục vụ cụ thể.
Chia sẻ: Tôi sẽ giới thiệu Đức Giêsu cho người lân cận
như thế nào: bằng lời nói? bằng việc làm?
Sống Lời Chúa: Tôi
sẽ bắt đầu thi hành bổn phận này bằng cách giới thiệu con người và công trình
của Đức Giêsu cho một người bạn chưa biết Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa đã tin tưởng giao phó
việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho chúng con. Chúng con hứa sẽ giới thiệu
Chúa cho người khác bằng lời nói và việc làm tốt đẹp của chúng con. Amen.
Chúc bình
an
Suy niệm:
Trước khi sai các Tông Đồ lên đường truyền giáo,
Thầy Giêsu đã dặn dò họ nhiều điều.
Họ được sai đến với ai: với những đồng bào của họ là người Israel.
Sau này họ mới được sai đến với dân ngoại, với mọi dân tộc (Mt 28,
20).
Họ đến để làm gì: rao giảng về Nước Trời gần đến,
chữa bệnh, hoàn sinh kẻ chết, khử trừ ma quỷ ra khỏi lòng người (c.
8).
Họ đến để đem lời chúc bình an cho những ai mở lòng lãnh nhận (c.
12).
Họ không nên mang theo những gì: tiền vàng, bạc hay đồng để giắt
lưng,
bao bị để đựng đồ, hai áo để thay đổi, giày dép để bảo vệ đôi chân,
cả chiếc gậy vừa để đi đường xa, vừa đề phòng nguy hiểm (cc. 9-10).
Cách hành xử của họ cũng được Thầy nói rõ.
Họ làm mọi việc mà không đòi bất cứ điều gì để trả công.
“Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (c. 8).
Họ đã nhận được Nước Trời như một món quà,
họ cũng muốn trao đi như một quà tặng.
Điều duy nhất họ mong là được người ta lo cho thức ăn, chỗ ở.
“Vì thợ thì đáng được nuôi ăn” (c. 10).
Khi nghe lời dặn dò của Thầy Giêsu,
chúng ta thấy ngay mẫu người tông đồ mà Thầy mơ ước.
Đó là con người bị cuốn hút bởi những bận tâm về Nước Trời,
nên siêu thoát khỏi mọi vướng bận trần tục.
Nước Trời phong phú và giàu có đủ làm họ mãn nguyện,
nên họ coi nhẹ chuyện ở, chuyện mặc, chuyện ăn.
Chính lối sống đơn sơ giản dị, thậm chí thiếu thốn của họ,
là một lời chứng về những gì trên cao.
Họ cũng phải chấp nhận mình có thể bị từ chối, không được đón tiếp.
Một thành, một làng hay một nhà có thể không chấp nhận Tin Mừng,
và họ phải khiêm tốn tìm đến nơi thuận lợi hơn (c. 14).
Các tông đồ thế kỷ 21 hẳn không thể sống theo nghĩa đen những lời
trên đây,
nhưng cũng không được gạt bỏ tinh thần mà Đức Giêsu vẫn muốn ta giữ
mãi.
Nhẹ nhàng, thanh thoát, khó nghèo, phó thác, không tính toán lợi
danh,
gieo rắc niềm vui và an bình, chữa lành và giải phóng con người
khỏi nô lệ.
Và trên hết là một lòng yêu mến Thiên Chúa nồng nàn,
và một lòng yêu thương cháy bỏng đối với đoàn chiên vất vưởng bơ
vơ.
Đó vẫn là hành trang muôn thuở của người tông đồ qua mọi thời đại.
Thời nay người tông đồ được trang bị nhiều phương tiện hiện đại,
với những cơ sở vững vàng, với số vốn ổn định, với tri thức bằng
cấp đầy đủ.
Những điều đó vẫn không khiến chúng ta bỏ rơi tinh thần của Thầy
Giêsu.
Bởi lẽ mất tinh thần của Thầy, chúng ta chẳng còn là tông đồ nữa.
Thánh Phanxicô Assisi đã bị đánh động khi đọc đoạn Tin Mừng này.
Và ngài đã muốn đưa Giáo hội trở lại với lối sống nghèo khó.
Rất có thể việc truyền giáo của chúng ta ở châu Á chưa có kết quả
chỉ vì chưa có những tông đồ dám sống triệt để lời dặn dò của Thầy Giêsu.
Mà lời dặn dò của Thầy lại rất hợp với tinh thần của người châu Á.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh
sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay
và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị
thử thách:
những kẻ đói, không chỉ
vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ
vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình
an, sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một
mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim
hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp
hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Bài tin mừng hôm
qua kể về việc Chúa Giêsu tuyển chọn nhóm Mười Hai, và sai các ông đi rao
giảng. Qua bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu phác họa cho ta thấy tinh thần và
hành trang người môn đệ cần phải có khi đi rao giảng là như thế nào.
Về tinh thần: Người
môn đệ cần phải biết an ủi, chữa lành người bệnh tật; làm cho kẻ chết sống lại;
cho người phong hủi được sạch; khử trừ ma quỷ; đem bình an cho mọi người.
Về hành trang:
Người môn đệ cần phải sống thật đơn giản, không bám víu vào của cải vật
chất…những thứ này sẽ có người khác lo “vì thợ thì đáng được nuôi ăn”. Sở dĩ,
người môn đệ phải sống siêu thoát như thế là để tín thác vào Chúa và tập trung
cho việc loan báo Nước Trời.
Chúa Giêsu đã sống
tinh thần nghèo khó ấy, khi nói: "Con chồn có hang, chim trời có tổ,
nhưng con người không có chỗ tựa đầu". Cũng vậy, Người môn đệ của Chúa
không có thứ vật chất nào là bảo đảm, chắc chắn, ngay cả chỗ tựa đầu. Họ đi tới
đâu cũng là nhà, và mọi người đều là anh em của họ.
Sống tinh thần siêu
thoát: không màng chi tiền bạc, không coi trọng vật chất…xem ra là một điều gì
đó rất khó, thậm chí còn là một thách đố cho người môn đệ. Bởi vì, những thứ đó
là nhu cầu và gắn liền với cuộc sống con người. Dường như có được nó, con người
sẽ trở nên phấn khởi, cảm thấy sảng khoái, cuộc sống trở nên thú vị hơn. Thấy
trước được mối nguy hiểm đó, Chúa Giêsu đã đưa ra những hành trang cụ thể cho
người môn đệ: không vàng bạc, không tiền giắt lưng, không bao bị, không giày
dép, cũng như không mặc hai áo. Nếu quá chú trọng vào vật chất, người môn đệ sẽ
dần đánh mất đi căn tính của mình, là sứ giả loan báo Nước Trời.
Vậy, đâu là thái độ
của người môn đệ Chúa Giêsu? Đâu đó không thiếu hình bóng của người môn đệ đích
thực của Chúa Giêsu, họ sống đúng với căn tính của mình, quên tất cả để chỉ dấn
thân cho sứ mạng loan báo Tin Mừng. Nhưng, cũng không thể không có hình bóng
của những người môn đệ chưa chu toàn nhiệm vụ của mình, thích vun vén cho đời
sống cá nhân hơn cho cộng đoàn, thích tìm những tiện nghi vật chất để hưởng
thụ. Vậy, Người môn đệ cần phải thật giàu có về đời sống tinh thần: đức tin,
lòng mến, niềm hy vọng, tình yêu…, chỉ khi mình phong phú về những thứ ấy, thì
mới có thể chia sẽ cho người khác về Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
xin mặc cho con chiếc áo của người nghèo để con cảm nhận được những thiếu thốn
của họ, đồng cảm với những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống với họ. Chính khi
sống tinh thần nghèo khó ấy, con mới có thể toàn tâm toàn ý phục vụ cho sứ mạng
loan báo Tin Mừng. Xin gìn giữ con trước những ma lực của đồng tiền, trước
những quyến rũ của vật chất, để giữ trọn lòng trung thành với Chúa.
Lm.Seoka
Hãy Nâng
Tâm Hồn Lên Tháng Bảy
11 THÁNG BẢY
Con Đường Tiến Tới Thành Toàn
Sự quan phòng bao trùm một
cách đặc biệt những tạo vật được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như
Ngài – tức con người. Con người nhận được “sự tự trị của những hữu thể thụ tạo”
trong ý nghĩa đầy đủ nhất theo diễn tả của Công Đồng Vatican II (MV 36). Nhưng
không chỉ con người mà thôi – vì còn phải kể đến các tạo vật có bản tính tinh
thần thuần túy nữa. Nhưng chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề này sau – vấn đề liên
quan đến thế giới vô hình.
Trong thế giới hữu hình,
đối tượng đặc biệt của sự quan phòng thần linh là con người. Theo ngôn ngữ của
Công Đồng Vatican II, “con người là tạo vật duy nhất trong thế giới được Thiên
Chúa yêu thương vì chính nó” (MV 24). Vì thế, “con người không thể hoàn thành
chính mình nếu không chân thành trao hiến chính mình” (MV 24).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa
Trong Gia Đình
Ngày 11-7
Thánh
Bênêđíctô, viện phụ
St 44,
18-21.23b-29; 45, 1-5; Mt 10, 7-15
LỜI SUY NIỆM: “Anh em hãy chữa lành người
đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong được sạch và khử trừ ma quỷ.
Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10,8).
Khi các Tông đồ được Chúa Giêsu sai đi, Ngài thường căn dặn những điều
cần thiết của một chứng nhân, đặc biệt nhất đó là tinh thần “được cho không,
thì cũng phải cho không như vậy”. Điều này giúp cho mọi tín hữu luôn phải ý thức
tất cả những gì mình đang có từ sự hiểu biết hay tài năng về một lãnh vực nào
đó. Tất cả là do ơn ban của Thiên Chúa, ban cho chúng ta. Chúng ta cần phải
chia sẻ và phục vụ lại cộng đoàn, chứ đừng cất giấu làm của riêng mình.
Mạnh Phương
Gương
Thánh nhân
Ngày 11-07
Thánh
BÊNÊDITÔ
Tu Viện
Trưởng (480 - 547)
Thánh
Bênêditô, tổ phụ các dòng tu bên tây phương, sinh khoảng năm 480 tại Nursia.
Hai nguồn chính về cuộc đời thánh Bênêđitô là cuốn Dialogne (đối thoại) của
thánh Grêgôriô Cả và cuốn qui luật của chính thánh nhân. Cuốn Dialogne thâu thập
các phép lạ được coi là do thánh nhân thực hiện. Giá trị của các phép lạ này
tùy theo thẩm quan và theo cách thức phê phán của mỗi người, nhưng cung ứng cho
chúng ta những sự kiện quí giá. Cha mẹ Ngài có lẽ thuộc vào hàng quí tộc ở miền
quê. Ngài lớn lên tại gia đình. Năm 14 tuổi, Ngài được gửi tới Roma để bổ túc
việc học hành. Các độc giả ngày nay có thể ngạc nhiên khi thấy có chị vú nuôi
Cyrilla của Ngài đi theo.
Sự suy đồi
của Roma làm cho người thiếu niên nhà quê này khiếp sợ. Dầu có vú nuôi đi theo,
thánh nhân trốn khỏi kinh thành hai hay ba năm sau đó. Ngài biết rằng: Thiên
Chúa muốn gọi mình sống đời tu trì. Cùng với vài người đạo đức, Ngài lưu lại ít
lâu ở Enfide, cách Roma 35 dặm. Sau đó một mình lên đường, Ngài tìm sống đời ẩn
dật tu trì. Tại Subianô, Ngài gặp một ẩn sĩ tên là Rômanô, vị ẩn sĩ hỏi: - Bạn
ơi, bạn đi đâu vậy ?
- Tôi trốn
thế gian và đi tìm cô tịch.
Rômanô
khen ngợi ý định đạo đức của thánh nhân, khuyên Ngài hãy kiên trì và ban cho những
lời khuyên nhủ quí báu. Thầy cho Ngài một bộ áo nhà tu, là một tấm da cừu và chỉ
cho Ngài một cái hang. Nhận bộ áo nhà tu, Bênêditô lần mò tới cái hang ở giữa
triền dốc Montê Calvô. Ngài đã giam mình ở đó 3 năm, thinh lặng cầu nguyện và
ăn chay hãm mình. Thực phẩm Ngài dùng là rễ cây và ít mẩu bánh thầy Romanô gởi
tới bằng một cái thúng cột giây thả xuống.
Quỉ dữ tức
giận vì các nhân đức của thầy dòng trẻ tuổi. Chúng dùng nhiều chước cám dỗ để
lôi kéo Ngài bỏ sa mạc trở về thế gian. Ngài thường làm dấu thánh giá để xua đuổi
các cơn cám dỗ. Một lần kia bị cám dỗ nghịch với đức trong sạch, Ngài liền cởi
áo và lăn mình vào bụi gai đến chảy máu ra. Từ đó tư tưởng xấu hoàn toàn bị đè
nén và không còn khuấy khuất Ngài nữa.
Tuy nhiên,
các mục đồng đã khám phá ra Ngài và danh thơm nhân đức của Ngài đã lan rộng. Một
tu viện gần đó mời Ngài về làm bề trên. Nhưng khi muốn chỉnh đốn những lạm dụng
và muốn áp dụng một qui luật, Ngài đã bị một số thầy dòng bực tức khó chịu. Họ
còn đi đến quyết định hãm hại người khác nữa. Đến bữa ăn thánh Bênêditô làm dấu
thánh giá trên chén rượu như thói quen, chén liền vỡ tan. Ngài nói với họ: -
Xin Chúa tha thứ cho các anh. Tại sao các anh làm như vậy ? Tôi đã chẳng nói với
các anh rằng : chúng ta không thể sống chung được với nhau là gì ? Vậy các anh
hãy đi tìm một bề trên khác hợp ý các anh hơn.
Rồi thánh
nhân tìm lại cô tịch để sống thân mật một mình với Thiên Chúa. Dầu vậy danh tiếng
của thánh nhân lan rộng tới Roma. Ngài không thể sống cô độc một mình được nữa.
Nhiều người tìm đến xin làm môn đệ Ngài. Tiếp nhận họ, Ngài đã phải thiết lập
12 tu viện nhỏ. Có những gia đình quí phái mang con đến gởi thánh nhân. Chúng
ta phải kể đến trong số này hai thiếu niên Placidê và Maurô là những người sau
này đã trở nên các vị thánh.
Nhân đức
các phép lạ của thày dòng cao cả này đã gây nên nỗi ghen tức và cả đến việc vu
oan nữa. Thánh Grêgôriô cho chúng ta biết rằng: vì bị một linh mục ghen ghét
xua đuổi, Bênêditô phải dời bỏ Subianô. Thi sĩ Marcô lại nói rằng: Ngài đã được
Chúa gọi đến Cassinô. Dầu sự thực có thế nào đi nữa, thì vào khoảng giữa năm
520 và 530, thánh Bênêditô cùng với vài người bạn đã rời bỏ Subiacô tới
Cassinô. Trên núi Cassinô có một ngôi đền cổ và một cánh rừng dâng kính thần
Apollô. Ngài rao giảng Tin Mừng cho dân cư vùng này và phá rừng khai hoang. Sau
khi triệt hạ ngôi đền cổ, Ngài đã thiết lập hai nhà nguyện kính thánh Gioan tẩy
giả và thánh Martinô. Đó là nguồn gốc của tu viện nổi danh Montê Cassinô.
Thánh
Bênêditô đã sống tại đây cho tới hết đời. Cũng tại đây, Ngài đã trước tác một bộ
luật dòng ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tu trì của Giáo hội. Theo luật sống
này, một ngày của tu sĩ được phân phối cho ba hoạt động chính là cầu nguyện, học
hành và lao động.
Mọi hoạt động
của thánh nhân đều nhằm thi ân. Người ta còn kể lại nhiều phép lạ Ngài đã thực
hiện. Chẳng hạn như Ngài chữa cho nhiều người phong hủi, trừ quỉ và làm cho nhiều
người chết sống lại, Ngài còn được ơn thấu suốt bí mật tâm hồn và bí mật về
tương lai. Chúng ta ghi lại giai thoại về cuộc tiếp xúc giữa thánh nhân với vua
Totila. Nhà vua muốn kiểm chứng tin đồn rằng: thánh nhân biết được những điều
bí mật. Ông cho biết mình sẽ đến thăm thánh nhân. Nhưng thay vì đích thân đến,
ông lại sai một viên chức tên là Riggon, ăn mặc như nhà vua và có đoàn tùy tùng
đông đảo. Thánh nhân vẫn ngồi khi thấy ông tới và nói với ông: - Con ơi ! Cởi
áo ra đi. Nó không phải là của con,
Đến luợt
Tôtila, ông đến thăm người của Chúa, ông quỳ mọp dưới chân thánh nhân, nhưng đã
ngạc nhiên khi nghe Ngài nói: - Hãy giảm bớt những bất công đi, bởi vì ông đã
gây quá nhiều sự dữ. Ong sẽ tiến vào Roma, cai trị trong chín năm. Năm thứ 10
ông sẽ từ trần.
Lời tiên
báo của thánh nhân đã được thể hiện đầy đủ. Ngài còn cho biết rằng tu viện
Monte Cassinô sẽ bị tàn phá. Lời tiên báo này cũng đã xảy ra. Năm 590, tu viện
bị người Combarde cướp phá. Năm 1943, bọn đồng minh tàn phá dữ dội tu viện.
Thánh nhân
tiếp tục làm nhiều phép lạ, do lòng bác ái thúc đẩy. Vào cuối đời, Ngài được thị
kiến, thấy địa cầu chói sáng và linh hồn của thánh Germain được các thiên thần
đưa về trời.
Ngài cũng
đã thấy linh hồn của em mình là thánh nữ Scolastica về trời như vậy. Bốn mươi
ngày sau cái chết của người em gái thánh nhân cho biết về cái chết của em mình.
Sau khi đào mộ cho mình, thứ bảy ngày 21 tháng 3 năm 543 Ngài từ trần như lời
loan báo trước.
(daminhvn.net)
11 Tháng Bảy
Một Quy Luật Ðơn Sơ
Hôm nay Giáo hội tôn kính nhớ thánh Bênêđictô, bổn mạng của toàn
thể Châu Âu.
Vào cuối thế kỷ thứ 5, đế quốc La Mã bị lung lay vì cuộc xâm
lăng của những người mà thế giới Kitô tại Âu Châu gọi là dân man di.
Một người thanh niên thuộc dòng dõi quý tộc tại miền trung nước
Italia muốn trốn thoát khỏi cuộc loạn nhiễu nhương ấy, cho nên đã leo lên ngọn
núi Subiaco để dìm mình trong cuộc sống ẩn dật. Chính giữa nơi thanh tịnh thoát
tục ấy mà chàng đã nghe được tiếng Chúa phán trong tâm hồn: có nhiều giá trị của
đế quốc La Mã cần phải được bảo tồn. Càng ra sức làm việc để đem lại sự thống
nhất và văn minh cho các dân xâm lược ấy.
Lấy những thôi thúc ấy làm lý tưởng cho cuộc sống, Bênêđictô,
người thanh niên quý tộc ấy đã quy tụ xung quanh mình một số người đồng chí hướng
và thiết lập tu viện đầu tiên tại Montecassino.
Chàng đã nói với Mauro, Placido và những người môn đệ đầu tiên
như sau: "Chúng ta giam mình trong bốn bức tường kiên cố không phải là để
xa cách những người khác, nhưng là để tiếp nhận từ trên cao ánh sáng của Chúa
và thông đạt cho thế giới, để học hỏi một cách sâu xa hơn nền văn minh vừa Kitô
giáo vừa nhân bản và làm cho nền văn minh ấy chiếu sáng giữa những người anh em
của chúng ta. Tôn chỉ của chúng ta là thập giá và cái cày, bởi vì một dân tộc
chỉ có thể phát sinh và lớn lên với sự cầu nguyện, nghiên cứu học hỏi và lao động".
Những điểm chính trong quy luật của chúng ta là: Hát bảy lần một
ngày để ca tụng Chúa và làm cho màn đêm tăm tối cũng được ấm cúng với lời ca tụng
này. Thứ đến, mỗi ngày bỏ ra nhiều giờ để lao động ngoài đồng áng, học hỏi những
sự trên trời và dịch lại những tác phẩm cổ điển. Sau cùng, phục vụ nhau như những
người anh em của nhau, nhất là tại bàn ăn, là nơi vừa nghe đọc sách vừa thưởng
thức chút rượu.
Vị thánh
đã đưa ra chút quy luật đơn sơ trên đây đã được chọn làm bổn mạng của toàn thể
Âu Châu, bởi vì nền văn minh của Kitô giáo hiện nay, nền văn minh nhân bản của
thế giới ngày nay đã phát sinh từ chính lý tưởng cao quý ấy: sống chung trong
yêu thương để ca tụng Chúa và phục vụ con người.
Giữa cơn
khủng hoảng của đời sống tu trì như người ta đang chứng kiến hiện nay tại hầu hết
các nước Tây phương, người ta lại thấy một dấu hiệu đầy hy vọng: các tu viện sống
đời chiêm niệm vẫn tiếp tục thu hút thanh niên thiếu nữ. Giữa một thế giới dư dật,
nhưng trống rỗng, hơn bao giờ hết, người ta càng ngày càng cảm thấy có nhu cầu
phải cầu nguyện, phải sống kết hợp với Chúa.
Ðời sống
tu trì, dù bất cứ dưới hình thức nào đi nữa, cũng không là một lẩn trốn đầy sợ
hãi trước thế gian... Người tu sĩ đích thực xa lánh thế gian, chứ không xa lánh
con người. Người tu sĩ đích thực xa lánh sự sa đọa của thế gian, để rồi lại kiến
tạo một xã hội nhân bản hơn, dễ thở hơn, dễ sống hơn.
Ðó không
chỉ là sứ mệnh của người được Chúa chọn cho cuộc sống chiêm niệm và cầu nguyện,
mà cũng là sứ mệnh của mọi người Kitô. Người tín hữu Kitô luôn được mời gọi để
thoát tục, để đi ngược lại tinh thần của thế tục, để tiêu diệt nơi mình những sức
mạnh của sự dữ để ra sức kiến tạo một thế giới đáng sống hơn. Sống giữa thế giới,
nhưng không thuộc về thế gian: đó là thế đứng của người Kitô. Ơn gọi và sứ mệnh
của họ là kiến tạo Nước Chúa nghĩa là xây dựng những giá trị vĩnh cửu ngay trên
chính những cái chóng qua ở đời này.
(Lẽ Sống)
Thứ Năm 11-7
Thánh Bênêđích (Biển Ðức)
(480?-543)
T
|
hật đáng tiếc là không
ai viết nhiều về một vị đã thể hiện biết bao kỳ công ảnh hưởng đến nếp sống đan
viện Tây Phương. Thánh Bênêđích được đề cập đến nhiều trong các Ðối Thoại của
Thánh Grêgôriô Cả sau khi ngài chết khoảng năm mươi năm, nhưng đó chỉ là các sơ
thảo của biết bao điều lạ lùng trong cuộc đời thánh nhân.
Ngài sinh trong một gia
đình lỗi lạc ở Nursia, thuộc miền trung nước Ý, theo học tại Rôma và ngay từ
khi còn trẻ, ngài đã thích đời sống đan viện. Lúc đầu, ngài là một vị ẩn tu
sống trong một cái hang ở Subiaco, xa lánh thế giới nhiều chán nản mà lúc bấy
giờ giặc ngoại giáo đang lan tràn, Giáo Hội bị phân chia bởi ly giáo, dân chúng
đau khổ vì chiến tranh, đạo lý ở mức độ thấp nhất.
Sau đó không lâu, ngài
thấy không thể sống cuộc đời ẩn dật ở gần thành phố, dù lớn hay nhỏ, do đó ngài
đi lên núi cao, sống trong một cái hang và ở đó ba năm. Trong một thời gian,
một số đan sĩ chọn ngài làm vị lãnh đạo, nhưng họ cảm thấy không thể theo được
sự nghiêm nhặt của ngài. Tuy nhiên, đó cũng là lúc ngài chuyển từ đời sống ẩn
tu sang đời sống cộng đoàn. Ngài có sáng kiến quy tụ các nhánh đan sĩ khác nhau
thành một "Ðại Ðan Viện", đem lại cho họ lợi ích của sự hợp quần,
tình huynh đệ, và luôn luôn thờ phượng dưới một mái nhà. Sau cùng, ngài khởi
công xây dựng một đan viện nổi tiếng nhất thế giới ở núi Cassino, cũng là nơi
phát sinh dòng Bênêđích.
Cũng từ đó, một quy luật
từ từ được hình thành nói lên đời sống cầu nguyện phụng vụ, học hỏi, lao động chân
tay và sống với nhau trong một cộng đoàn dưới một cha chung là đan viện trưởng.
Sự khổ hạnh của Thánh Bênêđích được coi là chừng mực, và đời sống bác ái của
ngài được thể hiện qua sự lưu tâm đến những người chung quanh. Trong thời Trung
Cổ, tất cả các đan viện ở Tây Phương dần dà đều sống theo Quy Luật Thánh
Bênêđích.
Lời Bàn
Giáo Hội được nhiều ơn
ích qua sự tận tụy của dòng Thánh Bênêđích về phụng vụ, không những chỉ các
nghi thức phong phú được cử hành hiện nay nhưng còn các nghiên cứu học thuật của
các phần tử trong dòng. Ðôi khi phụng vụ bị lầm lẫn với nhạc đời, với trống đàn
đầy nhịp điệu kích động. Chúng ta phải biết ơn những người đã duy trì và thích
ứng truyền thống đích thực về thờ phượng trong Giáo Hội.
Lời Trích
"Nói cho đúng,
phụng vụ phải được coi là một sùng bái chức tư tế của Ðức Giêsu Kitô. Trong
phụng vụ, con người được thánh hóa qua các dấu hiệu có thể cảm nhận được bằng
giác quan...; trong phụng vụ, sự thờ phượng đầy đủ được thi hành bởi Nhiệm Thể
của Ðức Giêsu Kitô, đó là, bởi Ðầu và các chi thể của Ngài.
"Từ đó xuất phát
mọi nghi thức phụng vụ, vì đó là một hành động của Linh Mục Kitô và Thân Thể
của Ngài là Giáo Hội, là một hành động thiêng liêng, vượt quá mọi thứ khác" (Hiến Chế Tín Lý về Phụng Vụ, 7).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét