Thứ
Ba Ngày 02/07/2013
Tuần
13 Mùa Thường Niên Năm Lẻ
St 19,15-29 |
BÀI ĐỌC I: St 19, 15-29
"Chúa cho mưa
sinh diêm và lửa xuống trên thành Sôđôma và Gômôra".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, các thiên thần hối thúc ông Lót rằng:
"Hãy chỗi dậy đem vợ và hai con gái của ngươi đi, kẻo chính ngươi cũng phải
chết lây vì tội của thành Sôđôma!" Khi ông Lót còn đang do dự, các thiên
thần nắm tay ông cùng vợ ông và hai con gái ông, vì Chúa muốn cứu thoát ông.
Các thiên thần kéo ông ra ngoài thành và nói: "Ngươi muốn sống thì hãy chạy
đi, đừng nhìn lại phía sau; cũng đừng dừng lại nơi nào cả trong miền quanh đây,
nhưng hãy trốn lên núi, để khỏi chết lây!" Ông Lót thưa: "Lạy Chúa
tôi, tôi van xin Ngài: Tôi tớ Chúa đã được Chúa thương yêu, và Chúa đã tỏ lòng
khoan dung đại độ gìn giữ mạng sống tôi. Tôi không thể trốn lên núi kẻo gặp sự
dữ mà chết mất. Gần đây có một thành phố nhỏ, tôi có thể chạy tới đó và thoát nạn.
Thành đó chẳng nhỏ bé sao, xin cho tôi ẩn tránh tại đó để được sống".
Thiên thần nói: "Thôi được, ta cũng chiều ý ngươi xin mà không tàn phá
thành ngươi đã nói tới. Ngươi hãy mau mau trốn thoát tới đó, vì ta chẳng làm được
gì trước khi ngươi đi tới đó". Bởi đó đã gọi tên thành ấy là Sêgor.
Mặt trời vừa mọc lên thì ông Lót vào đến thành Sêgor. Vậy
Thiên Chúa cho mưa sinh diêm và lửa từ trời xuống trên thành Sôđôma và Gômôra.
Người huỷ diệt các thành này, cả miền chung quanh, toàn thể dân cư trong thành
cùng các giống xanh tươi trên đất. Bà vợ ông Lót nhìn lại phía sau, nên đã biến
thành tượng muối.
Sáng sớm (hôm sau) ông Abraham thức dậy, đi đến nơi ông
đã đứng hầu Chúa trước đây, ông nhìn về phía thành Sôđôma, và Gômôra và cả miền
ấy, ông thấy khói từ đất bốc lên cao như khói một lò lửa hồng.
Khi Chúa phá huỷ các thành trong miền ấy, Người đã nhớ đến
Abraham mà cứu ông Lót thoát cảnh tàn phá tại các thành mà ông đã cư ngụ. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv
25, 2-3. 9-10. 11-12
Đáp: Lạy Chúa, con nhìn xem tình thương Ngài trước
mắt (c. 3a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin hãy thăm dò và thử
thách con, xin Ngài luyện lọc thận tạng và tâm can. Vì con nhìn xem tình thương
Ngài trước mắt, và con sống theo chân lý của Ngài. -
Đáp.
2) Xin đừng cất linh hồn con cùng linh hồn người tội lỗi,
đừng cất mạng sống con cùng mạng sống kẻ sát nhân; bọn người này nắm chặt tội
ác trong tay, và tay hữu chúng ôm đầy lễ vật.
- Đáp.
3) Phần con, con vẫn sống tinh toàn, xin Ngài giải thoát
và xót thương con. Chân con đứng vững trong đường bằng phẳng, trong các buổi hội
họp, con sẽ chúc tụng Chúa. - Đáp.
ALLELUIA: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ
Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 8, 23-27
"Người chỗi dậy,
truyền lệnh cho gió và biển, và biển yên lặng như tờ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, có các môn đệ theo Người.
Và đây biển động dữ dội, đến nỗi sóng phủ lên thuyền, thế mà Người vẫn ngủ. Các
môn đệ lại gần đánh thức Người dậy mà rằng: "Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng
con kẻo chết mất!" Chúa phán: "Hỡi những kẻ yếu lòng tin! Sao các con
nhát sợ?" Bấy giờ Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển. Và biển yên
lặng như tờ! Cho nên những người ấy kinh ngạc mà rằng: "Ông này là ai mà
gió và biển đều vâng phục?" Đó là lời
Chúa.
SUY NIỆM : Xin cứu chúng con
Ông John Newton sống nghề buôn bán các nô lệ. Trong lần
vượt đại dương, thuyền của ông gặp bão lớn gần chìm; lúc đó, vì quá lo sợ, ông
đã thốt lên: "Lạy Chúa, xin cứu con; qua được cơn nguy hiểm này, con sẽ từ
bỏ nghề buôn bán vô nhân đạo này và sẽ làm nô lệ Chúa". Và rồi, khi thuyền
ông cập bến Mỹ Châu sau đó, ông đã từ bỏ mọi sự, trở thành nhà rao giảng Tin Mừng
nổi tiếng.
Sự quan phòng của Thiên Chúa đã cho phép cơn bão tố xảy
ra trong cuộc sống con người để thức tỉnh con người trở về với Ngài. Ðiều quan
trọng không phải là không có bão tố hoặc khó khăn thử thách, nhưng là có Chúa
hiện diện dù lúc đó xem ra Ngài ngủ, không màng chi đến nguy hiểm đang xảy ra.
Thật thế, gian nan thử thách Thiên Chúa cho xẩy đến là để con người ý thức về sự
yếu đuối, mỏng dòn của mình, đồng thời đặt niềm trông cậy vào Chúa. Cơn bão xẩy
ra đã làm cho các Tông Ðồ không còn dựa vào phương tiện vật chất là chiếc thuyền
đang nâng đỡ chở che các ông, cũng như không còn tự phụ vào tài năng vượt biển
của mình; trái lại, các ông ý thức mình cần đến Chúa. "Lạy Thầy, xin cứu
chúng con, chúng con chết mất". Chính nhờ lời cầu nguyện trong lúc gian
nan nguy hiểm, các Tông Ðồ được chứng kiến phép lạ và quyền năng của Chúa.
Tôi đã có thái độ nào khi gặp những cơn bão tố trong cuộc
đời? Những cơn bão tố đó làm cho tôi gặp Chúa hay xa rời Ngài?
Ước gì chúng ta cũng có thái độ như các Tông Ðồ xưa:
"Lạy Thầy, xin cứu chúng con". Xin Chúa mở mắt cho chúng ta nhìn thấy
sự hiện diện của Chúa trong đời sống chúng ta. Xin cho chúng ta ý thức rằng
chúng ta cần đến Chúa hơn cơm bánh hằng ngày, hơn không khí để thở. Chúa là sức
mạnh, là khiên thuẫn chở che, xin Ngài gìn giữ chúng ta luôn vững mạnh trong đức
tin giữa những cơn thử thách.
(Veritas Asia)
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Thứ
Ba Tuần 13 TN1, Năm lẻ
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm tin là món quà quí giá nhất của cuộc đời.
Con người lo âu sợ hãi khi phải đương đầu với những thiên
tai và đau khổ của cuộc sống. Biết được yếu điểm này, ma quỉ và thế gian dùng
nó để đe dọa con người không dám sống theo sự thật. Con người cần tập luyện để
có một niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa; chỉ như thế họ mới có thể đương đầu với
cám dỗ và những phong ba của cuộc đời, để sống cho sự thật.
Các Bài Đọc hôm nay liệt kê những hoàn cảnh sợ hãi và lo
âu của con người. Trong Bài Đọc I, ông Lot và gia đình lo âu và sợ hãi khi nhìn
thấy hai thành Sodom và Gomorrah bị thiêu hủy bởi lửa diêm sinh; mặc dù đã được
Đức Chúa cứu thoát và chỉ đường cho chạy trốn. Trong Phúc Âm, các môn đệ lo âu
và sợ hãi khi phải đương đầu với sóng gió của Biển Hồ. Chúa Giêsu thức dậy và dẹp
tan sóng gió. Ngài mắng các ông là những kẻ hèn tin.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc
I: Án phạt của Thiên Chúa trên hai thành Sodom và Gomorrah
1.1/
Đức Chúa cứu gia đình ông Lot khỏi bị tàn sát:
(1) Lý do Sodom bị tàn sát:
Hai sứ thần của Đức
Chúa nhận lời mời và vào nhà ông Lot để tá túc qua đêm. Tối hôm ấy, nhiều nam
nhân trẻ cũng như già trong vùng đến đập cửa nhà ông Lot, để đòi ông mang hai
người khách ra cho họ phạm tội "sodomy, có nghĩa nam nhân ăn ở với nam
nhân trước mặt mọi người." Ông Lot năn nỉ chuộc bằng hai cô con gái; nhưng
họ nhất định không chịu. Hai sứ thần của Thiên Chúa nghe những lời phạm thượng
của họ từ trong nhà, nên đã quyết định số phận của thành Sodom.
(2) Sứ thần cứu gia đình
ông Lot: Khi hừng đông
ló rạng, các sứ thần giục ông Lót rằng: "Đứng lên! Đưa vợ và hai con gái
ông đang ở đây đi đi, kẻo ông phải chết lây khi thành bị phạt."
Ông còn đang chần chừ thì hai người khách nắm lấy tay
ông, tay vợ ông và tay hai người con gái ông, vì Đức Chúa muốn cứu ông; các
ngài đưa ông ra và để bên ngoài thành.''
Một điều kỳ lạ làm chúng ta phải suy nghĩ: Sống trong một
nơi nguy hiểm và tội lỗi như vậy, mà ông Lotvẫn quyến luyến. Ông đã không có
can đảm từ chối những cám dỗ vật chất để đưa gia đình ra khỏi nơi đó, để tìm một
môi trường lành mạnh và thánh thiện hơn. Điều này hoàn toàn là do ý riêng của
ông ngay từ đầu, khi Abraham để cho ông tự do lựa chọn. Nếu hai sứ thần không
quyết liệt cầm tay lôi gia đình ông đi, mà để tùy ông lựa chọn, ông đã chung số
phận với dân thành tội lỗi đó.
(3) Lệnh truyền của sứ thần:
Khi đưa ông ra ngoài rồi,
một vị nói: "Ông hãy trốn đi để cứu mạng sống mình! Đừng ngoái lại đằng
sau, đừng dừng lại chỗ nào cả trong cả vùng. Hãy trốn lên núi kẻo bị chết
lây."
1.2/
Ông Lot thương lượng với sứ thần: Không biết vì tiếc nuối tài sản đã gầy dựng được, hay sợ cuộc sống trên
núi, ông Lót nói với hai người khách: "Thưa ngài, xin miễn cho! Này, tôi tớ
ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã tỏ lòng thương lớn lao của ngài đối
với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ
đuổi kịp, và tôi chết mất!"
Trước hết, ông Lot không có niềm tin nơi Thiên Chúa như
Abraham, cậu ông. Chết đến nơi rồi mà ông vẫn thương lượng với sứ thần. Ông
không tin Thiên Chúa có thể lo cho cuộc sống tương lai của gia đình ông trên
núi, nên ông thương lượng với sứ thần để xin vào tị nạn trong thành nhỏ Zoar gần
đó.
Bà vợ của ông Lot, không biết vì quá tiếc của hay vì tò
mò, Bà bất tuân lệnh sứ thần và ngoái lại nhìn, lập tức Bà hóa thành tượng muối.
Biến cố này phải giúp chúng ta đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa, và cẩn thận
giữ các điều Ngài truyền. Con người chúng ta không biết trước tương lai, cũng
không sáng suốt đủ để biết những gì có lợi cho mình; vì thế, chúng ta cần phải
tuyệt đối vâng lời và làm theo thánh ý của Thiên Chúa.
2/ Phúc
Âm: "Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!"
2.1/
Hai phản ứng khi phải đương đầu với sóng gió:
(1) Phản ứng của Chúa
Giêsu: Tin Mừng tường
thuật: "Biển động mạnh đến độ sóng nước ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ!"
Tại sao Chúa Giêsu có thể ngủ được khi sóng biển động mạnh như thế? Thưa có hai
lý do: Thứ nhất, Ngài không sợ hãi chi cả. Chỉ một người không biết sợ là gì mới
có tâm hồn bình an như vậy; như chúng ta thường khôi hài chọc nhau: "Điếc
không sợ súng!" Nếu một người không nghe thấy tiếng súng, người ấy sẽ
không sợ súng đạn. Thứ hai, mọi quyền lực thế gian phải sợ Ngài. Khi các môn đệ
hoảng hốt đánh thức Chúa dậy, "Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển
liền lặng như tờ."
(2) Phản ứng của các môn đệ:
Có ngư phủ nào mà không
sợ sóng gió, vì họ biết sóng gió chẳng những đe dọa, mà có thể lấy đi mạng sống
của họ bất cứ lúc nào. Truyền thống ngư phủ có thói quen cầu trời khấn Phật bắt
đầu mùa tôm cá và trước khi ra khơi, để xin Trời Phật phù hộ cho qua khỏi những
cơn sóng gió lúc nào cũng đe dọa. Nếu đã cầu xin, họ phải tin tưởng sự phù hộ của
Trời Phật; nhưng phản ứng sợ hãi khi sóng gió xảy đến chứng tỏ họ không tin,
hay đức tin của họ còn yếu kém như Chúa mắng các môn đệ hôm nay. Các môn đệ đã
từng nhìn thấy Chúa Giêsu làm các phép lạ mà sức con người không thể làm nổi; vả
lại, các ông đang có Chúa Giêsu quyền năng trong thuyền, thế mà các ông vẫn lo
sợ sóng gió!
2.2/
Niềm tin cần thiết để con người chống chọi với sóng gió của cuộc đời: Đức Giêsu nói với các môn đệ:
"Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!" Đức tin có thể ví như
kinh nghiệm mà một người sở hữu trong đời. Cả hai đều cần phải được thử thách.
Người đã có kinh nghiệm hay từng trải không dễ sợ hãi như người mới ra trường,
chưa có kinh nghiệm. Cũng vậy, người đã có đức tin vững mạnh, sẽ không sợ hãi
trước những đe dọa và bắt bớ của các quyền lực thế gian, ngay cả việc chấp nhận
cái chết để làm chứng cho Đức Kitô.
Khi con người không sợ hãi ngay cả cái chết, họ bắt đầu sống
và sống tròn đầy. Khi con người không sợ hãi các quyền lực thế gian, thế gian
phải sợ hãi họ. Chúng ta có thể thấy điều này nơi các môn đệ của Đức Kitô: Trước
khi Ngài về trời, các môn đệ là những người nhát sợ khi phải đương đầu với quyền
lực thế gian, nên các ông chạy trốn Chúa và Phêrô đã chối Ngài 3 lần; nhưng khi
đã thấy Chúa sống lại từ cõi chết, các ông không còn sợ hãi chi cả. Tại sao vậy?
Vì các ông biết rằng quyền lực thế gian có thể lấy đi sự sống thể lý, nhưng Đức
Kitô sẽ cho các ông sống lại; và không một quyền lực thế gian nào có thể động tới
linh hồn của các ông. Vì thế, sau khi được Thánh Thần tác động, các ông mở tung
cửa để vào đời làm chứng cho Đức Kitô. Những người trong Thượng Hội Đồng phải
ngạc nhiên, vì thấy các ông không còn sợ hãi họ nữa. Các ông tranh luận với họ
cách công khai và họ không thể đối đầu với các ông. Thay vì thẳng tay đàn áp
như trước, giờ đây họ sợ phải đàn áp các ông. Lý do không phải họ không còn quyền,
nhưng vì họ sợ dân chúng ném đá họ khi dân chúng đã nhận ra sự giả hình của họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta sống trên đời này là để lo làm sao đạt được
đích điểm của cuộc đời; chứ không phải để kiếm tiền hay hưởng thụ. Vì thế,
chúng ta phải có can đảm quyết định và tránh xa những nơi ngăn cản không cho cá
nhân hay gia đình đạt tới đích.
- Chúng ta cần đào tạo để có một niềm tin vững mạnh nơi sự
quan phòng của Thiên Chúa, thì mới có thể đương đầu với những phong ba bão táp
của cuộc đời. Nếu không, chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào cám dỗ của ba thù và bị
tiêu diệt với chúng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 13 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 8,23-27
A. Hạt giống...
Qua phép lạ dẹp yên bão táp, Chúa Giêsu muốn mặc khải cho các môn
đệ biết thêm về Ngài, đồng thời huấn luyện đúc tin các ông :
- Người do thái cho rằng biển cả là sào quyệt của quỷ dữ, biển động
là dấu quỷ dữ lộng hành. Họ cũng nghĩ rằng chỉ một mình Thiên Chúa và những kẻ
được Thiên Chúa ban quyền đặc biệt mới có thể chế ngự được sức mạnh của biển
cả. Vậy việc Chúa Giêsu dẹp yên bão biển chứng tỏ Ngài có sức mạnh của Thiên
Chúa.
- Chúa Giêsu ngủ đang lúc bão : không phải vì Ngài quá mệt. Thực ra
Ngài "làm bộ" ngủ thôi, để thử xem các môn đệ có an tâm giữa giông
bão khi có Ngài hiện diện giữa họ không. Các ông đã sợ hãi cuống cuồng chứng tỏ
các ông chưa vững tin. Bởi đó sau phép lạ, Ngài đã trách "Hỡi những kẻ yếu
lòng tin".
B.... nẩy mầm.
1. "Chúa Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo Ngài, và đây
biển động dữ dội" : con đường Chúa dẫn các môn đệ đi theo không phải là
một con đường bằng phẳng êm ả, nhưng nhiều khi đi trong tăm tối, nhiều lúc đi
vào bão táp phong ba. Nếu người môn đệ thực sự tin vào Ngài thì luôn phó thác
trong an bình. Ngược lại, khi gặp tối tăm hay bão táp mà cuống cuồng sợ hãi thì
đó là dấu người ấy còn kém lòng tin.
2. "Thế mà Ngài vẫn ngủ" : Chúa Giêsu vẫn xử sự như thế,
xưa cũng như nay. Chính vì thế mà nhiều người đã phải lo sợ cuống cuồng : Sao
Chúa vẫn ngủ ? Sao Chúa không ra tay ? Chúa vắng mặt rồi ư ? Hay Chúa đã chết ?
Hay Chúa đã bỏ con ? Nhân đức phó thác là như thế : vẫn an tâm giữa phong ba
bão táp cho dù không thấy Chúa hành động gì cả. Ước gì tôi có tinh thần phó
thác đến mức độ ấy.
3. Một người hành hương gặp bệnh dịch đang vào Baghdad. Anh hỏi
bệnh dịch : "Mi định làm gì ở đó ?"
- Tôi sẽ giết 5000 người.
Người hành hương rùng mình và thay đổi dự định. Tuy nhiên, ít lâu
sau anh gặp một người từ trong thành phố bị nạn dịch đó và được biết không phải
5000 nhưng là 50.000 người chết.
Liền sau đó anh lại gặp bệnh dịch đang đi tới một thành phố khác. Ông
buộc tội : "Anh nói láo. Anh nói sẽ chỉ giết 5000 người thôi mà".
Bệnh dịch giải thích cách vui vẻ : "Tôi chỉ giết có 5000
người. Số còn lại chết vì hoảng sợ". (Góp nhặt)
4. Mỗi khi nghĩ tới nhân đức phó thác là tôi nhớ đến 2 bức tranh :
hình bức thứ nhất vẽ một đứa bé nằm ngủ ngon lành trong vòng tay ôm của me,
ngoài kia trời đang mưa lớn, những tia chớp xé trời, những tiếng gầm làm rung
rinh các cánh cửa ; bức thứ hai vẽ mặt biển đang nổi cơn, chiếc tàu đã tan
thành những mãnh vụn, một người ướt ngoi ngóp đang ôm chặt một tảng đá nhô lên
khỏi mặt biển, phía trên tảng đá có tượng Thánh giá. Bức hình được hoạ sĩ đề
tên là Espérance !
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI –
Gp.Cần Thơ
02/07/13 THỨ BA TUẦN 13 TN
Mt 8,23-27
Mt 8,23-27
XIN BAN THÊM LÒNG TIN
Chúa Giê-su chỗi dậy, ngăm đe gió và biển : biển liền lặng
như tờ. Người ta ngạc nhiên và nói :” Ông này là người thế nào mà cả đến gió và
biển cũng tuân lệnh ?” (Mt 8,26-27)
Suy niệm: Theo tín ngưỡng dân gian: “Đất có Thổ Công,
sông có Hà Bá;” chả thế mà nhiều ngư dân vẫn coi biển cả như một chốn đầy dẫy
những sức mạnh thần thiêng bí ẩn; chính vì thế những con cá voi, được gọi một
cách kính cẩn là cá “ông”, mỗi khi gặp nạn chết trôi dạt vào bờ đều được ngư
dân chôn cất và lập miếu thờ như một vị thần linh. Trong Thánh Kinh, biển
cũng mang một ý nghĩa biểu tượng tôn giáo, được coi như nơi chốn của ma quỷ
(như trong câu chuyện đàn heo bị quỷ ám đâm nhào xuống biển, x. Mc 5,13tt).
Chúa trách các môn đệ sao kém lòng tin trước cơn biển động; rồi Ngài ra lệnh
và sóng gió lập tức yên lặng. Điều đó không chỉ khiến các môn đệ kinh ngạc vì
Ngài điều khiển được các mãnh lực thiên nhiên mà Ngài còn củng cố niềm tin
của các ông vào Ngài là Đấng chế ngự được cả quyền lực của ma quỷ.
Mời Bạn: Người tín hữu sống trong biển đời ngày nay,
phải đối mặt với thái độ dửng dưng, chống đối, thậm chí thù địch của thế giới
đối với đức tin. Những cơn sóng dữ đó có thể khiến bạn sợ hãi, nhát đảm,
không dám sống đức tin vào Đức Kitô. Trong những lúc như thế, bạn nhớ rằng
Đức Kitô đang “đồng hội, đồng thuyền” với bạn. Hãy gọi Ngài, Lời quyền năng
của Ngài sẽ xua trừ quỷ dữ và củng cố niềm tin cho bạn.
Sống Lời Chúa: Dành ít phút đầu ngày tâm sự
với Chúa, mời Ngài đồng hành với bạn trong suốt cả ngày sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Núi Đá cho con tựa nương. Con
tin nơi Chúa, xin củng cố đức tin còn non yếu của con.
|
Người vẫn ngủ
Điều quan trọng
là lòng ta được bình an, vì biết Ngài vẫn bình an ở lại trong con thuyền đời
ta.
Suy niệm:
Nếu mức nước biển dâng lên thêm một mét do nạn toàn cầu ấm lên,
nhiều vùng đất của nước Việt Nam sẽ bị chìm dưới mặt
nước.
Bão lụt, hạn hán, động đất, núi lửa, vẫn là những thảm họa cho con
người.
Ngày nay người ta biết rằng phần lớn thiên tai không do Trời,
nhưng do con người phá hoại trái đất là công trình tốt đẹp của Trời
cao.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy uy quyền của Đức Giêsu,
không phải trên ma quỷ hay bệnh tật, nhưng trên thiên nhiên.
Ngài đã dùng quyền đó để bảo vệ các môn đệ khỏi bị dập vùi bởi sóng
gió.
Thầy Giêsu đã ra lệnh cho họ qua bên kia hồ (Mt 8, 18).
Ngài xuống thuyền trước, các môn đệ theo sau (c. 23).
Đi theo Thầy Giêsu, trên cùng một con thuyền, đâu hẳn được bình an.
Cơn bão lớn ngoài biển đến thật bất ngờ,
khiến con thuyền của Thầy trò chao đảo vì sóng gió.
Giữa cơn cuồng nộ của biển cả, giữa sự kinh hoàng nhốn nháo của các
môn đệ,
Thầy Giêsu vẫn ngủ yên.
Dường như chẳng có gì khuấy động được giấc ngủ bình an của Thầy.
“Thưa Ngài, xin cứu, chúng con chết mất” (c. 25).
Lời đánh thức vội vã, hối thúc, khi cái chết đã gần kề.
Nhưng Thầy Giêsu lại chẳng có vẻ gì vội vã.
Giữa tiếng thét gào của sóng gió và sự chòng chành của con thuyền,
Thầy Giêsu đã quở trách các môn đệ vì sự cuống cuồng sợ hãi của họ,
hậu quả của việc thiếu lòng tin (c. 26).
Thầy đã không làm cho biển lặng sóng yên ngay lập tức,
vì tập bình an giữa sóng gió là điều khó và cần hơn nhiều.
Lắm khi chúng ta không hiểu tại sao thuyền đời chúng ta gặp bão,
dù có Thầy trong thuyền, dù chúng ta đã theo Thầy nghiêm túc.
Chúng ta lại càng không hiểu tại sao Thầy có thể ngủ được bình an,
khi chúng ta gặp muôn vàn thử thách và rơi vào tuyệt vọng.
Nhưng Thầy Giêsu cũng không hiểu tại sao chúng ta lại sợ đến thế
(c. 26).
Tại sao chúng ta lại sợ thuyền chìm hay sợ chết?
Nếu có đức tin vào Thầy thì sóng gió đâu nhận chìm được chúng ta.
“Thiên Chúa ngủ” mãi mãi là điều khó hiểu và khó chịu.
Đừng ngại đánh thức Ngài và kêu cứu.
Đừng ngại la to át tiếng sóng, để làm cho Ngài nghe được.
Nhưng cũng nên nhìn Ngài ngủ bình an, để khỏi bị hốt hoảng.
Không hẳn là Ngài sẽ trỗi dậy ngay và dẹp tan bão tố.
Không hẳn là chúng ta sẽ được giải thoát ngay khỏi mọi nỗi hiểm
nghèo.
Điều quan trọng là lòng ta được bình an,
vì biết Ngài vẫn bình an ở lại trong con thuyền đời ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên
mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm
thấy
sống đức tin giữa lòng
cuộc đời
chẳng khác nào đi trên
mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút
con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân
xác con
cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời
chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình
bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi
con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu
ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài
hướng về Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy
Niệm
Hình
ảnh con thuyền đi giữa đại dương sánh như Giáo Hội đang đi giữa lòng đời. Giáo
Hội cũng có những lúc gặp phong ba bão táp, nhưng sự hiện diện của Chúa Giêsu
luôn là động lực giúp tăng thêm sức mạnh. Và niềm tin vào quyền năng Thiên Chúa
sẽ giúp cho người tín hữu an tâm và biết kêu cầu Chúa khi họ phải đối mặt với
gian nan thử thách.
Qua
phép lạ dẹp yên bão táp, Chúa Giêsu biểu lộ quyền năng của Ngài cho các
môn đệ, đồng thời cũng cho chúng ta thấy rõ những bất lực của họ, để từ đó Chúa
củng cố niềm tin cho các ông. Đối với người Do thái biển cả là sào huyệt của
quỷ dữ, và biển động là dấu quỷ dữ đang lộng hành. Họ cũng nghĩ rằng chỉ có một
mình Thiên Chúa và những ai được Thiên Chúa ban quyền mới có thể chế ngự được
sức mạnh của biển cả. Như vậy, khi Chúa Giêsu dẹp yên bão biển chứng tỏ Ngài có
sức mạnh của Thiên Chúa.
Hành
trình bước theo Chúa của người môn đệ không phải lúc nào cũng bằng phẳng, êm ả
nhưng đầy những "biển động dữ dội" và phong ba bão táp. Nhiều lúc
người môn đệ cảm thấy hoảng sợ, hoang mang không lối thoát. Nhưng đây chính là
lúc Chúa muốn họ thực sự tin vào Chúa và phó thác trong bàn tay quan phòng của
Ngài.
Lạy
Chúa, xin cho chúng con luôn ý thức rằng Chúa luôn ở bên con, dẫu cho cuộc sống
có nhiều chông gai thử thách khiến chúng con sợ hãi. Xin đừng để chúng con thất
vọng hay lùi bước trước những gian nan đau khổ, nhưng luôn biết tin tưởng phó
thác trong sự thương yêu chăm sóc của ngài. Amen.
Người
Miệt Vườn
Hãy
Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Bảy
2 THÁNG BẢY
Quyền Bính Đặt Điểm Tựa Trên Lòng Nhân
Quyền bính của Thiên Chúa được diễn tả qua mối quan tâm từ
phụ. Một cách nào đó, chân lý này chứa đựng chính cốt lõi của chân lý về sự
quan phòng thần linh. Thánh Kinh sử dụng hình ảnh của một Mục Tử Tốt Lành để diễn
tả sự thật về lòng từ phụ của Thiên Chúa: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi; tôi sẽ
không còn phải thiếu thốn chi” (Tv 23,1). Thật là một hình ảnh độc đáo!
Các biểu tượng cổ xưa của đức tin và của truyền thống
Kitô giáo diễn tả chân lý về sự quan phòng bằng từ La tinh “omni-tenens” (nắm
giữ tất cả) – ứng với từ Hi lạp “panto-krator” (cai quản tất cả). Tuy nhiên, những
ý niệm ấy vẫn chưa nói được gì so với sự hàm súc và vẻ đẹp của hình ảnh người mục
tử trong Thánh Kinh. Hình ảnh người mục tử là một hình ảnh đầy ấn tượng có sức
mạc khải chân lý về sự quan phòng thần linh.
Thật vậy, người mục tử là một người cầm quyền đầy quan
tâm, thực hiện một kế hoạch đời đời đầy khôn ngoan và yêu thương qua việc cai
quản thế giới tạo vật và nhất là xã hội loài người (Vat. II, TDTG số 3). Đó là
một quyền bính đầy cẩn trọng, bao gồm cả quyền lực lẫn lòng nhân.
Theo bản văn của Sách Khôn Ngoan mà Công Đồng Vatican I
trích dẫn, quyền bính ấy “vươn rộng từ chân trời này tới chân trời kia, cai quản
mọi sự thật tốt đẹp” (Kn 8,1). Nghĩa là, nó bao trùm lấy, nâng đỡ, bảo vệ, và –
một cách nào đó – nó nuôi dưỡng nữa. Quyền bính đó chính là Thiên Chúa chúng
ta, Đấng săn sóc chúng ta như mục tử săn sóc đàn chiên của mình.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul
II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 02-7
St 19, 15-29; Mt 8, 23-27
LỜI SUY NIỆM: Trong câu chuyện Chúa Giêsu dẹp yên biển
động với quyền năng của Ngài. Cho chúng ta thấy về bản thân mình, khi phải gặp
một biến cố nào trong cuộc sống của mình, nhiều khi chúng ta cứ tự loay hoay một
mình giải quyết. Trong khi đó Chúa Giêsu đang hiện diện với chúng ta trong cuộc
sống, với quyền năng những ơn ban của Ngài, mà chúng ta quên mất, không kêu cứu
đến Ngài. Chúng ta đừng để Chúa phải quở trách chúng ta: “Sao nhát thế, hỡi những
kẻ kém lòng tin.” Ước gì trong đời sống của chúng ta luôn xin Chúa nâng đỡ đức
tin yếu kém của chúng ta, để chúng ta an tâm phó dâng trọn đời mình cho Chúa.
Mạnh Phương
02
Tháng Bảy
Ðấng Cứu Thế Ðang Có Mặt
Ngày kia, có một đan
viện phụ Công giáo tìm đến một vị tu sĩ Ấn Giáo tại chân núi Himalaya. Với tất
cả ưu tư phiền muộn, vị đan viện phụ trình bày về tình trạng bi đát của tu viện
do ông điều khiển. Trước kia, tu viện này là một trong những trung tâm Công
giáo thu hút không biết bao nhiêu khách hành hương. Nhà nguyện lúc nào cũng
vang lên tiếng ca hát của các tu sĩ và giáo dân đến từ khắp nơi. Các căn phòng
lúc nào cũng có người ở... Nay tu viện gần như trở thành một ngôi chùa trống vắng.
Làn sóng những người trẻ tìm đến tu viện hầu như tắt lịm. Nhà nguyện vắng kẻ ra
người vào. Một số nhỏ tu sĩ còn lại sống trong uể oải buông thả... Vị viện phụ
muốn hỏi nhà tu sĩ Ấn Giáo: đâu là nguyên nhân đã đưa đến tình trạng này? Phải
chăng vì một tội lỗi tày đình nào đó mà bàn tay Chúa đã đè nặng trên cộng đoàn?
Sau khi nghe đức viện
phụ kể lể, vị tu sĩ Ấn Giáo mới ôn tồn nói: "Cái tội đã và đang xảy ra
trong cộng đoàn: đó là tội vô tình". Vị tu sĩ Ấn Giáo mới giải thích như
sau: "Ðấng Cứu Thế đã cải trang thành một người giữa chư vị, nhưng chư vị
đã vô tình không nhận ra Ngài".
Nhận được lời giải
thích của vị tu sĩ Ấn Giáo, đức viện phụ mới hối hả trở về tu viện, trong lòng
ông không khỏi miên man đặt câu hỏi: "Ai là người được Ðấng Cứu Thế đang
mượn hình dáng để trở lại với loài người?". Cả tu viện chỉ có tất cả không
đầy mười người. Ðấng Cứu Thế không thể là chính ông, vì ông tự biết mình là một
con người tội lỗi yếu hèn. Nhưng ông cũng biết rõ các tu sĩ khác trong tu viện:
có người nào toàn vẹn để Ðấng Cứu Thế mượn lấy hình dáng? Thế nhưng, ông vẫn
tin theo lời của vị tu sĩ Ấn Giáo để xác quyết rằng Ðấng Cứu Thế đang cải trang
thành một người nào đó trong cộng đoàn...
Với niềm xác tín ấy,
ông quy tu tất cả các tu sĩ lại và loan báo cho mọi người biết rằng Ðấng Cứu Thế
đang cải trang thành một người trong nhà. Ðôi mắt của mỗi người mở to ra và ai
cũng bắt đầu dò xét từng người trong nhà. Chỉ có điều chắc chắn là: bởi vì Ðấng
Cứu Thế đã cải trang, cho nên, không ai có thể nhận ra Ngài được. Thành ra mỗi
người trong nhà đều có thể là Ðấng Cứu Thế... Từ đó, ai ai cũng đối xử với nhau
như đối xử với chính Ðấng Cứu Thế. Không mấy chốc, bầu khí yêu thương, huynh đệ,
sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Sự thánh thiện ấy không mấy chốc
được đồn thổi đi khắp nơi. Các tín hữu từ khắp nơi trở lại tu viện để tĩnh tâm
và cầu nguyện. Nhiều ngưởi trẻ cũng đến gõ cửa Nhà Dòng...
Nếu người người, ai ai cũng nhìn nhau và đối xử với nhau
như đối xử với chính Chúa Giêsu, thì có lẽ hận thù, chiến tranh sẽ không bao giờ
có lý do để tồn tại trên mặt đất này. Sự vắng bóng của Thiên Chúa trong xã hội,
hay đúng hơn sự vô tình của con người để không nhận ra Thiên Chúa trong cuộc sống:
đó là đầu mối của mọi thứ bất hòa, chiến tranh, xáo trộn trong xã hội.
Chối bỏ Thiên Chúa cũng có nghĩa là chối bỏ con người. Sự
băng hoại của những xã hội xây dựng trên chủ thuyết vô thần là một bằng chứng
hùng hồn về hậu quả của sự chối bỏ Thiên Chúa. Khi con người chối bỏ Thiên
Chúa, con người cũng trà đạp con người...
Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa đến độ Ngài
đã trở thành con người và tự đồng hóa với con người. Từ nay, con người chỉ có
thể nhận ra Ngài trong mỗi người anh em của mình mà thôi. Thánh thiện hay tội lỗi,
giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch: mỗi một con người đều là hình ảnh
của Thiên Chúa và chỉ có xuyên qua tình yêu đối với con người, con người mới có
thể đến với Thiên Chúa...
(Lẽ Sống)
Thứ Ba 2-7
Thánh Bernardino Realino
(1530-1616)
T
|
hánh Bernardino Realino
sinh trong một gia đình quyền quý ở Capri, nước Ý. Sau khi được người mẹ chăm
sóc, dạy bảo kỹ lưỡng về đạo giáo, lớn lên ngài theo học y khoa và học luật ở
Ðại Học Bologna. Ngài lấy bằng tiến sĩ luật và làm thị trưởng Felizzano khi mới
26 tuổi. Ngài còn là chánh án của thành phố. Sau hai nhiệm kỳ, ngài được bổ
nhiệm chức vụ trưởng ty quan thuế ở Alesandria, và sau đó làm thị trưởng của
Cassine, và Castelleone.
Năm 32 tuổi, ngài được
triệu về Naples để giữ chức phó toàn quyền. Ở đây ngài tham dự cuộc tĩnh tâm 8
ngày của các linh mục dòng Tên và đã xin gia nhập dòng này khi 34 tuổi. Ba năm
sau, ngài được chỉ định làm Giám Ðốc Ðệ Tử Viện ở Naples.
Ngài làm việc cật lực ở
Naples, tận tụy phục vụ người nghèo và giới trẻ. Sau đó, ngài được sai đến
Lecce là nơi ngài sống bốn mươi năm cuối cùng của cuộc đời.
Ngài nổi tiếng vì công
cuộc tông đồ không ngừng nghỉ. Ngài là một cha giải tội gương mẫu, một vị
thuyết giảng lôi cuốn, một thầy giáo cần cù của Ðức Tin cho người trẻ, một chủ
chiên tận tụy cho các linh hồn, cũng như là Giám Ðốc trường Dòng Tên ở Lecce và
là cha sở ở đây. Lòng bác ái của ngài dành cho người nghèo và người đau yếu
dường như vô bờ bến, và sự nhân hậu của ngài đã giúp chấm dứt các mối thù
truyền kiếp của nhiều người trong thành phố.
Sự trân quý của người
dân Lecce đối với ngài quá lớn lao đến độ vào năm 1616, khi ngài đang hấp hối
trên giường thì vị đại diện thành phố đã chính thức xin ngài bảo vệ cho người
dân sau khi ngài từ trần. Không thể nói nên lời, Thánh Bernardino chỉ gật đầu
chấp thuận. Ngài từ trần với lời cầu khẩn danh thánh Ðức Giêsu và Ðức Maria.
Ngài được Ðức Giáo Hoàng
Piô XII phong thánh năm 1947.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét