Chúa Nhật
Ngày 28/07/2013
Tuần 17
Mùa Thường Niên Năm C
(phần II)
Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật XVII Quanh Năm, 28.7. 2013
CHÚA NHẬT XVII QUANH NĂM, NĂM C
Sách Sáng Thế Ký 18. 20-32; Thư Thánh Phaolô gửi
tín hữu Côlôssê 2. 12-14
và Phúc Âm Thánh Luca 11. 1-13
I. Giáo Huấn P.Â.:
Chúa là người Cha giàu lòng nhân ái.
Chúa thương yêu chúng ta là con cái Chúa và luôn
nhận lời chúng ta cầu xin.
Đừng ngã lòng, hãy tin tưởng cậy trông, vì xin
thì sẽ được.
Cách thức cầu nguyện:
Hãy cầu nguyện siêng năng và bền đỗ như dụ ngôn
người bạn đến xin bánh ban đêm.
Hãy cầu nguyện với tất cả lòng cậy trông phó
thác: Hãy xin, hãy tìm và hãy gõ.
Xin sẽ nhận được. Tìm sẽ gặp và gõ, cửa sẽ mở.
Người cho, người mở cửa để ban tặng chính là
Thiên Chúa nhân hậu.
II. Vấn nạn
P.Â.
1) Chúa dạy bao nhiêu Kinh Lạy Cha, sao thấy những
bản văn Phúc Âm không giống nhau.
Truyền thống cho biết Chúa Chúa dạy có một Kinh
Lạy Cha thôi. Nên gọi là The Lord’s Prayer, Kinh Chúa dạy. Nhưng
những bản văn Phúc Âm ghi lại Kinh Lạy Cha và truyền đạt cho thính giả và đọc
giả không giống nhau. Lý do: Thời gian, đọc giả và quan điểm thần học của Thánh
Sử ghi Phúc Âm.
Thánh Matthêô viết vào khoảng từ năm 70-100 sau
Chúa Giêsu, tức khoảng 40 năm sau khi Chúa chết. Chúng ta cứ thử nghĩ xem ai có
thể tường thuật chính xác từng chữ những biến cố xảy ra trước mình 40 năm? Hơn
nữa có lần tôi đã nói: Phúc Âm không là thiên phóng sự chiến trường, ghi chuyện
tai nghe mắt thấy tại chỗ, nhưng là sách dạy giáo lý, thánh sử trình bày quan
điểm thần học tuỳ theo đọc giả và đối tượng Phúc Âm truyền đạt.
Thánh Matthêô viết Phúc Âm cho Cộng đồng người Do
Thái truyền thống. Những người “luôn tham dự giờ nhóm ngày Thứ Bảy ở Hội Đường
Do Thái” Trong giờ nhóm họp ngày Thứ Bảy nầy, cộng đồng hát thánh vịnh và đọc
Kinh Thánh chép trong những cuộn da thú. Nên bản Kinh Lạy Cha trong Phúc Âm
Matthêô 6. 9-13 xem chừng có tính cách cộng đồng và đầy đủ hơn cả.
Kinh lạy Cha được Phúc Âm Thánh Luca ghi lại hôm
nay là bản văn xuất hiện vào khoảng sau năm 60 tức cũng khoảng 40 năm sau ngày
Chúa Giêsu chết, sống lại và lên trời. Thánh Luca không là tông đồ của Chúa
Giêsu. Ông là người giúp đỡ Phaolô. Ông cũng là tác giả của Tông Đồ Công Vụ,
tường thuật công việc truyền giáo của các tông đồ rất chi tiết, nhất là của
Phaolô. Cả Ông và sư phụ của Ông là Thánh Phaolô đều không nằm trong nhóm mười
hai, tức không là môn đệ chính tông của Chúa Giêsu. Ông ghi lại Phúc theo
nnhững gì đã nghe từ người khác.
Đọc giả của Ông là Dân Ngoại mới tòng giáo, tức những
người không có truyền thống Do Thái Giáo, nhuần nhuyễn Kinh Thánh Cựu Ước. Nên
thần học của Phúc Âm Luca là thần học về một Thiên Chúa giàu lòng thương xót và
cứu giúp chứ không đặt trọng tâm ở công bằng và luận phạt.
Nên Kinh lạy Cha trong Phúc Âm Luca xem chừng
ngắn gọn nhất, nhưng cũng có những nội dung như Kinh lạy Cha dài của Thánh
Matthêô:
Cầu xin cho danh Thiên Chúa hiển trị.
Cầu xin cho có cơm bánh hằng ngày.
Cầu xin ơn tha tội và xin cho biết tha thứ.
Cầu xin cho tránh được mọi sự dữ.
2) Quyển Lời Chúa trong Thánh Lễ của Liên Giáo Sĩ
& Tu Sĩ tại Canada xuất bản
đã xử dụng bản dịch không đúng nghĩa ở câu “Thầy nói cho anh em
biết: Dẫu người kia không dậy để cho người nầy vì tình bạn thì cũng sẽ dậy để
cho người nầy tất cả những gì anh cần, VÌ THỂ DIỆN”
Bản văn tiếng Anh “ At least because of his persistence he will get up
and give him whatever he needs” – Không vì tình bạn thì ít nhất cũng vì sự
kiên trì của anh bạn hàng xóm mà ngồi dậy lầy cho anh ta bất cứ
cái gì anh cần.
Bản văn tiếng Pháp: “même s’il ne se lève pas pour les donner par amitié, il se
lèvera à cause de sans-gêne de cet ami, et il lui donnera tout ce qu’il lui
faut.”- Dẫu cho không vì tình bạn
thì anh bạn chủ nhà cũng dậy vì sự không nản chí của
anh bạn láng giềng.
Dịch nôm na theo tiếng Việt Nam bình dân “chịu thua thằng lì”. Bản
dịch “VÌ THỂ DIỆN” không đúng theo như tôi nghĩ. Tôi xin đề nghị theo
bản dịch của Uỷ Ban dịch Kinh Thánh của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam “Thầy
nói cho anh em biết: Dẫu người kia không dậy để cho người nầy vì tình bạn thì
cũng sẽ dậy để cho người nầy tất cả những gì anh cần, VÌ SỰ KIÊN TRÌ
CỦA ANH TA.
3) Chúa có hứa lèo khi nói: “Ai xin thì nhận được.
Ai tìm thì thấy. Ai gõ cửa thì sẽ mở cho!” không? Sao
nhiều người đã xin mà không nhận được? Nhiều người đã tìm mà không bao giờ thấy
và nhiều người cũng đã đập cửa rầm rầm ngày nầy sang ngày khác mà Chúa vẫn im
lìm?
Thật rất khó có câu trả lời thoả đáp trong vấn nạn nầy. Tôi xin cố gắng trả lời
theo kinh nghiệm bản thân và theo sự hiểu biết không bao giờ rõ về Thiên Chúa
mầu nhiệm.
Thường
chúng ta xin cái gì? Chúng ta có xin bánh để đãi khách lỡ đường hay xin bánh và
của cái vật chất dư dật cho chúng ta? Nhiều khi ngay khi chúng ta xin cho người
khác, nhưng cũng qui về chúng ta. Thí dụ linh mục được xin lễ để cầu cho ai đó
mau khỏi bệnh. Linh mục nhiều khi cầu hay khấn cho người xin mau khỏi bệnh để
người ta “ái mộ mình là đạo đức, cầu đâu được đấy!” rồi sẽ đến xin lễ nữa!” Lời
cầu xin nầy giống như cầu xin cho trúng mánh vậy.
Có
một điều chúng ta phải xin là xin cho được lưu ngụ trong Nhà Chúa suốt đời!
Nghĩa là xin sống trung thành với đức tin. Khi xin điều nầy chắc chắn sẽ nhận
được.
Chúng
ta thường tìm kiếm gì mà không thấy? Thường chúng ta cũng chỉ tìm sự may lành,
bình an, sống lâu sức khoẻ… Có bao giờ chúng ta tìm kiếm Chúa và vinh quang
Chúa không? Xin đừng tìm kiếm cái gì khác cả, vì Chúa là Cha đã quan phòng,
chuẩn bị mọi chuyện cho chúng ta. Nên Chúa chính là người mà chúng ta phải tìm.
Nhiều người biết bài hát “Bạn hãy lo đi tìm nước Trời và sự công chính. Còn
những thứ khác đã có rồi!” (Luca 11, 9-10 và Gioan 14,14) Thường chúng ta làm
ngược lại đi tìm cái đã có và không tìm cái cùng đích đời mình là Thiên Chúa.
Nhiều
khi linh mục hay tìm vinh quang, sự sáng giá, quyền hành hay lời khen cho mình.
Nhiều khi buồn và cho là mình thất bại vì giảng như vậy mà chả thấy ai khen.
Sai rồi! tìm không đúng rồi. Cha đang thành công đấy! Vì nhiều khi Cha giảng
không hay lắm, hay trình bày Phúc Âm không rõ ràng làm cho giáo dân phải đọc
Phúc Âm và tìm hiểu thêm chú giải Phúc Âm. Đó là vinh quang Chúa, là việc của
Chúa mà chúng ta phải tìm.
Chúng
ta thường hay gõ lộn cửa, gõ cửa sổ, cửa phụ mà quên cửa chánh. Chúng ta khấn
Đức Mẹ, Khần Thánh Giuse, Khấn đủ cả triều thần thánh trên thiên đàng mà quên
Thiên Chúa là Đấng tạo Hoá, Đấng sinh dựntg nên chúng ta, luôn yêu thương và
ban muôn ơn lành cho chúng ta. Chúng ta biết tại sao ngày nay không thấy tượng
Đức Mẹ, Thánh Giuse và các Thánh trên gian cung Thánh không? Các Ngài là những
cửa phụ, chỉ được kính mà không được thờ. Nên phải được đặt chỗ để kính như bên
cạnh hay phía cuối nhà thờ, chứ không để chỗ để thờ là gian cung thánh. Chúng
ta chỉ nên đến gõ cửa chánh, đến với Chúa và qua lời chuyển cầu của Đức Trinh
Nữ Maria và các Thánh.
Nhiều
ca đoàn trong các giáo xứ vẫn còn hát bài kính Đức Mẹ trong Phụng Vụ Thánh lễ.
Phụng vụ Thánh lễ là việc Chúa thiết lập để tôn thờ Chúa và qui hướng về Chúa
mà thôi. Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, nhưng cũng là tạo vật, chỉ nên hát một bài kính
Đức Mẹ vào cuối lễ, chúng ta quen gọi là bài hát kết lễ hay bài hát đưa lễ.
Hơn
nữa nhiều người tưởng Chúa là ngân hàng hay một ông thủ kho….Họ chỉ nhớ đến
Chúa khi cần tiền hay khi sa cơ lỡ vận. Chúng ta cứ thử nghĩ xem: Trong gia
đình, con cái không bao hỏi thăm Cha Mẹ một tiếng, hay có lời tâm sự chia sẻ
gì, trái lại mỗi lần gặp là xin năm đồng hay mười đồng hay hai chục. Như vậy
Cha mẹ là gì của những đứa con nầy? Chỉ là “kho bạc” hay nơi để con cái trục
lợi chăng?
Thường
tôi chỉ cầu nguyện như thế nầy: Con đây thưa Chúa! Chúa biết con hơn con biết
con. Chúa là Cha con, Chúa biết cái gì con cần cho bản thân và cà những gì con
muốn cầu cho người xin con cầu nguyện. Chúa ban cho con bây giờ hay ban
trong tương lai. Chúa không ban cho con bây giờ và không ban trong tương lai.
Con xin vui vẻ chấp nhận. Vì Chúa biết con và thương con. Chỉ xin cho con sống
trung thành với đức tin Công Giáo. Xin cho con tìm thấy Chúa và tìm vinh quang
Chúa trong cuộc đời. Xin cho con chỉ gõ một cửa, chỉ tin tưởng, phó thác và cậy
trông vào Chúa mà thôi. Amen.
Đây
cũng là dịp để chúng ta xác tín rằng: Chúa không hứa lèo hay hứa dỏm gì cả. Thử
xét xem chúng ta thiếu gì và cần gì hay mong gì để mà cầu xin ngày đêm, để mà
tìm kiếm ráo riết, để mà đập cửa rầm rầm? Chúng ta có đầy đủ và dư thửa những
gì mình cần. Nhiều khi chúng ta giống như chiếc lu đầy nước mà cứ than sao
không thấy Trời mưa! Hãy bằng lòng với những gì mình có và hãy dành nhiều giờ
hơn để:
Xin
ơn trung thành với đức tin.
Tìm
kiếm Nước Thiên Chúa và vinh quang Chúa.
Tín
thác, cậy trông vào chỉ mình Chúa mà thôi.
III. Thực Hành P.Â.
1. Kinh nguyện:
Chúa chỉ dạy có một Kinh Lạy Cha thôi. Nên Kinh Lạy Cha là Kinh của Chúa. Dần
dà qua lịch sử của Giáo Hội với nhiều tâm hồn sốt sắng, kinh nguyện Công Giáo
mỗi ngày một nhiều. Ở ngoài Bắc, dường như địa phận nào cũng tự sáng tác
và in quyển Kinh Nguyện hay kinh bổn riêng cho mình. Trong Nam, có quyển Mục
Lục lâu đời xử dụng chung cho nhiều địa phận. Nhiều kinh nguyện được phổ biến
đáp ứng với thời thế và hoàn cảnh. Thí dụ: Kinh cầu cho Linh Mục nhân Năm Thánh
Linh Mục. Bên Mỹ mới đây đặt kinh Cầu cho Giáo Hội Việt Nam trong thời điểm mà
người ta gọi là “Giáo Hội Việt Nam lộn xộn”
Cái hơi tréo cẳng ngỗng là chính Giáo Hội Việt Nam, chính hàng Giám Mục Việt
Nam không thấy lộn xộn và cũng không có kinh nào cầu cho Giáo Hội trong lúc
nhiễu nhương nầy. Đang khi đó thì bên nầy nhìn thấy bên kia quá lộn xộn và hàng
Giám Mục chao đảo nên đặt kinh cầu nguyện cho họ.
Tôi rất đồng ý là phải đọc kinh. Vì kinh nguyện là lời cầu nguyện được soạn ra
và in ấn thành kinh, để nhiều người có thể cầu nguyện chung với nhau. Vì
quen đọc kinh và đọc nhiều kinh, nên người Công Giáo Việt Nam có cảm tưởng là
không thuộc kinh thì không phải là công giáo tốt, hay không là người đạo đức.
Nên có nhiều người đánh giá về mức độ đạo đức của một người ở chỗ “Nó thuộc
kinh lắm!” hay nhiều khi tôi bị chỉ trích là : Làm Cha mà chả thuộc kinh gì cả.
Cầu nguyện không có nghĩa là chỉ đọc kinh. Kinh đọc chỉ giúp cầu nguyện thôi!
Xin đừng thêm kinh nầy, kinh nọ làm cho giờ cầu nguyện tối sáng dài dòng và
người cầu nguyện thấy ngao ngán bởi sự gia giảm tuỳ hứng. Một lần nữa tôi mạnh
mẽ đề nghị: chỉ đọc Kinh Tối sáng chừng năm phút và trong đó có phần đọc lời
Chúa, từ quyển Lời Chúa Trong Thánh Lễ do Liên Giáo Sĩ & Tu Sĩ phát hành.
2. Cầu
nguyện không chỉ là cầu xin
Chúng ta thường nghe nói về năm phương tiện thánh
được xử dụng để nuôi dưỡng đời sống người Công Giáo: Thánh Thể, Thánh Kinh,
Thánh Truyền, Thánh Thần và Thánh Mẫu. Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn
Thuận thêm một thánh nữa là Thánh Nguyện, tức kinh nguyện.’
Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, nữ tu dòng kín. Đã cầu cho danh Thiên Chúa được
tôn vinh qua việc cảm hoá một tử tội. Thánh Nhân đã không cầu xin gì cho mình.
Nhưng xin cho một tử tội được ơn cảm hoá . Qua ơn cảm hoá, danh Chúa được ca
ngợi và Chúa thu phục thêm một tâm hồn thờ phượng Chúa. Lời cầu nguyện “cho
danh Thiên Chúa rạng sáng!”
Đức Hồng y Phanxicô Nguyễn văn Thuận ở tù lâu
năm, nhưng Ngải không bao giờ cầu xin cho mình sớm ra khỏi tù để được hưởng tự
do. Ngài mong ra khỏi tù, nhưng đặt mong ước của mình trong tình yêu thương và
sự quan phòng của Thiên Chúa với sự bầu cử của Đức Mẹ. Ngài đã thực hiện được
lời nguyện của Chúa Giêsu trong vườn cây dầu đêm Thứ Năm Tuần Thánh “Lạy Cha,
nếu có thể thì xin cho con…. Nhưng theo ý Cha chứ không phải ý con!”.
Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm minh Mẫn thích
soạn kinh cầu nguyện. Thí dụ tập Kinh Dâng Mình do Liên Giáo Sĩ và Tu Sĩ Canada
xuất bản năm 2005. Ngài thích cầu nguyện và hay cầu xin, nhưng lời cầu xin của
Ngài qui hướng về ý Chúa và vinh quang Thiên Chúa. Thí dụ khi Ngài dâng lễ mở
tay Linh mục năm 1965 trong Tiểu Chủng Viện Thánh Quí ở Cần Thơ, Ngài đã xin
mọi người cầu nguyện:
Xin cho Ngài biết luôn có Chúa trong con thuyền
cuộc đời linh mục.
Xin cho Ngài luôn biết quăng lưới bên phải
thuyền, tức biết vâng nghe theo Thánh Ý Chúa.
Ước gì mỗi người chúng ta biết cầu nguyện theo
lối cầu xin như trên. Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và vinh quang của Ngài
trước. Còn những điều khác Ngài sẽ ban cho sau.
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên
Lời kinh tuyệt vời
Nhà thần bí Hồi
Giáo tên là Farid, đến kinh đô Delhi để xin hoàng đế Akbar ban cho dân làng một
ân huệ. Farid đến cung điện và gặp lúc Akbar đang đắm mình cầu nguyện.
Khi hoàng đế
cầu nguyện xong, Farid hỏi: “Nhà vua vừa cầu nguyện như thế nào?”
Nhà vua đáp:
“Ta cầu xin Đấng nhân từ ban cho ta sự thành công, giàu có và được sống lâu.
Vừa nghe xong,
Farid liền quay lưng lại và bỏ đi. Vừa đi ông vừa nói: “Ta đến gặp một vị vua.
Thế mà ta lại gặp một kẻ ăn xin, không khác gì những hạng người khác!”.
Thật vậy, cầu
nguyện không chỉ là cầu xin, cũng không phải là bảng liệt kê ước muốn mà cầu
nguyện chính là tôn thờ, thống hối, cảm tạ và xin ơn. Trong kinh Lạy Cha, Chúa
dạy chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay bao gồm bốn tâm tình đó.
Chúng ta thờ
phượng, ca ngợi, tôn vinh Chúa trong câu đầu tiên: “Lạy Cha, xin làm cho danh
thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến” (Lc 11,2).
Sau đó chúng ta
bày tỏ tâm tình thống hối bằng lời xin lỗi: “Xin tha tội cho chúng con, vì
chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” (Lc 11,4).
Rồi chúng ta cảm tạ
Chúa ngay trong tâm tình thờ phượng, vì khi ca ngợi tôn vinh Chúa thì đồng thời
chúng ta cũng mặc nhiên cảm tạ những hồng ân Người ban.
Cuối cùng, tâm
tình cầu xin được biểu lộ trong câu: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương
thực ngày ấy” (Lc 11,3), và “xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11,4).
Như thế, Kinh Lạy
Cha là một lời kinh tuyệt vời, vì đã đặt sự cao trọng, vinh danh, và thánh ý
Chúa trên hết, sau đó mới xin cho các nhu cầu của chúng ta, nên rất được Chúa
Cha ưa thích.
Kinh Lạy Cha là
một lời kinh tuyệt vời, vì chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, còn chúng ta là
con cái của Người; chúng ta xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn;
chúng ta xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa
chước cám dỗ ở tương lai, nên chắc chắn sẽ được Chúa Cha đón nhận.
Sau khi đã dạy
chúng ta lời kinh tuyệt vời đó, Người còn khuyên chúng ta hãy kiên nhẫn và
trông cậy mà cầu nguyện.
* Phải kiên nhẫn
trong khi cầu nguyện là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng
thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì
không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không
mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một
ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay
không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu
thương của một người Cha đầy tình nhân ái.
* Phải trông cậy
trong khi cầu nguyện vì Chúa đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ
thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Mẹ Têrêxa Calcutta đã chia sẻ kinh nghiệm
này như sau: “Chúng tôi có hơn một ngàn tu sĩ, và còn phải nuôi ăn hàng chục
ngàn người. Thế mà, chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối bất cứ một ai đến xin
giúp đỡ. Chúa luôn can thiệp kịp thời để cho chúng tôi thấy rằng Người không
bao giờ làm ngơ trước lời cầu nguyện của chúng ta”.
Lạy Chúa, xin
nhắc chúng con siêng năng dùng Kinh Lạy Cha mà cầu nguyện với Cha trên trời.
Nhất là xin Chúa mở rộng tâm hồn hẹp hòi ích kỷ của chúng con, để biết cầu
nguyện cho các nhà truyền giáo, những người nghèo khổ, những kẻ tội lỗi và
những người thân yêu của chúng con. Amen.
Thiên Phúc(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Lectio: Chúa Nhật XVII Thường Niên (C)
Chúa Nhật, 28 Tháng 7, 2013
Lời cầu nguyện của Thầy
Lời cầu nguyện của các môn đệ
Lc 11:1 – 13
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Cha là Đấng hay
thương xót,
Nhân danh Chúa Kitô
con Cha, chúng con khẩn cầu cùng Cha,
Xin Cha hãy ban Ân Huệ
xuống cho chúng con,
Xin Chúa hãy tuôn đổ
Thần Khí Chúa trên chúng con!
Lạy Chúa Thánh Thần,
Đấng Phù Trợ
Xin hãy dạy cho chúng
con cầu nguyện trong chân lý,
trong Đền Thờ mới
chính là Chúa Kitô.
Lạy Chúa Thánh Thần,
Đấng trung tín với Chúa Cha và với chúng con,
như chim có tổ,
xin hãy bàu chữa liên
lỉ với Chúa Cha cho chúng con,
Bởi vì chúng con không
biết cầu nguyện như thế nào.
Thần Khí của Chúa
Kitô,
Quà tặng đầu tiên dành
cho chúng con là những người tin Chúa,
xin hãy cầu nguyện
không ngừng nghỉ với Chúa Cha cùng chúng con,
như Con Người đã dạy
cho chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Để trợ giúp chúng ta hiểu đoạn văn:
Bài Tin Mừng được chia thành ba đoạn:
Lc 11:1-4: Lời cầu nguyện mà Chúa
Giêsu đã dạy
Lc 11:5-8: Dụ ngôn người bạn quấy rầy
Lc 11:9-13: Giáo huấn về hiệu quả của lời cầu
nguyện
b) Tin Mừng:
1 Có một lần Đức
Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn
đệ thưa Ngườirằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện,
như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông." 2 Người
bảo các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói:
3 xin Cha cho chúng con hôm
nay lương thực hằng ngày;
4 và tha nợ chúng
con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con;
và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ."
5 Và Người
còn bảo các ông rằng: "Nếu ai trong các con có
người bạn, nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói:
"Anh ơi, xin cho tôi vay ba cái bánh; 6 vì
tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, và tôi không có
gì thiết đãi anh ấy"; 7 và từ trong
nhà có tiếng người ấy đáp: "Xin anh đừng quấy rầy tôi;
vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm
rồi; tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được? 8 Thầy bảo
các con, dẫu người đó không dậy vì tình bạn để lấy
bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự
quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.
9 "Và Thầy
bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì
sẽ gặp, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. 10 Vì hễ
ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. 11 Người
cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá
ư? Hay nó xin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá
sao? 12 Hay nó xin quả trứng lại cho
nó con bò cạp ư? 13 Vậy nếu các
con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái
mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời lại
không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao? "
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
- Giống như các môn đệ, chúng ta cũng hãy cùng nhau
tề tựu chung quanh Chúa Giêsu đang cầu nguyện một mình. Chúng ta
quây quần chung quanh Người và trong Người với tất cả sức lực của chúng ta, mọi
ý nghĩ, mọi lời cam kết và mối bận tâm, niềm hy vọng và nỗi đau khổ của chúng
ta…
- Ngày nay chính chúng ta là những môn đệ trông thấy
Thầy mình đang cầu nguyện và tự cho phép mình được tham gia vào việc cầu nguyện
của Người, trong đó, một cách rõ ràng, là khá đặc biệt.
- Hôm nay, lời của Người đang nói với chúng ta, lời
mời gọi tin tưởng vào tình yêu của Chúa Cha gửi đến cho chúng
ta. Chúng ta đã mải mê với những thứ vật chất, rất nhiều kiếm tìm
với “tất cả và ngay lập tức”, do đó say mê bởi một ngàn thứ, rồi sau đó (và chỉ
“sau đó”, sau một vài biến cố làm chúng ta bàng hoàng sửng sốt) chúng ta khám
phá ra rằng tất cả những thứ đó chỉ là phù phiếm …
- Hôm nay, đó chính là tùy thuộc vào chúng ta để dâng
lên lời cầu nguyện của Thầy Chí Thánh: Lạy Cha chúng con ở trên
trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng…
4. Một vài câu hỏi
Chúng ta hãy dùng cơ hội này để kiểm điểm lại cách cầu nguyện
của chúng ta:
* Việc cầu nguyện mang ý nghĩa gì đối với
tôi: Đó có phải là một bổn phận? Một sự tạm dừng trong
việc tìm kiếm bản ngã? Đó có phải là việc dâng lên Thiên Chúa với
một danh sách các lời cầu xin? Một lúc tạm dừng cùng với Đức Chúa
Cha? Đó có phải là một cuộc đối thoại tin tưởng và đơn giản với Đấng
hết lòng yêu thương tôi không?
* Tôi đã dành ra bao nhiêu thời gian cho việc cầu
nguyện: một ít phút mỗi ngày? hay mỗi tuần một lần hay mỗi tháng một
lần? Thỉnh thoảng? Có đều đặn thường xuyên
không? Tôi có chờ cho đến lúc “cảm thấy có nhu cầu” thì mới cầu
nguyện không?
* Điểm khởi đầu cho lời cầu nguyện của tôi là
gì: Đó có phải là Lời Chúa không? Có phải là ngày lễ của
một vị thánh hay là ngày của nghi lễ phụng vụ không? Đó có phải là
do lòng sùng kính Đức Mẹ không? Đó có phải là một bức tượng hay bức
hình không? Có phải là từ các sự kiện quan trọng trong đời sống của
tôi hoặc trong lịch cử của thế giới không?
* Tôi gặp gỡ ai khi tôi cầu nguyện: Nhìn
sâu vào bản thân mình, khi cầu nguyện, tôi đã cầu nguyện với người mà tôi cảm
thấy là quan tòa phê phán tôi hay là tôi cầu nguyện với một người
bạn? Tôi có cảm thấy Chúa là một người “bằng vai” với tôi hay là một
“Đấng Thánh”, vô định hay không thể đến gần được không? Chúa có gần
bên tôi không hay là xa vời và lãnh đạm? Người là Chúa Cha của tôi
hay là Thầy tôi? Chúa có quan tâm tới tôi không hay là “Người bận
rộn với các việc của Người”?
* Tôi cầu nguyện như thế nào: tôi có cầu nguyện một
cách máy móc không, có dùng những khuôn sáo có sẵn không? Tôi có cầu
nguyện bằng các đoạn Thánh Vịnh hoặc các đoạn Kinh Thánh khác
không? Các lời của bài đọc Phụng Vụ không? Tôi có chọn
cầu nguyện bằng những lời tự phát không? Tôi có đi tìm các văn bản với lời lẽ
văn hoa hay tôi thích lặp lại những lời nguyện ngắn? Tôi đã xử dụng
“lời cầu nguyện của Chúa” như thế nào? Tôi có thường xuyên cầu khẩn Thiên Chúa
vì những nhu cầu hay vì muốn ca ngợi Người trong những lời phụng vụ hoặc chiêm
niệm Người trong thinh lặng? Tôi có khả năng cầu nguyện trong lúc
làm việc không, hoặc tại bất cứ nơi nào hoặc chỉ khi trong nhà thờ mà
thôi? Tôi có khả năng tự mình soạn ra lời cầu nguyện phụng vụ của
riêng tôi không? Mẹ Thiên Chúa có chỗ đứng nào trong những lời cầu
nguyện của tôi?
5. Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Bài Tin Mừng này trình bày lời cầu nguyện như là một trong các
nhu cầu căn bản và là một điểm quan trọng trong đời sống của người môn đệ của
Chúa Giêsu và của cộng đoàn các môn đệ.
Các câu 1–4: Chúa
Giêsu, như những bậc đại tôn sư trong thời đại của Người, dạy các môn đệ mình
một lời cầu nguyện sẽ xác định căn tính của họ: “Kinh Lạy Cha”.
a) Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi
kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn
đệ thưaNgười rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện: Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một
nơi. Theo Phúc Âm của Luca, Chúa làm điều này thường xuyên (5:16),
nhất là trước những biến cố quan trọng: trước khi chọn Nhóm Mười Hai
(6:12-13), trước khi kêu mời Phêrô tuyên xưng đức tin của mình (9:18-20), trước
khi Chúa biến hình (9:28-29), và sau cùng, trước cuộc thương khó (22:40-45).
Khi Chúa Giêsu cầu nguyện, Người đã gợi lên trong lòng các môn
đệ một niềm ước ao cầu nguyện giống như Người. Một cách rõ ràng, lời
cầu nguyện tự nó đã cho thấy bên ngoài trong một phương thức rất đặc biệt và
chắc chắn đã ảnh hưởng đến sự rao giảng của Người. Các môn đệ hiểu
rằng lời cầu nguyện như thế thật là hoàn toàn khác so với những gì đã được dạy
bởi các bậc tôn sư tại Israel hay thậm chí ngay cả những người đi trước Chúa
Giêsu. Đó là lý do tại sao các ông xin Chúa dạy cho các ông cầu
nguyện. Do đó, lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ
mình trở thành lời diễn đạt đặc trưng của lý tưởng và căn tính của họ, trong
cách các ông liên quan với Thiên Chúa và với nhau.
b) Chúa Cha: Điều
đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy về cầu nguyện là gọi Thiên Chúa là
“Cha”. Không giống như Luca, Mátthêu đã không thêm vào đại danh từ
sở hữu chủ “của chúng tôi”, ít nhấn mạnh hơn về khía cạnh cộng đoàn của kinh
nguyện Kitô hữu. Mặt khác, sự việc cách gọi Chúa Cha, là yếu tố tạo
thành chất kết hợp tốt nhất của cộng đoàn các môn đệ.
Đối với người Do Thái vào thế kỷ thứ nhất, mối quan hệ với cha là
một trong những mối quan hệ thân mật, mà cũng là một sự thừa nhận thẩm quyền
của người cha trên mỗi thành viên của gia đình. Điều này được phản
ảnh trong phong tục người Kitô hữu gọi Thiên Chúa là “Chúa Cha”, trong khi đó
không có một bằng chứng cụ thể nào cho rằng người Do Thái thời bấy giờ đã quen
gọi Thiên Chúa với một chữ thân mật “abba”. Chữ này
không có gì khác hơn là hình thức nhấn mạnh của tiếng Aram “ ‘ab”,
một từ ngữ quen thuộc và kính trọng được dùng cho những người cha trần thế.
Sự việc mà Chúa Giêsu đã hướng về Thiên Chúa và gọi Thiên Chúa
là abba, cho thấy một mối quan hệ mới mà Người, và các môn đệ do
đó, đã thiết lập với Thiên Chúa: Một mối quan hệ thân thiết, quen
thuộc và tín thác.
Trong giản đồ hệ thống cổ điển của lời cầu nguyện Kinh Thánh,
phần đầu của “kinh Lạy Cha” là thưa chuyện trực tiếp với Thiên Chúa, trong khi
phần thứ hai đề cập đến các nhu cầu của con người trong cuộc sống trần gian
này.
c) Lạy Cha, nguyện xin danh thánh
Cha cả sáng: trong
lời mặc khải của các tiên tri Israel, chính Thiên Chúa là Đấng đã “tự thánh hóa
Danh của Người” (có nghĩa là, chính Chúa: “danh tức là người”) can thiệp với
quyền năng trong lịch sử nhân loại, ấy thế mà dân Israel và các dân khác đã xúc
phạm đến Chúa. Trong sách Edêkien chúng ta đọc thấy: “Chúng
đã làm cho danh Ta bị xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến, khiến người ta nói
về chúng rằng: ‘Đó là dân của ĐỨC CHÚA, chúng đã phải ra khỏi xứ của
Người.’ Nhưng Ta ái ngại cho thánh danh Ta đã bị nhà
Ít-ra-en xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến. Vì thế,
ngươi hãy nói với nhà Ít-ra-en: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế
này: Hỡi nhà Ít-ra-en, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, mà vì danh
thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến. Ta
sẽ biểu dương danh thánh thiện vĩ đại của Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh
mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa chúng. Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là
ĐỨC CHÚA - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng - khi Ta biểu dương sự thánh
thiện của Ta nơi các ngươi ngay trước mắt chúng. Bấy giờ,
Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi lại từ khắp các
nước, và sẽ dẫn các ngươi về đất của các ngươi.” (36:20-24). Trong
cùng một đề tài chúng ta cũng có thể đọc: Đnl 32:51; Is 29:22; Ed 28:22-25).
Chủ đề của động từ “thánh thiêng”, trong Lc 11:2, chính là Thiên
Chúa: chúng ta đang phải đối diện với sự “thần học thụ động”. Điều
này có nghĩa là lời khẩn cầu thứ nhất của lời cầu nguyện này không liên quan gì
đến loài người và bổn phận không thể chối cãi của họ là phải tôn vinh và kính
trọng Thiên Chúa, mà chính Chúa Cha là Đấng phải được biết đến với tất cả mọi
loài. Vì vậy, chúng ta khẩn cầu cùng Thiên Chúa để Người mặc khải
cho chúng ta trong quyền năng tối thượng của Người: đây là một lời
khẩn cầu với ý nghĩa cánh chung, được nối kết chặt chẽ với lời khẩn cầu sau
đây.
d) Nước Cha trị đến: sự kiện vĩ đại được công bố bởi
Chúa Giêsu là việc khẳng định Nước Trời sắp đến giữa chúng ta: “Hãy
chắc chắn điều này: Triều đại của Thiên Chúa đã đến gần” (Lc 10:11;
và xemMt 10:7). Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu và của các
Kitô hữu, khi ấy, là sự hòa hợp chặt chẽ với lời công bố này. Việc
cầu xin trong lời cầu nguyện này là Triều Đại Thiên Chúa đã và đang hiện diện
rõ ràng hơn bao giờ hết, trên thực tế, có hai hiệu quả: người đang
cầu nguyện phải đến mặt đối mặt với kế hoạch ngày cánh chung của Thiên Chúa, mà
cũng còn với bổn phận sẵn lòng nhiệt thành phục vụ cho ý muốn cứu rỗi của Chúa
Cha. Vì thế, nếu đúng là chúng ta có thể và phải thưa với Đức Chúa
Cha về các nhu cầu của chúng ta, thì cũng đúng là lời cầu nguyện của người Kitô
hữu không bao giờ có loài người trong lời kết của nó, nó cũng không bao giờ là
một lời cầu xin vị kỷ, nhưng kết thúc sau rốt của nó là để vinh danh Thiên
Chúa, cầu khẩn sự gần gũi trọn vẹn của Người, sự khải hiện hoàn toàn của
Người: “Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm
cho” (Lc 12:31).
e) Xin Cha cho chúng con hôm nay lương
thực hằng ngày: chúng ta đã tiến đến phần thứ hai của lời cầu nguyện của
Chúa. Người cầu nguyện bây giờ đã đưa vào áp dụng mối quan hệ mật
thiết và chính xác với Thiên Chúa, và hiện đang sống trong sự mật thiết hợp lẽ
với Thiên Chúa là Chúa Cha và những lời cầu xin của người ấy xuôi chảy từ cách
sống này.
Trong thời đại của Chúa Giêsu, cũng (gần giống) như thời đại của
chúng ta, bánh là lương thực thiết yếu nhất, là chất dinh dưỡng
chính. Tuy nhiên, trong trường hợp này, “bánh” tượng trưng cho thực
phẩm nói chung, và hơn thế nữa, tất cả các nhu cầu vật chất của các môn đệ.
Danh từ “bánh” là bản dịch từ chữ Hy-Lạp “epiousion”, cũng được
thấy trong Phúc Âm Mátthêu nhưng không thấy trong bất kỳ bản kinh thánh Hy-Lạp
hoặc văn bản ngoài kinh thánh nào khác. Điều này đã khiến cho khó có
thể mà đưa ra một phiên bản thực sự đáng tin cậy, vì thế mà chúng ta bị hạn chế
trong việc phiên dịch danh từ này một cách chuẩn xác theo bối cảnh.
Tuy nhiên, có điều rõ ràng là người môn đệ khi cầu nguyện theo ý
này thì hiểu rằng sẽ không có nhiều của cải vật chất trong tương lai, thậm chí
ngay cả thức ăn hằng ngày: người ấy đã thực sự “từ bỏ tất cả mọi sự” để đi theo
Đức Kitô (xem Lc 5:11). Ở đây chúng ta đang bàn luận tới đặc tính
tình trạng của thế hệ tiên khởi của những người Kitô hữu. Điều này
không có nghĩa là lời cầu nguyện xin “bánh” không còn thiết thực với các Kitô
hữu ngày nay nữa: Tất cả chúng ta được kêu gọi để nhận lãnh tất cả
mọi thứ từ Thượng Đế, như một món quà cho không từ Thiên Chúa, ngay cả khi
những thứ này có được từ sức lao động bởi đôi tay chúng ta. Việc
dâng của lễ Thánh Thể nhắc nhở chúng ta điều này trong mọi
lúc: chúng ta dâng lên Thiên Chúa những gì chúng ta biết rõ là đã
được nhận lãnh từ Thiên Chúa để chúng ta có thể nhận lãnh trở lại từ tay
Người. Điều này cũng có nghĩa là người Kitô hữu thuộc mọi thời đại
không nên quá bận tâm với tình trạng vật chất của mình, bởi vì Chúa Cha sẽ chăm
sóc người ấy: "Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho
mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống
thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc” (Lc 12:22-23).
f) Xin Cha tha nợ chúng
con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con: Người Kitô hữu, được đắm mình
trong sự cứu rỗi ban cho bởi Đức Chúa Cha với Triều Đại sắp đến của Người, biết
rằng tất cả tội lỗi của người ấy đã được tha thứ. Điều này đặt để
người Kitô hữu trong điều kiện và bổn phận phải tha thứ cho những người khác,
do đó cho phép Thiên Chúa cũng có thể dứt khoát tha thứ cho người Kitô hữu
giống như họ đã tha thứ cho anh em mình (xem Mt 18:23-25).
Chúng ta luôn chần chừ giữa vương quốc “đã” hiện hữu và vương
quốc “chưa” đạt được. Một người Kitô hữu cư xử trái với ơn cứu độ đã
nhận được từ Thiên Chúa qua Đức Kitô, làm cho sự tha thứ mà người ấy đã nhận
được trở nên vô dụng. Đó là lý do tại sao Luca đã
nói: “như chính chúng con tha thứ”. Luca không muốn đặt để loài
người chúng ta ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng chỉ để cho chúng ta biết rằng
chúng ta có thể làm hỏng công cuộc cứu rỗi của Thiên Chúa, trong đó Đức Chúa
Cha đã sẵn lòng bao gồm cả chúng ta như một nhân tố tích cực, để mở rộng ơn tha
thứ nhưng không của Người đến tất cả mọi người.
Các câu 5-8: không
chỉ là một dụ ngôn, đây là một sự so sánh, bởi vì nó minh họa một thái độ điển
hình gợi lên trong những người nghe một câu trả lời tự phát và duy
nhất. Trong trường hợp này, sẽ khó mà tìm ra được bất cứ ai có thể
trả lời một cách nhanh nhảu “không có ai!” cho câu hỏi “Người nào…? (Câu
5). Như vậy, đoạn Tin Mừng này muốn chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa
hành động như thế nào qua sự gạn lọc của cung cách cư xử con người, tức là một
bản sao chép nghèo nàn của cung cách cư xử của Đức Chúa Cha.
Cảnh được diễn ra trong một vùng đất Palestine. Thông
thường, bất cứ ai đi trên một cuộc hành trình dài sẽ bắt đầu vào lúc hoàng hôn
để tránh nhiệt độ rất nóng của ban ngày. Trong nhà của người Paléstine
vào thời ấy, chỉ có một gian phòng và cả gia đình xử dụng nó cho tất cả các
hoạt động trong ngày cũng như dùng để ngủ vào ban đêm bằng cách chỉ cần trải
chiếu dưới sàn nhà.
Lời yêu cầu của người đàn ông mà bất chợt có một người khách
viếng thăm giữa đêm khuya, phản ảnh một cảm giác đặc thù về sự hiếu khách của
những người xưa, và lời giải thích về sự yêu cầu của “ba chiếc bánh” (câu 5) đó
là một bữa ăn bình thường cho một người lớn.
Người đàn ông đã tin tưởng người bạn mình vào ban đêm là hình
ảnh người môn đệ của Chúa Kitô, được mời gọi để cầu nguyện cùng Thiên Chúa liên
lỉ mọi nơi và mọi lúc, một sự tin tưởng hoàn toàn rằng người ấy sẽ được lắng
nghe, không phải bởi vì người ấy đã quấy rầy Thiên Chúa, nhưng bởi vì Người là
một người Cha giàu lòng thương xót và là Đấng trung tín với mọi giao ước của
Người. Do đó, dụ ngôn cho chúng ta thấy một người môn đệ nên phải
cầu nguyện “kinh Lạy Cha chúng con” như thế nào: với một lòng trông
cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa, Chúa Cha yêu thương và công bằng, một lòng trông
cậy mà ngay cả những việc táo gan nhất là “quấy rầy Người” vào bất cứ lúc nào
và nài nỉ với Người trong mọi việc, chắc chắn là sẽ được trả lời.
Cầu nguyện, được xem như là một thái độ căn bản của mỗi người
Kitô hữu muốn thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu, được diễn đạt rành mạch bởi
thánh Phaolô tông đồ: “Anh em hãy cầu nguyện không ngừng. Hãy
tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn
trong Đức Kitô Giêsu” (1Tx 5:17-18); “Theo Thần
Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện
luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn
thể dân thánh” (Ep 6:18).
Các câu 9-13: phần cuối bài Tin Mừng của chúng ta đúng ra được gọi là phần
hướng dẫn kiến thức. Nó tóm tắt lại chủ đề của các câu trước, nhấn mạnh
đến lòng tin tưởng phải được biểu thị bằng lời cầu nguyện của người Kitô hữu,
dựa trên một đức tin vững vàng. Chính đức tin của người cầu nguyện
sẽ mở rộng cánh cửa đến trái tim của Chúa Cha, và đó là bản sắc của Chúa Cha,
Đấng luôn sẵn lòng che chở con cái Người trong vòng tay và an
ủi chúng với sự trìu mến của một người mẹ (xem Is
66:12-13), là phải nuôi dưỡng đức tin của các Kitô hữu.
Thiên Chúa là một người Cha thích được nhận những lời cầu xin
của các người con, bởi vì điều này cho thấy rằng họ đã đặt lòng trông cậy vào
nơi Người; để cầu xin, họ phải tiến đến Người với tấm lòng rộng mở; vì cầu xin
đã thúc đẩy họ phải nhìn đến gương mặt nhân hậu và yêu thương của Người, vì
bằng sự cầu xin (kể cả cầu xin gián tiếp) họ cho thấy là họ tin tưởng rằng
Người đích thực là Chúa của mọi thời đại và của thế giới, và hơn hết cả, bởi vì
lời cầu xin của họ đã tạo cơ hội cho Người sẵn sàng công khai tỏ ra tình yêu
cho không, ân cần, và tinh tế của Người chỉ vì lợi ích của con cái
Người. Điều làm phiền lòng Chúa Cha không phải là những lời cầu xin
khăng khăng hoặc thiếu cân nhắc của con cái Người, mà đó là họ không cầu xin
một cách đầy đủ, giữ im lặng và hầu như thờ ơ với Người, là họ lánh xa với một
ngàn lý do bào chữa khách sáo, chẳng hạn như “Chúa đã biết tất cả mọi việc”,
v.v. Thiên Chúa chắc chắn là một người Cha, Đấng cung cấp tất cả mọi
sự và chăm sóc cuộc sống hằng ngày của con cái Người, nhưng, đồng thời Người
cũng biết điều gì tốt đẹp nhất cho họ, thậm chí còn biết rõ hơn họ nữa. Đó
là lý do tại sao Chúa tuôn đổ trên các Kitô hữu những điều tốt đẹp, và hơn hết
cả, món quà tuyệt hảo: Chúa Thánh Thần, món quà duy nhất
thật sự không thể thiếu cho đời sống của họ, món quà mà nếu được phép làm, Đấng
sẽ khiến họ trở nên con cái đích thực trong Đức Chúa Con
6. Đáp Ca: Thánh Vịnh 104
Lạy Thiên Chúa thương xót và quan phòng, Đấng đã tạo ra sự hài
hòa kỳ diệu của vũ trụ và Đấng đã đặt để loài người trong ấy như “vị đại diện”
của Người, chúng ta hãy ca tụng Người với bài Thánh Vịnh:
Chúc tụng CHÚA đi, hồn
tôi hỡi!
Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!
Áo Ngài mặc: toàn oai phong lẫm liệt,
cẩm bào Ngài khoác: muôn vạn ánh hào quang!
Tầng trời thẳm, Chúa căng như màn trướng,
điện cao vời, dựng trên khối nước cõi thanh không.
Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió.
Sứ giả Ngài: làm gió bốn phương,
nô bộc Chúa: lửa hồng muôn ngọn.
Chúa lập địa cầu trên nền vững,
khôn chuyển lay muôn thuở muôn đời!
Áo vực thẳm choàng lên trái đất,
khối nước nguồn tụ lại đỉnh non cao.
Nghe tiếng Ngài doạ nạt, chúng đồng loạt chạy dài;
sấm Ngài mới rền vang, chúng kinh hoàng trốn thoát,
băng qua núi qua đồi, chảy xuôi ra đồng nội
về nơi Chúa đặt cho.
Ngài vạch đường ranh giới ngăn cản chúng vượt qua,
không còn cho trở lại dâng lên ngập địa cầu.
Chúa khơi nguồn: suối tuôn thác đổ,
giữa núi đồi, lượn khúc quanh co,
đem nước uống cho loài dã thú,
bầy ngựa hoang đang khát được thoả thuê.
Bên dòng suối, chim trời làm tổ,
dưới lá cành cất giọng líu lo.
Từ cao thẳm, Chúa đổ mưa xuống núi,
đất chứa chan phước lộc của Ngài.
Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc,
làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng.
Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh,
chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người,
xức dầu thơm cho gương mặt sáng tươi,
nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ.
Hương bá Li-băng, những cây CHÚA đã trồng,
được tràn trề nhựa sống.
Bầy chim tước rủ nhau làm ổ,
hạc bay về xây tổ ngọn cao.
Núi chon von, loài sơn dương tìm đến,
hốc đá sâu, giống ngân thử ẩn mình.
Chúa đặt vầng trăng để đo thời tiết,
dạy mặt trời biết lặn đúng thời gian.
Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối,
chốn rừng sâu, muông thú tung hoành.
Tiếng sư tử gầm lên vang dội,
chúng săn mồi, gào xin Chúa cho ăn.
Ánh dương lên, chúng bảo nhau về,
tìm hang hốc, chui vào nằm nghỉ.
Đến lượt con người ra đi làm lụng,
những mải mê tới lúc chiều tà.
Công trình Ngài, lạy CHÚA, quả thiên hình vạn trạng,
Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan!
Những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.
Này đại dương bát ngát mênh mông,
nơi muôn vàn sinh vật to lẫn nhỏ vẫy vùng,
nơi tàu bè cỡi sóng và thủy quái tung tăng,
là vật Chúa tạo thành để làm trò tiêu khiển.
Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa
đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn.
Ngài ban xuống, chúng lượm về,
Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn phước.
Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi;
lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi.
Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới,
là chúng được dựng nên,
và Ngài đổi mới mặt đất này.
Vinh hiển CHÚA, nguyện muôn năm tồn tại,
công trình CHÚA làm Chúa được hân hoan!
Chúa nhìn đất thấp, đất sợ run lẩy bẩy,
Người chạm núi cao, núi toả khói mịt mù.
Suốt cuộc đời, tôi sẽ ca mừng CHÚA,
sống ngày nào, xin đàn hát kính Thiên Chúa của tôi.
Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả,
đối với tôi, niềm vui là chính CHÚA.
Ước gì tội nhân phải biệt tích cõi đời,
bọn bất lương sạch bóng chẳng còn ai.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
7. Lời nguyện kết
Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!
Áo Ngài mặc: toàn oai phong lẫm liệt,
cẩm bào Ngài khoác: muôn vạn ánh hào quang!
Tầng trời thẳm, Chúa căng như màn trướng,
điện cao vời, dựng trên khối nước cõi thanh không.
Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió.
Sứ giả Ngài: làm gió bốn phương,
nô bộc Chúa: lửa hồng muôn ngọn.
Chúa lập địa cầu trên nền vững,
khôn chuyển lay muôn thuở muôn đời!
Áo vực thẳm choàng lên trái đất,
khối nước nguồn tụ lại đỉnh non cao.
Nghe tiếng Ngài doạ nạt, chúng đồng loạt chạy dài;
sấm Ngài mới rền vang, chúng kinh hoàng trốn thoát,
băng qua núi qua đồi, chảy xuôi ra đồng nội
về nơi Chúa đặt cho.
Ngài vạch đường ranh giới ngăn cản chúng vượt qua,
không còn cho trở lại dâng lên ngập địa cầu.
Chúa khơi nguồn: suối tuôn thác đổ,
giữa núi đồi, lượn khúc quanh co,
đem nước uống cho loài dã thú,
bầy ngựa hoang đang khát được thoả thuê.
Bên dòng suối, chim trời làm tổ,
dưới lá cành cất giọng líu lo.
Từ cao thẳm, Chúa đổ mưa xuống núi,
đất chứa chan phước lộc của Ngài.
Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc,
làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng.
Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh,
chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người,
xức dầu thơm cho gương mặt sáng tươi,
nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ.
Hương bá Li-băng, những cây CHÚA đã trồng,
được tràn trề nhựa sống.
Bầy chim tước rủ nhau làm ổ,
hạc bay về xây tổ ngọn cao.
Núi chon von, loài sơn dương tìm đến,
hốc đá sâu, giống ngân thử ẩn mình.
Chúa đặt vầng trăng để đo thời tiết,
dạy mặt trời biết lặn đúng thời gian.
Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối,
chốn rừng sâu, muông thú tung hoành.
Tiếng sư tử gầm lên vang dội,
chúng săn mồi, gào xin Chúa cho ăn.
Ánh dương lên, chúng bảo nhau về,
tìm hang hốc, chui vào nằm nghỉ.
Đến lượt con người ra đi làm lụng,
những mải mê tới lúc chiều tà.
Công trình Ngài, lạy CHÚA, quả thiên hình vạn trạng,
Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan!
Những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.
Này đại dương bát ngát mênh mông,
nơi muôn vàn sinh vật to lẫn nhỏ vẫy vùng,
nơi tàu bè cỡi sóng và thủy quái tung tăng,
là vật Chúa tạo thành để làm trò tiêu khiển.
Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa
đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn.
Ngài ban xuống, chúng lượm về,
Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn phước.
Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi;
lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi.
Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới,
là chúng được dựng nên,
và Ngài đổi mới mặt đất này.
Vinh hiển CHÚA, nguyện muôn năm tồn tại,
công trình CHÚA làm Chúa được hân hoan!
Chúa nhìn đất thấp, đất sợ run lẩy bẩy,
Người chạm núi cao, núi toả khói mịt mù.
Suốt cuộc đời, tôi sẽ ca mừng CHÚA,
sống ngày nào, xin đàn hát kính Thiên Chúa của tôi.
Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả,
đối với tôi, niềm vui là chính CHÚA.
Ước gì tội nhân phải biệt tích cõi đời,
bọn bất lương sạch bóng chẳng còn ai.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
7. Lời nguyện kết
Lạy Chúa Cha tốt lành và thánh thiện, tình yêu
của Cha đã làm cho chúng con trở thành anh chị em và thúc giục chúng con đến quây
quần trong Hội Thánh của Cha để ca tụng với đời sống mầu nhiệm của sự hiệp
thông. Chúa kêu gọi chúng con để chia xẻ chiếc bánh, hằng sống và
muôn đời, Chúa đã ban cho chúng con từ trời. Xin Chúa hãy giúp chúng
con cũng biết cách bẻ bánh, trong tình yêu của Đức Kitô, chiếc bánh trần thế
của chúng con, để cơn đói cơ thể và tinh thần của chúng con có thể được no
thỏa. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét