Trang

Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2013

13-07-2013 : THỨ BẢY TUẦN XIV MÙA THƯỜNG NIÊN

Thứ Bảy Ngày 13/07/2013
Tuần 14 Mùa Thường Niên Năm Lẻ
St 49,29


BÀI ĐỌC I: St 49, 29-33; 50, 15-24   (Hr 49, 29-33; 50, 15-25)
"Thiên Chúa sẽ thăm viếng anh em, và dẫn anh em ra khỏi đất này".

 Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Giacóp trối lại cho các con rằng: "Cha sắp về sum họp cùng dân cha. Các con hãy chôn xác cha gần mồ cha ông, trong hang đôi ngoài cánh đồng của Êphron, người Hêthê, ngang thung lũng Mambrê trong đất Canaan, mà Abraham đã mua của Êphron, người Hêthê, để làm nghĩa trang. Nơi đó đã mai táng Abraham và bạn ông là Sara, nơi đó cũng đã mai táng Isaac và bạn ông là bà Rébecca, nơi đó cũng đã mai táng bà Lia". Trối cho các con xong, Giacóp rút chân lên giường và trút hơi thở, trở về sum họp với dân người.
Khi Giacóp đã qua đời, anh em của Giuse lo sợ và nói với nhau rằng: "Có khi Giuse còn nhớ sự sỉ nhục đã phải chịu mà trả đũa lại điều ác mà chúng ta đã làm chăng?" Họ liền sai người đến nói với Giuse rằng: "Trước khi chết, cha ngài đã trối lại cho chúng tôi là hãy lấy lời cha mà nói với người rằng: 'Cha xin con hãy quên tội ác và lỗi lầm của các anh con đã làm cho con'. Chúng tôi cũng xin ngài tha thứ tội ác của các tôi tớ Thiên Chúa của cha ngài". Nghe vậy, Giuse bật khóc lên. Các anh em của Giuse đến sấp mình xuống đất mà nói rằng: "Chúng tôi là tôi tớ của ngài". Giuse đáp rằng: "Anh em đừng sợ! Nào chúng ta có thể chống lại thánh ý Chúa sao? Các anh đã lo nghĩ sự dữ cho tôi, nhưng Thiên Chúa đã đổi nó ra sự lành để tôi được vinh hiển như anh em thấy hôm nay và để cứu sống nhiều dân tộc. Anh em đừng sợ, chính tôi sẽ nuôi dưỡng anh em và con cái anh em". Ông đã an ủi và lấy lời êm dịu hiền lành mà nói với anh em.
Giuse và gia quyến cha của ông đã cư ngụ trong nước Ai-cập, và ông sống được một trăm mười tuổi. Ông đã được thấy con cái của Ephraim đến ba đời. Con cái của Makir, là con của Manassê cũng đã sinh ra trên đầu gối Giuse. Các việc ấy đã qua đi, Giuse đã nói cùng anh em: "Sau khi tôi chết, Thiên Chúa sẽ thăm viếng anh em, và dẫn anh em ra khỏi đất này và đưa đến đất mà Người đã thề hứa ban cho Abraham, Isaac và Giacóp". Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 104, 1-2. 3-4. 6-7
Đáp: Các bạn khiêm cung, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh  (Tv 68, 33).

1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Người, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa.  -  Đáp.
2) Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn.  -  Đáp.
3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu.  -  Đáp.

ALLELUIA:  Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

PHÚC ÂM:  Mt 10, 24-33
"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
"Các con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời".  Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Ðừng Sợ Người Ðời

Mahatma Gandhi, nhà tranh đấu bất bạo động cho quyền con người và nền độc lập của Ấn Ðộ, đã có lần nhắn nhủ các môn sinh như sau: "Sự thật và tình thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ điều đó và hành động theo sự thật và tình thương. Ðừng bao giờ dùng bạo lực đáp trả bạo lực, vì làm như thế là bắt chước lối sống man rợ của những người dùng bạo lực. Khi dùng bạo lực, những người đó cho thấy nỗi thất vọng và trạng thái thú hóa của họ. Chúng ta hãy sống như con người. Những người dùng bạo lực có thể đánh đập và giết chết thân xác chúng ta, nhưng không thể giết được tinh thần và quyền lợi của chúng ta, họ không thể giết được sự thật. Sự thật và tình thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ kỹ và hãy sống theo sự thật và tình thương, bởi vì nếu sống theo bạo lực và hận thù, thì thế giới sẽ trở thành mù lòa".
Ðã từng vào tù ra khám, đã từng bị đánh đập hành hung, con người đã nói những lời trên đây chưa một lần tỏ ra sợ sệt. Ngày 30/01/1948, ông ngã gục vì nhát gươm của một người quá khích. Cái chết của ông là một cụ thể hóa của chính chủ trương bất bạo động mà ông đã đề ra.
Sẵn sàng chết để làm chứng cho sự thật và tình thương với niềm tin vào sự bất tử của linh hồn con người, Mahatma Gandhi dù chưa phải là Kitô hữu, nhưng đã sống theo lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay, đó là sống hiên ngang, không sợ hãi trước các cường lực sự dữ, không sợ hãi những người chỉ giết được thân xác, nhưng không làm gì được linh hồn; sống trung thực với phẩm giá của con cái Chúa, không để mình rơi vào tình trạng hóa thú và nô lệ cho bạo lực: "Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, mà không giết được linh hồn".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào thực tế cuộc sống và tỏ ra thái độ phù hợp với người có lòng tin. Từ chuyện phải vất vả kiếm sống đến chuyện tương lai của con cái và những khó khăn trong việc sống đạo, chúng ta được mời gọi để múc lấy ánh sáng của Tin Mừng và chiếu dọi vào những thực tế ấy. Là người Kitô hữu, tôi phải sống những thực tại ấy thế nào? Lý tưởng của tôi là tìm mọi cách để có nhiều của cải vật chất hay là tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính trước?
"Môn đệ không hơn Thầy, tôi tớ không hơn chủ". Chúa Giêsu đã đi con đường của nghèo khó, thua thiệt, bách hại, thập giá, tha thứ và tha thứ cho đến cùng. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ đề ra cho chúng ta một lý tưởng, một con đường để đi theo, Ngài chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta kết hiệp với Ngài, chúng ta sẽ được sức mạnh của Ngài để thắng vượt mọi gian nan thử thách. Chúng ta cũng tin rằng bên kia những hao mòn và chết chóc trong thân xác, tâm hồn chúng ta sẽ được mãi mãi kết hiệp với Ngài.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 14 TN1, Năm lẻ


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:Sự thật sẽ toàn thắng.

Thế gian là bãi chiến trường giữa sự thật và sự gian tà, giữa sự thiện và sự ác, giữa Thiên Chúa và ma quỉ, và giữa con cái ánh sáng và con cái của bóng tối. Thế gian dùng những thủ đọan và áp lực để gây đau khổ cho con cái của ánh sáng, làm cho họ sợ hãi và không dám sống cho sự thật. Thiên Chúa đòi con cái của Ngài đừng sợ hãi, hãy chấp nhận đau khổ và làm chứng cho sự thật. Ngài sẽ cho họ sức mạnh để thắng vượt gian khổ và chiến thắng khải hoàn.

Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong cuộc giao tranh này và những lời dạy quí hóa của Chúa Giêsu cho các môn đệ. Trong Bài Đọc I, vì tổ-phụ Jacob đã trung thành sống theo những gì Chúa răn dạy, nên Ngài đã bảo vệ ông cho đến lúc nhắm mắt lìa đời. Noi gương cha, Giuse cũng làm những gì Chúa và cha căn dặn, ông sẵn sàng tha thứ cho các anh em và cấp dưỡng cho gia đình họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải có 3 thái độ tối quan trọng để có thể rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Ngài: sẵn sàng chấp nhận đau khổ, không sợ hãi, và tuyệt đối tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I:

1.1/ Thiên Chúa luôn bảo vệ các tôi trung của Ngài: Sau khi đã đoàn tụ và sống bên con được ít lâu, ông Jacob biết sắp đến giờ ông phải từ biệt các con để ra đi. Ông cho gọi các con tới và truyền cho họ rằng: "Cha sắp được về sum họp với tổ tiên. Hãy chôn cất cha bên cạnh cha ông của cha, trong cái hang ở cánh đồng của ông Ephron, người Hittite, trong cái hang ở cánh đồng Machpelah, đối diện với Mamre, tại đất Canaan ... Ở đó đã chôn ông Abraham và vợ ông là bà Sarah; ông Isaac và vợ ông là bà Rebekah; ở đó cha đã chôn bà Leah." Khi truyền lệnh cho các con trai ông xong, thì ông Jacob rút chân lên giường; ông tắt thở và được về sum họp với tổ tiên.

Thiên Chúa đã hứa với Jacob trước khi xuống Ai-cập: Ngài sẽ bảo vệ ông và sẽ cho Giuse vuốt mắt ông trước khi lìa đời. Điều này đã hiện thực. Trong thị kiến cái thang, Thiên Chúa hứa với ông: "Này Ta ở với ngươi; ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta sẽ giữ gìn ngươi, và Ta sẽ đưa ngươi về đất này, vì Ta sẽ không bỏ ngươi cho đến khi Ta hoàn thành điều Ta đã phán với ngươi" (Gen 32:15). Ước nguyện của Jacob trước khi chết cũng thành hiện thực: Các con ông đem xác ông về chôn trong phần mộ của tổ tiên tại Hebron, vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

1.2/ Các anh vẫn không tin Giuse có thể tha thứ cho họ:

(1) Phản ứng của các anh: Các anh ông Giuse thấy cha mình đã chết thì bảo nhau: "Không khéo Giuse còn hận chúng ta và trả lại cho chúng ta tất cả điều ác chúng ta đã gây ra cho nó!" Vì thế, họ sai người đến nói với ông: "Cha của chú trước khi chết đã truyền rằng: Các con hãy nói thế này với Giuse: "Thôi! Xin con tha tội tha lỗi cho các anh con, vì họ đã gây ra điều ác cho con." Bây giờ xin chú tha tội cho các kẻ làm tôi Thiên Chúa của cha chú!" Sau đó, các anh ông đích thân đến cúi rạp xuống trước mặt ông và nói: "Này chúng tôi là nô lệ của chú."

(2) Phản ứng của Giuse: Ông Giuse muốn các anh nhận ra sự quan phòng của Thiên Chúa, nên ông nói với họ: "Đừng sợ! Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa! Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xảy ra hôm nay, là cứu sống một dân đông đảo. Bây giờ các anh đừng sợ, tôi sẽ cấp dưỡng cho các anh và con cái các anh." Ông an ủi và chuyện trò thân mật với họ.

Thiên Chúa có mắt, Ngài không bỏ các tôi tớ trung thành tin tưởng vào Ngài. Ông Giuse nói với các anh em: "Tôi sắp chết, nhưng thế nào Thiên Chúa cũng sẽ viếng thăm anh em và đưa anh em từ đất này lên đất mà Người đã thề hứa với ông Abraham, ông Isaac và ông Jacob."

2/ Phúc Âm: Không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ.

2.1/ Ba thái độ phải có của người môn đệ Đức Kitô: Để trở thành môn đệ trung thành của Đức Kitô, một người phải có ba thái độ sau:

(1) Sẵn sàng chấp nhận gian khổ: "Nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." Người môn đệ Đức Kitô chắc chắn sẽ bị người đời bắt bớ, vì họ đã từng bắt bớ và giết Ngài. Chúa Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải nhớ rõ điều này: "Trò không hơn thầy, đầy tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, đầy tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Beel-zebul, huống chi là người nhà."

Trong khi rao giảng hay làm việc tông đồ, người môn đệ chắc chắn sẽ gặp những người phê bình, chống đối, đe dọa và bắt bớ. Lý do đơn giản là người môn đệ nói những điều người đời không muốn nghe, và sự thật thì hay mất lòng. Một vài ví dụ dẫn chứng: người môn đệ nói phải tuyệt đối trung thành trong ơn gọi gia đình đang khi khán giả ngồi dưới đã từng ly dị; người môn đệ dạy phải hy sinh để báo hiếu cha mẹ đang khi khán giả gởi cha mẹ vào các viện dưỡng lão; người môn đệ dạy phải sinh con cái cho nhiều đang khi khán giả không muốn sinh thêm con.

(2) Không được sợ hãi người đời: Nếu người môn đệ sợ làm người đời mất lòng, sợ bị phê bình hay bị chống đối, người môn đệ sẽ không dám nói sự thật mà ông được kêu gọi để rao giảng; ngược lại, ông sẽ tìm cách nói những gì mà khán giả thích, cho dẫu những điều này không phải là những gì Chúa dạy. Đó là lý do Chúa Giêsu răn dạy các môn đệ: "Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng."

Khi làm chứng cho sự thật, các môn đệ sẽ phải trả giá đắt, có thể phải hy sinh cả tính mạng như trường hợp của các thánh tử đạo; nhưng các ngài sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho sự thật, vì các ngài tin Thiên Chúa sẽ trả lại thân xác vinh quang, và cho linh hồn các ngài được sống đời đời.

(3) Phải tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa: Để dạy các môn đệ điều này, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ: Thứ nhất, chim sẻ: Ngài nói: "Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ." Thứ hai, tóc trên đầu: Ngài nói: "Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi." Tóc trên đầu con người quá nhiều và rụng xuống hàng ngày. Nếu một sợi tóc vô nghĩa rơi xuống hàng ngày như vậy còn được Thiên Chúa quan tâm tới, huống hồ là số phận của những người môn đệ Chúa.

Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, đau khổ là phương tiện Thiên Chúa dùng để thử thách niềm tin yêu của con người dành cho Ngài. Nếu con người sợ hãi và trốn tránh đau khổ, con người không chứng minh niềm tin yêu của họ dành cho Ngài.

2.2/ Phần thưởng cho những môn đệ sống trung thành và làm chứng cho sự thật: Chúa Giêsu nói rõ ràng với các môn đệ: "Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời." Ngược lại, "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời." Người nào không dám tuyên xưng danh Thầy mình, không dám nói những sự thật Thầy dạy, người ấy không phải là môn đệ Đức Kitô. Trong Ngày Chung Thẩm, Đức Kitô cũng không nhận những người như thế trước mặt Cha của Ngài.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Đau khổ là khí cụ Thiên Chúa dùng để thử thách con người, chúng ta đừng sợ hãi cũng đừng trốn tránh đau khổ đến độ không dám tuyên xưng danh Chúa và làm chứng cho sư thật.

- Chúng ta hãy tuyệt đối tin tưởng nơi tình yêu của Thiên Chúa quan phòng, để luôn can đảm sống như những người con Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, và làm ích cho mọi người.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP




HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 14 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 10,24-33

A. Hạt giống...
Chúa Giêsu tiếp tục dạy các tông đồ về sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ngài báo trước là người tông đồ sẽ bị bách hại nhưng khuyến khích họ đừng sợ, vì những lý do sau :
- Lý do thứ nhất : khi chịu bách hại là họ được vinh dự chia sẻ thân phận của Thầy mình.
- Lý do thứ hai : những kẻ bách hại chỉ giết được thân xác nhưng không giết được linh hồn họ.
- Lý do thứ ba : người tông đồ còn được Chúa bảo vệ, bất cứ điều gì xảy đến cho họ cũng nằm sẵn trong kế hoạch quan phòng của Chúa.
- Lý do thứ tư : nếu họ vẫn trung thành và can đảm thì họ sẽ được phần thưởng là Chúa sẽ tuyên bố nhận họ là người của Ngài.

B.... nẩy mầm.
1. Khi thực sự yêu thương ai, người ta sẽ lấy làm sung sướng được chịu khổ vì người mình yêu. Các tông đồ đã sung sướng như thế (x. Cv 5,40-41). Xin cho con thêm tình yêu Chúa, đến độ cảm thấy vui mừng được chịu khổ vì Chúa.
2. “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy rằng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy rằng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy đấng ngự trên trời” : Ta tuyên bố nhận Chúa bằng một cuộc sống đạo mạnh dạn không sợ dư luận, bằng cách tận dụng những cơ hội tốt để nói về Chúa cho người khác hiểu, và bằng cách chọn lựa coi trọng những giá trị siêu nhiên hơn những giá trị tự nhiên.
3. Một người kia nói chuyện với Chúa về những giá trị. Anh hỏi Ngài :
- Giá trị một phút ở trên trời là bao nhiêu ?
- Một tỷ năm.
- Giá trị một xu trên trời là bao nhiêu ?
- Một tỷ đô la.
Anh liền xin : “Ngài có thể cho tôi một xu ?”
Chúa nói : “Đợi một phút”. (Góp nhặt)
4. Một sĩ quan người Anh có đức tin mạnh mẽ cùng gia đình xuống tàu để phục vụ ở một xứ xa. Tàu rời bến được vài ngày thì gặp bão. Mọi người rất sợ, nhưng vợ viên sĩ quan sợ hơn cả, còn ông thì bình thản như chẳng có gì xảy ra. Vợ ông trách là ông không quan tâm gì đến an nguy của vợ con. Ông không nói nhiều, vào phòng rồi quay trở ra với một thanh kiếm trong tay. Ông dí mũi kiếm vào ngực vợ. Lúc đầu bà tái mặt nhưng liền sau đó bỗng cười lớn tiếng không tỏ gì là sợ hãi nữa.
- Làm sao em có thể cười khi anh dí mũi kiếm vào ngực em ?
- Làm sao em sợ được khi lưỡi kiếm ấy ở trong tay một người rất thương em !
- Vậy tại sao em lại muốn anh sợ cơn bão này khi anh biết rằng nó ở trong tay của Cha anh là người hằng yêu mến anh ? (Góp nhặt)
5. “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ đã là khá lắm rồi” (Mt 10,24-25)
Lần kia tôi đang loay hoay tìm cách đưa một em trai độ lớp 8 đang bị bệnh về nhà, thì một chú xích lô đến can ngăn và kể rằng chú cũng có một người bạn chạy xích lô, lần nọ gặp một thanh niên bị xe đụng và đưa về nhà dùm. Vừa về đến nhà, thanh niên ấy nằm ngay đơ ra. Thế là cả nhà xúm lại đổ tội cho chú. Và chú bị tóm đưa vào đồn. Làm ơn mắc oán. Thật xót xa !
Chúa Giêsu cũng đã từng bị xử tệ như thế, và còn hơn thế nữa. Vậy tại sao tôi lại phải sợ, vì “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ đã là khá lắm rồi”. Thế mà bao lần một chút hiểu lầm đã làm tôi…..
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời này có lắm cái xấu và người xấu, nhưng bên cạnh đó còn có biết bao người đang cố gắng xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Xin cho con đừng bao giờ vì sợ người xấu mà quên cộng tác với người lành. (Hosanna)

 Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp.Cần Thơ

13/07/13 THỨ BẢY TUẦN 14 TN
Th. Henricô
Mt 10,24-33

ĐỪNG SỢ
“Anh em đừng sợ những kẻ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” (Mt 10, 28)
Suy niệm: Kinh nghiệm bản thân của các Tông Đồ khi loan báo Tin Mừng cho Giáo Hội tiên khởi bị bách hại cho thấy có ba lý do để không sợ hãi. Một là Nước Thiên Chúa xuất hiện làm ta phấn khởi tin tưởng. Hai là những kẻ bách hại ta không thể hủy diệt sự sống thật của ta. Ba là Thiên Chúa hằng gìn giữ lo lắng cho chúng ta. Làm chứng nhân cho Tin Mừng là bản chất của sứ vụ tông đồ. Người tông đồ phải coi trọng giá trị thiêng liêng và liên kết với Đức Giêsu, Đấng sẽ bảo vệ họ trước mặt Thiên Chúa Cha.
Mời Bạn: Con người thường sợ hãi trước dư luận, sợ mất danh dự, sợ mất quyền lợi, sợ mất mạng sống. Vấn đề đặt ra vẫn là chúng ta sợ hay tin, vì ở đâu có sợ, ở đấy chưa có tin. Ở đâu còn nghi ngờ về tương lai, ở đấy còn ngờ vực Thiên Chúa không quan tâm đến chúng ta. Không sợ có nghĩa là vững tin giữa cơn phong ba cuộc đời. Dù bản chất ta yếu đuối nhát sợ, ta vẫn có chỗ trong công việc truyền giáo. Loan báo Tin Mừng đòi ta can đảm và biết kín múc sức mạnh từ nơi Thiên Chúa.
Chia sẻ: Trước thực tại xã hội nhiều phức tạp, bạn có dám đối mặt, dám bơi ngược dòng xu hướng thời đại để trung tín với con đường của Chúa không?
Sống Lời Chúa: Mạnh dạn nói về Chúa cho người chung quanh và làm chứng cho Chúa bằng một đời sống Kitô hữu chân chính.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa và hiên ngang sống đức tin trong đời thường của chúng con.


Anh em đừng sợ
Người Kitô hữu được giải phóng khỏi những nỗi sợ đeo đẳng. Họ chẳng còn sợ ai, ngoài Thiên Chúa. Vấn đề không phải là trở nên vô cảm, không biết sợ là gì. Nhưng là biết sợ ai. 


Suy nim:
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng lo (c.19).
Hôm nay ba lần Ngài nhắc chúng ta đừng sợ kẻ bách hại (cc. 26. 28.31).
Cuộc sống con người bị trói buộc bởi những nỗi sợ,
có lý và vô lý, đến từ bên ngoài hay từ bên trong trái tim.
Càng văn minh con người càng có nhiều nỗi sợ mới.
Nỗi sợ làm người ta mất tự do, mất bình an, mất vui…
“Đừng sợ” là điệp khúc trấn an được Đức Giêsu nhắc lại nhiều lần.
Đừng sợ, Simon, khi Thầy gọi anh đi theo (Lc 5, 10).
Đừng sợ khi Thầy đi trên mặt nước mà đến (Mt 14, 27).
Đừng sợ sau khi thấy Thầy được biến hình (Mt 17, 7).
Đừng sợ, Giairô, dù con gái ông đã chết (Mc 5, 36).
Đừng sợ, hỡi các phụ nữ, khi gặp Thầy phục sinh (Mt 28, 10).
Nỗi sợ có vẻ gắn liền với phận người mong manh.
Nhưng Đức Giêsu muốn giải phóng chúng ta khỏi mọi nỗi sợ.
Có người môn đệ sợ bị mất mạng, đến nỗi không dám rao giảng,
không dám tuyên nhận Thầy trước mặt người đời.
Đức Giêsu mời các môn đệ nói công khai giữa ban ngày, trên mái nhà,
điều mình nghe Thầy thì thầm trong đêm khuya (c. 27).
Họ không được giữ riêng cho mình điều đã lãnh nhận.
Đừng sợ cái giá phải trả cho việc rao giảng, làm chứng cho Thầy,
vì có điều gì còn quý hơn cả sự sống thân xác nữa (c. 28).
Trong Vườn Dầu, Đức Giêsu cũng sợ chết, vì Ngài còn quá trẻ.
Nhưng Ngài đã không để cho nỗi sợ thắng mình,
khi dám nói tiếng xin vâng, buông đời mình trong tay Cha.
Cha lo cho cả những sinh vật bé nhỏ, tưởng như vô giá trị.
Chim sẻ là thức ăn rẻ tiền nhất vào thời Đức Giêsu.
Tiền lương một ngày mua được ba chục con chim sẻ.
“Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha” (c. 29).
Cả đến sợi tóc của trên đầu chúng ta cũng được Thiên Chúa đếm (c. 30).
Dù một sợi cũng được Thiên Chúa giữ gìn (Lc 21, 18).
Chính vì thế người Kitô hữu được giải phóng khỏi những nỗi sợ đeo đẳng.
Họ chẳng còn sợ ai, ngoài Thiên Chúa.
Vấn đề không phải là trở nên vô cảm, không biết sợ là gì.
Nhưng là biết sợ ai.
“Mày cùng chịu một án phạt mà không biết sợ Thiên Chúa ư?”
Anh trộm lành đã nói với người kia như vậy (Lc 23, 40).
Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những nỗi sợ vu vơ,
để chúng ta được tự do, biết lo điều phải lo, biết sợ điều phải sợ.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.

Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.

Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.

Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy niệm
Bài Tin mừng tường thuật về việc Chúa Giêsu khuyên các môn đệ đừng sợ trước thế gian và trước những thế lực bách hại khi loan báo Tin mừng. Hãy can đảm để tuyên xưng niềm tin của mình.
Dẫu cho trong công cuộc loan báo tin mừng luôn có những cuộc bách hại, nhưng người môn đệ vẫn tin chắc rằng: Thiên Chúa sẽ chứng kiến và lo cho, nên người môn đệ mạnh dạn tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu.
Xưng là làm chứng công khai, bằng hành động, và liên kết số phận mình với số phận Đức Giêsu, dầu phảiđổ máu. Tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia và là Chúa. Còn chối là nói: tôi không biết người ấy.
Xưng hay chối sẽ đưa đến hậu quả khác nhau. Những ai xưng Người thì Người sẽ thừa nhận họ là người nhà trước mặt Chúa Cha; còn những ai chối Người thì Người cũng sẽ chối họ trước mặt Chúa Cha, sẽ nói rằng “tôi không biết các ông”.
Ông Giuđa Ítcariốt và thánh Phêrô đã chối Chúa. Nhưng lại có kết quả khác nhau: ông Giuđa không biết ăn năn, không tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa nên đã đi tự tử. Còn thánh Phêrô đã được tha thứ, vì ông biết ăn năn hối cải.
Thiên Chúa không ép buộc, nhưng luôn để cho con người tự do chọn lựa. Chọn lựa đúng thì được đón nhận phần thưởng, chọn lựa sai thì phải nhận lấy hình phạt.
Lạy Chúa Giêsu, ơn đức tin thật là cần thiết cho chúng con, chỉ có đức tin mạnh mới đủ can đảm tuyên xưng niềm tin vào Chúa trước mọi thử thách, trước những cám dỗ của thế gian. Xin ban thêm đức tin cho chúng con, để suốt cuộc đời không bao giờ lìa xa Chúa, không bao giờ chối bỏ Chúa trước những lời mời gọi thấp hèn, nhưng luôn tin tưởng và tín thác vào Chúa.
Lm Seoka
và 2 thầy dòng tiểu đệ Gioan Tẩy Giả

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Bảy

13 THÁNG BẢY

Sự Tự Do Của Con Người Diễn Tả Sự Khôn Ngoan Của Thiên Chúa

Ở đây, khi đối diện với kế hoạch sáng tạo từ đời đời của Thiên Chúa, chúng ta đứng trước một mầu nhiệm lạ lùng và khôn dò. Mầu nhiệm đó chính là mối quan hệ mật thiết giữa các hành động của Thiên Chúa và những quyết định của con người.
Chúng ta biết rằng sự tự do chọn lựa là khả năng tự nhiên của một tạo vật có lý trí. Kinh nghiệm cũng cho chúng ta biết rằng tự do của con người là cái có thực – ngay cả khi nó bị làm cho thương tổn và suy yếu đi bởi tội lỗi. Về mối quan hệ giữa sự tự do của con người với hành động của Thiên Chúa, chúng ta nên nhìn trong ánh sáng của những gì mà Thánh Tô-ma Aquinô đã nói về sự quan phòng thần linh. Thánh Tô-ma mô tả sự tự do của con người như biểu hiện của sự khôn ngoan Thiên Chúa – sự khôn ngoan xếp đặt và hướng dẫn mọi sự đạt đến mục tiêu của chúng (cf. Tổng Luận Thần Học I,22,1). Tất cả những gì được Thiên Chúa tạo thành đều nhận sự hướng dẫn này, và trở thành đối tượng của sự quan phòng thần linh (vs. 2).
Qua con người – được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa – tất cả thế giới tạo vật hữu hình tiến tới gần Thiên Chúa và tìm thấy con đường đưa dẫn chúng đến sự thành toàn cuối cùng. Quan niệm này được diễn tả bởi nhiều người khác nữa, trong đó có Thánh I-rê-nê và được phản ảnh bởi giáo huấn của Công Đồng Vatican II về tác động phát triển thế giới của con người (MV 7). Nói tắt, sự phát triển hay sự tiến bộ đích thực mà con người được mời gọi thực hiện trong thế giới không được phép chỉ hạn định trong phương diện kỹ thuật, mà phải bao gồm phương diện đạo đức nữa. Đây là điều kiện thiết yếu để xây dựng Nước Thiên Chúa trong thế giới thụ tạo này (MV các số 35,43,57,62).

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình

Thánh Henricô
St 49, 29-32; 50, 15-26a; Mt 10, 24-33


LỜI SUY NIỆM: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33)

Sau khi Chúa Giêsu nhấn mạnh quyền năng của Chúa Cha  trong việc thưởng phạt nhân loại. Chúa Giêsu đòi hỏi những kẻ tin vào Ngài, cần phải tuyên xưng đức tin của mình trước mặt thiên hạ. Điều này không chỉ là phải công khai tuyên bố đức tin của mình khi cần thiết; nhưng luôn còn phải tuyên xưng bằng cách sống hằng ngày của mình với đồng loại, nơi mình đang sống, đang làm việc, và sinh hoạt, đúng với Giáo huấn của Chúa Giêsu. Khi đó chúng ta mới được Ngài tuyên xưng chúng ta trước mặt Chúa Cha, để hưởng hạnh phúc đời đời. Nếu chúng ta mang Danh Ngài mà còn sợ, còn che giấu, còn thỏa hiệp với sự dữ, thì Ngài sẽ chối bỏ chúng ta trước mặt Chúa Cha.

Mạnh Phương

13 Tháng Bảy

Niềm Vui Và Kho Tàng

Theo một bảng thống kê thì hằng năm tại Hoa Kỳ, có khoảng 60 triệu toa bác sĩ cho mua thuốc Valium. Valium hiện nay được xem là loại thuốc an thần công hiệu nhất.
Nói chung, xem chừng như văn minh càng tiến bộ, con người càng bất an. Niềm vui đích thực trong tâm hồn dường như đã vỗ cánh bay xa.
Nhưng an bình và vui tươi là vấn đề sống còn của con người. Ðạt được tất cả, có tất cả nhưng không có niềm vui trong tâm hồn, thì sống như thế chẳng khác nào như một thây chết.
Người Ai Cập thời cổ tin rằng khi chết con người phải trình diện trước thần Osires để trả lời cho hai câu hỏi: "Ngươi có tìm thấy niềm vui không? Ngươi có mang lại niềm vui cho người khác không?". Số phận đời đời của họ tùy thuộc vào cách họ trả lời cho hai câu hỏi ấy.
Số phận đời đời của con người, tương quan của con người với Thiên Chúa tùy thuộc ở niềm vui của họ trong cuộc sống này.
Một ngày kia, người ta hỏi nhạc sĩ Franz Joseph Haydn tại sao nhạc tôn giáo của ông lúc nào cũng vui tươi? Nhà nhạc sĩ tài ba của thế kỷ thứ 18 đã trả lời như sau: "Tôi không thể làm khác hơn được. Tôi viết nhạc theo những cảm xúc của tôi. Khi tôi nghĩ về Chúa, trái tim tôi tràn ngập niềm vui đến nỗi các nốt nhạc như nhảy múa trước ngòi bút của tôi". Người tín hữu Kitô, theo định nghĩa, không thể không là người của niềm vui. Họ phải vui mừng bởi vì Thiên Chúa chính là gia nghiệp của họ, bởi vì tâm hồn của họ luôn có Chúa.
Trong quyển sách có tựa đề "Những sự thuộc về Chúa Thánh Thần", Ðức Gioan Phaolô II đã viết như sau: "Ðức Kitô đến để mang lại niềm vui: niềm vui cho con cái, niềm vui cho cha mẹ, niềm vui cho gia đình và bạn hữu, niềm vui cho công nhân và trí thức, niềm vui cho người bệnh tật, già cả, niềm vui cho toàn nhân loại. Theo đúng nghĩa, niềm vui là trọng tâm của sứ điệp Kitô và ý lực của Phúc Âm. Chúng ta hãy là sứ giả của niềm vui".

Nhưng niềm vui không phải là một kho tàng có sẵn: nó đòi hỏi phải được kiến tạo. Người ta kiến tạo niềm vui bằng cách làm cho người khác được vui. Càng chia sẻ, càng trao ban, niềm vui càng lớn mạnh.
Mỗi ngày chúng ta van xin người khác không biết bao nhiêu lần: xin vui lòng. Chúng ta xin người "vui lòng", nhưng chúng ta lại không muốn làm cho lòng mình vui lên. Nếu chúng ta muốn người khác "vui lòng" để ban ân huệ cho chúng ta, thì có lẽ chúng ta phải làm cho lòng mình vui lên bằng bộ mặt vui tươi hớn hở của chúng ta, bằng những chia sẻ vui tươi của chúng ta, bằng những nụ cười vui tươi của chúng ta, bằng những chịu đựng vui tươi của chúng ta.


(Lẽ Sống)
Thứ Bẩy 13-7
Thánh Henry II
(972-1024)

T
hánh Henry thuộc dòng dõi nhà vua mà cha là Công Tước xứ Bavaria, mẹ là công chúa xứ Burgundy. Ngay từ nhỏ, ngài được sự dạy bảo kỹ lưỡng của Thánh Wolfgang, là Giám Mục của Ratisbon. Năm 995, ngài kế vị cha làm Công Tước xứ Bavaria và năm 1002, sau khi người bác là Vua Otto III từ trần, ngài lên ngôi hoàng đế nước Ðức.
Vua Henry rất để ý đến hạnh phúc của người dân. Ðể bảo vệ công chính, nhiều lần ngài phải dẫn quân đi chiến đấu với các kẻ thù ở trong cũng như ngoài nước. Các chiến thắng không làm ngài tự đắc trở nên vô tâm mà ngài rất độ lượng và khoan hồng với kẻ thù.
Khoảng năm 998, ngài lập gia đình với một phụ nữ thánh thiện là Cunegundes. Sau này bà cũng được tuyên xưng là thánh. Vào năm 1014, cả hai người được ban thưởng cho danh hiệu hoàng đế và hoàng hậu của Thánh Ðế Quốc Rôma. Ðây là một vinh dự lớn lao vì chính Ðức Giáo Hoàng Bênêđích VIII đã đội vương miện cho hai người.
Tuy thừa hưởng tất cả những giầu sang và quyền thế ở trong tay, Hoàng Ðế Henry luôn nhớ đến các chân lý vĩnh cửu và suy niệm trong lòng. Thay vì đi tìm các vinh dự chóng qua của trần thế, ngài để ý đến những công việc làm vinh danh Thiên Chúa, trong đó sự thịnh vượng của Giáo Hội cũng như duy trì kỷ luật trong hàng giáo sĩ là điều ngài lưu tâm. Có lần ngài ao ước được từ chức để sống như một đan sĩ, nhưng theo lời khuyên bảo của đan viện trưởng ở Verdun, ngài đã ở lại ngôi vị.
Trong thời gian trị vì, ngài thành lập rất nhiều đoàn thể đạo đức, xây dựng nhiều cơ sở sinh hoạt tâm linh cũng như các đan viện và nhà thờ mới.
Ngài từ trần năm 1024, khi mới năm mươi hai tuổi và được phong thánh năm 1146.
Lời Bàn
Gương mẫu đời sống của Thánh Henry khiến chúng ta phải nhìn lại sự bận rộn của đời sống chúng ta. Có ai bận rộn bằng một ông vua, nhưng Hoàng Ðế Henry vẫn dành thời giờ cho Thiên Chúa trong sự suy niệm và sinh hoạt đạo đức. Noi gương Thánh Henry, chúng ta nên sắp xếp thời giờ để hàng ngày trở về với nguồn sinh lực của chúng ta, là Thiên Chúa toàn năng.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét