ĐỌC
THÔNG ĐIỆP ÁNH SÁNG ĐỨC TIN (LUMEN FIDEI)
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
CHƯƠNG 1 VÀ 2
Ngay từ khi bắt đầu Năm
Đức Tin, nhiều người đã dự đoán và mong chờ một thông điệp về Đức tin. Dự đoán
ấy dường như không thành hiện thực khi Đức nguyên giáo hoàng Bênêđictô XVI đưa
ra quyết định từ nhiệm. Thế nhưng cuối cùng Đức giáo hoàng Phanxicô cũng chính
thức ban hành thông điệp Lumen fidei vào ngày
29-6-2013, và ngài nói rõ: Đức Bênêđictô XVI “hầu như đã hoàn tất bản thảo đầu
tiên” và “tôi thêm vào một ít đóng góp của mình” (số 7). Như thế, thông điệp
này ghi dấu ấn của hai vị giáo hoàng, lại được công bố vào ngày kính trọng thể
hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Chọn lựa ấy làm nổi bật sự liên tục và duy
nhất trong giáo huấn của Hội Thánh, từ thời các Tông đồ đến ngày nay. Bài viết
này không chỉ tóm lược nội dung nhưng mong muốn tìm hiểu diễn tiến tư tưởng của
thông điệp.
Tựa đề của thông điệp – Ánh
sáng đức tin – đã muốn giới thiệu đức tin như ánh sáng,
“ánh sáng soi chiếu toàn bộ hành trình của các tín hữu” (số 1). Thế nhưng ánh
sáng ấy đang bị đặt thành nghi vấn, bị cho là vô dụng trong thời đại mới, khi
nhân loại đạt đến tuổi trưởng thành của lý trí. Tắt một lời, phải chăng đức tin
chỉ là “ánh sáng ảo”, và ảo tưởng ấy “ngăn cản con đường hướng đến tương lai
của một nhân loại được giải phóng” (số 2)?
Đối diện thách đố ấy,
nhiều người tìm cách cứu vãn đức tin bằng cách trình bày đức tin như thứ ánh
sáng chủ quan, dựa trên cảm xúc cá nhân hơn là lý trí. Tuy nhiên, theo cách
trình bày đó, đức tin không còn là chân lý khách quan, có thể chia sẻ cho người
khác và soi sáng cho đời sống. Hậu quả là một đàng, lý trí ở tự nó không thể
soi tỏ tương lai, đàng khác, nó lại phủ nhận đức tin; do đó người ta không còn
quan tâm tìm kiếm nguồn sáng vĩ đại nữa (số 3).
Chính vì thế, cần phải
tái khám phá đức tin như ánh sáng đến từ Thiên Chúa, “soi chiếu mọi mặt của
hiện hữu nhân sinh”. Đức tin ấy phát sinh từ sự gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống,
Đấng kêu gọi và bày tỏ tình yêu của Ngài với toàn thể tạo thành. Đức tin ban
tặng các tín hữu cặp mắt mới để nhìn mọi sự và hướng dẫn hành trình đời sống
của họ trong ánh sáng mới. Ánh sáng ấy một đàng đến từ quá khứ vì chúng ta đón
nhận từ Chúa Giêsu; đàng khác, ánh sáng ấy lại đến từ tương lai vì Đức Kitô là
Đấng Phục sinh và Người dẫn chúng ta vượt qua cả sự chết (số 4). Hiểu như thế,
đức tin được ví như một người mẹ đã dẫn chúng ta đến với ánh sáng và sinh hạ
chúng ta trong đời sống mới (số 5). Hành trình tái khám phá ánh sáng đức tin
được thông điệp khai triển qua 4 chương:
– Chương một: Chúng tôi
đã tin vào tình yêu (số 8-22);
– Chương hai: Nếu các
ngươi không tin, các ngươi sẽ không hiểu (số 23-36);
– Chương ba: Tôi truyền
lại cho anh em điều tôi đã lãnh nhận (số 37-49);
– Chương bốn: Thiên Chúa
chuẩn bị cho họ một thành đô (số 50-60).
Chương một: Chúng tôi đã tin vào tình yêu (x. 1Ga 4,16)
Hành trình tái khám phá
ánh sáng đức tin được thực hiện trước hết bằng cách nhìn lại nẻo đường mà các
chứng nhân đức tin trong Cựu Ước đã đi qua. Ở đó nổi bật khuôn mặt của Abraham,
tổ phụ của chúng ta trong đức tin (số 11). Với Abraham, tin gắn liền
với lắng nghe và bước vào mối quan hệ cá vị với Thiên Chúa. Lời mà Abraham nghe
được vừa là tiếng gọi vừa là lời hứa. Đó là tiếng gọi lên đường, hướng đến một
tương lai không thấy trước. Đó còn là lời hứa làm cho ông thành cha của một dân
đông đảo. Abraham được yêu cầu phải tuyệt đối tín thác vào lời ấy, và tin chính
là đón nhận lời ấy như tảng đá vững chắc. Trong Kinh Thánh, từ “đức tin” vừa có
nghĩa là sự trung tín của Thiên Chúa vừa có nghĩa là niềm tin của con người.
Đấng Thiên Chúa đòi hỏi nơi Abraham sự tín thác tuyệt đối chính là cội nguồn sự
sống, cội nguồn mọi hiện hữu.
Tiếp nối đức tin của
Abraham, lịch sử dân Isarel là một hành trình dài được dệt
bằng niềm tín thác vào Đấng giải thoát họ khỏi cảnh khốn cùng và dẫn đưa họ đến
miền Đất hứa (số 12). Những kỳ công của Chúa được nhắc nhớ, cử hành trong phụng
tự và truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tuy nhiên lịch sử Israel cũng
cho thấy cơn cám dỗ của bất tín, bất trung, qua việc thờ ngẫu tượng (số 13).
Sâu xa trong việc thờ ngẫu tượng là ước muốn lấy bản thân mình làm trung tâm và
thờ phượng những công trình của chính mình. Đức tin chân chính chống lại các
ngẫu tượng, vì đức tin hệ tại ở chỗ chấp nhận để cho tiếng gọi của Thiên Chúa
không ngừng biến đổi và canh tân con người chúng ta. Trong lịch sử dân Isarel, Môsê nổi
bật lên như vị trung gian (số 14). Cùng với Môsê, Israel tập sống đức tin không
chỉ như một hành vi cá nhân nhưng còn như một dân.
Tất cả Cựu Ước dẫn chúng
ta đến với Đức Kitô là tâm điểm của đức tin Kitô giáo (số 15).
Nơi Đức Kitô, mọi lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện, sự khả tín của Thiên
Chúa được đóng dấu, và tình yêu của Ngài được bày tỏ trọn vẹn. Chính vì thế,
đức tin Kitô giáo là tin vào một tình yêu tuyệt hảo, tình yêu làm nền tảng cho
mọi thực tại và dẫn đưa nó đến vận mệnh tối hậu. Bằng chứng rõ ràng nhất về
tình yêu tuyệt hảo ấy là Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Người đã hiến dâng sự
sống cho mọi người, kể cả kẻ thù, để biến đổi con tim của họ. Sự hiến dâng và
trao ban trọn vẹn của Đức Kitô vượt lên mọi nghi nan và làm cho chúng ta có thể
phó thác hoàn toàn cho Chúa (số 16). Hơn thế nữa, sự phục sinh của Đức Kitô là
bằng chứng thuyết phục về quyền năng của tình yêu Thiên Chúa (số 17). Chính vì
thế, thánh Phaolô nói, “Nếu Đức Kitô không sống lại, đức tin của anh em thật
hão huyền” (1Cor 15,17). Cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô không phải là
chuyện tưởng tượng nhưng đã diễn ra trong lịch sử này, vì thế người Kitô hữu
không tin vào một tình yêu mơ hồ, trừu tượng, nhưng là tình yêu đang có mặt
trong lịch sử và uốn nắn lịch sử này, một tình yêu được bày tỏ trọn vẹn nơi cái
chết và sự phục sinh của Đức Kitô.
Với các Kitô hữu, Đức
Kitô không chỉ là Đấng chúng ta tin, nhưng còn là Đấng mà chúng ta kết hợp với Người
để tin. Đức tin cũng không chỉ là nhìn vào Chúa Giêsu mà còn là nhìn mọi sự như
Người nhìn. Cho nên tin vào Chúa Giêsu là đón nhận Người vào trong cuộc đời
mình, gắn bó với Người trong tình yêu và bước theo Người (số 18). Nói theo ngôn
ngữ của thánh Phaolô, các tín hữu trở thành những tạo thành mới, “những người
con trong Chúa Con” và được gọi Thiên Chúa là Cha. Ơn cứu độ nhờ đức
tin là ở đây. Niềm tin vào Đức Kitô mang lại ơn cứu độ vì trong Người,
cuộc đời chúng ta thật sự mở ra đón nhận một tình yêu vốn có trước chúng ta,
một tình yêu biến đổi chúng ta từ bên trong, hoạt động trong và qua chúng ta
(số 19,20).
Được tình yêu biến đổi,
đời sống Kitô hữu mở rộng ra thành đời sống trong Giáo Hội. Đức Kitô quy tụ tất
cả những ai tin vào Người thành một thân thể, trong đó họ kết hợp với Người và
với nhau. Cho nên đức tin Kitô giáo luôn mang chiều kích Giáo Hội chứ không chỉ
đơn thuần là chuyện riêng tư của mỗi cá nhân.
Chương hai: Nếu các ngươi không tin, các ngươi sẽ không hiểu (x.
Is 7,9)
Tin và hiểu, đức
tin và chân lý, đây là nội dung được nhấn mạnh và triển khai trong chương
hai, cũng là vấn đề cần được quan tâm trong thế giới ngày nay do cuộc khủng
hoảng về chân lý. Ngày nay dường như người ta chỉ nhìn nhận chân lý duy nhất là
chân lý kỹ thuật: chân lý là cái gì đem lại sự thoải mái tiện nghi cho đời
sống. Người ta quan tâm đến những chân lý chủ quan của mỗi cá nhân, còn chính
Chân Lý (viết hoa) thì bị lãng quên. Hậu quả là rơi vào chủ nghĩa tương đối,
trong đó câu hỏi về chân lý phổ quát, chân lý về Thiên Chúa, bị loại trừ (số
25). Vậy đức tin Kitô giáo có thể cung cấp nẻo đường đúng đắn dẫn đến chân lý
không?
Khởi đi từ việc phân
tích từ ngữ trong Isaia 7,9 ở hai bản văn Hípri và Hi Lạp, thông điệp khẳng
định: không có nhận thức và chân lý, chúng ta không thể đứng vững và đi tới.
Đức tin không có chân lý thì không thể cứu độ, không thể cung cấp nền tảng vững
chắc (số 24). Nhưng trong hành vi đức tin có một loại nhận thức là nhận
thức của con tim. Trái tim là tâm điểm của con người, nơi chúng ta mở ra
đón nhận chân lý và tình yêu, và để cho mình được biến đổi cách sâu xa. Sự hiểu
biết của đức tin phát sinh khi chúng ta đón nhận tình yêu vô biên của Thiên
Chúa, tình yêu biến đổi chúng ta từ bên trong và làm cho ta nhìn thực tại bằng
cặp mắt mới (số 26). Nói đến tình yêu, cần khẳng định rằng tình yêu không chỉ
là cảm xúc chóng qua nhưng tình yêu gắn với chân lý. Nếu không gắn với chân lý,
tình yêu chỉ còn là cảm xúc và không đứng vững nổi trước thử thách của thời
gian. Không có chân lý, tình yêu không thể thiết lập mối quan hệ vững bền,
không thể giải thoát chúng ta khỏi cái tôi ích kỷ, không thể ban tặng sự sống
và hoa trái. Ngược lại, chân lý cần đến tình yêu. Không có tình yêu, chân lý
trở thành khô khan, vô ngã và nặng nề (số 27). Đức tin Kitô giáo bao hàm cả
tình yêu và chân lý. Tin là tin vào Đấng Thiên Chúa trung tín (trong Kinh
Thánh, chân lý và trung tín đi đôi với nhau) với giao ước tình yêu Ngài đã ký
kết (số 28).
Ngôn ngữ Kinh Thánh,
cách riêng Tin Mừng Gioan, diễn tả đức tin bằng hai động từ: nghe và
thấy. Tin là nghe tiếng gọi của một Đấng và bước vào mối quan hệ với Ngài,
đồng thời đức tin mở mắt chúng ta để “thấy” mọi sự trong ánh sáng mới. Sự kết
hợp giữa nghe và thấy được thể hiện trọn vẹn nơi Chúa Giêsu, Đấng chúng ta nghe
và thấy được, Đấng là “Ngôi Lời đã làm người… và chúng tôi đã thấy vinh quang
của Người” (Ga 1,14). Nơi Người, chân lý không còn là chân lý trừu tượng nhưng
hóa thành nhục thể mà chúng ta nghe, thấy, và hơn nữa, sờ được! (số 30,31).
Từ đó, các Kitô hữu hiểu
được tầm quan trọng của cuộc đối thoại và mối quan hệ giữa đức tin và
lý trí (số 32-34). Ngày nay chân lý thường bị giảm thiểu thành khẳng
định chủ quan của mỗi cá nhân. Thế nhưng nếu chân lý thật sự là chân lý của
tình yêu, thì chân lý ấy phải giải thoát chúng ta khỏi vòng vây của sự ích kỷ
cá nhân và hướng đến ích chung; đồng thời có thể thấm nhập cõi lòng sâu xa nơi
mỗi con người. Niềm tin vào chân lý ấy soi sáng mọi thực tại đời sống, do đó
đức tin không loại trừ khoa học nhưng đem lại lợi ích cho khoa học: đức tin
thúc đẩy nhà khoa học mở ra trước thực tại vô cùng phong phú, ngăn cản thái độ
tự mãn trong khoa học để không ngừng khám phá huyền nhiệm sâu xa của tạo thành.
Ánh sáng đức tin cũng
soi chiếu con đường của tất cả những ai đang thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, do
đó góp phần tích cực vào cuộc đối thoại giữa các tôn giáo (số
35). Thiên Chúa là ánh sáng và những ai thành tâm tìm kiếm sẽ gặp được Ngài.
Hình ảnh ba đạo sĩ trong Tin Mừng Matthêu diễn tả con người tôn giáo là người
đang trên đường đi, sẵn sàng ra khỏi bản thân để tìm kiếm Đấng Thiên Chúa của
những bất ngờ. Với các Kitô hữu, trọn vẹn ánh sáng của Thiên Chúa được tập
trung nơi Đức Kitô, do đó người Kitô hữu càng đón nhận ánh sáng Đức Kitô thì họ
càng có khả năng hiểu biết và đồng hành với những ai đang tìm kiếm Chúa. Trong
số đó có cả những người tuy không thuộc tôn giáo nào nhưng vẫn khao khát tin và
tiếp tục kiếm tìm. Nếu họ chân thành mở ra với tình yêu và lên đường bước theo
ánh sáng, thì họ đã ở trên đường dẫn đến đức tin rồi, dù không nhận biết.
Trong sự tìm kiếm Thiên
Chúa, thần học đóng vai trò quan trọng vì thần học không ngừng
đào sâu hiểu biết về Thiên Chúa (số 36). Tuy nhiên, không thể làm thần học mà
không có đức tin, bởi lẽ thần học là một thành phần của chính tiến trình đức
tin. Thiên Chúa không chỉ là một đối tượng để nghiên cứu nhưng là Đấng tỏ mình
ra trong một tương quan liên vị. Vì thế thần học phải khiêm tốn để cho Thiên
Chúa chạm đến, nhìn nhận những giới hạn của mình trước mầu nhiệm, đồng thời cố
gắng tìm hiểu mầu nhiệm ấy bằng phương pháp riêng của lý trí. Thần học cũng
mang chiều kích Giáo hội, do đó một đàng thần học phải phục vụ đức tin của các
tín hữu, đàng khác phải nhìn nhận Huấn quyền như thành tố thiết yếu trong suy
tư và nghiên cứu của mình.
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét