Trang

Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2013

14-07-2013 : (phần 1) CHÚA NHẬT XV MÙA THƯỜNG NIÊN năm C

Chúa Nhật Ngày 14/07/2013
Tuần 15 Mùa Thường Niên Năm C
(Phần I)


BÀI ĐỌC I:  Đnl 30, 10-14
"Lời ở sát bên các ngươi, để các ngươi thực thi".

 Trích sách Đệ Nhị Luật.
Môsê nói cùng dân chúng rằng: "Nếu các ngươi nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ các giới răn và huấn thị của Người đã được ghi chép trong sách Luật này, hãy trở về cùng Chúa là Thiên Chúa các ngươi hết lòng và hết linh hồn các ngươi. Thánh chỉ ta truyền cho các ngươi hôm nay không quá khó khăn cũng không quá sức các ngươi. Nó không phải ở đâu trên trời, để các ngươi có thể nói: 'Ai trong chúng tôi có thể lên trời mang luật xuống giảng cho chúng tôi nghe để chúng tôi thực hành được?' Nó cũng không phải ở bên kia biển, để các ngươi viện lẽ nói rằng: 'Ai trong chúng tôi có thể vượt biển, và mang nó về cho chúng tôi, để chúng tôi được nghe và thực hành điều đã truyền dạy?' Nhưng lời ở sát bên các ngươi, nơi miệng các ngươi, trong lòng các ngươi, để các ngươi thực thi".  Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 68, 14 và 17. 30-31. 33-34. 36ab và 37
Đáp: Các bạn khiêm cung, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh (c. 33).

1) Lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa, ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. Lạy Chúa, xin nhậm lời con vì lòng khoan nhân trắc ẩn, theo lượng cả đức từ bi, xin nhìn đến tấm thân con.
2) Phần con, con đau khổ cơ hàn, lạy Chúa, xin gia ân phù trợ bảo toàn thân con. Con sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với bài tri ân.
3) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù.
4) Vì Thiên Chúa sẽ cứu độ Sion, Người sẽ tái thiết thành trì của Giuđa, con cháu của bầy tôi Chúa sẽ thừa hưởng đất này, và tại đây những người yêu danh Chúa sẽ định cư.

BÀI ĐỌC II:  Cl  1, 15-20
"Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Đức Giêsu Kitô là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi tạo vật; vì trong Người muôn loài trên trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình, dù là các Bệ thần hay Quản thần, dù là Chủ thần hay Quyền thần: Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người. Và Người có trước mọi loài và mọi loài tồn tại trong Người. Người là đầu thân thể tức là Hội thánh, là nguyên thuỷ và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài. Vì chưng, Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người. và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất.  Đó là lời Chúa.

ALLELUIA:  Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.

PHÚC ÂM:  Lc 10, 25-37
"Ai là anh em của tôi?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có một người thông luật đứng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời". Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông đã trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?" Chúa Giêsu nói tiếp:
"Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông'. Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".  Đó là lời Chúa. .


SUY NIỆM : Bài học về lòng thương người

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục cho chúng ta thấy Ðức Giêsu vẫn đang trên đường truyền giáo với các môn đệ. Ðó là hình ảnh diễn tả Người luôn luôn đồng hành với Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian. Người đã nhắc nhở chúng ta muốn đi theo Người phải có tinh thần từ bỏ mọi sự và hiến thân cho Nước Trời. Hôm nay Người dạy chúng ta phải làm gì để được hạnh phúc thật?
Người lợi dụng sự kiện có kẻ muốn hỏi Người điều đó để dạy chúng ta. Và để chúng ta không hiểu lầm giáo huấn của Người, phụng vụ còn đọc cho chúng ta nghe hai bài Kinh Thánh nữa để thấy rằng luôn luôn phải hiểu các lệnh truyền và giới răn của đạo theo ý nghĩa sâu xa và gắn liền với mầu nhiệm Chúa Kitô. Nói cách khác, tuy bài Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta phải coi mọi người là cận thân và phải có lòng thương xót mọi người, nhưng nơi Kitô giáo lòng thương người và hành vi bác ái không chỉ diễn ra bên ngoài nhưng phải bắt nguồn từ bên trong và nằm trong mầu nhiệm Thiên Chúa. Chúng ta hãy đọc lại các bản Kinh Thánh của Lời Chúa hôm nay.

1. Bài Tin Mừng Về Lòng Thương Người
Thánh Luca kể rằng hôm ấy có một luật sĩ lên tiếng hỏi thử Ðức Giêsu: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?". Người ấy muốn biết giáo lý của Người có trung thành với luật pháp không, hay thực ra ông ta cũng muốn dạy dỗ thêm về đường lối cứu độ? Thái độ của người ấy trong tất cả câu chuyện này dường như làm chứng ông ta đang muốn tìm hiểu thêm thật. Thế nên khi Ðức Giêsu hỏi lại ông ta: "Luật dạy thế nào? Ông đọc thấy gì?" thì người ấy vội vàng thưa hết những gì ông ta biết. Ông trả lời rằng: "Luật dạy phải mến Chúa hết sức mình và yêu cận thân như chính mình". Ông đã nối kết một câu trong sách Lêvi (19,18) với một câu trong sách Ðệ Nhị Luật (6,5); và việc ấy làm chứng ông là người hiểu luật pháp và biết tổng hợp để có những nguyên tắc sống đạo đầy đủ. Ðức Giêsu bảo ông cứ việc sống như thế...
Nhưng tác giả Luca không muốn dừng lại ở đây. Người biết ai cũng đã hiểu muốn sống đạo thì phải mến Chúa yêu người, nhưng thực tế thì lại ít ai biết thực hành những điều căn bản ấy. Thế nên người đã để cho người luật sĩ kia hỏi thêm, tạo dịp cho Ðức Giêsu giải thích rộng rãi, dạy người ta phải biết thực hành luật mến Chúa yêu người như thế nào. Nói đúng hơn tác giả Luca đã lấy câu chuyện về người Samari nhân ái để trình bày cho mọi người biết phải thi hành lòng thương người làm sao? Tức là câu chuyện người luật sĩ đến chất vấn Ðức Giêsu và câu chuyện người Samari nhân hậu có thể là hai câu chuyện khác nhau đã xảy ra trong cuộc đời của Ðức Giêsu. Nhưng Luca đã ghép hai chuyện lại làm một, để đưa ra cho chúng ta bài học.
Ðó là bài học phải làm gì để được sống đời đời? Và khi đặt câu hỏi như vậy, tác giả Luca đã hàm ý khẳng định: đạo không phải là vấn đề lý thuyết, nhưng là vấn đề thực hành. Theo đạo không phải là biết đạo, nhưng là sống đạo và làm những việc đạo dạy. Những việc này trở đi trở lại cũng vẫn chỉ là những việc bác ái thương người. Nếu trong sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu có đoạn nói rằng trong ngày phán xét Chúa chỉ tra hỏi người ta về những việc đã làm cho tha nhân, thì ở đây thánh Luca cũng quả quyết: muốn được sống đời đời, phải hành động như người Samari nhân ái.
Ông ta cũng đi đường. Nhưng đột nhiên ông đứng lại; xuống ngựa và cúi nhìn xem một thân thể đang nằm xõng xoài bên vệ đường. Trước đó cũng có hai người đi qua: một thầy tư tế và một thầy Lêvi. Cả hai cũng thấy thân thể nằm xõng xoài kia, nhưng họ đã bỏ đi. Vì động đến một thây ma ư, khiến sẽ bị dơ theo luật dạy? Chắc không, vì rõ ràng thân thể nằm dài kia chưa chết, nhưng đang quằn quại đau đớn. Ðó chỉ là một người bị thương, một kẻ bất hạnh đi từ Giêrusalem đến nhưng bị cướp đón đường đánh bị thương nặng rồi lấy của bỏ đi.
Những trường hợp như vậy vẫn thường xảy ra trên quãng đường này. Hai thầy tư tế và Lêvi kia đã không ở lại, có phải vì sợ bọn cướp ư? Chắc cũng không phải như vậy; vì thường kẻ cướp lấy được của rồi bỏ đi chứ không ở lại làm gì. Ðàng khác ai dám động đến tư tế và Lêvi. Hai người này đã bỏ đi không ở lại với nạn nhân một phút, chỉ vì họ không biết và không muốn làm những hành vi thương người. Họ không thấy người nằm ở vệ đường kia là thân cận, gần gũi mình. Ðó là kẻ xa lạ, mặc dầu đó cũng là người đồng đạo và đồng bào với mình. Kẻ ấy đã trở thành người xa lạ vì rơi vào hoàn cảnh bất hạnh nghèo khó.
Ở đời có nhiều người cư xử như hai người tư tế và Lêvi kia. Họ chơi với người khác khi người này đang ở trong tình trạng bình thường. Nhưng chẳng may những kẻ này sa cơ thất thế, thì lập tức họ bị bỏ rơi và bị coi như xa lạ.
Ở đây tác giả Luca không phải chỉ muốn nói như vậy mà thôi. Người nói đến một thầy tư tế và một thầy Lêvi là để chúng ta hình dung những con người đang dâng lễ, và để rồi làm chứng rằng Chúa không thích lễ dâng nhưng Người muốn lòng thương xót.
Quả vậy, tất cả bài Tin Mừng hôm nay chỉ muốn làm nổi bật cái tư cách dễ thương của người Samari nhân hậu. Chúng ta thấy ông ta xuống ngựa và đến cúi xuống trên con người đang nằm quằn quại trên vệ đường. Ông chẳng để ý xem kẻ bất hạnh đây là ai? Là người Giuđa hay Samaria. Hai dân này vẫn coi nhau như cừu địch. Ông chỉ thấy đây là một kẻ bất hạnh, một con người như mình mà lại không được như mình. Và ông thấy bổn phận phải yêu thương người ấy như chính mình. Thế nên ông đổ dầu, đổ rượu vào các vết thương, băng bó mau lẹ, vực người ấy lên ngựa, phóng mau đến quán trọ gần nhất. Sau khi thuốc thang cho người ấy đỡ, ông giao lại cho chủ quán săn sóc và dặn rằng khi trở về ông sẽ trang trải mọi phí tổn.
Như vậy ai là kẻ cận thân, gần gũi với người bị nạn, nếu không phải là người Samaria nhân hậu này, mặc dù ông ta không cùng nòi giống và tôn giáo với người kia? Ðang khi hai thầy tư tế và Lêvi vừa là người Do Thái vừa là bậc dạy đạo đức lại coi kẻ đồng đạo, đồng bào là kẻ xa lạ... Chính những hành vi bác ái làm chứng ai thật là kẻ có lòng nhân? Ai là người nhân hậu? Ai mang bản tính nhân loại trong mình? Ai là người thật vì đã cư xử xứng đáng với nhân phẩm? Thế nên Ðức Giêsu kết luận: hãy đi và làm như vậy. Và tác giả Luca còn ngầm nói rằng: và như vậy rõ ràng Chúa không ưa lễ dâng, nhưng tìm lòng thương xót; và chính tình thương sẽ xóa bỏ được hận thù để làm cho những kẻ trước đây xa lạ trở nên cận thân và gần gũi.
Câu chuyện hôm nay đẹp. Bài học này cần được suy nghĩ. Nhưng cẩn thận, nếu chúng ta chỉ dừng lại trong lãnh vực tư tưởng thì sẽ không đạt được ý của tác giả. Thánh Luca muốn chúng ta phải sống đạo chứ không phải chỉ hiểu đạo; phải thi hành lòng thương xót, chứ không phải chỉ biết đạo dạy mến Chúa yêu người.
Nhưng để tránh những thái độ quá khích ngay cả trong việc bác ái yêu thương, phụng vụ hôm nay muốn chúng ta phải để ý đến hai bài đọc kia nữa.

2. Bài Cựu Ước Nói Về Luật Pháp
Nhiều người không quan tâm đến đoạn sách Thứ Luật hôm nay. Nó là đoạn chót của một cuốn sách dày trên 30 chương. Phân tách văn chương còn có thể cho thấy nó đã được viết thêm vào sau này, chứ chẳng có thể nào đã là những lời đích thực thốt ra từ môi miệng Môsê.
Chắc chắn đây là những quan niệm kết quả của nhiều thế hệ suy tư thần học, có sau cả những thời kỳ suy tư triết học của các tác phẩm khôn ngoan, và đã được thấm nhuần giáo huấn của các tiên tri.
Thực vậy tư tưởng chính ở đây là: luật pháp và các giới răn của Chúa không xa lạ nhưng gần gũi, không rớt từ trên trời xuống cũng không đi từ đại dương lên, nhưng ở ngay trong miệng và trong lòng con người. Quan niệm như vậy gián tiếp muốn sửa chữa những ý tưởng vẫn được trình bày trong các sách khôn ngoan.
Ở những tác phẩm này, và nói đúng hơn, theo quan niệm khôn ngoan của người đời, chân lý càng cao vời càng có giá trị và luật pháp càng thâm sâu càng đáng trọng. Ðúng, khi nghĩ về Thiên Chúa, chúng ta không thể bỏ chiều cao và chiều sâu. Người siêu việt quá mọi suy nghĩ của ta.
Nhưng Thiên Chúa chúng ta không muốn sống xa lạ. Người đã trở thành cận thân với con người. Sự khôn ngoan của Người rất cao vời; nhưng như lời sách Khôn ngoan viết: sự khôn ngoan của Chúa lại đã đến lập cư ở giữa con cái loài người. Tính cách siêu việt của Thiên Chúa không được diễn tả nguyên chiều cao của Người, nhưng đồng thời nhắc nhở Người đã cúi xuống với loài người chúng ta, để tuy vẫn là Thiên Chúa, Người cũng đã làm người, để Người vừa ở xa mà lại vừa ở gần: giống như người Việt Nam chúng ta thường nói: Sen là bông hoa ở gần bùn nhưng chẳng hôi tanh mùi bùn.
Thời Cựu Ước Thiên Chúa chưa ở gần loài người như thời Tân Ước. Nhưng Người cũng đã ở giữa dân bằng Luật pháp. Luật pháp vừa là ý Chúa vừa là chính Chúa. Người ta lầm khi nghĩ rằng luật pháp là hai bia đá và là các sách luật. Nghĩ như vậy, Chúa chẳng bao giờ ở gần người ta. Và quan niệm như thế dễ đi đến chỗ giữ luật và giữ đạo nguyên vì hình thức. Người ta tưởng rằng cứ thi hành y như chữ viết là đẹp lòng Thiên Chúa. Tệ hơn nữa, người ta lại thường chỉ thi hành những bổn phận tế tự và xao nhãng điều luật dạy về yêu thương. Thầy tư tế và thầy Lêvi trong câu chuyện của Luca là một thí dụ.
Tác giả đoạn sách Thứ Luật hôm nay không chấp nhận quan niệm như thế về luật pháp. Ông đã được hấp thụ giáo huấn của các tiên tri. Ông nhớ Giêrêmia (31,31) và Êzêkien (36,25) đã tuyên bố: Thiên Chúa sẽ viết lại một luật pháp, không phải trên bia đá, như thời Môsê nữa, nhưng trên trái tim con người. Nói đúng hơn, Người sẽ biến đổi trái tim chai đá của con người tội lỗi thành trái tim thịt đầy yêu thương theo thần khí. Con người khi đó sẽ không thi hành luật pháp một cách lạnh lùng cứng nhắc, nhưng sẽ lấy yêu thương mà sống với mọi người.
Tức là tác giả đoạn sách Thứ luật hôm nay đã có một quan niệm rất sâu xa về luật pháp. Ông truyền bá đạo nội tâm, đạo chân thật, đạo không vụ hình thức nhưng căn cứ vào tâm tình thành khẩn.
Nếu ông ở vào thời Cựu Ước còn muốn như vậy, thì huống nữa là chúng ta ở thời Tân Ước. Chúng ta sẽ được Thiên Chúa đổ Thánh Thần xuống trong lòng, nhờ mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Ðức Giêsu Kitô. Lẽ nào chúng ta còn được thỏa mãn với những hành vi bác ái bên ngoài mà không có những tâm tình chân thật kèm theo. Làm những hành vi giúp đỡ người khác, là điều phải và đáng khen. Nhưng Chúa đã đổ Thánh Thần vào lòng chúng ta để có thể có những hành vi kia nên những việc cứu nhân độ thế, khiến mọi người càng ngày càng cảm thấy cận thân gần gũi với nhau nhiều hơn. Và cho được làm như vậy, có lẽ bài thư Phaolô hôm nay sẽ giúp ích nhiều.

3. Bài Thánh Thư Và Mầu Nhiệm Chúa Kitô
Nói đúng ra, đây là một bài ca và là một bài ca Phụng vụ. Và như vậy tác giả của nó không thuần túy là nguyên thánh Phaolô. Người đã có công đưa nói vào trong một bức thư của người để nó được truyền tụng tới thời ta. Có thể người cũng đã sửa chữa, uốn nắn nó lại ra hình thức hiện nay. Dù sao, nội dung chính yếu của bài ca này cũng là chúc tụng Ðức Giêsu Kitô theo hai đề tài chính: Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình để nhìn vào đó mà mọi loài được tạo dựng; Người là trưởng tử giữa các vong nhân nghĩa là đã sống lại trước hết mọi người để tái tạo mọi loài sa ngã vào đời sống ân sủng.
Như vậy, Ðức Giêsu trong bài ca này được ngợi khen theo hai khía cạnh: tạo dựng và cứu chuộc. Trong cả hai, Người là đầu hết và là cuối hết. Người là khuôn mẫu và là bản chất cho mọi loài được hiện hữu trong sự sống và trong ân sủng. Tức là mọi loài chỉ có thể cận thân gần gũi với nhau ở nơi Người và nhờ Người.
Áp dụng điều này vào bài học bác ái thương người hôm nay chúng ta thấy phụng vụ dường như muốn dạy chúng ta rằng: ai sống đạo thì phải thương người (đó là ý của bài Tin Mừng) nhưng những hành vi bác ái thật phải phát xuất từ trong lòng (và đây là bài học của sách Ðệ Nhị Luật); và lòng con người phải kết hợp mật thiết với Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chịu chết và sống lại để đưa chúng ta trở về lòng bác ái của Thiên Chúa đã dựng nên mọi loài trong hòa hợp yêu thương theo như hình ảnh của Người cũng là chính Ðức Giêsu Kitô (như bài Thánh thư viết).
Có lẽ khi viết bài ca này trong thư gửi cho người Côlôsê, thánh Phaolô khuyên họ đừng tin vào các thiên tòa, thiên chủ, thiên phủ uy linh nào và tưởng rằng có các bậc vô hình ấy và các vị này có thể đem ơn cứu độ đến cho loài người và làm cho chúng ta được hạnh phúc trong hòa hợp. Không, không ai đã giải hòa được chúng ta với Thiên Chúa để chúng ta được cận thân, gần gũi, hòa hợp với nhau trong hạnh phúc trường cửu, ngoại trừ Ðức Giêsu Kitô cứu thế.
Ðiều này là tín điều căn bản xây dựng nên Kitô giáo. Chúng ta không ngừng nhắc đi nhắc lại, nhất là những khi bị lôi cuốn theo một công việc nào mà chúng ta tin vào hiệu năng đến nỗi tưởng đó là hành động cứu thế. Không, chỉ có hành vi cứu độ thật nơi Ðức Giêsu Kitô trong việc Người Tử nạn Phục sinh. Hành vi ấy chúng ta sắp cử hành bây giờ trong phụng vụ Thánh Thể.
Thế thì không những chúng ta phải tham dự thánh lễ này thật ý thức và sốt sắng nhưng chúng ta còn phải thi hành đòi hỏi của việc cử hành Thánh Thể này. Nhìn vào mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại vì ta, chúng ta phải có khả năng đáp trả bằng cách hiến thân hy sinh vì Chúa và Hội Thánh của Người. Chúng ta muốn bắt chước chính Người, chưa được như lúc Người xả thân trên Thập giá thì ít ra cũng phải như khi Người đi trên đường truyền giáo. Người không luôn luôn sẵn sàng cúi mình săn sóc bệnh nhân, các người khổ sở, những kẻ tội lỗi và bé mọn sao?
Chúng ta có thể nghĩ thánh Luca đã nhìn vào Ðức Giêsu để họa ra bức tranh người Samaria nhân ái. Bức họa ấy vừa nói lên vai trò cứu thế của Ðức Giêsu khi chữa lành các vết thương tội lỗi của nhân loại, vừa diễn tả thái độ nhân hậu của Người trong khi tiếp xúc với mọi hạng người.
Thái độ nhân hậu nói lên vai trò cứu thế kia; thế nên chúng ta cũng phải theo gương Người đem tinh thần cứu thế vào các hành vi bác ái thương người.
Chúng ta hãy đem Chúa Giêsu vào lòng để từ lòng chúng ta sẽ xuất ra nhiều sáng kiến dẫn đến phục vụ bác ái. Ðẹp đạo thì phải tốt đời vậy.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật 15 Thường Niên, Năm C

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải làm gì để được sống và sống đời đời?

Đạo Công Giáo không chỉ dạy đâu là mục đích tối hậu của đời người, mà còn dạy rất rõ ràng làm sao để đạt được mục đích đó. Thực ra, những lời dạy này đã có từ thời Cựu Ước; nhưng con người không nắm được những lời dạy chính yếu, nên cứ tập trung vào những điều phụ thuộc. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài chỉ rõ những điều phải làm, như trong Phúc Âm hôm nay.

Các bài đọc hôm nay tập trung trong việc tìm ra con người phải làm gì để đạt được cuộc sống đời đời. Trong bài đọc I, trong Sách Đệ Nhị Luật, Moses đã dạy cho con cái Israel là phải: “nghe và giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người ghi trong sách Luật... và trở về với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ.” Trong bài đọc II, tác giả Thư Colossians khuyên phải tin vào Thánh Tử Giêsu, vì “nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trả lời: “phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình." Ngài cũng đưa một ví dụ cụ thể để chứng minh như thế nào là yêu người đích thực.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Anh em hãy nghe tiếng Đức Chúa và giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ của Người.

1.1/ Những gì phải làm đã được ghi rõ trong Sách Luật.

Nhiều học giả cho những lời này của Sách Đệ Nhị Luật có thể là những lời của bài giảng của một kinh sư trong Thời Lưu Đày. Ông nhắc lại cho dân chúng: điều kiện để được Thiên Chúa bảo vệ và chúc lành là họ phải tuân giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ của Thiên Chúa ghi trong Sách Luật, họ phải thành tâm trở về với Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất của họ.

Thiên Chúa không bao giờ truyền cho con người làm chuyện không thể. Đây là những điều con người có thể làm được, chứ không vượt quá sức lực của con người. Điều tối cần là con người phải đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Họ phải tin chắc những gì Thiên Chúa hứa Ngài sẽ thực hiện.

1.2/ Con người có khả năng nhận ra, thấu hiểu và thi hành được.

Truyền thống Do-thái rất hãnh diện về Lề Luật. Họ tin không có một thần nào trên thế gian có uy quyền và thương dân đến độ thân hành hiện ra và ban cho dân chúng Lề Luật. Hơn nữa, Thiên Chúa của họ là Đấng dựng nên và quan phòng trời đất, vì vậy, biết được sự khôn ngoan của Ngài qua Lề Luật là biết được những gì đưa sự sống và tránh được những gì đưa tới cái chết. Thánh Vịnh 119 là một ví dụ biểu tỏ niềm tin này.

Trong trình thuật hôm nay, tác giả lặp lại việc Thiên Chúa thân hành ban Lề Luật cho họ: “Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh em phải nói: "Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành?” Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển, khiến anh em phải nói: "Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành?” Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành.” Tác giả có ý muốn nói họ đọc Lề Luật và suy niệm chúng mỗi ngày. Họ chỉ thiếu một điều là đem chúng ra thực hành thì sẽ được Thiên Chúa chúc lành và bảo vệ.

2/ Bài đọc II: Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an.

2.1/ Thiên Chúa tạo dựng mọi sự qua Ngôi Lời

Nhiều học giả cho Colossians 1:9-14 là một Bài Thánh Ca cổ, được hát trong lúc hội họp hay thờ phượng trong những cộng đoàn tiên khởi để ca tụng Đức Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa. Có học giả còn cho nguồn gốc của Bài Thánh Ca là để chống lại chủ thuyết Thuần Tri (Gnosticism) rất thịnh hành thời đó trong quốc gia Hy-lạp. Nhưng một sự so sánh giữa những gì Giáo Hội dạy và những gì thuyết Thuần Tri chủ trương, cho thấy sự đối nghịch hoàn toàn với chủ thuyết Thuần Tri.

(1) Đức Kitô là Thánh Tử, là Ngôi Lời (Logos), là hình ảnh (eikon) của Thiên Chúa vô hình; đến nỗi có thể nói: thấy Đức Kitô là thấy Thiên Chúa (Jn 14:9). Chủ thuyết Thuần Tri cho Đức Kitô tuy cao hơn các tạo vật, nhưng không phải là Thiên Chúa vì mang trong mình chất liệu của con người; chỉ có Thiên Chúa là hoàn toàn không lệ thuộc vật chất.

(2) Đức Kitô là Trưởng Tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo: Ngài là Lời, là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Trong trình thuật về tạo dựng của Sách Sáng Thế, Thiên Chúa tạo dựng bằng cách phán: "Hãy có!" tức thì mọi vật liền có. Do Ngôi Lời mà muôn vật được tạo thành, và không có Ngài, chẳng có vật gì được tạo thành (Jn 1:3). Thuyết Thuần Tri không cho Thiên Chúa tạo dựng thế giới, mà thế giới được tạo thành bởi một vị thần ác, đối nghịch với Thiên Chúa. Thần này muốn hủy hoại công trình của Thiên Chúa.

(3) Thiên Chúa quan phòng mọi sự qua Đức Kitô vì Ngài là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa: "Tất cả đều tồn tại trong Người." Thuyết Thuần Tri cho vũ trụ tồn tại nhờ chính nó.

2.2/ Thiên Chúa cứu chuộc và hòa giải qua Ngôi Lời.

(1) Đức Kitô cứu chuộc con người: bằng cách đổ máu để thanh tẩy tội lỗi, làm cho con người khỏi chết, và cho con người được sống đời đời với Thiên Chúa bằng sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Thuyết Thuần Tri cho con người được giải thoát khỏi nô lệ cho vật chất và đoàn tụ với Thiên Chúa nhờ kiến thức đặc biệt và bí mật, mà chỉ có họ mới có thể cung cấp cho con người.

(2) Đức Kitô hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau: Ngài hòa giải con người bằng việc chấp nhận cái chết trên Thập Giá. Nhờ sự hòa giải này, con người có được sự bình an.

Thuyết Thuần Tri không tin vào tội lỗi và vào sự hòa giải, vì Thiên Chúa không thay đổi và con người luôn xấu xa vì bị giam cầm trong thân xác.

Tại sao Thiên Chúa cho Đức Kitô vào thế gian? Tác giả Thư Do Thái cho chúng ta một lý do: Mặc dù Thiên Chúa đã mặc khải nhiều lần và dưới nhiều hình thức qua các tiên tri, nhưng con người vẫn chưa lĩnh hội hết được. Chúng ta có thể thấy rõ những điều này nơi các kinh sư và biệt phái khi họ tranh luận với Chúa Giêsu. Đức Kitô là mặc khải toàn vẹn của Thiên Chúa. Ngài mang lấy thân xác con người để truyền thông cho con người những gì Ngài thấy nơi Thiên Chúa. Hơn nữa, Ngài mang thân xác để gánh chịu hình phạt của tội lỗi thay cho con người, để con người được hòa giải với Thiên Chúa, và lãnh nhận ơn cứu độ là cuộc sống đời đời. Vì thế, để đạt được cuộc sống đời đời, Đức Kitô đòi hỏi người nghe phải tin vào Ngài. Đây cũng chính là thánh ý của Thiên Chúa (Jn 6:39-40).

3/ Phúc Âm: Mến Chúa và yêu người hết lòng.

3.1/ Phải làm gì để được sự sống đời đời?

Đây là câu hỏi rất quan trọng và thực tiễn của cuộc đời. Người hỏi là thầy thông luật, tuy ông đã biết câu trả lời nhưng vẫn hỏi để thử Chúa Giêsu. Thay vì cho ông câu trả lời, Chúa Giêsu hỏi lại ông: "Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?" Ông ấy thưa: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình." Đức Giêsu bảo ông ta: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống." Câu trả lời của người luật sĩ là tổng hợp của hai đoạn trong Sách Luật đã có sẵn trong Cựu Ước: Deuteronomy 6:5 và Leviticus 19:18.

3.2/ Ai là người thân cận của tôi?

Người Do-thái không phải không biết những gì Luật dạy; nhưng điều họ thiếu là thi hành Luật, nhất là cho những người mà họ từ chối nhận là “thân cận.”

Tuy Jericho cách Jerusalem khỏang 20 dặm nhưng độ cao khác biệt là 3,600 ft. Đây là đọan đường rất nguy hiểm vì lối đi hẹp và có rất nhiều hang động, chỗ ẩn của trộm cướp. Rất ít ai dám đi một mình trên quãng đường này. Người bị đánh trọng thương rất có thể là người Do-thái vì đi từ Jerusalem xuống. Chúa Giêsu liệt kê ra 3 lọai người và phản ứng của họ khi nhìn thấy người bị thương:

(1) Thầy tư tế: là người Do-thái. Lý do tại sao ông tránh có thể vì sợ sẽ bị không sạch trong 7 ngày (Num 19:11); nếu động tay vào xác chết, và sẽ không được phục vụ trong Đền Thờ. Ông đặt việc tế tự trên lòng thương xót khi ông tránh qua bên kia mà đi.

(2) Thầy Lêvi: cũng là người Do-thái. Nhiệm vụ của các Lêvi là phục vụ cung điện nơi Hòm Bia của Thiên Chúa ngự. Giống như tư tế ở trên, ông có lẽ cũng sợ bị không sạch, nên tuy cũng thấy người bị trọng thương, nhưng rồi cũng tránh qua bên kia mà đi.

(3) Người Samaria xem người Do-Thái như thù địch và không muốn chung chạ gì với họ. Nhưng khi thấy người bị trọng thương, người Samaria không để ý đến nạn nhân là người Do-thái hay không, ông chạnh lòng thương nạn nhân đau khổ: một niềm thương xót giữa người với người.

Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác."

3.3/ Chúa Giêsu hỏi thầy thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?" Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy." Đức Giêsu bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy." Qua câu truyện, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc làm, chứ không phải chỉ biết mà thôi; và khi làm, Chúa đòi làm cho tới nơi tới chốn; chứ không phải chỉ làm cho qua lần chiếu lệ.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình là hai điều kiện cốt yếu để vào Nước Trời. Chúng ta phải sống hai điều này chứ không phải chỉ tin như thế.

- Chúa Giêsu là hình ảnh của Chúa Cha vô hình. Ngài mặc lấy thân xác để biểu lộ tình thương Thiên Chúa và dạy dỗ con người. Tin yêu Đức Kitô là tin yêu Thiên Chúa.

- Tình yêu không có giới hạn và cũng không biết tính toán lợi nhuận. Chúng ta phải yêu Chúa và tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng ta.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


Yêu rồi làm
Một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng luôn bị một cô gái chơi đến cám dỗ. Ngạc nhiên trước sự thanh thản của vị tu hành, nhưng đồng thời cũng nghi ngờ sự bất bình thường của người đàn ông, cô liền hỏi một câu chế nhạo:
- Thầy không biết yêu sao?
Vị ẩn sĩ trả lời:
- Chưa đến giờ đó thôi?
Câu chuyện bỏ lửng tại đó. Một lần kia, trong lúc đi khất thực, vị tu hành phát hiện người con gái hay đến phá phách mình đó bị bọn cướp trấn lột và đánh cho thừa sống thiếu chết bên lề đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cô ta, chữa các vết thương và đưa cô về thành phố điều trị
Cô gái sững sờ nhìn vị ân nhân mà chưa biết mở lời ra sao, thì vị ẩn sĩ mỉm cười nói:
- Đã đến giờ rồi đấy, giờ của lòng thương xót!
Người thông luật trong bài Tin mừng hôm nay hỏi Chúa Giêsu: “Ai là người thân cận của tôi?” Thay vì trả lời, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người Samaria tốt lành: Một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Trong khi hai thầy tư tế và Lêvi “tránh qua bên kia mà đi”, thì người Samaria ngoại đạo lại dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc.
Chúa Giêsu hỏi lại người thông luật: “Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp?” Hỏi tức là trả lời. Và người thông luật đáp: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót”. Chúa Giêsu bảo: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.
Vị ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây và người Samaria nhân hậu đã sống luật yêu thương một cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”. Yêu không chỉ trên đầu môi chót lưỡi, rồi phủi tay không làm gì cả, mà yêu chính là “miệng nói tay làm”, làm thực sự với hết khả năng của mình. Những việc làm cụ thể thường hùng hồn hơn những lời nói suông. Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến đôi tay. Chúa Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó: “Hãy đi và làm như vậy”. Pascal đã nói: “Khuyết tật lớn nhất của một người là phục vụ quá ít cho những kẻ họ yêu thương”.
Sở dĩ người ta không dám làm một cái gì đó cho những người anh em, là vì họ không có can đảm vượt qua nỗi sợ.
Sở dĩ thầy tư tế và thầy Lêvi “tránh qua bên kia mà đi” là vì các thầy sợ ô uế khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp còn ẩn nấp đâu đây, sợ rắc rối phiền hà đến bản thân.
Sở dĩ chúng ta không dám làm một cái gì đó cho người anh em khi họ cần giúp đỡ, là vì chúng ta sợ phải thiệt thòi, sợ tốn công sức, sợ mất thời gian, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an toàn, tiện nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân! Thầy tư tế và thầy Lêvi đã tự hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra cho tôi, nếu tôi dừng lại và săn sóc người anh em bị đánh nhừ tử?” Trái lại, người Samaria đã đảo ngược câu hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra cho người anh em bị đánh nhừ tử, nếu tôi không dừng lại và chăm sóc người ấy?” Người Samaria tốt lành đã xả thân vào một hành động vị tha đầy nguy hiểm.
Yêu thương không phải là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân. Yêu thương là hy sinh, là quên mình, là hiến thân phục vụ tha nhân: Kahil Gibram có một câu nói chí tình: “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”. Càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, con người càng chết dần mòn trong nỗi cô đơn. Càng muốn được yên thân, con người càng vong thân.
Nỗi khát khao hạnh phúc của con người chỉ có thể được lấp đầy khi họ biết đến gần, cúi xuống phục vụ tha nhân.
Con người chỉ thành đạt thực sự, con người chỉ thực sự là người khi họ dám sống chết cho anh em.
Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là con Chúa khi họ dám tiêu hao vì người khác. Mẹ Têrêxa Calcutta nói: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.
Yêu rồi làm. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ biết phải làm gì cho người anh em. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ có sáng kiến để xả thân vì mọi người, nhất là những người nghèo hèn đau khổ. Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết cách làm cho kẻ xa lạ nên người thân cận, kẻ thù địch nên người bạn tốt, chỉ cần chúng ta dám dừng lại, đến gần và cúi xuống trước anh em.
Lạy Chúa, cuộc sống đạo của chúng con sẽ trở nên phù phiếm nếu cái cốt lõi của đạo là yêu thương chỉ là điều phụ thuộc. Xin đừng để chúng con loay hoay với những tính toán ích kỷ; chai đá, dửng dưng trước những khổ đau của anh em. Nhưng xin dạy chúng con biết chạnh lòng xót thương và giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen.
Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

14/07/13 CHÚA NHẬT TUẦN 15 TN – C
Lc 10,25-37

TÌNH YÊU DÁM LÀM, KHÔNG CHỈ DÁM NÓI

Đức Giê-su bảo ông ta :” Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.” (Lc 10,37b)
Suy niệm: Người thông luật đặt câu hỏi về điều răn quan trọng nhất. Thầy Giê-su lại trả lời bằng một câu chuyện minh hoạ sống động về lòng thương xót của một người xứ Samari: Anh ta gặp kẻ bị lâm nạn giữ đường, anh hành động rất thuần thục, rất chính xác và nhanh nhẹn cho người bị tai nạn, như thể anh vẫn làm chuyện này một cách bình thường trong đời sống thường ngày của anh. Anh chẳng cần lý luận: “Ai là anh em của tôi?” Tâm hồn nhạy cảm thúc đẩy xăn tay áo lên và hành động ngay một cách chính xác. Tình yêu không phân tích lý thuyết suông, nhưng luôn đi bước trước và thể hiện bằng việc làm cụ thể. Đó cũng là câu trả lời của Chúa: “Hãy đi và làm như vậy.”
Mời Bạn: Người tông đồ của Chúa hôm nay cũng có thể đôi khi hành động cho “người thân”, người “đồng đạo” mà vô tình quên đi những mảnh đời bên cạnh. Chúng ta tưởng mình hiểu cặn kẽ về tình yêu nhưng vẫn dửng dưng trước nhu cầu của anh em. Hãy dám làm chứ đừng dám nói.
Sống Lời Chúa: Trong cuộc sống thường ngày, ta không mong có người gặp tai nạn để giúp đỡ, nhưng những lời hỏi thăm thân tình, những quan tâm tế nhị đúng lúc sẽ là những bông hoa của tình yêu nhân hậu như Thầy Giêsu dạy.
Cầu nguyện: Lạy Thầy Giêsu, giữa bộn bề của cuộc sống, con mải lo cho những bận tâm của mình nên dễ quên mất người anh em bên cạnh con đang cần được quan tâm chia sẻ. Xin cho con biết “nhín” một ít thời gian, một ít của cải, hay là chỉ là những quan tâm nho nhỏ để con học từ Thầy bài học: Hãy dám làm chứ đừng chỉ dám nói.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Bảy

14 THÁNG BẢY

Được Trao Ban Những Ân Sủng Đặc Biệt

Được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài, con người là tạo vật hữu hình duy nhất mà Đấng Tạo Hóa “nhắm đến vì chính nó” (MV 24). Thiên Chúa – Đấng cai quản thế giới với sự khôn ngoan và quyền lực siêu việt của Ngài – trao cho con người mục tiêu để đạt đến trong cuộc sống này. Nhưng con người cũng là một cứu cánh nơi tự thân mình, không giống như các tạo vật khác. Con người cần đạt đến sự thành toàn trong tư cách là một nhân vị được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài.
Được làm cho phong phú với một ân huệ đặc biệt – và cũng là một trách nhiệm – con người có quan hệ mật thiết với mầu nhiệm quan phòng thần linh. Chẳng hạn, chúng ta đọc thấy trong Sách Huấn Ca: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người… Ngài mặc cho nó sức mạnh… để chúng thống trị muông chim cầm thú. Ngài ban cho chúng trí khôn, lưỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ. Ngài làm cho chúng đầy kiến thức thông minh, tỏ cho chúng biết điều tốt điều xấu. Ngài đặt con mắt mình vào tâm hồn chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Ngài… Ngài còn ban kiến thức cho chúng, và cho thừa hưởng luật đem lại sự sống” (Hc 17,1.3.5-7.9).

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II




Lời Chúa Trong Gia Đình

Chúa Nhật XV Thường Niên
Đnl 30, 10-14; Cl 1, 15-20; Lc 10, 25-37


LỜI SUY NIỆM: Trong dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành Chúa Giêsu hỏi thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? Người thông luật trả lời: chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy” (Lc 10,36-37).

Đứng trước câu hỏi của Chúa Giêsu, ai cũng có thể trả lời một cách chính xác, và hoàn hảo như người thông luật. Nhưng trong thực tế của cuộc sống con người thì không dễ chút nào. Bởi trong mỗi một con người ai ai cũng có lòng trắc ẩn khi thấy tình cảnh đó, nhưng từ lòng trắc ẩn cho đến hành động thương xót và cứu giúp thì nó lại là một khoảng cách quá dài, do những suy nghĩ, những tính toán về an toàn cho bản thân, cho túi tiền, thời giờ và công việc của mình; để rồi làm lơ, bỏ qua. Chúa Giêsu đang muốn mỗi người trong chúng ta biết thực hiện lòng thương xót của mình.


Mạnh Phương


Gương Thánh nhân

Ngày 14-07
Thánh CAMILLÔ LELLIS
Linh Mục - (1550 - 1614)


Thánh Camillô Lellis là con của ông Gioan Laliis, một hiệp sĩ danh giá trong quân đội của Chales-Quint. Mẹ Ngài thuộc vào một gia đình thời danh nhất ở Neples. Từ những năm đầu thời hôn nhân, họ có được một người con, nhưng lại bị cất đi ngay, khi đứa bé còn ở trong nôi. Lúc bà Lellis 60 tuổi, sau bao lời cầu hôn khẩn thiết, bà đã sinh ra Camillô vào ngày 25 tháng 5 năm 1550. Khi đang mang thai, bà đã thấy mộng con trẻ mang trên ngực một hình thánh giá, có vô số trẻ em theo sau. Mộng thấy vậy, bà lo sợ rằng mình sẽ sinh hạ một người con làm đầu bọn cướp, Camillô mới sinh ra ít lâu thì mồ côi mẹ. Chưa được 6 tuổi, Ngài lại mồ côi cha. Do những tai họa này, việc giáo dục Camillô bi bỏ mặc.

Những buổi đầu đời của con trẻ đã chứng thực điều lo sợ của người mẹ là đúng. Camillô biếng nhác và phóng túng, lao mình vào cuộc chơi. Đến tuổi 19, Ngài theo đuổi binh nghiệp và năm năm sau Ngài xuất ngũ.

Người thanh niên này phung phí hết tài sản và lâm cảnh cùng quẫn, phải làm phụ hồ cho công trình xây cất nhà cho các cha Phanxicô. Tại Fermô, Ngài gặp hai thầy dòng và mến phục nết đạo đức khiêm tốn của hai vị. Tự đáy lòng, Camillô nguyện một ngày kia sẽ nhập dòng. Bỏ binh nghiệp, Ngài đến nhà dòng Phanxicô ở Aquila. Một người cậu của Camillô giữ cổng nhà dòng này. Camillô kể lại cho ông nghe tất cả những gì đã qua và xin được mặc áo dòng. Cha giữ cửa biết rõ quá khứ đau lòng của cháu, muốn thử thách ơn kêu gọi bất ngờ này đã từ khước trong một thời gian.

Camillô lại rơi vào cơn rối loạn. Ngài trở nên bất hạnh đến nỗi phải đi ăn xin cùng với một người lính cùng khốn khổ như Ngài. Ngày lễ thánh Anrê năm 1574, Ngài ăn xin ở cửa nhà thờ Manfredonia. Một lãnh chúa đi qua. Ông thương tình đề nghị Camillô làm việc cho nhà dòng. Camillô nhận lời, ngày kia trước lời khuyên nhủ của một cha dòng, Ngài động lòng và bật tiếng khóc.

- Lạy Chúa, thật là khốn cho con. Tại sao con biết Chúa trễ quá ? Sao con có thể giả điếc làm ngơ trước bao nhiêu lời mời gọi của Chúa như vậy được. Xin Chúa tha thứ cho con là đứa tội lỗi khốn nạn. Xin hãy cho con đủ thời gian đền bù tội lỗi của con.

Lúc đó Camillô 25 tuổi. Ngài xin nhập dòng ngày hôm đó và được nhận vào tập viện. Nhưng một mụn nhọt ở chân mở miệng, Ngài phải đi chữa trị. Lành bệnh Ngài trở lại dòng, nhưng mụn nhọt lại mở miệng. Các bác sĩ cho rằng ung nhọt này vô phương chữa trị. Ngài được nhận vào một bệnh viện nan y ở Roma. Nơi đây Camillô nhận ra ơn gọi của mình. Ngài thấy các nhân viên được trả lương như vô tâm trước nỗi đau đớn của các bệnh nhân. Ngài tận tụy phục vụ các bệh nhân ngày đêm. Ngài còn qui tụ các bạn thành một để thực hành đức ái nữa. Trên ngực họ đeo một thánh giá đỏ. Công việc nặng nề và các bạn Ngài thường tỏ ra lo lắng. Camillô nhắc cho họ lời của thánh Catarina thành Siêna:
- Hãy lo cho ta và ta sẽ lo lắng cho con.

Camillô được đặt cai quản nhà thương, lệnh Ngài đưa ra là:
- Hãy phục vụ bệnh nhân như phục vụ chính Chúa Giêsu vậy.

Để phục vụ hữu ích hơn, Ngài đã theo lời khuyên của Đức Hồng Y Taragi để tiến tới chức linh mục. Nhưng trở ngại quá lớn, vì học thức Ngài còn quá kém. Một thị kiến đã giúp Ngài can đảm thắng vượt mọi khó khăn. Ngài thấy Chúa Kitô đưa tay ra nói:
- Camillô, con đừng sợ chi, cha sẽ giúp đỡ con và ở cùng con.

32 tuổi, Ngài không mắc cỡ khi ngồi với các em nhỏ để học vần Latinh. Sự kiên trì đã giúp người kinh viện này vượt qua mọi khó khăn. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1584, Camillô thụ phong linh mục và dâng thánh lễ đầu tiên tại nhà thờ thánh Giacôbê. Vài tháng sau, Ngài được trao phó cho cai quản nhà thờ Đức Bà hay làm phép lạ.

Tại đây, Ngài thiết lập một tu hội. Anh em qui tụ quanh Ngài dấn thân phục vụ những người hấp hối ở bất cứ nơi nào. Họ luôn trung thành với lời khuyên của Ngài: - Hãy hồi tâm để dâng lên những lời kinh nguyện tắt và các bạn sẽ được nâng đỡ đặc biệt bên cạnh các bệnh nhân. Chớ gì họ biết cầu xin ơn tha thứ, biết dâng cái chết của họ hợp với sự chết của Chúa Giêsu Kitô và xin Người đón nhận linh hồn họ vào lòng nhân từ Người.

Năm 1586, Đức giáo hoàng Sixtô V chấp thuận chương trình của Ngài. Năm 1588, Ngài được gọi đến lập tu viện ở Nappples. Nơi đây Ngài đã thực hiện những hành vi đức ái kỳ diệu đối với các nạn nhân của một cơn dịch hạch.

Năm 1591, Đức giáo hoàng Grêgôriô XV đã nâng tu hội của Ngài thành dòng tu, ngoài ba lời khấn còn có lời khấn thứ tư là hiến thân phục vụ nhân loại đau khổ, dầu bởi bất cứ bệnh tật nào. Dòng thánh Camillô phổ biến khắp nước Ý và còn phổ biến sang cả Pháp, Tây Ban Nha.

Con người số tu sĩ và nhà dòng ngày một nhiều. Tuy nhiên, lòng tin tưởng của Camillô vào Chúa quan phòng thật vô bờ. Các chủ nợ lo âu hỏi Ngài: - Bao giờ cha mới trả hết nợ cho chúng tôi ?

Ngài trả lời : - Đừng sợ gì Thiên Chúa quyền năng không gởi cho chúng ta món tiền nào sáng mai sao ?

Các chủ nợ cười nói : - Thời phép lạ đã qua rồi.

Nhưng rồi vài ngày sau, Ngài được những túi tiền lớn đủ để trả nợ. Sự quan phòng cho thấy rằng các phép lạ có mãi cho những ai phó thác cho Chúa.

Khi tuổi cao, Camillô vẫn không giảm bớt những phục vụ bên cạnh các người đau khổ. Thấy vậy, các bệnh nhân nói: - Cha nghỉ đi kẻo té ngã mất.

Nhưng các Ngài trả lời : - Này các con, cha là nô lệ của các con, cha phải làm mọi sự có thể làm được để phục vụ các con.

Đi từ giường này tới giường khác, Ngài tự nhủ:
- Hạnh phúc tôi mong đợi lớn lao đến nỗi mọi đau khổ đều thành niềm vui của tôi.

Kiệt sức vì công việc và đau đớn, Camillô Lellis chỉ còn là một bộ xương. Khi thấy giờ chết tới gần, Ngài vui sướng:
- Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: nào ta đi về nhà Chúa.

Được đưa về phòng, Ngài còn nói trong nước mắt: - Lạy Chúa, con biết con là một tội nhân ghê gớm. Nhưng xin hãy cứu con nhờ lòng nhân lành Chúa.

Ngày 14 tháng 7 năm 1614 Camillô Lellis qua đời. Năm 1746, Đức giáo hoàng Bênêdictô đã suy tôn Ngài lên bậc hiển thánh.

(daminhvn.net)


14 Tháng Bảy

Tự Do Ðích Thực

Trong tập thơ mang tựa đề Gitanjali, thi hào Tagore đã có bài thơ về tù nhân như sau:
"Hỡi tù nhân, hãy nói cho ta hay ai đã xiềng xích ngươi. Tù nhân đáp, thưa chính là chủ tôi. Tôi đã muốn thắng vượt mọi người, bằng của cải và quyền lực, cho nên tôi đã vơ vét vào kho tàng của tôi tất cả tiền bạc của chủ. Mệt mỏi vì cuộc chạy đua theo tiền của tôi, cuối cùng tôi đã thiếp ngủ ngay trên chính giường của chủ tôi. Khi thức dậy, tôi thấy mình đã bị giam hãm ngay trên kho tàng của tôi.
Hỡi tù nhân, hãy nói cho ta hay ai đã rèn chiếc xích sắt này cho ngươi. Tù nhân đáp: tôi đã muốn giam hãm tất cả thế giới, vì như thế tôi sẽ được tự do và không còn ai quấy rầy. Ngày đêm, tôi đã dùng lửa, búa và chiếc dũa để rèn sợi xích này. Khi nó được hoàn thành, và chiếc mốc cuối cùng được nối lại, tôi đã để cho sợi xích giam hãm cả cuộc đời của tôi, khiến không có gì bẻ gãy được".
Năm 1989, nước Pháp đã mừng kỷ niệm 200 năm cuộc cách mạng 1789. Cùng với việc lật đổ chế độ quân chủ, bản tuyên ngôn nhân quyền được công bố ngày 04 tháng 8 năm 1789 đã đánh dấu một bước dài của nhân loại tiến đến tự do, dân chủ.
Nhưng oái oăm thay, người ta đã nhân danh tự do để chống lại tự do và phạm không biết bao nhiêu tội ác đối với con người. Nhân danh tự do, Robespierre đã giết hại 25 ngàn người cũng như cấm chế nhiều quyền tự do trong đó cơ bản nhất là quyền tự do tôn giáo.
Lịch sử cũng đã được lập lại trong rất nhiều cuộc cách mạng sau này. Mới đây tại Trung Quốc, người ta đã nhân danh tự do dân chủ để đạp đổ Nữ Thần Tự Do và sát hại không biết bao nhiêu người đòi tự do.

Nhân danh tự do để chối bỏ tự do của người khác, nhân danh quyền con người để chà đạp quyền sống của người khác: đó là thảm trạng của không biết bao nhiêu cuộc cách mạng trong thời đại ngày nay. Chính khi con người chối bỏ tự do và chà đạp quyền sống của người khác là cũng chính lúc con người tự giam hãm mình trong nô lệ, nô lệ cho quyền lực, nô lệ cho tiền bạc, nô lệ cho bất an... Lắm khi con người tự rèn lấy cho mình xích xiềng để tự chói lấy mình. Nhà tù ấy, sợi xích ấy chính là lòng tham lam nơi con người: tham lam tiền của, tham lam quyền lực, tham lam danh vọng.


(Lẽ Sống)






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét