Thứ Tư
Ngày 03/07/2013
Tuần 13
Mùa Thường Niên Năm Lẻ
THÁNH TÔMA, TÔNG ĐỒ
BÀI ĐỌC I: Ep 2, 19-22
"Anh em được xây dựng trên nền tảng các tông đồ".
Trích thư Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em
thân mến, anh em không còn là khách trọ và khách qua đường nữa, nhưng là người
đồng hương với các Thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng
trên nền tảng các Tông đồ và các Tiên tri, có chính Đức Giêsu Kitô làm Đá góc
tường. Trong Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong
Chúa, trong Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành
nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Thần. Đó
là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 116, 1. 2
Đáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc
16, 15).
1) Hỡi muôn dân, hãy ngợi
khen Chúa! Hỡi ngàn dân, hãy ca tụng Người.
- Đáp.
2) Vì lòng từ bi Người vững
bền trên chúng ta, và lòng trung kiên Người tồn tại đến muôn đời. - Đáp.
ALLELUIA: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia! -
Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy
mà tin. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 20, 24-29
"Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Gioan.
Bấy giờ
trong Mười Hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđy-mô, không ở cùng với các ông,
khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi
đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi
không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh,
nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin". Tám
ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông. Trong
khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an
cho các con". Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay vào đây và
hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng
lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của
con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã thấy Thầy nên con đã
tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin". Đó là lời Chúa. .
SUY NIỆM : Vị Tiên Tri Cô Ðộc
Người
Ấn Ðộ có kể lại câu chuyện ngụ ngôn sau đây:
"Vì
tội lỗi của loài người, Thượng đế dọa sẽ trừng trị họ bằng một trận động đất. Ðất
sẽ nứt nẻ và nước sẽ rút hết vào trong lòng đất... Một thứ nước độc sẽ tràn ngập
mặt đất. Ai uống vào sẽ trở nên bất bình thường.
Một
vị tiên tri nọ đã không xem thường lời đe dọa của Thượng đế. Ông chuẩn bị đương
đầu với biến cố bằng cách từng ngày đem nước lên một ngọn núi cao. Số nước dự
trữ đủ cho ông sống đến ngày tàn của cuộc đời...
Ðộng
đất đã xảy đến, bao nhiêu sông nước trên mặt đất đều bốc hơi, một thứ nước khác
được thay thế vào.
Một
tháng sau, vị tiên tri trở lại đất bằng để xem những gì đang xảy ra cho loài
người. Ðúng như lời đe dọa của Thượng đế, mọi người sống trên mặt đất đều hóa
ra điên dại. Nhưng kỳ lạ thay, loài người không ý thức được tình trạng điên dại
của mình. Trái lại, ai cũng muốn ra đường để chế diễu vị tiên tri vì họ cho rằng
ông mới là người điên dại...
uồn
tình, vị tiên tri trở lại chốn núi cao của mình. Ông sung sướng vì nước dự trữ
vẫn còn và ông vẫn là người duy nhất còn có một tâm trí lành mạnh, bình thường...
Nhưng
ngày qua ngày, ông cảm thấy không chịu nổi sự cô đơn của mình. Ông khao khát được
sống một cách bình thường với những người đồng loại. Thế là một lần nữa, ông trở
lại đồng bằng. Và một lần nữa, ông lại bị dân chúng ruồng rẫy, vì họ cho rằng
ông không còn giống họ nữa.
Không
còn chịu được sự hắt hủi của những người đồng loại, vị tiên tri đã đổ hết số nước
dự trữ của mình và ông uống lấy nước mới của người đồng loại để cũng trở nên
điên dại như họ..."
Con
đường dẫn đến chân lý không phải là con đường rộng thênh thang. Người đi tìm
chân lý thường là người cô độc...
Hôm nay chúng ta kính nhớ
thánh tông đồ Toma. Ai cũng biết lời bất hủ của Toma khi tuyên bố về sự sống lại
của Chúa: Nếu tôi không xỏ tay tôi vào lỗ đinh và cạnh sườn Ngài, tôi không
tin... Theo phương pháp khoa học, nhiều người đã lấy câu nói của Toma làm châm ngôn
cho việc đi tìm chân lý. Nghĩa là, nếu tôikhông kiểm chứng được, nếu tôi không
sờ mó được, tôi không chấp nhận điều đó là đúng...
Thái độ đó chưa hẳn là
thái độ thực tiễn trong cuộc sống. Giá trị cao cả nhất trong cuộc sống: đó là sự
tin tưởng, tín nhiệm đối với người khác. Ðau yếu, chúng ta đi mua thuốc, chúng
ta buộc phải tin tưởng ở người bán thuốc. Lạc đường, chúng ta buộc phải tin tưởng
ở lòng thành thật của người chỉ lối...
Thái độ đó càng đúng hơn
trong lĩnh vực Ðức Tin... Chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu không phải
vì chúng ta đã thấy Người hiện ra, nhưng chỉ vì lời chứng của các tông đồ, của
các tiền nhân... Một thái độ như thế đòi hỏi rất nhiều phấn đấu của lý trí. Lắm
khi, chung ta chỉ là một thiểu số cô độc.
Chúng ta dễ dàng rơi vào
nỗi cô độc của những người đang đi tìm chân lý. Người Kitô thường phải đi ngược
dòng. Ðiều người đời cho là bất bình thường, có lẽ phải là cái bình thường đối
với người Kitô. Ðiều người đời cho là yếu nhược, có khi phải là sức mạnh của
người Kitô. Ðiều người đời cho là điên dại, có khi phải là lẽ khôn ngoan của
người Kitô.
(Veritas Asia)
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Kinh Thánh
Thomas Tông Đồ.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phúc cho những ai tuy không thấy mà
tin!
Thánh Thomas Tông Đồ thường
được gọi là "Cha của những kẻ cứng lòng tin;" nhưng cũng nhờ ngài mà
chúng ta có thêm những lời dạy dỗ của Đức Kitô, và mở mắt cho chúng ta thấy có
nhiều cách thức khác để con người phải tin vào Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay tập
trung trong những cách thức khác nhau một người có thể dùng để tin vào Thiên
Chúa. Trong Bài Đọc I, tác giả Thư Ephesô xác tín đức tin của chúng ta được xây
dựng trên Đá Tảng là Đức Kitô, và nền móng là niềm tin của các tông-đồ và các
tiên-tri. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách Thomas đã chỉ dựa vào kinh nghiệm
giác quan, mà không chịu tin vào lời Ngài đã loan báo trước Cuộc Khổ Nạn và lời
chứng của các tông-đồ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I:
Đức tin của chúng ta dựa trên niềm tin nền tảng của các Tông-đồ.
1.1/ Vị thế của
người Kitô hữu trong gia đình Thiên Chúa: Tác
giả Thư Ephesô xác định: "Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm
trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của
Thiên Chúa." Một sự phân tích của 4 từ ngữ dùng trong câu này, cho chúng
ta hiểu ý của tác giả:
(1) Người
xa lạ (xe,noj): người ngoại
kiều, không có một chút liên hệ nào với người bản xứ, cũng không được bảo vệ bởi
luật pháp bản xứ. Đó là tình trạng của Dân Ngoại, khi họ chưa biết Đức Kitô.
(2) Người
tạm trú (pa,roikoj): người
ngoại kiều được phép trong một quốc gia, nhưng chỉ tạm thời trong một thời
gian. Họ chỉ được hưởng một số những quyền lợi của người bản xứ, và phải ra khỏi
xứ khi thời gian hết hạn.
(3) Người
đồng hương (sumpoli,thj): người
cùng sinh ra trong một làng, một nước; có cùng chung niềm tin, thói quen, truyền
thống, và văn hóa. Những người này có thói quen lập Hội Ái Hữu để giúp đỡ nhau
khi phải di chuyển đi nơi xa hay nơi đất khách quê người. Ví dụ: Hội Ái Hữu Thức
Hóa, qui tụ những đồng hương của làng Thức Hóa, Bùi Chu, Bắc Việt Nam. Tác giả
Thư Ephesô gọi các tín hữu là những "đồng hương với các người thuộc dân
thánh," vì họ có cùng niềm tin nơi Đức Kitô, và cùng được kêu gọi để trở
nên thánh thiện.
(4) Người
nhà (oivkei/oj): người có
liên hệ ruột thịt hay hoàn cảnh đặc biệt, liên kết thành một nhóm rất thân mật,
sống chung trong một mái nhà. Những người này được gọi là những thành viên của
một nhà. Họ được chung hưởng mọi quyền lợi và có bổn phận bảo vệ nhà mình. Tác
giả gọi các tín hữu là những "người nhà của Thiên Chúa;" vì họ cùng
được hưởng ơn cứu độ Thiên Chúa đã dọn sẵn. Họ cùng chung bổn phận làm sao cho
mọi người trong nhà đạt được ơn cứu độ.
1.2/ Tòa nhà
của Thiên Chúa: được nhân
cách hóa để chỉ vị thế và bổn phận của mỗi thành phần của Dân Chúa. Một tòa nhà
gồm những phần sau đây:
(1) Đá Tảng
góc tường (avkrogwniai/oj): là
chính Đức Giêsu Kitô. Đá Tảng là viên đá góc, viên đá quan trọng nhất nối hai bức
tường của tòa nhà và sàn nhà với nhau, trong kiến trúc xây nhà của người
Do-thái. Nhiều người cho hai bức tường này tượng trưng một cho Do-thái và một
cho Dân Ngoại. Đức Kitô hay niềm tin vào Đức Kitô là Đá Tảng cho tòa nhà này. Nếu
không được xây dựng trên Đá Tảng là Đức Kitô, tòa nhà của Thiên Chúa sẽ không
thành hình được.
(2) Nền
móng (qeme,lioj): là các
Tông Đồ và ngôn sứ. Cấu trúc quan trọng thứ hai của tòa nhà là nền móng, trên
đó tòa nhà được xây dựng lên. Chúa Giêsu đã từng cho chúng ta một ví dụ về việc
xây nhà trên đá thay vì trên cát. Các ngôn sứ và các tông-đồ được ví như nền
móng của tòa nhà Thiên Chúa, vì đức tin của họ vào Thiên Chúa. Nhờ những cố gắng
rao giảng và máu của họ đổ ra, mà đức tin được lan tràn ra cho mọi người.
(3) Các phần
khác: là toàn thể các tín
hữu. Có thể ví mỗi tín hữu như một viên gạch được xây trong tòa nhà của Thiên
Chúa; tuy nhỏ bé, nhưng cần thiết để hoàn thành. Trong Đức Kitô, "toàn thể
công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong
Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác
thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí."
2/ Phúc Âm:
Phúc thay những người không thấy mà tin!
2.1/ Đức tin
dựa trên kinh nghiệm: Có
những người chỉ tin khi mắt thấy, tai nghe, và tay sờ mó được. Thomas là một
trong những người này. Vì ông không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra với các
tông-đồ lần thứ nhất, nên họ nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy
Chúa!" Ông Thomas đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu
tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi
chẳng có tin."
2.2/ Đức tin
dựa trên các điều khác:
Ngoài đức tin dựa trên kinh nghiệm giác quan như Thomas đòi hỏi, chúng ta còn
ít nhất 3 cách khác để tin một điều là sự thật:
(1) Thế
giá của người nói: Đây là
cách mà chúng ta vẫn áp dụng hằng ngày: con cái tin cha mẹ, học sinh tin thầy
cô, nhân viên tin chủ mình ... Chúng ta tin vì chúng ta nghĩ những người này
không thể đánh lừa chúng ta. Tòa án các cấp cũng thường áp dụng điều này khi
đòi phải có hai hoặc ba nhân chứng để xác định một điều xảy ra là sự thật. Chúa
Giêsu trách Thomas cứng lòng tin, vì đã không tin lời của 10 nhân chứng là các
tông-đồ.
(2) Hậu quả
xảy ra: Nguyên lý nhân quả
là nguyên lý mà chúng ta vẫn thường dùng trong cuộc sống hằng ngày. Ví dụ, khi
chúng ta thấy khói bốc lên, chúng ta biết ngay có lửa đang cháy. Tuy chúng ta
không thấy điện chạy, nhưng chúng ta không dám rờ vào ổ điện, vì chúng ta sợ điện
giật. Cũng vậy, tuy chúng ta không thấy Thiên Chúa; nhưng nhìn mọi sự vật do
tay Chúa sáng tạo, chúng ta tin có Thiên Chúa.
(3) Ghi
chép lịch sử: Khi học lịch
sử, chúng ta tin những người ghi chép lại những biến cố lịch sử đã xảy ra. Nếu
có nghi ngờ, chúng ta có thể đối chiếu các nguồn lịch sử khác nhau, và dùng trí
phán đoán để xác định sự trung thực của các biến cố. Khi đọc Kinh Thánh, chúng
ta cũng dựa trên lịch sử để xác định sự trung thực của các biến cố xảy ra. Chẳng
hạn, chúng ta thường gặp những câu trong Tân Ước như: "để ứng nghiệm lời
Kinh Thánh đã nói," hay "để làm tròn lời Kinh Thánh đã chép" ...
2.3/ Ông
Thomas tuyên xưng đức tin: Tám
ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với
các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói:
"Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Thomas: "Đặt ngón tay
vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng
lòng nữa, nhưng hãy tin." Ông Thomas thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy
Thiên Chúa của con!" Đức Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.
Phúc thay những người không thấy mà tin!" Đức tin dựa trên kinh nghiệm là
cách thấp nhất để một người tin, Chúa Giêsu khiển trách Thomas vì đã không chịu
dùng các cách khác nữa. Thánh Thomas, tuy cứng lòng tin; nhưng một khi đã xác
tín niềm tin vào Đức Kitô, ông không bao giờ lui gót nữa. Ông không chỉ tuyên
xưng Đức Kitô là Thầy, mà còn là Thiên Chúa của ông.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta là những viên
đá sống động trong Đền Thờ của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là lo sao cho
Đền Thờ này luôn sống động và tăng trưởng mỗi ngày.
- Đức tin của chúng ta
không chỉ dựa trên kinh nghiệm của giác quan; nhưng còn dựa trên Kinh Thánh, lịch
sử, hậu quả, và những lời làm chứng của bao nhiêu chứng nhân trong lịch sử.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
03/07/13 THỨ
TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 13 TN
Th. Tôma, tông đồ
Ga 20,24-29
Th. Tôma, tông đồ
Ga 20,24-29
HIỆP THÔNG TRONG NIỀM TIN
Đức Giê-su bảo
ông Tô-ma :”Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.Phúc thay những người không thấy mà
tin.” (Ga 20,29)
Suy niệm: Đức
Giêsu muốn xây dựng nhóm tông đồ trên nền tảng hiệp thông: liên kết với nhau trong sứ
vụ, trong niềm tin. Ngài đã tha thiết cầu xin Chúa Cha cho các môn đệ được nên
một; nhưng ngay từ đầu trong cộng đòan nhỏ bé đó đã sớm xuất hiện những vết rạn
nứt rõ rệt. Tôma không đến họp chung với anh em là những người đã tận mắt thấy
Chúa sống lại hiện ra với họ. Họ nói với Tôma: “Chúng tôi đã thấy Chúa”. Chứng
từ không phải là của một mà của mười người, mười đôi mắt, thế mà với Tôma, mọi
lời lẽ thuyết phục của anh em đều vô giá trị. Ông chỉ tin vào đôi mắt và bàn
tay của mình. Rất may là Tôma còn chịu khó tiếp tục đi sinh hoạt với anh em để
rồi một cơ hội tới, ông gặp Chúa và lấy lại niềm tin.
Mời Bạn: Xây dựng sự hiệp nhất trong
cộng đoàn bằng cách tránh thái độ võ đoán, “độc quyền chân lý”, không lắng
nghe, không đối thoại; nhất là rút kinh nghiệm Tôma, đừng để mình vì không cập
nhật, thiếu thông tin, mà ta trở nên chủ quan hẹp hòi, cố chấp vô lý.
Chia sẻ: Thử
mổ xẻ một điều gây bất hòa – nếu có – trong nhóm: tìm nguyên nhân, hiệu quả, và
cách giải quyết.
Sống Lời Chúa: -
Lắng nghe và đối thoại với nhau trong tình bác ái huynh đệ. - Cầu nguyện cho sự
hiệp nhất trong Hội thánh, trong cộng đoàn.
Cầu nguyện: “Xin hiệp nhất chúng con nên một trong tình yêu Chúa. Xin hiệp
nhất chúng con như Ngài liên kết với Cha. Xin giải thoát chúng con xa điều bất
hòa chia rẽ. Xin kết liên muôn người trong tình mến Chúa Cha muôn đời.”
Đừng cứng
lòng nữa
Quanh chúng ta vẫn có nhiều người chưa biết
Chúa... Kitô hữu chúng ta phải có kinh nghiệm sâu xa như các tông đồ xưa, để
làm chứng được rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa”.
Suy niệm:
Chẳng rõ vì lý do gì mà ông Tôma đã không ở với nhóm môn đệ
khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp các ông.
Có vẻ có một sự xa cách nào đó giữa Tôma và mười ông kia.
Chuyện này trở nên rõ hơn khi ông Tôma từ chối tin vào lời của họ:
“Chúng tôi đã thấy Chúa!” (c. 25).
Ông đòi tự mình kiểm chứng, thấy tận mắt, sờ tận tay.
Thấy dấu đinh nơi bàn tay Thầy, xỏ ngón tay mình vào lỗ đinh,
thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy: đó là những điều kiện ông đòi để
tin.
Tôma không đứng dưới chân thập giá như người môn đệ Chúa yêu,
nhưng ông đã được nghe chuyện Thầy bị đóng đinh, bị đâm nơi cạnh
sườn.
Đối với ông, nếu Thầy thực sự phục sinh,
thì thân xác Thầy vẫn còn phải mang những vết thương đó.
Phục sinh không làm mất đi những vết sẹo của tình yêu cứu độ.
Đấng phục sinh lại có ý chiều ông, đó mới là chuyện lạ.
Ngài biết óc thực tiễn của ông, và Ngài không muốn mất ông (Ga 17,
12).
Ngài dám thỏa mãn những đòi hỏi táo bạo và cụ thể của ông,
để đưa ông về với đức tin, về với cộng đoàn.
Một tuần sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần,
Đức Giêsu phục sinh đến như thể cho một mình ông thôi,
và mời ông làm những điều ông đòi hỏi.
Chẳng rõ Tôma có dám thực hiện hay không,
nhưng chính thái độ bao dung và yêu thương của Thầy đã chinh phục
ông.
Môi ông bật lên lời tuyên xưng đức tin cao nhất trong Tân Ước:
“Lạy Chúa của tôi; lạy Thiên Chúa của tôi” (c.28).
Lời tuyên xưng này vượt quá những gì giác quan ông có thể cảm nhận.
“Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những ai không thấy mà
tin!”
Chúng ta ngày nay tuy không được hưởng kinh nghiệm như thánh Tôma,
nhưng chúng ta lại được hưởng một mối phúc mà ngài không có được.
Đó là mối phúc của người tin, không phải nhờ thấy tận mắt,
mà nhờ nghe lời chứng của các môn đệ (Ga 17, 20), trong đó có Tôma.
Xin cám ơn sự cứng lòng của thánh Tôma, cám ơn lời chứng của ngài.
Chính sự cứng cỏi của ngài làm chúng ta mềm mại hơn để tin,
vì chúng ta biết chuyện Chúa phục sinh không do một ảo giác tập
thể.
Tôma là một người hoàn toàn tỉnh táo.
Trong tập thể chúng ta đang sống, vẫn có những Tôma:
hoài nghi, bướng bỉnh, đòi hỏi, xa cách với cộng đoàn…
Thầy Giêsu dạy chúng ta bao dung và nhẫn nại, chứ không kết án.
Quanh chúng ta vẫn có nhiều người chưa biết Chúa,
họ cũng đòi thấy và đụng chạm đến Thiên Chúa.
Kitô hữu chúng ta phải có kinh nghiệm sâu xa như các tông đồ xưa,
để làm chứng được rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (c. 25).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm
Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc
bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con
trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai
môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa
chúng con
như Chúa đã đến đem bình
an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và
khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi
ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho
chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và
cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài
mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài
đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên
chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy Niệm
Thánh Tôma được trình bày trong Phúc
âm của thánh Gioan như một người hay tìm tòi, hay nghi ngờ (Ga 11,16; 14,5;
20,24-29). Ông không muốn tin khi ông chưa kiểm chứng xác thực, nhưng một khi
đã tin thì ông tuyên xưng một cách rõ ràng nhất về Đấng Phục sinh (Ga 14,6;
20,28).
Qua hai lần hiện ra sau khi sống
lại, Chúa Giêsu muốn nâng đức tin của các tông đồ lên từ mức độ thấp (tin không
chỉ vì được xem, kiểm nghiệm bằng giác quan) lên mức độ cao hơn: "phúc cho những ai không thấy
mà tin". Từ lo sợ thu mình trong căn phòng đóng kín, lo sợ trước sứ
mạng tương lai, lo sợ trước mầu nhiệm thập giá... điển hình như Tôma, Chúa Phục
Sinh đã biến đổi các ông trưởng thành hơn trong đức tin để các ông có thể làm
chứng cho Chúa và chu toàn sứ mạng Ngài trao phó. Đoạn Phúc âm hôm nay cho
chúng ta chứng kiến một cuộc đổi mới và kiện toàn đức tin nơi các tông đồ, đặc
biệt với thánh Tôma. Các tông đồ là nhưng người đã từng sống với Chúa như một
con người cụ thể bằng xương bằng thịt, nhưng không vì thế mà các ông không bị
lạc mất niềm tin vào Chúa.
Lạy Chúa, đứng
trước những nghịch cảnh xảy ra trong đời sống, chúng con dễ bị cám dỗ đánh mất
đức tin vào Chúa. Xin cho chúng con, dù không được diễm phúc kiểm chứng như
thánh Tôma, biết luôn tin tưởng vào Chúa và không lo sợ để có thể chu toàn sứ
mạng của Chúa trao. Amen.
Người Miệt Vườn
Hãy Nâng
Tâm Hồn Lên Tháng Bảy
3 THÁNG BẢY
Nguồn Thiện Hảo Bất Tận Của Thiên Chúa
Vị Thiên Chúa hằng săn
sóc chúng ta ấy là ai vậy? Sách Gióp mô tả Ngài là Đức Chúa của mọi tạo vật:
“Hãy xem: Thiên Chúa cao cả khi bày tỏ quyền năng, tôn sư nào sánh được với
Ngài? … Các giọt nước mưa, Ngài gom góp lại, rồi đem nghiền nát thành sương mù.
Các tầng mây đổ mưa xuống trên phàm nhân hết thảy… Quả thật, Ngài dùng nước mà
nuôi dưỡng chư dân – cho họ có lương thực dồi dào” (G 36,22.27-28.31).
“Ngài dùng hơi nước tạo
thành mây, và từ mây, Ngài làm cho chớp lóe. Mây lang thang xoay đủ mọi chiều,
theo đúng chương trình Ngài hoạch định, để trên toàn cõi đất chúng thực thi mọi
lệnh Ngài truyền” (G 37,11-12).
Sách Huấn Ca âm vọng lại
những lời của Sách Gióp – và nói về Thiên Chúa của tạo vật: “Ngài ra lệnh truyền,
tuyết liền sa xuống. Ngài phóng những tia chớp làm phán quyết của Ngài” (Hc
43,13). Tác giả Thánh Vịnh cũng tán dương “sức mạnh đáng sợ của Ngài”, “sự tốt
lành vô lượng của Ngài”, “uy phong rạng rỡ của Ngài”, Ngài là “Đấng thành tín
và đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm”. Tác giả Thánh Vịnh thốt lên: “Lạy
Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi
Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thỏa thuê. (Tv 145,6-7.15-16).
Hơn thế nữa, tác giả
Thánh Vịnh nhắc đến tình yêu và sự quan tâm của Thiên Chúa dành cho tất cả những
gì mà Ngài đã dựng nên: “Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc, làm tốt
tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng. Từ ruộng đất họ kiếm ra cơm bánh, chế
rượu ngon cho phấn khởi lòng người, xức dầu thơm cho gương mặt sáng tuơi, nhờ
cơm bánh mà no lòng chắc dạ” (Tv 104,14-15).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa
Trong Gia Đình
Ngày 03-7
Thánh Tôma Tông Đồ
Ep 2, 19-22; Ga 20, 24-29
LỜI SUY NIỆM: Một người trong Nhóm Mười
Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến.
Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa. Ông Tôma đáp: “Nếu
tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và
không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,24-25).
Trước khi Chúa Giêsu vào cuộc khổ nạn, các môn đệ luôn có mặt với nhau
bên Ngài. Trong câu chuyện này chúng ta thấy Thánh Tôma, đã không ở thường
xuyên cùng với Nhóm Mười Hai. Nên khi Chúa Giêsu hiện ra Thánh Tôma đã không được
hưởng niềm vui “Chúa Phục Sinh”. Điều này giúp cho mỗi người trong chúng ta
luôn phải liên kết, hiệp thông với cộng đoàn thường xuyên trong mọi công tác
tông đồ, cũng như trong cầu nguyên, để cùng nhau nhận được ơn đoàn sủng mà Chúa
sẽ ban cho cộng đoàn chúng ta đang sinh sống.
Mạnh Phương
Gương Thánh nhân
Ngày 03-07 THÁNH TÔMA TÔNG ĐỒ (Thế kỷ I)
Tôma là người Do thái, miền Galilê, sống nghề chài lưới,
Chúa Giêsu đã chọn Ngài vào số mười hai tông đồ, và Ngài đã từ bỏ mọi sự để chỉ
còn thuộc về thầy chí thánh mà thôi. Tôma tỏ ra đơn sơ, nhiệt thành và tận tụy.
Khi Lazarô chết các tông đồ run sợ vì thấy Chúa Giêsu về Giêrusalem, nơi các
tông đồ biết rõ là bọn biệt phái đang tìm cách giết Người.
Các tông đồ ngăn cản: - Thưa Thầy, vừa đây người Do
thái tìm cách ném đá Thầy mà Thầy lại qua đó nữa sao ?
Nhưng Tôma trung tín và có phần bi quan. Ông góp ý :
- Cả chúng ta nữa, hãy đi qua để chết với Ngài (Ga 11, 8-16)
Trong cuộc đàm thoại trước khi Chúa chịu tử nạn, Chúa
Giêsu tìm cách an ủi các tông đồ. Ngài nói: - Lòng các con xao xuyến... Ta đi dọn
chỗ cho các con, và Ta đi đâu, các con biết đường rồi.
Tôma thưa lại với nhiệt tình muốn theo Chúa: - Thưa
Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao mà biết đường ?
Và Chúa Giêsu đã trả lời ông: - Đường, sự thật và sự
sống chính là Ta (Ga 14,1-6)
Rồi biến cố khổ nạn xảy ra. Đoàn ngũ tông đồ tan tác.
Tội nghiệp Tôma: ông đã không cùng "chết với Ngài" (!). Trái lại, khi
Chúa Giêsu sống lại và hiện ra với các bạn khác, có lẽ Tôma còn đang ôm đầu
than khóc cho nỗi cay đắng.
Nghe các bạn nhiệt thành làm chứng rằng: Chúa đã sống
lại, sự cứng tin được biểu lộ bằng sự bực bội: - Nếu nơi tay Người, tôi không
thấy các dấu đinh, và tay tôi tra vào lỗ đinh, cùng tra bàn tay tôi vào cạnh sườn
Người tôi không tin.
Tiếp sau là một tuần buồn thảm. Đơn độc đối với Tôma
trong khi các bạn ông hạnh phúc. Chỉ có một mình Chúa Giêsu có thể thuyết phục
nổi Tôma thôi. Tám ngày sau lần hiện ra trước, Chúa Giêsu lại đến, lần này có
Tôma. Chúa Giêsu thân ái nói với ông: - Hãy đem ngón tay ngươi đặt đây, này tay
Ta, hãy đem tay ngươi tra vào cạnh sườn Ta và đừng ở như người cứng tin, mà là
như người thành tín.
Không cần gì nữa, không còn nghi ngờ được, Tôma lớn
tiếng tuyên xưng : - Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi.
Chúa Giêsu trả lời ông : - Bởi thấy ta ngươi đã tin.
Phúc cho những ai không thấy mà tin (Ga 2,24-29).
Đây là lời khích lệ dành cho những người biết đón nhận
đức tin. Nhưng Chúa Giêsu đã không bao giờ bảo người ta phải nhắm mắt lại.
Thánh Grêgôtiô ghi nhận rằng: sự nghi ngờ của Tôma giúp ích cho chúng ta hơn là
đức tin của những người khác. Đức tin vượt trên lý trí, nhưng lý trí dẫn tới đức
tin.
Sau ngày lễ hiện xuống, các tông đồ đi khắp nơi rao
giảng Tin Mừng. Theo Eusêbiô, thánh Tôma đi giảng đạo ở Parthia. Theo một truyền
thuyết khác, thánh nhân đã được gặp các đạo sĩ, đã kính viếng Chúa Hài Đồng thuở
trước, và rửa tội cho họ. Một truyền thống sớm sủa và mạnh mẽ hơn cho rằng Ngài
là vị tông đồ của dân An Độ.
(daminhvn.net)
03 Tháng Bảy
Vị Tiên Tri Cô Ðộc
Người
Ấn Ðộ có kể lại câu chuyện ngụ ngôn sau đây:
"Vì
tội lỗi của loài người, Thượng đế dọa sẽ trừng trị họ bằng một trận động đất. Ðất
sẽ nứt nẻ và nước sẽ rút hết vào trong lòng đất... Một thứ nước độc sẽ tràn ngập
mặt đất. Ai uống vào sẽ trở nên bất bình thường.
Một
vị tiên tri nọ đã không xem thường lời đe dọa của Thượng đế. Ông chuẩn bị đương
đầu với biến cố bằng cách từng ngày đem nước lên một ngọn núi cao. Số nước dự
trữ đủ cho ông sống đến ngày tàn của cuộc đời...
Ðộng
đất đã xảy đến, bao nhiêu sông nước trên mặt đất đều bốc hơi, một thứ nước khác
được thay thế vào.
Một
tháng sau, vị tiên tri trở lại đất bằng để xem những gì đang xảy ra cho loài
người. Ðúng như lời đe dọa của Thượng đế, mọi người sống trên mặt đất đều hóa
ra điên dại. Nhưng kỳ lạ thay, loài người không ý thức được tình trạng điên dại
của mình. Trái lại, ai cũng muốn ra đường để chế diễu vị tiên tri vì họ cho rằng
ông mới là người điên dại...
Buồn
tình, vị tiên tri trở lại chốn núi cao của mình. Ông sung sướng vì nước dự trữ
vẫn còn và ông vẫn là người duy nhất còn có một tâm trí lành mạnh, bình thường...
Nhưng
ngày qua ngày, ông cảm thấy không chịu nổi sự cô đơn của mình. Ông khao khát được
sống một cách bình thường với những người đồng loại. Thế là một lần nữa, ông trở
lại đồng bằng. Và một lần nữa, ông lại bị dân chúng ruồng rẫy, vì họ cho rằng
ông không còn giống họ nữa.
Không
còn chịu được sự hắt hủi của những người đồng loại, vị tiên tri đã đổ hết số nước
dự trữ của mình và ông uống lấy nước mới của người đồng loại để cũng trở nên
điên dại như họ..."
Con
đường dẫn đến chân lý không phải là con đường rộng thênh thang. Người đi tìm
chân lý thường là người cô độc...
Hôm nay chúng ta kính nhớ
thánh tông đồ Toma. Ai cũng biết lời bất hủ của Toma khi tuyên bố về sự sống lại
của Chúa: Nếu tôi không xỏ tay tôi vào lỗ đinh và cạnh sườn Ngài, tôi không
tin... Theo phương pháp khoa học, nhiều người đã lấy câu nói của Toma làm châm
ngôn cho việc đi tìm chân lý. Nghĩa là, nếu tôikhông kiểm chứng được, nếu tôi
không sờ mó được, tôi không chấp nhận điều đó là đúng...
Thái độ đó chưa hẳn là
thái độ thực tiễn trong cuộc sống. Giá trị cao cả nhất trong cuộc sống: đó là sự
tin tưởng, tín nhiệm đối với người khác. Ðau yếu, chúng ta đi mua thuốc, chúng
ta buộc phải tin tưởng ở người bán thuốc. Lạc đường, chúng ta buộc phải tin tưởng
ở lòng thành thật của người chỉ lối...
Thái độ đó càng đúng hơn
trong lĩnh vực Ðức Tin... Chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu không phải
vì chúng ta đã thấy Người hiện ra, nhưng chỉ vì lời chứng của các tông đồ, của
các tiền nhân... Một thái độ như thế đòi hỏi rất nhiều phấn đấu của lý trí. Lắm
khi, chung ta chỉ là một thiểu số cô độc.
Chúng ta dễ dàng rơi vào
nỗi cô độc của những người đang đi tìm chân lý. Người Kitô thường phải đi ngược
dòng. Ðiều người đời cho là bất bình thường, có lẽ phải là cái bình thường đối
với người Kitô. Ðiều người đời cho là yếu nhược, có khi phải là sức mạnh của
người Kitô. Ðiều người đời cho là điên dại, có khi phải là lẽ khôn ngoan của
người Kitô
(Lẽ Sống)
Thứ Tư 3-7
Thánh Tôma Tông Ðồ
Thật tội nghiệp cho Thánh
Tôma! Chỉ có một câu nói của ngài mà bị gán cho cái tên "Tôma Hồ Nghi"
trong suốt 20 thế kỷ. Nhưng nếu ngài nghi ngờ thì ngài cũng đã tin. Lời ngài
tuyên xưng đã trở thành một phát biểu đức tin trong Tân Ước: "Lạy Chúa
tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!" (x. Gioan 20:24-28), và lời ấy đã trở
thành lời cầu nguyện được đọc cho đến tận thế. Cũng nhờ ngài mà Kitô Hữu chúng
ta có được lời nhận định của Ðức Giêsu: "Anh tin là vì anh đã thấy
Thầy. Phúc cho những người không thấy mà tin" (Gioan 20:29).
Thánh Tôma cũng nổi
tiếng vì sự can đảm của ngài. Có thể điều ngài nói là do bốc đồng -- vì ngài
cũng bỏ chạy như các tông đồ khác khi Ðức Giêsu bị bắt bớ -- nhưng chắc chắn
ngài đã không giả dối khi nói lên ý muốn cùng chết với Ðức Giêsu. Ðó là khi Ðức
Giêsu đề nghị đến Bêtania sau khi Lagiarô từ trần. Vì Bêtania rất gần với
Giêrusalem, điều đó có nghĩa phải đi bộ ngang qua phần đất của kẻ thù và rất có
thể sẽ bị giết chết. Nhận biết sự kiện này, Thánh Tôma nói với các tông đồ
khác, "Chúng ta hãy cùng đi để chết với Thầy" (Gioan 11:16b).
Thánh Tôma còn được nhắc
đến khi Ðức Giêsu hiện ra sau Phục Sinh, tại Hồ Tibêria khi bắt được nhiều cá
một cách lạ lùng. Truyền thống nói rằng, sau biến cố Hiện Xuống trong ngày lễ
Ngũ Tuần, các Tông Ðồ đi rao giảng khắp nơi, và Thánh Tôma đã loan truyền Tin
Mừng cho người Parthi, Medes, và Ba Tư; sau cùng ngài đến Ấn Ðộ, đem Ðức Tin
cho dân chúng ở vùng ven biển Malaba, mà giáo đoàn đông đảo ấy tự nhận họ là
"Kitô Hữu của Thánh Tôma." Ngài đã chấm dứt cuộc đời qua sự đổ
máu cho Thầy mình, đã bị đâm bằng giáo cho đến chết ở nơi gọi là Calamine.
Lời Bàn
Thánh Tôma chia sẻ số
phận của Thánh Phêrô, Thánh Giacôbê và Gioan (những người "con của sấm
sét") Thánh Philípphê và lời thỉnh cầu dại dột của ngài khi muốn được nhìn
thấy Chúa Cha -- thật vậy mọi tông đồ đều có những khiếm khuyết và thiếu hiểu
biết. Tuy nhiên, chúng ta không thể chỉ chú ý đến các khuyết điểm này, vì Ðức
Kitô đã không chọn những người vô dụng. Sự yếu đuối của các ngài vì bản tính
loài người cho thấy sự thánh thiện là quà tặng của Thiên Chúa, chứ không phải
công sức của con người; món quà ấy được ban cho những con người bình thường đầy
khiếm khuyết; chính Thiên Chúa là người từ từ biến đổi những khuyết điểm ấy trở
thành hình ảnh của Ðức Kitô, can đảm, trung tín và nhân hậu.
Lời Trích
"... Ðược
thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần, Giáo Hội phải bước đi cùng một con đường mà Ðức
Kitô đã đi: con đường khó nghèo và vâng lời, phục vụ và hy sinh cho đến chết...
Và vì thế các tông đồ đã bước đi trong hy vọng. Vì Nhiệm Thể của Ðức Kitô, là
Giáo Hội, các ngài đã cung ứng những gì còn thiếu sót trong sự đau khổ của Ðức
Kitô qua những thử thách và đau khổ của các ngài (x. Col 1:24)" (Sắc lệnh Về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội,
số 5).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét