THÔNG ĐIỆP ÁNH SÁNG ĐỨC TIN - LUMEN FIDEI
CHƯƠNG MỘT
CHÚNG TA ĐÃ TIN VÀO TÌNH YÊU
(x. 1 Ga 4:16)
CHÚNG TA ĐÃ TIN VÀO TÌNH YÊU
(x. 1 Ga 4:16)
Abraham, cha
của chúng ta trong đức tin
8. Đức tin mở ra chúng ta con đường và cùng đi với những bước đường của chúng ta trong lịch sử. Do
đó, nếu muốn hiểu đức tin là
gì, chúng ta cần phải đi theo những con đường của nó, con đường của những người có đức tin, như đãđược làm chứng trước hết trong Cựu Ước. Có một nơi đặc biệt thuộc về ông Abraham,
cha của chúng ta trong đức tin.Trong
cuộc đời của ông, có một sự kiện làm đảo lộn tất cả: Thiên Chúa dùng Lời mà nói với ông, Ngài tự mặc khải nhưmột Thiên Chúa duy nhất Đấng nói và gọi tên ông. Đức tin liên
quan đến việc nghe. Ông Abraham không nhìn
thấy Thiên Chúa, nhưng nghe giọng nói của Ngài. Bằng cách này, đức tin có một tính cách cá nhân. Như vậy, Thiên Chúa rõ rằngkhông phải là Thiên Chúa của một nơi nào đó, hoặc một Thiên Chúa liên hệ với một thời điểm thiêng liêng nào đó, nhưng Thiên Chúa
của một người, Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, có khả năng tiếp xúc với con người
và thiết lập một giao ước với họ. Đức tin là sự đáp trả của chúng ta với một Lời, là Lời chất vấn chúng ta một cách cá nhân, về một “Chúa”,
Đấng gọi tên chúng ta.
9. Lời nói với ông Abraham này là một lời mời gọi và một lời hứa. Trước hết, nó là một lời mời gọi ông rời bỏ mảnh đất của mình, một lời mời gọi mở lòng ra cho một cuộc
sống mới, khởi đầu của
một cuộc xuất hành dẫn
ông về phía một tương lai không thể lường trước được. Viễn tượng mà đức tin cung cấp cho ông Abraham sẽ
luôn luôn được nối kết với
sự cần thiết phải thực hiện bước tiến này: đức tin “nhìn thấy” ông đi đến đâu, chỗ ông bước vào vùng trời được mở ra bởi Lời Thiên Chúa. Lời này cũng chứa đựng một lời hứa: miêu duệ ngươi sẽ rất đông đúc, ngươi sẽ là cha của
mộtdân vĩ đại (x.
St 13:16; 15:5, 22:17).
Thật đúng là một đáp trả với một Lời trước đó, đức tin của ông Abraham sẽ
luôn luôn là một hành động tưởng nhớ. Tuy nhiên, sự tưởng nhớ này không đóng chặt trong quá khứ, nhưng vì là một tưởng nhớ về một lời
hứa, nó trở nên có khả năng mở ra cho tương lai, soi sáng những bước đi dọc đường. Như vậy, chúng ta thấy làm sao đức tin, như một sự tưởng nhớ đến tương lai, memoria futuri, lại liên hệ chặt chẽ với niềm hy vọng.
10. Thiên
Chúa đòi ông Abraham phải tin tưởng vào Lời này. Đức
tin hiểu rằng Lời - một thực thể rõ ràng là phù du và thoáng
qua, khi được Thiên Chúa trung tín công bố -- lại trở nên
hoàn toàn chắc chắn và không thể lay chuyển được, đảm bảo tính liên tục của cuộc hành trình
của chúng ta trong
thời gian. Đức tin đón nhận Lời này như đá tảng
vững chắc, những nền tảng vững
vàng mà trên đó chúng ta có thể xây dựng. Đó là lý do tại sao trong Thánh Kinh, đức
tin được diễn tả bằng
các từ Do Thái 'emûnāh, bắt nguồn từ động từ ‘amàn mà căn ngữ của nó có nghĩa là “nâng đỡ”.Thuật ngữ ‘emûnāh có thể có nghĩa là sự trung tín của Thiên
Chúa, mà còn có nghĩa là đức tin của
con người. Con người có đức
tin nhận được sức mạnh
bằng cách phó thác
mình trong bàn tay Thiên Chúa trung tín. Việc chơi chữ dựa trên ý nghĩa đôi của từ này -
cũng được tìm thấy trong các từ ngữ tương tự trong tiếng Hy Lạp (pistos) và Latin
(fidelis) - Thánh
Cyrilô thành
Giêrusalem ca tụng phẩm
giá của Kitô hữu là người đón nhận chính danh của Thiên
Chúa: cả hai đều được gọi là “trung tín” [8]. Như Thánh Augustinô giải thích: “Con người trung
thành khi tin vào lời mà Thiên Chúa đãhứa, Thiên Chúa trung tín khi ban cho con người
những gì mà
Ngài đã hứa” [9].
11. Một suy nghĩ cuối cùng về lịch sử ông Abraham là điều quan trọng để hiểu đức tin của ông. Lời Thiên Chúa, tuymang đến với nó sự mới mẻ và
bất ngờ, nhưng không xa lạ gì với kinh nghiệm của Tổ Phụ. Trong giọng của Đấng nói với ông, ông Abraham nhận ra một lời mời gọi sâu xa, đã vĩnh viễn được khắc ghi trong
tâm điểm của cuộc đời ông.Thiên Chúa liên kết lời hứa của Ngài với “nơi” mà cuộc sống con
người đã luôn luôn tỏ
ra đầy hứa hẹn: việc
làm cha mẹ, việc sinh
ra sự sống mới: “Sarah vợ ngươi sẽ sinh một con trai, và ngươi sẽ đặt tên nó là
Isaac” (St 17:19). Thiên Chúa này, Đấng đòi ông Abraham phải hoàn toàn tin
tưởng tỏ mình ra là nguồn gốc của toàn thể đời sống. Bằng cách này, đức tin liên hệ đến Phụ Tính của Thiên
Chúa, mà từ đó phát
sinh ra tạo vật: Thiên Chúa, Đấng
gọi ông Abraham là
Đấng Tạo Hóa, là Đấng “làm cho những điều không có, thành có” (Rm 4:17),
Đấng “đã chọn chúng ta trước khi tạo thành thế gian ... và tiền định cho chúng ta làm nghĩa tử đối
với Ngài” (Ep 1,4-5). Với ông Abraham, đức tin
vào Thiên Chúa soi sáng những
nguồn gốc sâu thẳm nhất của con người ông, cho phép ông nhận ra nguồn mạch của sự tốt
lành,là nguồn gốc của tất
cả mọi sự, và xác nhận rằng cuộc đời của ông không phát sinh từ nhưng không hoặc tình cờ, nhưng từ một ơn gọi và một tình yêu cá nhân.
Thiên Chúa huyền nhiệm,
Đấng đã gọi
ông không phải là một
Thiên Chúa xa lạ, nhưng là nguồn gốc của mọi sự và nâng đỡ tất cả. Cuộc thử thách lớn lao về đức tin của ông Abraham, việc hiến tế con trai ông là Isaac, cho thấy mức độ mà
tình yêu nguyên thủy này có thể đảm bảo sự sống thậm chí vượt trên sựchết. Lời có thể làm sống lại một người con cho một thân xác là “như chết” và trong “lòng như đã chết” của bà Sarahson sẻ (x. Rm 4:19), Lời cũng có thể thực hiện lời hứa của Ngài về một tương
lai vượt trên tất cả những đe dọa hoặc
nguy hiểm (x. Dt 11:19; Rm 4:21).
Đức Tin của dân Israel
12. Lịch sử của dân Israel, trong Sách Xuất Hành, theo chân đức tin của ông Abraham. Đức
tin một lần nữa được sinh ra từ một hồng ân nguyên thủy: Dân Israel phó thác vào hành động của Thiên Chúa, Đấng muốn giải phóng họ khỏi cảnhđau khổ của họ. Đức
tin được mời gọi vào một
cuộc hành trình dài để
có thể thờ phượng Chúa trên núi Sinai và thừa kế một đất hứa. Tình yêu
Thiên Chúa có những đặc
tính của một người cha bồng bế con mình dọc theo cuộc hành trình (x.Dt 1:31). Lời tuyên xưng đức tin của dân Israel được hình thành như một tường thuật kể lại những nghĩa cử của
Thiên Chúa, về hành động của Ngài để giải phóng và hướng dẫn dân Ngài (x. Dt 26:5-11),
một tường thuật mà dân
chúngtruyền lại hết thế hệ này đến thế hệ khác. Ánh sáng của
Thiên Chúa chiếu soi
cho dân Israel qua việc tưởng nhớ đến những việc làm cả thể của Chúa, được nhớ lại và tuyên xưng trong các nghi lễ, và được truyền lại từ đời cha đến đờicon. Như thế, ở đây chúng ta
thấy ánh sáng đức tin được liên kết với tường thuật cụ thể về đời sống, với việc tưởng nhớ cách biết ơn những nghĩa cử của Thiên
Chúa và việc thực hiện cách
tiệm tiến lời hứa của Ngài. Kiến trúc gothic đãdiễn tả rõ ràng điều
này: trong những nhà
thờ chính tòa lớn, ánh sáng đến từ trời qua những cửa sổ kính là những nơimô tả lịch sử thánh. Ánh sáng của
Thiên Chúa đến với chúng ta qua những tường thuật về mặc khải của Ngài, và do đó trở nên
có khả năng soi sáng cuộc hành trình của chúng ta qua thời gian bằng cách nhắc lại
những nghĩa cử của
Thiên Chúa, và cho thấy Ngài hoàn thành những lời hứa của Ngài ra sao.
13. Lịch sử của dân Israel còn cho chúng ta thấy sự cám dỗ về việc thiếu lòng tin
mà dân chúng đã nhiều lần đầu hàng.Ở đâ, việc thờ ngẫu tượng có vẻ như đối nghịch với đức
tin. Trong khi ông Môsê đang đàm đạo với Thiên
Chúa trên núi Sinai, thì dân chúng không thể chịu đựng được mầu nhiệm về sự ẩn mình của Thiên
Chúa nữa, họ không
thể chịu nổi thời gian chờ đợi
để thấy dung nhan của Ngài nữa. Theo bản tính, đức tin đòi hỏi phải từ bỏ việc sở hữu lập tức
mà cảnh tượng này có vẻ
như đáp ứng, đó là một lời mời gọi tự mở ra đón nguồn mạch của ánh sáng, trong
khi tôn trọngmầu nhiệm
riêng của một Dung Nhan, sẽ tự mình tỏ lộ ra cách cá nhân trong
thời điểm thuận tiện
riêng. Martin Buber trích dẫn một định nghĩa về ngẫu tượng được giáo sĩ Do
thái Kock đề ra: việc thờ ngẫu tượng xảy ra khi “khi một khuônmặt kính cẩn hướng về một khuôn mặt không phải
là một dung
nhan” [10]. Thay vì đức tin vào Thiên Chúa, người ta thích thờ ngẫu tượng hơn, đó là ngẫu tượng mà chúng ta
biết khuôn mặt và có nguồn gốc của nó, bởi vì nó là tác phẩmchúng ta. Trước ngẫu tượng, chúng ta không có nguy cơ bị mời gọi từ bỏ những sự an toàn riêng của mình, bởi vì ngẫutượng “có
miệng, nhưng không nói” (Tv 115:5). Như thế, chúng ta hiểu rằng ngẫu tượng chỉ là một lý do để con người đặt mình ở trung
tâm của thực tại qua
việc thờ phượng công trình do tay mình làm ra. Một khi đã bị mất định hướng cơ bản là điều cung cấp cho cuộc đời tính đơn
nhất, con người bị lạc
đường trong những ước muốn đa dạng của mình.Khi không chịu chờ đợi thời điểm của lời hứa, con người bị phân tán trong
hàng ngàn những khoảnh khắc của lịch sử mình. Cho nên, việc thờ ngẫu tượng luôn
luôn là tôn giáo đa thần, một di chuyển không có mục đích từ một chúa này sang một chúa khác. Việc
thờ ngẫu tượng không cung cấp cho
con người một con đường mà rất
nhiều lối mòn, khôngdẫn đến một cùng đích chắc chắn, mà thay
vào đó, tạo ra một mê hồn trận. Những người không muốn đặt niềm tin vào Thiên
Chúa, phải nghe những tiếng ồn ào của
vô số ngẫu tượng kêu la: “Hãy tin tưởng vào tôi!” Đức
tin gắn liền với việc
hoán cải, trái ngược với
việc thờ ngẫu tượng; đức tin là một đoạn tuyệt với ngẫu tượng để trở về với Thiên Chúa hằng
sống, trong một cuộc
gặp gỡ cá nhân. Tin, có
nghĩa là phó thác mình cho một tình yêu đầy thương xót, là tình yêu luôn luôn đón nhận và tha
thứ, nâng đỡ và hướng dẫn cuộc đời chúng ta, và chứng tỏ sức mạnh của nó bằng khả năng sửa chữa những sai lệch của lịch
sử của chúng ta. Đức
tin hệ tại việc sẵn
sàng để cho mình được liên tục biến đổi và canh tân bằng lời mời gọi của Thiên Chúa.
Đây là sự nghịch
lý: bằng cách liên tục quy
hướng về Chúa, con
người khám phá ra một con đường chắc chắn giải thoát họ khỏi sự phân tán mà ngẫu tượng áp đặt trên họ.
14. Trong đức tin của dân Israel, cũng có ông Môsê, người trung gian. Dân chúng không thể
nhìn thấy dung nhan Thiên
Chúa; chính ông Môsê thưa chuyện cùng Đức Giavê trên
núi và sau đó, nói với mọi người thánh ý của Chúa. Với
sự hiện diện này của người trung gian, dân Israel học đồng hành với nhau trong sự
hiệp nhất. Hành động đức tin của mỗi người tìm thấy chỗ đứng của mình trong một cộng
đồng, trong “cái chúng ta” chung của dân chúng, là những ngườitrong đức
tin, giống như một người duy nhất - “con đầu lòng của Ta”, như Thiên Chúa sẽ gọi toàn thể dân Israel
(x. Xh4:22). Việc làm trung gian ở đây không trở thành một chướng ngại, nhưng một sự mở ra: trong cuộc gặp gỡ với
những người khác, cái
nhìn của chúng ta mở ra cho một chân lý thật lớn hơn chúng ta. J.J. Rousseau có lần than thở rằng
ông không thể tự mình nhìn thấy
Thiên Chúa: “Có biết bao nhiêu
người đứng giữa Thiên Chúa và tôi!” [11].... “Có phảicũng đơn giản và tự nhiên mà Thiên Chúa đã
tìm ông Môsê để nói với ông Jean Jacques
Rousseau không?” [12]. Dựa vào một quan niệm theo chủ nghĩa cá nhân và hạn hẹp của kiến thức, người ta
không thể hiểu được ý
nghĩa của việc làm trung gian, là khả năng tham gia vào cái nhìn của người
khác này, sự hiểu biết được chia sẻ
này là kiến thức đặc
thù của tình yêu. Đức tin là món quà nhưng không của Thiên Chúa, Đấng đòi hỏi lòng khiêm
tốn và can đảm để tin tưởng và phó thác, ngõ hầu nhìn thấy con đường sáng dẫn đến cuộc
gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con
người: lịch sử cứu độ.
Sự viên mãn của đức tin Kitô giáo
15. “Abraham […] hớn hở vui mừng vì sẽ thấy ngày
của Tôi, ông đã
thấy nó và đã vui mừng” (Ga 8:56).
Theo những lờinày của Chúa
Giêsu, đức tin của ông Abraham chỉ về Người, theo một nghĩa nào
đó, nó đã là một thị kiến cho biết trước mầu
nhiệm của Người. Thánh Augustinô cũng hiểu như vậy khi ngài quả quyết rằng các Tổ
Phụ đã được cứu bởi đức tin, không phải đức tin vào Đức Kitô đã đến, nhưng vào Đức Kitô sẽ đến, một đức tin hướng về biến cố tương lai của
Chúa Giêsu [13]. Đức tin Kitô
giáo đặt trọng tâm vào Đức
Kitô, đức tin ấy tuyên
xưng rằng Chúa Giêsu là Chúa vàrằng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết (x. Rm 10:9). Tất
cả các nhân vật của Cựu
Ước đều hội tụ vào Đức Kitô, Người
trở thành câu trả lời “Có”
dứt khoát cho tất cả những lời hứa, nền tảng của lời thưa “Amen” cuối cùng của chúng ta với Thiên
Chúa (x. 2 Cor 1:20). Lịch sử của Chúa Giêsu là sự tỏ lộ hoàn toàn mức độ đáng tin cậy của
Thiên Chúa. Nếu dân Israel tiếp
tục nhắc lại
những hành vi cao cả của
tình yêu Thiên Chúa, là
những điều tạo thành cốt lõi của lời tuyên xưng đức tin của họ và mở rộng cái nhìn
của họ về đức
tin, thì từ đó, cuộc đời của
Chúa Giêsu xuất hiện như một địa điểm của sự can thiệp dứt khoát của Thiên
Chúa, sự biểu lộ cao nhất của tình yêu của Ngài dành cho chúng ta.Lời mà Thiên Chúa
nói với chúng ta trong Chúa Giêsu, không chỉ đơn thuần là một lời bổ túc trong số rất
nhiều lời, nhưng là Lời vĩnh cửu của Ngài (x. Dt 1:1-2).
Thiên Chúa không thể ban cho chúng ta một đảm bảo nào lớn hơn tình
yêu của Ngài, như Thánh
Phaolô nhắc nhở chúng ta (x. Rm 8:31-39). Như vậy, đức tin Kitô giáo là đức tin vào một tình
yêu trọn vẹn, trong quyền năng hiệu quả của nó, trong khả
năng của nó để biến
đổi thế gian và soi sáng thời gian.“Chúng ta đã biết và tin
vào tình yêu mà Thiên
Chúa dành cho chúng ta” (1 Ga 4:16). Trong tình
yêu của Thiên Chúađược tỏ lộ nơi Chúa Giêsu,
đức tin nhận ra nền tảng mà trên đó toàn thể thực
tại và số phận cuối cùng của
nó dựa vào.
16. Bằng chứng lớn lao nhất về mức độ đáng tin cậy của tình
yêu Đức Kitô được tìm thấy trong chết của Người vì nhân loại. Nếu việc hy sinh mạng sống của mình cho bạn hữu là bằng chứng
lớn nhất của tình yêu (x. Ga 15:13), thì Chúa Giêsu đã hiến mạng sống Người cho mọi người, ngay cả những kẻ thù của Người, để biến đổi tâm hồn họ. Đó là lý do tại sao theo các thánh sử, thì cái nhìn về đức tin đạt đến
tột đỉnh vào giờ của Thánh Giá, giờ mà trong đó sự cao cả và tràn đầy của
tình yêu Thiên Chúa được
tỏa sáng. Thánh Gioan đặt ở đây lời chứng long trọng của ngài, khi cùng với Mẹ
Chúa Giêsu, ngài chiêm
ngắm Đấng bị đâm thâu
qua (x. Ga 19:37). “Có người xem thấy việc ấy đã làm chứng,
và lời chứng của người ấy thì chân thật; và người ấy biết mình nói thật để anh
em tin” (Ga 19:35). F.M. Dostoevsky, trong tác phẩm Thằng Ngốc
(L’idiot), làm
cho nhân vật chính, Hoàng tử Myskin, khi nhìn thấy một bức tranh về Đức Kitô chết
trong mồ của
Hans Holbein Trẻ, nói: “Khi nhìn vào bức tranh này, một tín hữu có thể
mất đức tin của
mình” [14]. Thật
vậy, bức tranh trình bày
một cách khủng khiếp những
hậu quả tàn khốc của cái chết trên thân thể Đức Kitô.
Tuy nhiên, chính trong
việc chiêm ngắm cái chết của Chúa Giêsu mà đức tin được củng cố và nhận được
một ánh sáng huy hoàng, khi nó được biểu lộ như đức tin vào tình
yêu không thể lay chuyển
được của Đức Kitô dành
cho chúng ta, một tình
yêu có khả năng bước
vào cái chết để cứu chúng
ta. Tôi có thể tin vào Tình Yêu này, một Tình Yêu không lùi bướctrước cái chết để chứng tỏ Người yêu tôi thế nào; việc
hoàn toàn tự hiến của
Người thắng vượt mọi nghi ngờ và cho phép chúng ta phó thác hoàn toàn vào Đức Kitô.
17. Trên hết, trong ánh
sáng việc Phục Sinh, cái chết của
Đức Kitô cho thấy rõ mức độ hoàn
toàn đáng tin cậy
của tình yêu Thiên Chúa. Như Đấng Phục Sinh, Đức Kitô là nhân chứng đáng tin cậy, xứng
đáng với đức
tin (x. Kh 1:5; Dt2:17), là sự nâng đỡ vững chắc cho
đức tin của chúng ta. Thánh
Phaolô quả quyết: “Nếu Đức
Kitô đã không sống lại, thì đức tin của anh em là đức tin vô
ích” (1 Cor 15:17). Nếu tình yêu của Chúa Cha đã không cho Chúa Giêsu sống
lại từ cõi chết, nếu Ngài
đã không có thể ban
sự sống lại
cho thân xác của Người, thì sẽ không phải là một tình
yêu hoàn toàn đáng tin cậy, cũng có khả năng chiếu soi những bóng tối của sự chết. Khi
Thánh Phaolô nói về đời sống
mới của ngài trong
Đức Kitô, ngài nói về “đức tin vào Con Thiên Chúa, là Ðấng đã yêu thương tôi và đã hiến
mạng sống Mình vì tôi” (Gl 2:20). “Đức tin vào Con
Thiên Chúa” này
chắc chắn là đức tin của Vị Tông Đồ Dân Ngoại vào Chúa Giêsu, nhưng nó
cũng nói lên rằng
Chúa Giêsu đáng tin cậy, không chỉ
dựa trên tình yêu
cho đến chết của Người, mà còn trên việc Người là
con Thiên Chúa. Chính bởi vì Chúa Giêsu là Chúa Con, bởi vì Người hoàn toàn ở trong Chúa Cha, Người đã có thể chiến thắng sự chết và làm
cho sự viên mãn của sự sống được sáng tỏa. Nền văn hóa của chúng ta đã đánh mấtkhái niệm về sự hiện diện
hữu hình của Thiên Chúa, về hoạt động của Ngài trong thế gian. Chúng ta nghĩ rằng chỉ tìm thấy Thiên Chúa ở bên ngoài, trên một
mức độ khác của thực tại, tách biệt khỏi các mối liên hệ hàng ngày
của chúng ta. Nhưng
nếu điều này đúng, nếu Thiên
Chúa không thể hoạt động
trong thế gian, thì tình yêu của Ngài sẽ không thực
sự mạnh mẽ, thực sự có thật, và như thế, Ngài cũng không phải là một tình yêu thật,
một tình yêu có khả năng mang
lại hạnh phúc mà Ngài
đã hứa. Như thế, tin
hay không tin vào Ngài, tất cả sẽ chẳng khác gì. Trái lại, các Kitô hữu tuyên
xưng đức tin của họ vào tình
yêu cụ thể và mạnh
mẽ của Thiên Chúa, Đấng thực
sự hoạt động
trong lịch sử và quyết định vận mệnh cuối cùng của nó, một tình yêu mà con người có thể gặp gỡ, một tình yêu hoàn toàn được mặc khảitrong cuộc Khổ Nạn, Cái Chết và Phục
Sinh của Đức Kitô.
18. Sự viên mãn mà Chúa Giêsu mang đến cho đức tin, có một khía cạnh quyết định
khác. Trong đức tin, Đức Kitô không chỉ đơn thuần là Đấng mà chúng ta tin, là biểu hiện cao cả nhất của tình
yêu Thiên Chúa, Người cũng
là Đấng mà
chúng ta kết hợp với để có thể tin. Đức
tin không chỉ đơn thuần là ngắm nhìn Chúa Giêsu, nhưng nhìn mọi sự theo quan điểm của Chúa Giêsu, với đôi mắt của Người: đó là một sự tham
gia vào cách
nhìn của Người. Trong nhiều
lĩnh vực của cuộc đời chúng ta, chúng ta tin tưởng vào những người khác, là những người biết nhiều
hơn chúng ta. Chúng ta tin
tưởng vào các
kiến trúc sư là
những người xây nhà chúng ta, vào dược sĩ là những người cho chúng ta
thuốc để chữa bệnh, vào các luật sư là những người bảo vệ
chúng ta tại
tòa án. Chúng ta cũng
cần một ai đó đáng tin cậy vàchuyên
môn về những việc có liên quan đến Thiên Chúa. Chúa Giêsu, Con của Ngài, là Đấng tự giới thiệu
như Đấng giải thích
cho chúng ta về Thiên Chúa (x. Ga 1:18). Cuộc
đời Đức Kitô, cách Người biết
Chúa Cha và sống hoàn
toàn trong mối liên hệ với Ngài, mở ra một không gian mới cho
kinh nghiệm của con người mà
chúng ta có thể vào được. Thánh Gioan đã đưa ra tầm quan trọng của một mối liên hệ cá nhân với
Chúa Giêsu đối với đức
tin của chúng ta bằng cách sử
dụng các cách dùng khác
nhau của động từ tin. Ngoài việc “tin rằng”
những gì Chúa Giêsu nói với chúng ta là sự thật,Thánh Gioan cũng dùng thuật ngữ “tin” Chúa
Giêsu và “tin vào” Chúa Giêsu. Chúng ta “tin” Chúa
Giêsu khi chúng ta chấp nhận Lời Người, chứng từ của Người, bởi vì Người trung thực (x. Ga 6:30). Chúng ta “tin vào” Chúa
Giêsu khi chúng ta đích thân đón Người vào cuộc đời và cuộc hành trình của chúng ta về phía Người, gắn bó với Người trong tình
yêu và bước theo Người trên
đường đời (x. Ga 2:11
; 6:47 ; 12:44).
Để giúp chúng
ta biết Người, đón nhận Người và theo Người, Con Thiên Chúa mặc
lấy xác thịt của chúng ta. Bằng cách
này, Người cũng nhìn Chúa Cha một cách nhân loại, trong khung cảnh của một cuộc
hành trình diễn ra trong thời gian. Đức tin Kitô giáo là đức tin vào sự nhập
thể của Ngôi Lời
và sự Sống Lại của Người
trong thân xác, đức tin
vào một Thiên Chúa rất gần gũi chúng ta và đã đi vào lịch sử nhân loại của
chúng ta. Đức tin vào Con Thiên
Chúa làm người trong Chúa Giêsu
thành Nagiareth không tách chúng ta ra khỏi thực tại,
nhưng cho phép chúng ta chấp nhận ý nghĩa sâu xa nhất của nó, để tìm hiểu xem Thiên Chúa yêu
thương thế giới này
bao nhiêu và không ngừng hướng nó về phía Ngài. Điều này thúc đẩy các Kitô hữu dấn thân, để sống một cách mãnh liệt hơn trong cuộc hành
trình trần thế.
Ơn cứu độ
bởi đức tin
19. Từ
việc chia sẻ cách nhìn của Chúa Giêsu này, Thánh Phaolô đã để lại cho
chúng ta trong các bài
viết của ngài một mô tả về đời sống đức tin. Qua việc chấp nhận hồng ân đức tin, các
tín hữu được biến đổi thành
một tạo vật mới. Họ nhận được
một con người mới, là con cái [Thiên Chúa]; họ trở nên con cái trong Chúa Con. Cụm từ “Abba,
Lạy Cha”, là lời rất đặc trưng của
kinh nghiệm của Chúa Giêsu, trở thành trung tâm của kinh nghiệm Kitô giáo (x. Rm
8:15). Đời sống trong đức tin,
như một đời con thảo,
là một sự nhìn nhận hồng ân nguyên thủy và triệt để, là nền tảng của cuộcđời con người, và có thể được tóm tắt
trong câu của Thánh Phaolô gửi tín hữu Côrinthô: “Có gì mà anh em đã không nhận
được?” (1 Cor 4:7). Đây chính là trung tâm của
cuộc tranh luận của Thánh Phaolô với những người Biệt Phái, cuộc thảo luận về ơn cứu độ bằng đức tin hoặc bằng việc làm của Lề Luật. Điều mà Thánh Phaolô bác bỏ, là thái độ của
những người tự coi mình là công chính trước mặt Thiên Chúa qua trung gian của hành động đúng của
mình. Những người như thế, ngay cả khi họ tuân giữ các điều răn và làm những việc lành, tự đặt mình ở trung tâm, mà không
nhận ra rằng nguồn gốc
của sự tốt lành là Thiên
Chúa. Những người làm
như thế, muốn thành nguồn
gốc của sự công chínhriêng của họ, họ nhanh chóng thấy rằng sự công chính này trở nên khô cằn và họ không
thể thậm chí giữ được
lòng trung thành với Lề Luật. Họ tự khép kín mình và tự cô lập đối với Chúa và với tha nhân, kết quả là cuộc đời của họ trở
nên trống rỗng và những công việc của họ trở nên cằn cỗi như một cây sống xa nước. Thánh Augustinô cũng đưa rabằng ngôn từ ngắn gọn và hiệu quả của ngài: “Ab eo qui fecit te, noli deficere nec ad
te”, “Đừng quay lưng lại với Đấng đã dựng nên bạn, ngay cả quay về phía chính
mình” [15]. Khi một người nghĩ rằng bằng
cách quay lưng lại với Thiên Chúa, họ sẽ tìm thấy chính bản thân họ, cuộc đời người ấy bắt đầu sụp đổ
(x. Lc 15:11-24). Khởi đầu của ơn cứu độ là mở lòng ra với một cái gì có trước, với một món quà nguyên thủy là món quà đảm bảo cho cuộc sống và duy trì nó
trong đời. Chỉ bằng cách mở lòng của chúng ta ra cho nguồn gốc này và qua việc nhìn nhận nó, con người mới có thể đượcbiến đổi, nhờ để cho ơn cứu độ hoạt động trong
mình và làm cho cuộc đời mình sinh hoa trái, đầy những hoa trái tốt. Ơn cứu độ nhờ đức tin, có nghĩa là công nhận tính ưu
việt của hồng ân của
Thiên Chúa. Như Thánh Phaolô đã tóm lược: “Nhờ ân sủng mà anh em được cứu độ qua đức tin; và đó không phải
bởi anh em, mà là bởi ân huệ của Thiên Chúa” (Eph
2:8).
20. Luận
lý mới của đức tin đặt
trọng tâm vào Đức Kitô. Đức tin vào Đức Kitô cứu chúng ta bởi vì chính trong Người màcuộc sống mở ra cách triệt để cho một Tình Yêu đi
trước chúng ta và biến đổi
chúng ta từ bên trong, một
Tình Yêu hoạtđộng trong
chúng ta và với chúng
ta. Điều này được thấy rõ trong chú giải một đoạn văn từ Sách Đệ Nhị Luật của Vị Tông Đồ Dân Ngoại, một chú
giải phù hợp với động
năng rất sâu sắc của Cựu Ước. Ông Môsê nói với dân chúng rằnggiới luật của
Thiên Chúa không quá cao,
mà cũng không quá xa với
con người. Người ta không cần phải
nói: “Ai sẽ
lên trời mà đem nó xuống cho chúng tôi” hoặc “Ai sẽ đi qua bên kia biển, đem nó về cho
chúng tôi?” (Đnl 30:11-14). Sự gần gũi này của lời Chúa được Thánh Phaolô giải
thích như phản ảnh sự hiện
diện của Đức Kitô trong các
Kitô hữu. “Đừngtự
nhủ rằng, ‘Ai sẽ lên
trời?’ (nghĩa là, để đem Đức
Kitô xuống), hoặc “Ai sẽ xuống âm phủ? (nghĩa là, để
đem Đức Kitôlên từ
cõi chết)” (Rom 10:6-7). Đức
Kitô đã xuống trần và đã sống lại từ cõi chết; qua việc Nhập Thể và
Phục Sinh của Người, Con Thiên Chúa chấp nhận toàn thể cuộc hành trình của con
người và ở trong tâm hồn chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Đức tin biết rằng Thiên Chúa
đã rất gần
gũi chúng ta, rằng Đức Kitô đã trở nên một hồng ân cao cả cho
chúng ta, hồng ân biến đổi chúng ta từ bên trong, ở trong chúng ta, và do đó ban cho chúng ta ánh
sáng chiếu soinguyên
thủy và cứu cánh của cuộc đời, toàn thể tiến trình của cuộc
hành trình của con người.
21. Do
đó, chúng ta có thể hiểu sự mới mẻ mà đức tin dẫn chúng ta đến. Người tín hữu được biến đổi
bởi Tình Yêu mà họ đã mở lòng ra đón nhận trong đức
tin, và qua việc mở lòng ra
đón nhận Tình Yêu mà đức tin ban cho họ, cuộc đờicủa họ rộng mở vượt ra ngoài chính mình. Thánh Phaolô có thể quả quyết: “Tôi sống, nhưng không
còn là tôi sống, màlà Đức Kitô
sống trong tôi” (Gl 2:20), và khuyên nhủ: “Chớ gì Đức Kitô ngự
trong tâm hồn
anh em nhờ đức tin” (Eph3:17). Trong đức tin, “cái tôi” của người tín hữu mở
rộng để có chỗ cho Người Khác cư ngụ, để sống trong Người Khác, và cuộc sống của người ấy cũng mở
rộng ra trong Tình Yêu. Ở
đây, có hoạt động của Chúa
Thánh Thần. NgườiKitô hữu có
thể có đôi mắt của
Chúa Giêsu, những tình cảm
của Người, và tâm tình con thảo của Người, bởi vì người đó được thông phần vào Yình Yêu của Người, Tình Yêu ấy, chính là Chúa Thánh Thần. Chính trong Tình Yêu này màchúng ta một cách nào đó nhận được cái nhìn riêng của Chúa Giêsu. Nếu không có việc nên đồng hình đồng dạng
này trong Tình Yêu, nếu không có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần là Đấng được
đổ vào lòng chúng ta (x. Rm 5:5), thì chúng ta không thể nào tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa (x. 1
Cor 12:3).
Hình thức Hội
Thánh của đức tin
22. Bằng cách này, đời sống của người tín hữu trở thành đời sống của Hội
Thánh. Khi Thánh Phaolô nói với các Kitô hữu Rôma về một thân thể duy nhất mà tất cả
những ai tin vào Đức Kitô tạo thành, ngài khuyên
nhủ họ đừng tự hào về
điều này, trái lại, mỗi người phải nghĩ về mình “theo mức độ đức tin mà
Thiên Chúa đã ban
phát cho mình” (Rm 12:3).Các tín hữu học cách nhìn chính mình theo đức tin mà họ tuyên
xưng: Hình ảnh của Đức Kitô là
tấm kính (gương) mà ở đó họ tìm thấy
hình ảnh riêng của họ được thể hiện. Và như Đức Kitô ôm ấp trong Mình tất cả mọi tín hữu, là những kẻtạo thành thân thể của Người, người Kitô hữu hiểu rằng mình được bao gồm trong thân
thể này, trong mối
liên hệ nguyên thủy với Đức Kitô và tất cả các tín hữu khác trong đức tin. Hình ảnh của
một thân thể
không có ý hạ các tín hữuxuống thành một phần tử đơn giản của một tổng
thể vô danh, một thành
phần thô sơ trong một bộ máy vĩ đại, nhưngđúng hơn là
muốn nhấn mạnh đến sự kết hợp sống còn của Đức Kitô với các tín hữu, và các tín hữu với
nhau (x. Rm12 :4-5). Các Kitô hữu là “một” (x.
Gal 3:28), mà
không mất đi cá tính của mình, và trong việc phục vụ người khác, nội tâm của chính mỗi người lại được lợi
nhất. Điều này giải thích lý do tại sao, ngoài thân thể này,
ngoài sự hiệp nhất này của Hội Thánh trong Đức Kitô, ngoài Hội Thánh này mà - theo lời của
Romano Guardini - “là người mang trong lịch sử cái nhìn toàn diện của Đức Kitô về thế gian” [16]
– thì đức tin mất đi “tiêu chuẩn” của
nó, mất sự cân bằng
của nó,không còn tìm thấy
nơi thiết yếu để [dựa vào mà] tự mình đứng vững. Đức
tin là một hình thức nhất
thiết phải thuộc vềHội Thánh, nó được tuyên xưng
từ bên trong thân thể Đức
Kitô, như sự hiệp
thông cụ thể của các tín hữu. Chính từ chỗ thuôc về Hội Thánh này mà đức tin mở lòng mọi Kitô hữu ra với tất cả mọi người. Lời của Đức Kitô, một lần đượcnghe, nhờ chính động năng của nó, biến đổi thành một lời đáp trả
trong các Kitô hữu, và
tự trở thành một lời được công bố, một tuyên xưng đức tin. Như Thánh Phaolô
đã nói: “ai tin bằng tấm lòng [...] và tuyên xưng ra miệng thì được cứu độ” (Rm 10:10). Đức
tin không phải là một vấn đề riêng tư, một khái niệm theo cá nhân chủ nghĩa hoặc một ý kiến chủ quan, nhưng phát sinh từ việc được
nghe, và nó có ý tìm cách để được nói ra và trở thành lời công
bố. “Làm sao
họ sẽ tin vào Ðấng mà họ chưa được nghe? Và làm sao mà họ sẽ được nghe, nếu
không có người rao giảng?” (Rm 10:14).Như thế, đức tin trở nên có hiệu quả trong các
Kitô hữu nhờ hồng ân nhận
được, nhờ Tình
Yêu đó thu hút tâm hồnchúng ta về với Đức Kitô
(x. Gl 5:6), và làm cho chúng ta trở nên một phần tử của cuộc hành trình của Hội Thánh, cuộchành hương qua lịch
sử, hướng về sự
viên mãn của nó. Đối với những người đã được biến đổi đổi theo cách này, một cách
nhìn mới được mở ra, đức
tin trở thành ánh sáng cho đôi mắt của họ.
--------------
[8] x. Giáo
lý V, 1: PG 33, 505A.
[9] In Psal. 32,
II, s. I, 9: PL 36,
284.
[10] M. Buber, Die Erzählungen der Chassidim, Zurich, 1949,
793.
[11] Émile, Paris, 1966, 387.
12] Lettre à
Monseigneur de Beaumont, L’Âge d’Homme, Lausanne, p. 110.
[13] x. In Ioh. Evang, 45,
9:. PL 35, 1722-1723.
[14] Phần II, IV.
[15] De Continentia, 4, 11: PL 40, 356.
[16] “Vom Wesen katholischer Weltanschauung” (1923), trong Unterscheidung
des Christlichen. Gesammelte Studien1923-1963, Mainz, 1963, 24.
Phaolô Phạm Xuân Khôi
chuyển ngữ tử bản La
Tinh và Tiếng Pháp của Tòa Thánh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét