Trang

Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

31-07-2013 : THỨ TƯ TUẦN XVII MÙA THƯỜNG NIÊN - THÁNH I-NHA-XI-Ô (lễ nhớ)

Thứ Tư Ngày 31/07/2013
Tuần 17 Mùa Thường Niên Năm Lẻ
 
Xh 34,29
BÀI ĐỌC I: Xh 34, 29-35
"Thấy mặt ông Môsê, họ sợ không dám đến gần".

Trích sách Xuất Hành.
Khi ông Môsê từ trên núi Sinai đi xuống, ông mang hai bia đá chứng từ; và ông không biết do sự đàm đạo với Chúa, mặt ông sáng láng rực rỡ. Nhưng ông Aaron và con cái Israel thấy mặt ông Môsê sáng láng rực rỡ, thì sợ không dám đến gần. Ông Môsê gọi họ, thì cả Aaron lẫn các thủ lãnh hội đường mới quay lại. Sau khi ông nói chuyện với họ, tất cả con cái Israel mới đến gần ông. Ông truyền lại cho họ tất cả những điều ông đã nghe Chúa phán trên núi Sinai. Nói xong, ông lấy khăn che mặt mình. Khi ông vào trước mặt Chúa và đàm đạo với Người, thì ông cất khăn cho đến lúc ông trở ra và bấy giờ ông thuật lại cho con cái Israel những điều Chúa đã truyền dạy ông. Lúc ông Môsê ra đi, họ thấy mặt ông sáng láng rực rỡ; nhưng khi ông nói với họ, ông che mặt ông lại.  Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:  Tv 98, 5. 6. 7. 9
Đáp: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Đấng Thánh (c. 9c).

1) Hãy cao rao Chúa là Thiên Chúa chúng ta. Hãy sấp mình dưới bệ kê chân Người; đây là bệ ngọc chí thánh. -  Đáp.
2) Trong hàng tư tế của Người có Môsê và Aaron, và có Samuel trong số người cầu đảo danh Người. Các ông kêu cầu Chúa và chính Người nhậm lời các ông. -  Đáp.
3) Trong cột mây, bấy giờ Người phán bảo; các ông đã nghe những huấn lệnh của Người, và chỉ thị Người đã truyền cho các ông giữ. -  Đáp.
4) Hãy cao rao Chúa là Thiên Chúng chúng ta; hãy sấp mình trên núi thánh của Người: vì Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Đấng Thánh.   -  Đáp.

ALLELUIA:  1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

PHÚC ÂM:   Mt 13, 44-46
"Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh trở về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.  Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Kho Tàng Quí Giá

Bài thơ "Viên Ngọc Quí Giá Nhất" của thi hào Tagore có nội dung như sau: Sanathan cầu nguyện đang lúc đi bách bộ dọc theo bờ sông, bỗng có một thanh niên tiến đến và thành khẩn van xin ngài bố thí. Nhà hiền triết đáp: "Ta không có gì cả. Ta đã cho đi tất cả rồi, Ta chỉ còn cái bị ăn mày này thôi".
Người thanh niên tiếp tục nài nỉ:
- Thiên Chúa đã cho tôi đến gặp ngài, vì chỉ có ngài mới có thể giúp tôi và làm cho tôi nên giàu có.
Nhà hiền triết mới sực nhớ ngày nọ ông đã cất giấu bên cạnh bờ biển một viên ngọc quí mà ông đã tình cờ tìm được. Ông nghĩ rằng biết đâu viên ngọc này một ngày nào đó sẽ giúp ích cho một ai đó. Ông liền chỉ cho người thanh niên nơi cất giấu viên ngọc.
Người thanh niên ra đi đào bới và đã tìm được viên ngọc quí. Cầm viên ngọc sáng ngời trong tay, người thanh niên ngồi trên bãi biển và suy nghĩ suốt đêm. Khi bình minh vừa ló dạng, anh tìm đến với nhà hiền triết và khẩn khoản nài xin:
- Thưa ngài, xin hãy cho tôi viên ngọc quí hơn mọi viên ngọc quí. Xin hãy cho tôi thứ của cải vượt trên mọi thứ của cải.
Nói xong, anh ném viên ngọc xuống dòng sông và đứng dậy đi theo nhà hiền triết.
Bài thơ trên đây có thể minh họa cho chúng ta cái nghịch lý chạy xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng: mất mát là được lợi lộc, cho là được nhận lãnh, chết là được sống. Ðó là cái nghịch lý mà Chúa Giêsu đã quảng bá và sống cho đến tận cùng: cái chết trên Thập giá và sự Phục sinh vinh hiển của Ngài là một thể hiện của cái nghịch lý ấy.
Trong Tin Mừng hôm nay, với hai dụ ngôn có nội dung gần như nhau, một lần nữa, Chúa Giêsu muốn đề ra cái nghịch lý ấy: vì Nước Trời, con người phải bán đi tất cả, phải chấp nhận mất tất cả. Thế nhưng Nước Trời là gì? Chúa Giêsu xem ra đã không mất giờ và dài dòng trong những lý thuyết khô khan. Với các môn đệ, Ngài nói như một mệnh lệnh: "Hãy theo Ta" và họ đã bỏ mọi sự để đi theo Ngài. Với người thanh niên giàu có, Ngài mời gọi: "Hãy về bán tất cả tài sản, phân phát cho người nghèo, và trở lại đi theo Ta".
Hãy đi theo Ngài, vì Ngài là tất cả. Hãy đánh đổi mọi sự để được sống với Ngài. Chúa Giêsu chính là hiện thân của Nước Trời: nơi Ngài, con người tìm được kho tàng quí giá nhất; nơi Ngài, con người được sống và sống sung mãn. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Ta đến để cho chúng được sống và sống dồi dào". Các môn đệ được kêu gọi trước tiên để sống với Ngài. Ðược sống với Ngài, đi theo Ngài, lấy Ngài làm lẽ sống, đó là nội dung đích thực của tư cách làm môn đệ.
Kitô giáo do đó thiết yếu chính là Chúa Giêsu Kitô. Làm Kitô hữu có nghĩa là chọn Chúa làm gia nghiệp và sẵn sàng đánh đổi tất cả để sống cho Ngài và vì Ngài. Làm Kitô hữu có nghĩa là đặt Ngài vào trọng tâm cuộc sống, để dù khi ăn, dù khi uống, dù làm bất cứ việc gì, luôn luôn tôn vinh Ngài. Làm Kitô hữu là sống cho Ngài và sống bằng chính sức sống của Ngài, để có thể thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi". Một cuộc sống như thế chắc chắn đòi hỏi nhiều hy sinh, phấn đấu, mất mát.
Dù sống trong hoàn cảnh nào, bất cứ người môn đệ nào của Chúa Kitô cũng đều cảm nghiệm được lời tiên báo của Ngài: "Vì Danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghét bỏ". Không bị bách hại công khai, thì cũng bị chống đối hay loại trừ, đó là số phận của người Kitô hữu.
Nguyện xin Chúa Kitô, Ðấng chúng ta đã chọn làm gia nghiệp, luôn gìn giữ chúng ta trên bước đường theo Chúa, và củng cố chúng ta trong nghịch lý mà Ngài đã sống: mất mát là lợi lộc, cho là lãnh nhận, chết là được sống.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 17 TN1, Năm lẻ.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Lựa chọn phần tốt nhất: lắng nghe và đàm đạo với Thiên Chúa.

Khi đương đầu với cuộc sống quá bận rộn, nhiều người không còn biết phải chọn điều gì và bỏ điều gì nữa. Rốt cuộc, họ chỉ còn biết phản ứng và làm điều gì tới trước. Phản ứng như thế không khôn ngoan, vì mọi việc phải có thứ tự ưu tiên của chúng. Nhiều lần chúng tôi đã đề cập đến chiếc kiềng ba chân mà chúng ta phải đứng vững trên đó, và thứ tự ưu tiên của chúng: (1) mối liên hệ với Thiên Chúa, (2) mối liên hệ với tha nhân, và (3) mối liên hệ với của cải vật chất. Theo thứ tự của Thập Giới và thứ tự của chiếc kiềng ba chân này, mối liên hệ của con người với Thiên Chúa chiếm vị thế hàng đầu trong cuộc sống. Con người phải thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.

Các Bài Đọc hôm nay muốn làm nổi bật các người đã chọn phần tốt nhất. Trong Bài Đọc I, ông Moses được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa và đàm đạo với Ngài. Hậu quả là vinh quang của Thiên Chúa phản chiếu rạng ngời trên khuôn mặt ông đến độ con cái Israel không dám nhìn ông vì sợ hãi. Ông phải đeo một tấm vải để che bớt sự rạng rỡ này. Phúc Âm tường thuật biến cố Chúa Giêsu đến thăm hai chị em Martha và Maria. Chị Martha than phiền vì em Maria không chịu giúp chị lo việc phục vụ Chúa, mà chỉ ngồi dưới chân để lắng nghe Ngài. Chúa Giêsu sửa lỗi chị Martha: "Martha! Martha ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi."

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Vinh quang Thiên Chúa biểu tỏ trên mặt ông Moses.

1.1/ Lý do của việc chiếu sáng: "Ông Moses không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa." Tục ngữ Việt-nam có câu: "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng." Câu tục ngữ này có nghĩa: khi một người làm bạn với những người tốt lành, thánh thiện, anh sẽ được chiếu sáng và học được những thói quen tốt lành này; ngược lại, nếu anh giao du với phường trộm cướp gian manh, anh sẽ trở nên tối tăm vì nhiễm lây những thói quen xấu xa của họ. Vì ông Moses gần gũi Thiên Chúa và đàm đạo với Ngài thường xuyên, nên vinh quang của Ngài chiếu tỏa và ở lại trên khuôn mặt ông.

Trong biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor, các thánh ký cũng tường thuật mặt của Chúa Giêsu sáng chói như mặt trời và áo của Ngài trở nên trắng như tuyết. Điều này dạy chúng ta bài học: phải để vinh quang của Thiên Chúa chiếu sáng trong cuộc đời chúng ta qua việc cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, và kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa; nếu không, sự tối tăm của ma quỉ sẽ bao trùm cuộc sống, và chúng ta sẽ sợ hãi và tránh né những con cái của sự sáng, như con cái Israel tránh né ông Moses vậy. Nếu họ không dám nhìn mặt của Moses, chỉ là phản chiếu của vinh quang Thiên Chúa, làm sao họ dám nhìn Thiên Chúa, là nguồn sáng như chính mặt trời?

1.2/ Thiên Chúa nói với dân qua người lãnh đạo: Ông Moses gọi họ: "ông Aaron và các đầu mục của cộng đồng trở lại với ông, và ông nói chuyện với họ. Sau đó, toàn thể con cái Israel lại gần ông, và ông truyền cho họ tất cả những điều Đức Chúa đã phán với ông trên núi Sinai."

Bên cạnh vinh quang bên ngoài, ông Moses còn được soi sáng trong tâm hồn để hiểu biết những điều bí nhiệm của Thiên Chúa; nếu Thiên Chúa không mặc khải, không ai có thể hiểu biết những bí nhiệm này. Vì thế, chúng ta cần tôn trọng và năng chạy đến với các nhà lãnh đạo thánh thiện, các ngài thay mặt Chúa để dạy dỗ và mặc khải những bí nhiệm của Thiên Chúa cho chúng ta.

2/ Phúc Âm: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.

2.1/ Em Maria chọn ngồi bên chân Chúa để nghe Ngài giảng dạy: Nhiều người chắc cũng nghĩ như chị Martha: con bé này lười quá hay "mồm miệng đỡ tay chân!" Nhưng đây là một lựa chọn rất tính toán và khôn ngoan, như Chúa Giêsu đã phải khen Maria bên dưới. Một số lý do có thể Maria đã dựa vào để làm sự lựa chọn này:

+ Cô biết rõ thứ tự ưu tiên của cuộc đời: phải chọn Thiên Chúa trước hết. Maria biết chẳng có ai có những lời khôn ngoan và mang lại sự sống như Chúa Giêsu; vì thế, cô phải hoãn tất cả các việc khác để lắng nghe những gì Ngài muốn truyền đạt.

+ Cô biết nắm lấy cơ hội khi nó xảy đến: Một người bận rộn rao giảng như Chúa không dễ gặp. Cô biết cơ hội để đàm đạo với Chúa không thường xảy ra: nếu không biết nắm lấy ngay, cô không biết có còn cơ hội nào khác không! Chúng ta phải học nơi Maria điều này, để khi Chúa gởi những nhà rao giảng đến, chúng ta biết sắp xếp công việc hàng ngày để nghe những gì họ rao giảng. Đừng giả sử cơ hội sẽ có mãi, kẻo phải tiếc nuối sau này!

+ Khách đến nhà không chỉ để ăn, nhưng còn để chuyện vãn, tâm sự. Maria thấy chị bận rộn nấu nướng; cô chọn để trò chuyện với Chúa. Nhiều người chúng ta không chịu để ý đến khía cạnh tế nhị này; nên đã để cho khách ngồi một mình trong phòng khách chờ đợi trong khi chúng ta chuẩn bị thức ăn dưới bếp. Hiểu như thế, quyết định của Maria thật sáng suốt: chị lo nấu ăn, em lo tiếp khách.

2.2/ Chị Martha chọn để vất vả lo việc phục vụ Chúa Giêsu: Khi một thượng khách như Chúa Giêsu đến nhà, đó là lúc để chủ nhà biểu tỏ tài nội trợ, nấu nướng, và tính hiếu khách. Chúng ta không lạ gì khi Martha quá vất vả lo lắng tới độ cô tiến lại Chúa Giêsu và than phiền với Ngài: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!" Ngược lại với những gì Martha mong đợi, Chúa Giêsu đáp: "Martha! Martha ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi." Có nhiều điều chúng ta có thể học hỏi từ câu trả lời của Chúa Giêsu:

+ Martha không hiểu rõ thứ tự ưu tiên của cuộc đời: Chúa Giêsu sữa chữa lỗi lầm cho cô khi Ngài nói: "Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi." Thức ăn có ngon mấy chăng nữa rồi cũng qua đi; nhưng Lời Chúa sẽ ở lại trong tâm hồn và soi sáng cho con người biết cách sống thế nào để có hạnh phúc trong cuộc đời.

+ Martha không quan tâm đến người khác: Cô có thể nghĩ chỉ có việc của cô mới đáng làm, việc của Maria không quan trọng! Đây là một lỗi lầm mà nhiều người chúng ta mắc phải. Chúng ta đừng bắt người khác phải suy nghĩ và hành động như mình, vì mỗi người có những suy nghĩ và hành động khác nhau. Chúng ta cũng không hiểu đủ để xác quyết việc nào là việc tốt nhất, cho đến khi được tuyên bố rõ ràng bởi Thiên Chúa.

+ Martha không biết sắp xếp thời giờ: Có thể Martha không biết khi nào Chúa đến, vì ngày xưa không có thói quen có giờ hẹn như thời nay. Dù sao chăng nữa, Martha không nên lo lắng quá nhiều đến chuyện ăn uống, vì khách tới nhà để thăm viếng chứ không chỉ để ăn! Các gia đình Việt-nam chúng ta cần chú trọng điều này, để đừng làm quá nhiều thức ăn mỗi khi tiếp khách. Hầu hết trong các bữa tiệc, khách không dùng hết một nửa các thức ăn của chủ nhà bày ra. Hậu quả là gia chủ phải ăn đồ thừa hay phải lãng phí thức ăn cách không cần thiết.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta phải dành ưu tiên hàng đầu cho mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa bằng cách dành thời giờ để cầu nguyện, lắng nghe, học hỏi, và thực hành những gì Chúa dạy.

- Lời Chúa soi sáng cho chúng ta biết cách lựa chọn những điều xảy ra cho phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa; đồng thời cũng cung cấp cho chúng ta sức mạnh để làm theo.


Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 17 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 13,44-46

A. Hạt giống...
Hai dụ ngôn này có cùng một ý nghĩa : Nước Trời rất quý giá nên đáng cho người ta bán tất cả những gì mình có để đổi lấy.
Hai dụ ngôn này chẳng qua cũng là nhấn mạnh thêm một tư tưởng chủ yếu mà Mt đã nhiều lần nói tới ở những chỗ khác, như : Chúa Giêsu nói với thanh niên nhà giàu "Hãy bán hết những gì anh có, đem chia cho người nghèo, bấy giờ anh sẽ được kho tàng thiên quốc, rồi hãy đến theo Ta" (19,16-22) ; để được Nước Trời, phải sẵn sàng mọi sự, kể cả nếu cần thì chặt tay, chặt chân, móc mắt (18,8-9).. Tóm lại, để được Nước Trời, chẳng có hy sinh nào được kể là quá lớn cả.

B.... nẩy mầm.
1. Nước Trời quý giá hơn tất cả, bởi vì chỉ có Nước Trời là tồn tại vĩnh viễn, còn mọi giá trị khác có ngày sẽ mất. “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì ?”.
2. Ngày xưa người ta chưa biết tới dịch vụ ngân hàng, nên cất dấu của cải bằng cách đem dấu ở một nơi người khác không biết. Nhưng cất dấu quá bí mật đến nỗi lắm khi chủ nhân chết đi thì không ai khác biết. Kho tàng trở thành vô chủ. Ta thử nghĩ nếu có ai đó tình cờ biết được kho tàng ấy, người đó sẽ sung sướng thế nào ! Và có ai biết nó mà vẫn thờ ơ chẳng tìm mọi cách để lấy cho bằng được hay không ?
Tôi là người được biết kho tàng Nước Trời đó. Vậy tôi phải cám ơn Chúa. Nhưng tôi có quá ngu dại để không tha thiết gì tới kho tàng ấy không ? Tại sao tôi lại không dám bỏ những thứ khác để đổi lấy kho tàng ấy ?
3. Nhiều khi tôi tiếc vì phải từ bỏ thứ này thứ nọ. Tôi không nhớ rằng Chúa Giêsu đã hứa sẽ bù lại cho tôi một kho tàng vô giá.
4. Một người nông dân đang nghe John Wesley giảng về việc xử dụng của cải. Trong phần thứ nhất, nhà giảng thuyết quảng diễn tư tưởng “Hãy thu hoạch (làm giàu) tối đa”. Người nông dân thúc cùi chõ người đứng bên cạnh và nói “Một bài giảng tuyệt vời”. Wesley khai triển điểm thứ hai “Hãy tiết kiệm tối đa”. Người nông dân lại khen “Chưa bao giờ tôi được nghe một bài giảng hay như vậy”. Wesley sang điểm thứ ba “Hãy chia sẻ tối đa”. Người nông dân mất hứng, rút lui khỏi nhà thờ và buồn bã về nhà (Góp nhặt)
5. Người nông dân bán đi tất cả để mua cho được thửa ruộng vì biết rằng trong đó có kho tàng ẩn dấu. Người thương gia cũng vội vã đầu tư mọi tài sản của mình vào viên ngọc quý.
Vì lợi nhuận, các nhà doanh nghiệp chẳng ngần ngại đầu tư tiền bạc vào các công trình. Vì chiến thắng, các vận động viên đầu tư mọi sức lực vào việc luyện tập. Vì tương lai, người trẻ sẵn sàng đầu tư chất xám và thời gian cho sự học hỏi.
Tôi tự hỏi : “Vì Nước Trời, tôi đã dám nghĩ đến chuyện đầu tư cho đức tin chưa nhỉ ?”
Lạy Chúa, xin thúc đẩy con luôn biết đầu tư tất cả cho đức tin bằng việc đặt Chúa vào trọng tâm cuộc sống, và biến lời thương mến thành hành động tin yêu. (Hosanna)
6. Khi bước vào trần gian, chúng ta muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Thế nhưng khi nhắm mắt xuôi tay, chúng ta đành phải ra đi với hai bàn tay trắng.
Xuất thân từ bụi tro rồi chúng ta sẽ trở về tro bụi. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời. Không ai trong chúng ta có thể tưởng tượng được cuộc sống đó như thế nào, chỉ biết rằng Tình Yêu là giá trị sẽ mãi mãi tồn tại, và chỉ có tình yêu mới thắng được sự chết và tất cả những gì trói buộc chúng ta trong giới hạn của cuộc sống này.
Lạy Chúa, cuộc sống hiện tại của con được dệt bằng một chuỗi của vui tươi và sầu khổ, thành công và thất bại, sum họp và li tán. Tất cả những điều đó nhắc nhở con rằng cuộc sống này chóng qua và mời gọi con nghĩ đến giá trị vĩnh cửu. Trong mọi sự, xin cho biết tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời, và biết sống những giây phút hiện tại như chính giờ phút con phải đến gặp gỡ Chúa. (Hosanna).

Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp.Cần Thơ

31/07/13 thứ tư tuần 17 tn
Th. Inhaxiô Lôiôla, linh mục
Mt 13,44-46

VUI MỪNG BÁN TẤT CẢ...

“Tìm được viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.” (Mt 13,46)

Suy niệm: Từ tháng 9/2012, ngư dân xã Bình Châu (Quảng Ngãi) tìm thấy một chiếc tàu chở đầy đồ gốm sứ đắm gần bờ và bắt đầu lặn vớt cổ vật. Một số người thành tỉ phú chỉ sau một đêm lặn vất vả. Người dân tìm mọi cách tiếp cận con tàu để có vài cổ vật trong tay là hy vọng đổi đời. Việc phát hiện chiếc tàu đắm đã làm xôn xao náo động cả một vùng biển lặng. Cũng vậy, dù tình cờ tìm thấy kho tàng chôn trong ruộng như người nông dân, hay cả đời lùng kiếm rồi tìm thấy viên ngọc quý như người thương gia, cả hai đều hành xử như nhau: vui sướng và hy sinh bán tất cả những gì mình có để chiếm cho được báu vật. Kho tàng hay viên ngọc quý ấy là Nước Trời, là chính Đức Giêsu, là tương quan thân thiết với Thiên Chúa.

Mời Bạn: Đôi mắt lão luyện của người buôn ngọc giúp ông nhận ra giá trị của viên ngọc quý. Cũng vậy, không phải ai cũng khám phá ra giá trị vô cùng của kho tàng Nước Trời, của viên ngọc quý Giêsu, duy những người có con mắt đức tin mới nhận ra nét đẹp quý giá này. Bạn có vui mừng khi được biết Đức Giêsu và Nước Trời không? Bạn có sẵn lòng chấp nhận từ bỏ một số tham vọng, thói quen, lối sống không thích hợp để dành trọn vẹn cho Ngài không?

Sống Lời Chúa: Tôi luôn vui mừng vì được biết Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài. Từ hôm nay tôi sẽ vui lòng đón nhận lối sống từ bỏ bản ngã để sống tương quan tốt đẹp với Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chúng con vui mừng khi có Chúa là viên ngọc quý, Nước Trời là kho tàng vô cùng quý báu trong cuộc đời. Xin giúp chúng luôn sống trong niềm vui ấy. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)



Vui mừng bán tất cả
Nếu ta còn ngần ngại khi phải bán đi tất cả thì chỉ vì ta chưa thấy. Nhưng nếu ta cứ can đảm bán đi, ắt ta sẽ thấy. Niềm vui chỉ đến với người dám bán tất cả.

Suy nim:
Tất cả bắt đầu từ một sự tình cờ may mắn.
Người nông dân nghèo phải làm thuê cho điền chủ
tình cờ gặp được kho báu chôn trong ruộng.
Người buôn ngọc tình cờ gặp được viên ngọc tuyệt vời,
có giá trị lớn lao mà người bán không hề biết.
Sau đó phản ứng của cả hai rất giống nhau:
ra đi, bán tất cả những gì mình có và mua...
Không thấy có dấu vết của sự nuối tiếc
hay ngần ngại giằng co.
Tất cả diễn ra thật nhanh
và tràn ngập niềm vui thanh thản.
Ai cũng rõ họ hạnh phúc biết chừng nào
khi chiếm được kho báu và viên ngọc.
Cuộc đời họ chuyển sang một giai đoạn mới.
Thái độ của hai người trên được coi là bình thường.
Ở địa vị ta, ta cũng làm như thế.
Kho báu và viên ngọc là những thứ thấy được,
có giá trị hiển nhiên và hết sức hấp dẫn.
Chúng hứa hẹn một sự giàu sang mà ai cũng thèm thuồng,
nên người ta dễ bán tất cả để mua được chúng.
Bị ảnh hưởng bởi não trạng hưởng thụ vật chất,
chúng ta thường coi kho báu duy nhất ở đời này
là tiền bạc, quyền uy và khoái lạc.
Khi nói Nước Trời là kho báu bền vững,
Ðức Giêsu là viên ngọc quý đích thực,
chúng ta lại thấy đó là cái gì mơ hồ,
xa xôi, ít lôi cuốn, thậm chí không có thật.
Chính vì thế chúng ta thường ngần ngại khi từ bỏ,
dè sẻ, nuối tiếc khi phải hy sinh cho Chúa.
Vậy vấn đề là khả năng thấy, nhờ lòng tin.
Bản thân tôi có thấy Ðức Giêsu là viên ngọc quý,
và Nước Trời là kho báu không?
Chỉ ai thấy được những thực tại vô hình
và ngây ngất trước giá trị của chúng,
người ấy mới hồn nhiên và vui tươi
đánh đổi tất cả kho báu phù phiếm của đời này
để lấy kho báu bất diệt trên trời (x. Mt 6,20).
Có khi tình cờ, qua một biến cố, một người bạn,
qua một cuốn sách, một đoạn Lời Chúa, một kỳ tĩnh tâm,
tôi chợt gặp Ðức Giêsu như viên ngọc ngời sáng,
hấp dẫn, mời gọi tôi bay lên khỏi cái tôi tầm thường:
tôi có dám bán nỗi đam mê ích kỷ của mình
để mua lấy tình bạn với Ngài không?
Nếu ta còn ngần ngại khi phải bán đi tất cả
thì chỉ vì ta chưa thấy.
Nhưng nếu ta cứ can đảm bán đi,
ắt ta sẽ thấy.
Niềm vui chỉ đến với người dám bán tất cả.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.

Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.

Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.

Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Suy niệm
Sống là một chuỗi những sự chọn lựa, mà đã chon lựa thì ai cũng muốn chọn điều tốt nhất cho mình. Thông thường chọn lựa thì đi đôi với việc từ bỏ. Khi chúng ta quyết định chọn lựa điều gì đó thì đồng thời chúng ta cũng phải bỏ đi một số điều khác. Ví dụ một thanh niên muốn có được sự thành đạt trong sự nghiệp thì phải bỏ đi những thú vui không cần thiết để cố gắng làm việc học tập. Chúa Giêsu hôm nay cũng muốn nói với chúng ta điều đó. Trong cả hai dụ ngôn Chúa Giêsu đều muốn nhấn mạnh giá trị của nước trời. Cả người thương gia và anh nông dân đều sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm được nước ấy. Khi một người tìm thấy kho tàng và biết rằng kho tàng đó rất có giá trị. Lập tức anh ta từ bỏ những gì anh ta có hiện tại để có được kho tàng đó. Nước trời cũng giống như kho tàng bị chôn vùi trong lòng đất, như viên ngọc quý nhưng chưa được ai phát hiện. Chúng ta được Chúa Giêsu dạy cho biết giá trị của nước trời, Ngài còn chỉ cho chúng ta cách để có được nước trời, thì dại gì chúng ta lại không dám từ bỏ những cái hiện tại để mua lấy nước trời có giá trị vĩnh cữu mai sau.

Qua hai dụ ngôn chúng ta thấy rằng, để tìm được kho báu hay viên ngọc quý đòi hỏi hai người phải làm việc cật lực mới có thể tìm thấy được. Nước trời cũng vậy, chúng ta có thể hiểu nước trời là chính Thiên Chúa, là thiên đàng, là sự sống đời đời, là sự thánh thiện…..hiểu như vậy khơi dậy trong chúng ta sự khao khát, ước mong và tha thiết làm mọi sự để được Chúa là gia nghiệp, được sự sống đời đời, được nên thánh hằng ngày. Khi đã có ước muốn dẫn chúng ta đến hành động nổ lực làm mọi sự và từ bỏ những cái không cần thiết để đạt được mục đích đó. Muốn được nước trời, sự sống đời đời thì phải từ bỏ mọi sự mà theo Ngài. Như Chúa Giêsu đã từng nói: tiên vàng hãy tìm kiếm nước trời còn mọi sự khác Chúa sẽ ban cho sau. Và muốn nên thánh, muốn được sự sống đời đời, đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ cái kém hơn để chọn cái có giá trị cao hơn.

Tiền bạc của cải vật chất là những thứ nay còn mai mất. Tất cả chúng chỉ là những phương tiện chứ không phải là mục đích trong cuộc sống. Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể dẫn đưa chúng ta đến cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu.

Lạy Chúa xin cho chúng con luôn ý thức tiền bạc vật chất là những phương tiện để chúng con tìm kiếm Thiên Chúa và Nước trời mai sau. Xin bạn cho chúng con thêm ơn khôn ngoan, để trong bất cứ chọn lựa nào chúng con luốn biết chọn Chúa và Nước Trời mai sau làm ưu tiên số một. Amen.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Bảy

31 THÁNG BẢY

Ngay Cả Sự Chết Cũng Phục Vụ Cho Sự Sống

Chúng ta nhận thấy Cựu Ước – trong khi nhìn nhận sự có mặt của nhiều loại sự dữ và đau khổ trong đời – đã làm chứng hùng hồn rằng sự khôn ngoan và lòng từ ái của Thiên Chúa (biểu hiện qua sự quan phòng thần linh của Ngài) tất thắng trên mọi sự dữ và đau khổ.

Cảm nhận này được trình bày trong Sách Gióp, cuốn sách xoáy trọn vào chủ đề sự dữ và tiếng kêu ai oán thất vọng. Cuốn sách quan trọng này (về chủ đề sự dữ) đôi khi được thấy như một kiểm nghiệm hùng hồn ‘đo lòng’ người công chính. Nhưng đây chỉ là một khía cạnh phụ thuộc của quyển sách mà thôi. Cốt lõi của quyển sách chính là sự đúc kết vừa rõ ràng vừa công phu của tác giả rằng Thiên Chúa là Đấng tốt lành. Qua Sách Gióp, chúng ta nắm bắt những giới hạn và bản chất phù du của mọi tạo vật. Chúng ta nhận ra rằng một số hình thức của sự dữ thể lý có thể là do bản chất sa ngã của thế giới gây ra.

Chúng ta cũng ý thức rằng tất cả những gì thuộc vật chất đều ở trong một mối quan hệ hỗ tương gần gũi nhau – như câu nói xưa: “Đây chết thì kia sống”. Như vậy, xét một mức nào đó, ngay cả sự chết cũng phục vụ cho sự sống. Qui luật này cũng không loại trừ con người – vì con người vừa là xác thịt vừa là tinh thần, vừa khả diệt vừa bất tử.

Trong chiều hướng này, những ý tưởng của Thánh Phao-lô càng vén mở các chân trời rộng hơn nữa: “Dù con người bên ngoài chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới” (2Cr 4,16). Rồi ngài nói thêm: “Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2Cr 4,17).

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II



Lời Chúa Trong Gia Đình

Thánh Ignatiô Loyôla, linh mục
Xh 34, 29-35; Mt 13, 44-46.


LỜI SUY NIỆM: ”Nước Trời giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13,45-46)

Kinh Thánh là kho tàng vô giá cho toàn thể nhân loại, nhưng không phải ai cũng thấy hết giá trị và cần thiết đối với cuộc sống của mình. Hạnh phúc cho chúng ta là những Ki-Tô hữu, đã nhận ra kho báu. Nhờ ân ban của Thiên Chúa. Nhưng nhận ra, nhận được rồi mà chỉ để nhận, không ra sức khám phá, không cầm trên tay, không nhìn ngắm, không thưởng thức được vẻ đẹp tuyệt vời, không trở thành là niềm vui và sự sống của mình thì cũng bằng thừa. Tất cả mọi sự hiểu biết cần phải có thầy dạy. Trong học tập, cần phải chuyên cần học, tích trử trong tâm trí và học đến nới đến chốn. Mới thật sự mang lại lợi ích cho đời mình. Ước gì chúng ta luôn kết hiệp với ơn Chúa Thánh Thần trong việc học hỏi Lời Chúa để đem lại lợi ích cho chúng ta hôm nay và mãi mãi.


Mạnh Phương


Gương Thánh nhân

Ngày 31-07
Thánh IGNATIÔ LOYOLA
Linh Mục (1491 - 1556)


Don Inigo Lopez de Recalde sinh khoảng năm 1481 tại miền đồi núi Basque gần làng Azpeytia. Ngài là con út trong số 11 người con của một gia đình quí tộc. Được rửa tội với tên Inigo, một vị thánh Tây Ban Nha dòng thánh Bênêdictô, nhưng sau này Ngài thường dùng tên Ignatiô thành Antiokia. Hồi còn niên thiếu, người giúp việc cho một người bạn quí tộc của một gia đình là Giuan Velasquez. Sau khi Velasquez từ trần, Ngài lại phục vụ bá tước Najera, phó vương miền Navarre. Ngài được giáo dục một cách hời hợt. Thời đó, Ngài chỉ ham chơi, thích những chuyện hào hùng, nhất là những ngày lễ duyệt binh.
Trong cuộc chiến Pháp, Tây Ban Nha tháng năm 1521 quân đội Pháp đã vượt núi Pyrênê và tới phong tỏa Pampeluna. Nhiều người đã tính chuyện đầu hàng, nhưng Ignatiô quyết cầm cự. Trong cơn bão tố tại pháo đài Ignatiô bị trúng đạn pháo ở đùi, Ngài được chuyển về lâu đài ỏ Loyola. Nơi dây người ta khám phá ra rằng xương đùi đã bị xếp trật, phải mổ ra và sắp xếp lại. Ngài đã can đảm chịu đựng cơn đau.
Thời gian dưỡng bệnh lâu dài tiếp theo sau đó, không có sách vở gì khác, Ignatiô dùng thời gian để đọc hạnh các thánh. Gương mẫu đời sống các thánh làm mủi lòng Ignatiô. Ngài nói: - Tôi có phải thực hiện điều mà thánh Phaxicô và Dominico đã làm chăng ?
Năm 1522, sau khi bình phục, Ngài đi hành hương kính Đức bà Montserrat. Nơi đây Ngài đã thực hiện cuộc xưng tội trong ba ngày, trao tặng đồ hiệp sĩ cho một kẻ ăn xin, đặt gươm trên bàn thờ Đức Mẹ và tới thành Manresa kế cận để phục vụ trong một nhà thương. Đã một thời Ngài bị nguy hiểm rơi vào một cuộc khổ hạnh quá độ. Ngài Ngài đã thoát hiểm nhờ sự vâng phục hoàn tòan đối với cha giải tội. Chính tại Manresa, Ngài được Thiên Chúa soi sáng, sự soi sáng hứơng dẫn trọn những ngày còn lại của cuộc đời Ngài. Ngài viết cuốn linh thao, trong đó vạch ra những nguyên tắc mà một người công giáo phải theo để "điều khiển đời sống mình" một đời sống nhằm ca tụng Chúa, tôn kính và phụng sự Ngài, để được cứu rỗi. Ngài phác họa một giáo thuyết của mình về sự chọn lựa và đòi hỏi để làm mọi sự để "vinh danh Chúa" (Ad Majorem dei gloriam)
Thánh nhân ở lại Manresa khoảng một năm và từ đó hành hương đi Palestina, trên đường đi có dừng lại ở Roma. Sau khi đã kính viếng các nơi thánh ở Palestina, Ngài trở về Barcelona. Nơi đây, dầu đã 30 tuổi, Ngài vẫn đến trường, ngồi chung ghế với các em nhỏ, để sữa chữa lại kẽ hở trong việc học hành, cho tới khi Ngài có thể dự lớp tại đại học Alcala và Salamanca. Tại cả hai nơi này, đã Ngài bị truy tố ra tòa án tôn giáo và bị tống giam ít ngày. Nhưng cuối cùng giáo thuyết của Ngài đã thắng.
Năm 1528, Ngài bỏ Salamanca đi Paris và Sorbonne. Ngài ở Paris 7 năm, nơi đây Ngài tụ họp được sáu môn sinh đầu tiên. Vào ngày lễ Mông Triệu năm 1534 bảy anh em đã long trọng hiến thân phụng sự Thiên Chúa, khấn giữ đức nghèo khó và trong sạch, tại đền thờ thánh Denis tại Montmartre. Lúc đó, họ dự định đi Giêrusalem và hiến thân cho việc cứu rỗi các linh hồn trong các miền còn ngoại giáo.
Ignatiô trở về Tây Ban Nha. Năm 1535, tu hội đã lên tới 10 người. Họ gặp nhau ở Venitia, định cùng đáp tàu đi hành hương thánh địa. Nhưng tình hình miền Đông Địa Trug Hải không cho phép. Bù lại một số đi Roma, để Ignatiô tại Venitia. Đức giáo hoàng Phaolô III ưu ái tiếp họ. Trở lại Ventia, họ mang theo phép của Đức Giáo hoàng cho Ignatiô và 6 anh em được thụ phong linh mục.
Một năm sau, thấy rằng: không thể tới thánh địa được, Ignatiô kết luận rằng ý Chúa không muốn cuộc hành hương này. Thay vào đó, Ngài đặt tu hội dưới danh hiệu "dòng Chúa Giêsu" dưới quyền xử dụng của toà thánh. Họ đi Roma và Ignatiô dâng thánh lễ đầu tiên ở đầu vào dịp lễ Giáng sinh năm 1538 tại đền thờ Đức Bà cả, Ngài soạn thảo hiến pháp của dòng mới và đến trình diện Đức giáo hoàng Phaolô III. Đức giáo hoàng đã phát biểu khi gặp họ: - Đây là bàn tay Thiên Chúa.
Và trong sắc lệnh Regimini Militantis Ecclesioe, ban hành tháng 9 năm 1540 Ngài đã chính thức công nhận hội dòng. Hội dòng thêm vào đó 3 lời khấn: nghèo khó, vâng lời, trong sạch, lời khấn đặc biệt vâng phục Đức giáo hoàng.
Trong hiến pháp đầu tiên, hội dòng giới hạn con số có 60 tu sĩ. Ignatiô được đồng thanh bầu làm bề trên ngày 7 tháng 4 năm 1541. Luật hạn định tu sĩ vào số 60 được rút lại bởi sắc lệnh của Đức giáo hoàng ngày 15 tháng 3 năm 1543.
Ignatiô khó rời bỏ Roma cho đến cuối đời. Nhưng hội dòng đã lan rộng tới mọi miền trên thế giới, dưới quyền hướng dẫn của Ngài như một phép lạ, khi Ngài từ trần vào ngày 3 tháng 7 năm 1556, hội dòng đã có 12 tỉnh dòng với 101 nhà và gần 1000 phần tử.

Thánh Ignatiô được suy tôn hiển thánh ngày 12 tháng 3 năm 1622.


(daminhvn.net)


31 Tháng Bảy

Tiếng Kêu Của Ếch

Một vị ẩn sĩ đạo đức nọ nổi tiếng là người có thể sai khiến được thú vật.
Một buổi tối nọ, ông đang tịnh niệm cầu nguyện, một con ếch không biết từ đâu cất tiếng kêu lên inh ỏi. Vị ẩn sĩ cố gắng tập trung ý chí vào lời cầu nguyện để không còn nghe tiếng ếch kêu nữa. Nhưng ông càng cố gắng, tiếng ếch càng kêu to. Không còn tự chế được nữa, vị ẩn sĩ quát lên: "Hãy câm miệng cho ta cầu nguyện được không?".
Mệnh lệnh đầy uy lực của nhà ẩn sĩ đã bịt miệng được chú ếch. Thinh lặng trở lại với không gian. Nhưng cũng chính lúc đó, nhà ẩn sĩ như nghe vang vọng trong tâm hồn ông một tiếng kêu khác. Ông nghe như có người nói với ông rằng: "Có lẽ Chúa cũng ưa thích tiếng kêu của ếch như lời cầu kinh của ngươi". Vị ẩn sĩ hỏi vặn lại: "Tiếng kêu của ếch mà cũng làm cho lỗ tai của Chúa vui được sao?". Tiếng kêu trong tâm hồn ông đáp trả: "Vậy thì ngươi có biết tại sao Chúa tạo ra âm thanh không?".
Vị ẩn sĩ chợt hiểu được bài học từ trong nội tâm... Ông đến bên cửa sổ và ra lệnh cho chú ếch: "Nào, hãy hát lên đi". Tiếng kêu của chú ếch vang lên, mấy chú ếch xung quanh cũng hòa theo một nhịp tạo thành một bài ca lúc trầm lúc bổng, lúc dặt dìu, lúc tha thiết... Ðêm vắng bỗng trở nên vui hơn.
Với sự khám phá trên đây, trái tim của nhà ẩn sĩ bỗng trở nên hài hòa với vũ trụ và lần đầu tiên trong đời, ông hiểu được thế nào là cầu nguyện.

Sự cầu nguyện thường cần phải có một khung cảnh thích hợp. Có một không gian đặc biệt dành cho cầu nguyện, có một quãng thời gian đặc biệt dành cho cầu nguyện, có một bầu khí đặc biệt dành cho cầu nguyện. Ðó là điều thiết yếu dành cho cuộc sống con người... Ðó là lý do hiện hữu của một bàn thờ nhỏ trong nhà, đó là mục đích của các ngôi thánh đường.
Tuy nhiên, sự cầu nguyện sẽ đánh mất của nó, nếu con người đóng khung nó trong một khung cảnh và bầu khí đặc biệt. Cầu nguyện là một gặp gỡ với Chúa và đồng thời cũng là một giao kết với tha nhân. Thiên Chúa, chúng ta không thể đóng khung trong bốn bức tường vắng lặng của nhà thờ. Con người, chúng ta phải gặp gỡ ngay trên chợ đời.
Thành ra, lời cầu nguyện đích thực phải là lời cầu nguyện mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào, trong bất cứ lúc nào, bằng tất cả cuộc sống. Lời cầu nguyện đích thực là lời cầu nguyện được thốt lên trong thời thuận tiện cũng như không thuận tiện. Lời cầu nguyện đích thực là cả một cuộc sống tuân phục ý Chúa, một cuộc sống hài hòa với tha nhân, một cuộc sống "xin vâng" trong từng phút giây.


(Lẽ Sống)

Thứ Tư 31-7
Thánh I-nha-xiô ở Loyola (Y Nhã)
(1491-1556)

Vị sáng lập dòng Tên này đang trên đà danh vọng và quyền thế của một sĩ quan trong quân đội Tây Ban Nha thì một trái đạn đại bác đã làm ngài bị thương ở chân. Trong thời kỳ dưỡng bệnh, vì không có sẵn các cuốn tiểu thuyết để giết thời giờ nên ngài đã biết đến cuộc đời Ðức Kitô và hạnh các thánh. Lương tâm ngài bị đánh động, và từ đó khởi đầu một hành trình lâu dài và đau khổ khi trở về với Ðức Kitô. 
Vào năm 1522, được thấy Mẹ Thiên Chúa trong một thị kiến, ngài thực hiện cuộc hành hương đến đan viện dòng Biển Ðức ở Monserrat. Ở đây, ngài xưng thú tội lỗi, mặc áo nhặm và đặt thanh gươm trên bàn thờ Ðức Maria thề hứa sẽ trở nên một hiệp sĩ cho Ðức Mẹ.
Trong khoảng thời gian một năm, ngài sống gần Manresa, có khi thì ở với các tu sĩ Ða Minh, có khi thì ở nhà tế bần, nhưng lâu nhất là sống trong một cái hang ở trên đồi để cầu nguyện. Chính trong thời gian hoán cải này ngài bắt đầu một công trình mà sau đó rất nổi tiếng, cuốn Những Thao Luyện Tâm Linh.
Vào năm 1523, ngài rời Manresa đến Rôma và Giêrusalem, là nơi ngài sống nhờ việc khất thực và hăng say hoán cải người Hồi Giáo ở đây. Vì lo sợ cho tính mạng của ngài các tu sĩ Phanxicô khuyên ngài trở về Barcelona. Tin tưởng rằng kiến thức uyên bác sẽ giúp đỡ tha nhân cách thiết thực hơn, ngài dành 11 năm tiếp đó trong việc học ở Alcalá, Salamanca và Balê. 
Vào năm 1534, lúc ấy đã 43 tuổi, cùng với sáu người khác (trong đó có Thánh Phanxicô Xaviê) ngài thề sống khó nghèo và khiết tịnh và tất cả cùng đến Ðất Thánh. Các ngài thề quyết rằng nếu không thể ở đây thì sẽ dâng mình cho công việc tông đồ của đức giáo hoàng. Và đó là điều đã xảy ra. Bốn năm sau, Thánh Y Nhã hợp thức hóa tổ chức của ngài. Tu Hội của Ðức Giêsu (Dòng Tên) được Ðức Giáo Hoàng Phaolô III chuẩn nhận và Thánh Y Nhã được bầu làm bề trên đầu tiên.
Trong khi các bạn đồng hành được đức giáo hoàng sai đi truyền giáo thì Thánh Y Nhã vẫn ở Rôma, chăm sóc tổ chức mới của ngài nhưng vẫn dành thời giờ để thành lập các nhà cho cô nhi, cho người tân tòng. Ngài thành lập Trường Roma (sau này là Ðại Học Grêgôriô), với mục đích là trường này sẽ trở nên khuôn mẫu cho các trường của Tu Hội.
Thánh Y Nhã đích thực là một vị thần bí. Ngài tập trung vào đời sống tâm linh dựa trên các nền tảng thiết yếu của Kitô Giáo -- Thiên Chúa Ba Ngôi, Ðức Kitô, Bí Tích Thánh Thể. Linh đạo của ngài được tỏ lộ trong châm ngôn của Dòng Tên, ad majorem Dei gloriam -- "để Thiên Chúa được vinh danh hơn." Trong quan niệm của ngài, sự tuân phục là một đức tính nổi bật nhằm đảm bảo cho thành quả và sự năng động của tu hội. Mọi hoạt động phải được hướng dẫn bởi lòng yêu mến Giáo Hội thực sự và tuân phục Ðức Thánh Cha vô điều kiện, vì lý do đó, mọi thành viên của dòng phải khấn lời thề thứ tư, đó là phải đến bất cứ đâu mà đức giáo hoàng đã sai đi để cứu rỗi các linh hồn.
Lời Bàn
Vào năm 1517, Luther đã niêm yết các đề án của ông lên cửa nhà thờ ở Wittenberg. Mười bảy năm sau, Thánh Y Nhã sáng lập một tu hội góp phần quan trọng trong việc chống lại sự cải cách Tin Lành. Ngài là một kẻ thù bất khả tiêu diệt của Tin Lành. Tuy nhiên, trong lời lẽ của ngài người ta vẫn thấy tiềm ẩn sự đại kết: "Phải rất thận trọng khi đưa ra các chân lý chính truyền để nếu người lạc giáo có mặt ở đó, họ sẽ cảm nhận được lòng bác ái và sự ôn hòa Kitô Giáo. Không được dùng lời lẽ cứng rắn và cũng không được khinh miệt những sai lầm của họ." Một trong những khuôn mặt vĩ đại của phong trào đại kết hiện nay là Ðức Hồng Y Bea, một linh mục dòng Tên.
Lời Trích
Thánh Y Nhã đề nghị lời nguyện sau đây cho các hối nhân: "Lạy Chúa, xin hãy chấp nhận mọi đặc quyền, mọi ký ức, mọi hiểu biết và toàn thể ý chí của con. Ngài đã ban cho con tất cả những gì con có, tất cả con người của con, và con xin phó thác chúng cho thánh ý của Ngài, để Ngài tùy ý sử dụng. Con chỉ xin Chúa ban cho con tình yêu và ơn sủng. Ðược như thế, con đã giàu sang đủ và không dám đòi hỏi gì nữa."


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét