Chúa Nhật
Ngày 07/07/2013
Tuần 14
Mùa Thường Niên Năm C
(Phần I)
BÀI ĐỌC I: Is 66, 10-14c
"Đây Ta khiến sông bình an chảy vào nó".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Các
ngươi hãy vui mừng với Giêrusalem, và hết thảy những ai yêu quý nó, hãy nhảy mừng
vì nó. Hỡi các ngươi là những kẻ than khóc nó, hãy hân hoan vui mừng với nó, để
các ngươi bú sữa no nê nơi vú an ủi của nó, để các ngươi sung sướng bú đầy sữa
vinh quang của nó. Vì chưng Chúa phán thế này: "Ta sẽ làm cho sự bình an
chảy đến nó như con sông, và vinh quang chư dân tràn tới như thác lũ. Các ngươi
sẽ được bú sữa, được ẵm vào lòng và được nâng niu trên đầu gối. Ta sẽ vỗ về các
ngươi như người mẹ nâng niu con, và tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi.
Các ngươi sẽ xem thấy, lòng các ngươi sẽ hân hoan, và các ngươi sẽ nẩy nở như
hoa cỏ, và tôi tớ Chúa sẽ nhìn biết bàn tay của Chúa". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 65, 1-3a. 4-5. 6-7a. 16 và 20
Đáp: Toàn
thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa (c. 1).
1) Toàn thể đất nước hãy
reo mừng Thiên Chúa, hãy ca ngợi vinh quang danh Người, hãy kính dâng Người lời
khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp Chúa.
2) Toàn thể đất nước thờ
lạy và ca khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp
của Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta!
3) Người biến bể khơi
thành nơi khô cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó ta hãy hân hoan
trong Chúa. Với quyền năng, Người thống trị tới muôn đời.
4) Phàm ai tôn sợ Chúa,
hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại
biết bao! Chúc tụng Chúa là Đấng không hất hủi lời tôi nguyện, và không rút lại
lòng nhân hậu đối với tôi.
BÀI ĐỌC II: Gl 6, 14-18
"Tôi mang trong mình tôi những dấu thánh của Chúa
Giêsu".
Trích thư Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em
thân mến, phần tôi, ước gì tôi đừng khoe mình về một điều gì khác, ngoại trừ về
thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ cây thập giá mà thế gian đã chịu
đóng đinh cho tôi, và tôi cho thế gian. Vì chưng trong Đức Kitô, có cắt bì hay
không cũng chẳng có giá trị gì, điều quan trọng là trở nên một tạo vật mới.
Nguyện chúc bình an và lòng thương xót đối với những ai rập theo quy tắc đó, và
cho cả Israel của Thiên Chúa nữa. Từ nay trở đi, ước gì không ai làm phiền tôi
nữa; vì tôi mang trong mình tôi dấu thánh của Chúa Giêsu.
Anh em
thân mến, nguyện ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng anh em!
Amen. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến
người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 10, 1-9 {hoặc 1-12. 17-20}
"Sự bằng yên của các con sẽ đến trên người ấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước
Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng:
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ
đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa
sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi
ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: 'Bình an cho nhà này'. Nếu
ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng
không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống
những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
"Khi
vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn
cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: 'Nước Thiên Chúa đã
đến gần các ngươi'.
{"Khi
vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ
và nói: 'Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng
xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên
Chúa đã đến gần'. Ta bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung
hơn thành này".
Bảy
mươi hai ông trở về rất vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy
thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Người bảo: "Ta đã thấy Satan
từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn
rít, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các
con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con, nhưng hãy
vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời". Đó là lời Chúa.
.
SUY NIỆM : Chúa Muốn Cứu Ðộ Mọi Người
Chúa nhật trước đã cho
chúng ta thấy đòi hỏi tổng quát quyết liệt của ơn gọi tông đồ nói riêng và ơn gọi
Kitô hữu nói chung. Mọi người muốn theo Chúa đều phải từ bỏ bản thân, dứt khoát
với nếp sống cũ kỹ của con người xác thịt và thế gian. Hôm nay bài Tin Mừng cho
chúng ta thấy Chúa sai những con người từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa, và cánh đồng
truyền giáo. Người sai họ đi khắp nơi, làm công việc cứu thế. Người bảo đảm
thành công cho họ. Vì kế hoạch cứu thế làm cho cả nhân loại được hạnh phúc là
điều Chúa đã hứa ban ngay từ thuở ban đầu, như bài sách Isaia hôm nay loan báo.
Tuy nhiên các tông đồ và tín hữu của Chúa phải bắt chước Phaolô trong bài thư
hôm nay, trung thành yêu mến mầu nhiệm thánh giá Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy xem Chúa dự
định cứu nhân loại thế nào? Người thi hành việc ấy làm sao? Và chúng ta sẽ góp
phần gì vào công việc cứu thế này?
1. Chúa Muốn Cứu Ðộ Mọi Người
Bài sách Isaia có giá trị
cho mọi thời vì nói lên kế hoạch cứu độ trước sau như một của Thiên Chúa. Ðoạn
sách ấy trích trong phần thứ ba, hay quyển thứ ba sách Isaia, nói về thời sau
lưu đày.
Chúng ta biết dân Chúa
ngày xưa phải lưu đày sang Babylon trên dưới 40 năm. Nhiều người đã chán nản,
nghĩ rằng chẳng bao giờ khôi phục được Giêrusalem nữa. Nhưng một số ít người đạo
đức, thuộc thành phần khó nghèo, vẫn tin tưởng vào Chúa là Ðấng trung tín sẽ giữ
lời giao ước. Chính Người sẽ ra tay cứu dân và đưa họ về quê cha đất tổ mặc dầu
họ không xứng đáng. Niềm tin ấy đã không phải hổ ngươi, vì quả thật khi Hoàng đế
Cyrô lên ngôi, ông đã ban phép và khuyến khích những ai yêu mến Giêrusalem hãy
trở về xây dựng lại đền thờ.
Ðó là niềm vui bất ngờ.
Người ta kéo nhau về hân hoan như được sống lại. Công cuộc tái thiết bắt đầu rất
hăng say. Nhưng chẳng bao lâu mây đen đã kéo đến chân trời. Các khó khăn liên
tiếp và dồn dập xảy ra. Do các mối bất hòa đến từ tứ phía, các cánh tay đang tái
thiết bỗng rã rời và chỉ muốn buông xuống. Chính lúc ấy tiếng tiên tri lại vang
lên, an ủi khuyến khích và phấn chấn lòng người. Người của Chúa không đưa ra những
luận lý mới mẻ. Ông không tự ý hứa hẹn những điều hão huyền. Là phát ngôn viên
trung thành của Thiên Chúa, ông chỉ lặp lại, nhắc nhở kế hoạch cứu độ ngàn đời
của Người. Ông hô: hỡi những ai yêu mến Giêrusalem hãy hân hoan lên vì nó; hỡi
những ai đã có lần khóc lóc với nó (trong cảnh cùng quẫn), hãy với nó phấn khởi
lên vì Chúa sẽ đem hòa bình đến cho Giêrusalem: nó sẽ trở nên trù phú: mọi dân
sẽ tuốn đến uống sữa no nê của nó vì chính Chúa sẽ bồng bế mọi người ở
Giêrusalem để hết thảy sẽ được hồi sinh và tươi mát.
Ngày nay chúng ta dễ hiểu
những lời tiên tri này. Ðây không phải là những lời hy hữu, lẻ loi, nhưng chỉ
diễn tả đề tài cố hữu và chính yếu của mạc khải. Ngay từ thời Abraham, Thiên
Chúa đã hứa cho ông được dòng dõi đông đúc và hạnh phúc. Dòng dõi này sẽ bao
trùm mọi sắc dân. Với Môsê Chúa đã tái xác nhận như vậy. Các tiên tri không làm
gì hơn là giúp người Do Thái biết hiểu giao ước và lời hứa theo ánh sáng siêu
nhiên và phổ quát hơn. Bài sách Isaia hôm nay nằm trong viễn tượng và cố gắng ấy.
Tội nghiệp cho những ai không tin rằng: Lời Chúa sẽ được thực hiện. Nhưng cũng
tội nghiệp không kém cho những kẻ chỉ hiểu Lời Chúa hứa theo ý nghĩa xác thịt
và thế gian.
Giêrusalem của lời hứa
không phải đô thị ở trên mảnh đất Do Thái. Thái độ này chỉ là hình ảnh và điểm
tựa để Thiên Chúa nói đến Nước ân sủng của Chúa Cứu Thế, nơi Người sẽ tập họp hết
mọi người được cứu độ. Chính Ðức Giêsu đã bảo: cứ phá Giêrusalem vật chất đi,
Người sẽ xây lại nó trong ba ngày. Người muốn nói thân thể phục sinh của Người
và mọi dân được cứu độ. Ở đó, nơi thân thể có cạnh sườn mở ra của Người sẽ có
dòng nước Thánh Thần chảy theo dòng máu hy sinh của Người để làm cho mọi người
được no nê, hồi sinh và tươi mát. Thiên Chúa sẽ yêu dấu chúng ta nơi Ðức Giêsu
Kitô, người con chí ái của Người.
Lời sách Isaia hôm nay,
cuối cùng là như vậy. Nó là sứ điệp Tin Mừng Thiên Chúa gửi đến cho mọi người ở
mọi thời, tác giả sách Isaia đã nhắc lại lời hứa ấy trong một hoàn cảnh đen tối
của lịch sử dân Chúa để gây tin tưởng nơi lòng mọi người. Hôm nay và hằng ngày
trong cuộc sống, đặc biệt trong những lúc bi đát và nao núng niềm tin, Lời Chúa
vẫn còn đó để nhắc nhở chúng ta. Người là Ðấng trung thành đã hứa thì sẽ giữ mọi
điều của kế hoạch yêu thương cứu độ. Tất cả chỉ còn tùy nơi chúng ta có muốn
tin hay không?
Thực ra chúng ta có điều
kiện để dễ tin hơn các thế hệ ngày trước. Bởi vì từ ngày có lời tiên tri trong
sách Isaia, đã có biết bao nhiêu biến cố lịch sử chứng tỏ Thiên Chúa hằng trung
thành thực hiện dần dần kế hoạch cứu độ của Người.
Ðặc biệt đã có cuộc đời
và sự nghiệp của Ðức Giêsu mà đoạn sách Luca hôm nay còn nhắc lại một trong rất
nhiều biến cố rất ý nghĩa.
2. Chúa Muốn Các Dân Tộc Ðược Cứu Vớt
Nếu thực sự được phép nối
liền hai bài Tin Mừng của Chúa nhật trước và Chúa nhật này, chúng ta thấy đoạn
văn hôm nay thổi lên một luồng gió phấn khởi. Chúa nhật trước, bài sách Luca
nói đến thái độ của dân Samari chặn đứng cuộc hành trình của Ðức Giêsu khiến
hai môn đệ tức giận chỉ muốn xin lửa từ trời xuống đốt dân thành ấy. Hôm nay, Ðức
Giêsu và các môn đệ của Người như đang đứng trước toàn những đô thị dân ngoại.
Nhưng Người giơ tay trỏ cho họ thấy kìa mùa gặt rất phong phú. Nhưng sao ít thợ
gặt thế! Hãy xin chủ ruộng sai thêm thợ đến gặt lúa chín của Người. Và Ðức
Giêsu đã sai 72 môn đệ đi giảng đạo trong mọi đô thị và xóm làng mà Người sẽ đến.
Tác giả Luca đã có nhiều
ý kiến khi thuật lại câu chuyện này. Ông nói đến 72 môn đệ chứ không phải chỉ
12 tông đồ được sai đi. Ông nghĩ đến các thế hệ tông đồ sau này sẽ được gởi đến
mọi nơi trên mặt đất sao? Hay ông nghĩ đến các người đi giảng đạo ở thời ông mà
không phải là đoàn 12. Rất có thể là ông đã theo gương tác giả sách Khởi nguyên
đoạn 10, tính tổng số các dân ngoại là 72 do 3 người con của ông Noe sinh sản
ra. Dù sao ngụ ý của tác giả ở đây là muốn cho việc truyền giáo các dân ngoại
được phát xuất và khởi sự ngay từ Ðức Giêsu. Chính Người đã sai môn đệ đi tới hết
mọi dân tộc và mọi nơi chốn mà Người (tức là ơn cứu độ của Người) sẽ đi đến. Bởi
vì với việc đi lên Giêrusalem chịu chết và sống lại của Người, cả thế giới đã
trở thành như ruộng lúa chín vàng đang chờ thợ gặt.
Hình ảnh này, các sách
Kinh Thánh vẫn dùng để gợi lên mùa cứu độ cũng như mùa xét xử. Ðức Giêsu đến là
để nhiều người được chỗi dậy và nhiều kẻ bị hư đi, như lời Simêon tiên báo. Người
mang tin mừng và Ơn cứu độ trải ra khắp địa cầu như người ta thả lưới để kéo
vào và lượm ra các thứ cá. Việc rao giảng Nước Trời cũng giống như mùa gặt để
thu lúa vào kho, còn rơm rạ thì đốt đi. Không dân tộc nào ngăn chặn được ảnh hưởng
của công cuộc truyền giáo vì tiếng các ngôn sứ đã vang cùng thế giới. Kế hoạch
đem mọi dân tộc vào hạnh phúc đã được hứa cho Abraham mà bài sách Isaia hôm nay
cho thấy hằng được rao giảng qua mọi thế hệ, kế hoạch ấy đang thực hiện trước mắt
các môn đệ của Chúa Giêsu.
Và họ được sai đi làm
công việc ấy với những chỉ thị rõ ràng. Người bảo họ: hãy đi, này Ta sai các
ngươi như chiên đi vào giữa sói. Câu nói này có thể hiểu theo nghĩa các tông đồ
được sai đi làm một công việc khó khăn, nguy hiểm. Nhưng đúng hơn nên nhớ lại
văn chương của Kinh Thánh thường so sánh dân ngoại như chiên với sói, để hiểu
câu văn này chỉ có ý nói đến mệnh lệnh truyền giáo đi vào dân ngoại.
Chúa bảo các môn đệ đừng
mang theo tiền nong, bao bị, giày dép và đừng chào hỏi những người qua đường vì
Người muốn họ phải lanh lẹ, nhẹ nhõm đi lo việc Chúa. Tâm hồn họ chỉ để vào việc
truyền giáo, nên vào nhà nào, họ phải nói ngay: Bình an cho nhà ấy. Ðó là lời
chúc cổ điển của Kinh Thánh, lời bao gồm tất cả niềm tin ở giao ước. Muốn cho
ai được bình an theo nghĩa đó, là muốn cho họ nhận được ân phúc mà Thiên Chúa
đã từng hứa từ thời Abraham, để họ được ân sủng yêu thương của Người và được cứu
độ, khiến họ không còn thiếu gì khác nữa. Với lời chào bình an, người tông đồ
mang đến cho người ta kho tàng cứu độ và lời hứa trung tín của Thiên Chúa như
bài Isaia trên kia đã cho chúng ta thấy. Việc được như vậy hay không là tùy
thái độ của từng người. Còn người tông đồ cứ ở lại đó, tiếp tục rao giảng cho
người ta về Nước Trời và chữa bệnh tật cho người đau yếu để làm chứng ơn cứu độ
đã đến cho người ấy. Và người tông đồ luôn luôn chỉ quan tâm đến phận sự rao giảng,
không chút mảy may để ý đến cách thức người ta cho mình ăn uống thế nào. Và nhất
là không được nay ở nhà này mai đổi sang nhà khác để được tiếp đãi no đủ hơn.
Có thể có những tông đồ
bị hắt hủi. Nhưng Chúa sẽ phán xét thái độ của người ta. Người tông đồ không
nao núng, cứ rao giảng Nước Trời. Tuy nhiên, tác giả Luca không muốn chấm dứt
bài tường thuật với giả thiết ít lạc quan ấy. Người nhìn thấy chung cuộc việc
truyền giáo cho các dân ngoại rất kết quả. Người kể cho chúng ta ngày các tông
đồ trở về hân hoan vì thấy ảnh hưởng của thần dữ đã bớt đi trên thế gian và Ðức
Giêsu đã nhìn thấy Satan đã lao mình xuống khỏi trời như một tia chớp. Những tư
tưởng này làm chứng rồi ra kế hoạch của Thiên Chúa sẽ toàn thắng. Mọi dân tộc sẽ
được cứu vớt. Bình an và phúc lành của Thiên Chúa hứa cho loài người sẽ đánh
tan ảnh hưởng xấu xa của Satan và tên các tông đồ sẽ được ghi ở trên trời.
Như vậy bài Tin Mừng hôm
nay đã thực hiện lời tiên tri trong sách Isaia. Chúng ta được chỉ dẫn cho thấy
kế hoạch cứu độ ngàn đời của Thiên Chúa đang thực hiện qua Giêrusalem mới là Hội
Thánh với đoàn tông đồ đông đảo đang được sai đi đến các dân tộc để nhân danh Ðức
Giêsu đem phúc bình an đến cho mọi người. Chúng ta để ý đến chương trình cứu độ
chắc chắn đầy thành quả của Thiên Chúa; nhưng cũng không nên quên các yêu sách
của chương trình này mà tác giả Luca đã một phần nào gợi lên khi đưa ra các chỉ
thị truyền giáo. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay đã tóm tắt các yêu sách lại
trong một quan niệm: hãy mang lấy các đau khổ của Ðức Giêsu Kitô.
3. Miễn Là Chúng Ta Sống Mầu Nhiệm Thánh Giá
Chắc chắn là không ai bằng
thánh Phaolô có khả năng nói với chúng ta về kinh nghiệm truyền giáo. Người đã
mở đường và đi tiên phong trong việc đem Tin Mừng đến cho dân ngoại. Kế hoạch cứu
độ các dân tộc của Chúa nhờ Người đã đem lại những kết quả cụ thể. Và bài thư
hôm nay là những lời tâm huyết của Người, viết ở cuối bức thư gửi người Galát.
Chính tay Người thảo ra những dòng chữ "lớn lao" này để khẳng định một
lần cuối cùng rằng: muốn cho các dân tộc được cứu độ, phải cư xử theo thánh giá
Chúa Kitô. Người nói như vậy vì Người thấy có nhiều kẻ muốn làm tông đồ và rao
giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa nhưng lại dùng đường lối không phù hợp với thánh
giá. Họ sợ gặp khó khăn khi thi hành việc giảng đạo, nên tuyên bố tín hữu phải
cắt bì để lấy lòng người Do Thái và để hạng người này không phá rối việc giảng
đạo của họ. Nhưng như vậy còn nói đến Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô làm gì nữa?
Chính Người đã đến để giải thoát người ta ra khỏi luật pháp Do Thái cũng như mọi
luật tôn giáo khác để mọi người từ nay được cứu độ nhờ Niềm Tin. Thế mà bây giờ
có những tông đồ còn bảo tín hữu phải chịu cắt bì! Không, họ không phải là tông
đồ đâu. Họ không rao giảng ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa ban. Thế thì họ giảng
đạo làm gì, nếu chẳng phải nguyên để được vinh dự và tiếng tăm!
Không, không ai được gọi
là tông đồ nếu không được sai đi. Và người được sai đi phải thấy việc rao giảng
Tin Mừng là một sứ mệnh đè xuống trên vai mình và bắt mình phải hy sinh chứ
không phải để được tiếng tăm và vinh dự. Người tông đồ chân chính không những
phải rao giảng niềm tin vào mầu nhiệm Thánh giá, mà hơn nữa còn phải nên như thập
giá sống động ở trước mặt mọi người. Họ phải nói như Phaolô: Tôi không lấy gì
làm vinh dự, ngoài Thánh giá Chúa Giêsu Kitô, nhờ đó thế gian đã bị đóng đinh
cho tôi và tôi cho thế gian. Chỉ những ai cư xử như vậy mới được bình an và
lòng thương xót của Thiên Chúa. Chỉ tông đồ nào như thế mới đem lại bình an và
thương xót của Chúa cho các dân tộc và cho mọi người. Tất cả chúng ta muốn sống
đạo và truyền đạo phải lấy đó làm nguyên tắc hành động. Mỗi người phải suy nghĩ
và diễn tả nguyên tắc mang Thánh giá Ðức Giêsu Kitô ra trong đời sống. Ai mang
trong thân mình những vết hằn (tức là những dấu vết) của Thánh giá như Phaolô,
mới là tín hữu và tông đồ chân chính.
Nhưng ai trong chúng ta
lại đã không được ghi dấu thánh giá? Không những từ ngày chịu phép rửa tội, mà
hằng ngày không biết bao lần chúng ta được ghi dấu thánh ấy? Chỉ còn phải hỏi đời
sống và hành động của chúng ta có phù hợp với thánh giá hay không? Thánh lễ này
đưa chúng ta vào mầu nhiệm thánh giá một cách đặc biệt. Chúng ta cố gắng tham dự
thánh lễ tốt. Nhưng chúng ta còn phải quyết tâm hơn nữa đưa tinh thần mầu nhiệm
thánh giá nơi bàn thờ đây vào trong đời sống. Chỉ khi nào chúng ta thi hành
tinh thần ấy, ơn cứu độ mới được ban cho chúng ta và đời sống của chúng ta mới
mang ơn cứu độ đến cho người khác. Chương trình và kế hoạch cứu độ từ ngàn đời
của Thiên Chúa mới thực sự được thi hành cho chúng ta và nhờ chúng ta cho mọi
người.
(Trích dẫn từ tập sách
Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Chủ Nhật
14 Thường Niên, Năm C
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Ba sự thật cần thiết nhất
của cuộc đời.
Con người bị lẫn lộn và
giằng co giữa sự thật và sự gian tà, giữa việc tôn thờ Đấng Tạo Hóa với những tạo
vật do tay Ngài làm nên, giữa mục đích của cuộc đời và những phương tiện sinh sống
trong cuộc đời, giữa bổn phận chính yếu với những bổn phận phụ thuộc. Ví dụ: Mục
đích của cuộc đời là làm sao để đạt được Nước Trời chứ không phải xây cho được
những tòa nhà lộng lẫy, nguy nga... để rồi sẽ có ngày không còn hòn đá nào chồng
trên hòn đá nào. Niềm tin để đạt được mục đích cuộc đời là xác tín vào Đức
Kitô, Đấng duy nhất có thể bảo đảm cho con người được cứu độ, chứ không phải
nơi uy quyền, danh vọng hay bất cứ người nào khác. Bổn phận chính con người phải
làm khi sống ở đời này là rao giảng Tin Mừng sao cho mọi người nhận ra và tin
vào Thiên Chúa để được hưởng ơn cứu độ, chứ không phải bất kỳ một bổn phận phụ
thuộc nào khác.
Các bài đọc hôm nay cho
chúng ta ba cái nhìn chính xác về mục đích của cuộc đời, niềm tin phải có để đạt
được mục đích đó, và bổn phận phải làm để đạt được mục đích của cuộc đời. Trong
bài đọc I, ngôn sứ Isaiah nhìn thấy rõ viễn cảnh hòa bình của Jerusalem sau những
ngày lưu đày cơ khổ. Đây cũng là mục đích người tín hữu hướng tới khi phải làm
việc vất vả, chịu đựng bao nhiêu gian khổ trong thế gian là để đạt tới và sống
trong cảnh thái bình của Jerusalem trên trời. Trong bài đọc II, thánh Phaolô
xác tín Thập Giá Đức Kitô là dấu hiệu bảo đảm cho niềm tin vào hạnh phúc Thiên
Đàng. Niềm xác tín này phải in sâu tâm hồn của mọi tín hữu để họ đừng bị lung
lay bởi bất cứ học thuyết nào hay bất cứ những cám dỗ nào của thế gian. Trong
Phúc Âm, Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng và căn dặn các ông tập
trung vào một điều chính yếu là làm cho triều đại của Thiên Chúa mau tới. Bổn
phận của người tín hữu phải luôn nhớ sứ vụ của mình là rao giảng Tin Mừng để
đem mọi người về cho Thiên Chúa, chứ không phải cho bất kỳ một sứ vụ nào khác.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I:
Mục đích của cuộc đời: Viễn cảnh thái bình của Jerusalem.
1.1/
Jerusalem sẽ được phục hồi: Jerusalem
là trọng tâm đời sống của con cái Israel, vì đây là Đền Thờ của Thiên Chúa cư
ngụ giữa họ. Sau năm 587 BC, Đền Thờ bị phá hủy tan tành, thành Sion và các
thành lũy chung quanh cũng bị triệt hạ hoàn toàn, và dân chúng bị đem đi lưu
đày tại Babylon. Đối với những người không có đức tin, năm đó là năm chấm dứt
niềm tin của con cái Israel vào Thiên Chúa, vì còn đâu Đền Thờ cho Thiên Chúa
ngự. Nhưng đối với các ngôn sứ, Jerusalem sẽ được phục hồi và sẽ trở thành
trung tâm mà mọi dân mọi nước hướng về. Sau cảnh thương khóc và gian khổ là
sung mãn vinh quang mà Thiên Chúa dành cho những ai tin tưởng nơi Ngài. Chương
66 của Sách Isaiah nói lên vinh quang của Jerusalem sẽ được hưởng sau thời kỳ
lưu đày: “Hãy vui mừng với Jerusalem, hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ, hỡi tất cả những
người yêu mến Thành Đô! Hãy cùng Jerusalem khấp khởi mừng, hỡi tất cả những người
đã than khóc Thành Đô, để được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả
thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ.”
1.2/ Đức Chúa
sẽ yêu quí Jerusalem: Tác
giả diễn tả sự yêu quí này bằng những hình ảnh khác nhau: Thiên Chúa sẽ tuôn đổ
muôn hồng ân xuống trên Jerusalem cho dân Người “tựa dòng sông cả, và Ta khiến
của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ. Người sẽ an ủi vỗ về dân Người
như người mẹ săn sóc con thơ: “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm
bên hông, nâng niu trên đầu gối.”
Hình ảnh Jerusalem của
ngôn sứ Isaiah diễn tả ở đây không chỉ giới hạn Jerusalem sau thời lưu đày, vì
Jerusalem này cũng bị quân đội Roma phá bình địa vào năm 70 AD. Người tín hữu
trông cậy vào thành Jerusalem trên trời, nơi không một sức mạnh nào có thể phá
nổi.
2/ Bài đọc II:
Niềm xác tín của người môn đệ: “Tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá
Đức Giêsu Kitô.”
2.1/ Làm sao
để có bình an?
(1) Thập giá
Đức Giêsu Kitô là niềm hãnh diện của người tín hữu: Đây là bốn câu cuối cùng của Thư
Galat, và thánh Phaolô muốn tổng kết những gì Ngài đã nói với các tín hữu trong
toàn Thư. Người tín hữu không được tìm sự hãnh diện nơi bất cứ điều gì thế gian
dâng tặng như: uy quyền, danh vọng, tiền của, hưởng thụ... Niềm hãnh diện của
người tín hữu là ở nơi Thập Giá của Đức Kitô, vì nhờ cây Thập Giá này mà họ được
rửa sạch tội lỗi và được giao hòa với Thiên Chúa. Thánh Phaolô tuyên xưng: “Ước
chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và
tôi đối với thế gian.”
(2) Qui tắc
để có bình an: Đối với
các Kitô hữu, không phải hệ tại ở việc cắt bì, cũng chẳng phải ở việc giữ Luật,
nhưng là ở chỗ trở nên một tạo vật mới: theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để
hoàn toàn sống cho Đức Kitô. Thánh Phaolô dạy: “Quả thật, cắt bì hay không cắt
bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới. Chúc tất cả những
ai sống theo quy tắc ấy, và chúc Israel của Thiên Chúa được hưởng bình an và
lòng thương xót của Người.”
Bình an này có liên kết
mật thiết với niềm tin của người tín hữu vào Đức Kitô: một khi đã biết Kế Hoạch
Cứu Độ của Thiên Chúa, người tín hữu không còn lo lắng về tội lỗi và về sự chết
nữa. Họ biết nếu họ tin và tuân giữ những gì Đức Kitô dạy bảo, họ sẽ được sống
đời đời với Thiên Chúa. Chính sự xác tín này làm cho họ được bình an trong tâm
hồn.
2.2/ Tôi mang
trên mình tôi những dấu tích của Đức Giêsu.
Trong cuộc đời, người
tín hữu phải đương đầu với biết bao nhiêu những lạc thuyết của thế gian và các
tôn giáo khác nhau. Một khi đã biết rõ ràng Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, người
tín hữu đừng để cho bất cứ người nào làm lung lay niềm tin của mình, đừng để cho
bất cứ sự gì lôi cuốn mình khỏi Thập Giá của Đức Kitô, và đừng để cho những dấu
tích của Đức Kitô in trên thân thể bị xóa nhòa. Những “dấu tích” thánh Phaolô
nói ở đây có thể là “5 dấu thánh” mà thánh Phanxicô Khó Khăn hay Cha Piô được
chịu; cũng có thể là những đau khổ để lại trên thân xác sau khi đã trải qua những
gian khổ để làm chứng cho Đức Kitô; hay có thể hiểu một cách thiêng liêng: những
chứng tích mà bí-tích Rửa Tội để lại trong linh hồn các tín hữu.
3/ Phúc Âm: Bổn
phận của môn đệ là loan báo: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các
ông."
3.1/ Khác biệt
về văn bản: Theo Lucas,
Chúa Giêsu không chỉ chọn 12 tông đồ, nhưng còn nhiều môn đệ khác, để huấn luyện
và sai đi rao giảng Tin Mừng. Trong Lucas, có hai lần sai đi: Lần thứ nhất,
Chúa Giêsu sai 12 tông đồ (Lk 9:1-6; Mt 10:1, 7-16; Mk 6:7-13). Lần thứ hai, chỉ
có trong Lucas, theo trình thuật hôm nay: “Chúa chỉ định bảy mươi hai người
khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các
nơi mà chính Người sẽ đến.”
70 hay 72 môn đệ? Theo
Bruce Metzger, sự khác biệt của các văn bản cổ xưa có thể nói là đồng đều. Theo
bản Alexandria (A) và các bản của nhóm Tây Phương (gồm hầu hết các bản của
Latin cũ và Sinaitic Syriac) cho là 72 môn đệ. Các bản Alexandrian khác
(Sinaiticus, L, Delta) cùng với hai bản f 1 và f 13 cho là 70 môn đệ. Vì thế,
khó mà xác định con số nào chính xác. Nhiều học giả còn đi xa hơn trong việc
phiên dịch ý nghĩa của con số 70 (dựa trên Exo 24:1; Num 11:16) hay 72 (dựa
trên truyền thuyết 72 người phiên dịch của Bản Bảy Mươi hay 72 quốc gia trong
Gen 10). Tất cả những phiên dịch này chỉ có tính cách võ đoán. Metzger tuy chọn
con số 72, nhưng để trong ngoặc cho mọi người biết là có sự tranh luận về con số
này.
3.2/ Môn đệ
là sứ giả mang Tin Mừng.
(1) Phải ý
thức sứ vụ cuả mình: Chúa
Giêsu biết những nguy hiểm người môn đệ phải đương đầu khi Ngài nói với các
ông: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.” Hai điều Ngài
muốn đề phòng cho các ông:
- “Đừng mang theo túi tiền,
bao bị, giày dép”: Đây là những thứ ngăn cản việc rao giảng Tin Mừng. Lo lắng
quá nhiều về phương diện sinh sống sẽ ngăn cản các ông dành mọi cố gắng cho việc
rao giảng Tin Mừng.
- “Cũng đừng chào hỏi ai
dọc đường”: Chúa Giêsu không dạy các môn đệ bất lịch sự hay sống cách biệt.
Ngài chỉ muốn các môn đệ biết tính khẩn cấp của việc rao giảng Tin Mừng để các
ông đừng trò chuyện vô ích dọc đường, làm mất thời gian rao giảng (cf. 2 Kgs
4:29).
(2) Chấp
nhận Tin Mừng là điều kiện để có bình an:
Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói:
"Bình an cho nhà này!"” Điều này chứng tỏ Tin Mừng cứu độ được trao
cách nhưng không cho mọi người. Theo Lucas, sự bình an này được liên kết với ơn
cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho mọi người (cf. 1:79, 2:14-29, 7:50, 8:48,
12:51, 19:38). Chấp nhận Tin Mừng là có bình an: “Nếu ở đó, có ai đáng hưởng
bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an
đó sẽ trở lại với anh em.” Điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ ở đây là sự bình an
trong các môn đệ có năng lực làm cho người khác cũng cảm thấy được bình an.
3.3/ Môn đệ
là sứ giả của Nước Trời.
(1) Đừng
tìm kiếm những sự thế gian: Nhiều
người nói “nếu không đem theo tiền bạc và bao bị thì lấy gì mà ăn.” Nói như thế
là khinh thường sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài coi các môn đệ là những người
làm cho Ngài, và “thợ làm đáng được trả công đời này” (1 Tim 5:18; cf. 1 Cor
9:7-14). Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh: “người ta cho ăn uống thức gì,
thì anh em dùng thức đó.” Người rao giảng không được đòi hỏi, họ phải có khả
năng ăn thức ăn của địa phương dâng tặng. Họ cũng không thể sống theo luật
kosher của Do-thái nữa. Người môn đệ cũng “đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia” để
tìm lợi nhuận vật chất hay chỗ ăn ở sung sướng hơn.
(2) Làm
cho triều đại Thiên Chúa mau đến: Chúa
Giêsu nhắc lại bổn phận chính của người môn đệ: “Hãy chữa những người đau yếu
trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các
ông."” Triều đại của Thiên Chúa đã đến với sự xuất hiện của Đức Kitô và
các môn đệ loan báo Tin Mừng này đến cho mọi người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mục đích của cuộc đời
chúng ta là hướng tới Jerusalem trên trời, nơi Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giòng
lệ, đau khổ và chết chóc sẽ không còn, và chúng ta sống hạnh phúc bên Ngài muôn
đời.
- Để đạt được mục đích
đó, chúng ta phải tin tưởng vào Đức Kitô. Ngài đến để xóa tội lỗi cho chúng ta
và giao hòa chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta cần tuân giữ những dạy dỗ của
Ngài.
- Sứ vụ của chúng ta ở đời
này là lo sao cho mình và mọi người được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúng
ta đừng để mình bị lôi cuốn vào những thú vui tạm bợ đời này.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
07/07/13 CHÚA NHẬT TUẦN 14 TN – C
Lc 10,1-9
Lc 10,1-9
SỐNG NGHÈO TRONG SỨ VỤ
“Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày
dép.” (Lc 10,4)
Suy niệm: Sau
ngày đắc cử, Đức giáo hoàng Phanxicô không đến ở trong dinh thự các giáo hoàng
nhưng lưu lại tại căn phòng trong Nhà Trọ Thánh Marta để ở gần các cộng sự viên
của mình. Ngài quan tâm tới những người “nghèo nhất, yếu đuối nhất, ít quan
trọng nhất”. Ngài luôn kêu gọi các tu sĩ đến với những người sống bên lề xã
hội. Người ta nhận ra Đức Phanxicô, sau ba tháng trên ngôi vị giáo hoàng, muốn
xây dựng một “Giáo hội nghèo, cho người nghèo” đúng như lý tưởng sống của vị
thánh mà ngài đã chọn làm danh hiệu giáo hoàng của mình. Đó cũng là mệnh lệnh
mà Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ khi sai các ông đi truyền giáo. Quả thật
thay vì nhắc các ông trang bị đầy đủ các phương tiện vật chất, Chúa Giêsu muốn
các ông lên đường với gói hành trang gọn nhẹ: không mang theo túi tiền, bao bị,
giày dép. Ngài muốn các ông sống nghèo như chính Ngài đã sinh ra, sống, rao
giảng và chết trong khó nghèo.
Mời Bạn: Chúng ta đang muốn xây dựng
Giáo hội nào: giàu cho người giàu? hay nghèo cho người nghèo? Những người nghèo
và cô thế cô thân có được cộng đoàn quan tâm giúp đỡ không? Tiền giáo xứ giúp
cho người nghèo là bao nhiêu so với tiền xây dựng, tiền tổ chức các cuộc lễ
lạy, đình đám?
Sống Lời Chúa: Tôi
sống đơn giản và khó nghèo tự nguyện, sẵn sàng bớt các chi tiêu không cần thiết
để giúp người nghèo, người túng thiếu quanh tôi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa gửi đến cho thế giới đang chạy theo quyền
lực và tiền của, những sứ giả Tin Mừng ham thích sống khó nghèo, biết hy sinh
quên mình vì hạnh phúc của tha nhân.
ANH EM HÃY RA ĐI
Hôm nay, khi xây dựng một
thế giới công bằng và yêu thương chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan, để Nước Chúa
lớn lên trên mặt đất này, và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.
Suy niệm:
Ai được mời gọi gặt lúa?
Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ,
mà là 72 môn đệ;
không phải chỉ là 12 chi tộc Israel,
mà là mọi người thuộc mọi dân nước.
Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít.
Mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt.
Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân
đều được sai đến với cánh đồng hôm nay.
Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui:
Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em.
Một lời chào thân thiện:
Bình an cho nhà này.
Một thứ hành trang nhẹ tênh:
không túi tiền, bao bị, giày dép.
Một việc phải làm:
chữa lành những người ốm đau.
Một thái độ phải có:
khiêm tốn và siêu thoát,
đón nhận những gì người ta cung cấp cho,
không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu.
Nếu hôm nay Ðức Giêsu sai chúng ta đi,
Ngài sẽ dặn chúng ta điều gì?
Chắc Ngài sẽ dặn khác,
vì cánh đồng con người đã đổi khác.
Chúng ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng của bạn bè,
phải biết nói sao để họ hiểu được,
nhạy cảm để thấy điều họ thực sự đang cần,
và sống hài hòa với lời mình giảng.
Có thể chúng ta sẽ đi giày, và có ba, bốn áo,
sẽ có ví tiền và máy vi tính xách tay,
sẽ có văn phòng, máy fax và điện thoại.
Nhưng những thứ đó không làm chúng ta nặng nề.
Hành trang không được trở thành những cản trở
khiến ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa
và xa lạ với con người,
nhất là những người nghèo khổ.
Hôm nay Chúa sai chúng ta làm chứng giữa đời,
đôi khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói.
Chúng ta cứ phải trăn trở hoài
để Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè
thực sự đáp ứng những khát khao thầm kín của họ:
khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc,
khát khao tình huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông;
để những việc chúng ta làm cho họ
xoa dịu được nỗi đau nhức nhối,
và giải phóng họ khỏi xiềng xích của ác thần,
đang nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.
Các môn đệ hớn hở mừng vui
khi lần đầu tiên họ trừ được quỷ nhân danh Thầy.
Vương quốc của Satan bị đẩy lui
bởi những con người bình thường và yếu đuối.
Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương
chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan,
để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất này,
và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên
đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào
khả năng bản thân
hay vào những phương tiện
trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ
quỷ,
chữa lành những người ốm
đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng
Bảy
7 THÁNG BẢY
Đừng Lo Lắng !
Nhận thức của chúng
ta về sự quan phòng thần linh trong Cựu Ước được củng cố và được làm cho phong
phú thêm trong Tân Ước. Trong tất cả những lời nói của Đức Giêsu về chủ đề này,
những lời được ghi lại bởi hai Thánh Sử Matthêu và Luca sau đây đặc biệt cho ta
nhiều ấn tượng: “Vậy, anh em đừng băn khoăn về những vấn đề như mình sẽ ăn gì
uống gì hay mặc gì. Những kẻ không tin luôn luôn theo đuổi những thứ ấy. Nhưng
Cha của anh em trên trời biết anh em cần gì. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên
Chúa và sự công chính của Ngài, và mọi thứ khác sẽ được ban cho anh em” (Mt
6,31-33; Lc 12,29-31).
“Hai con chim sẻ chỉ
bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý
của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Ngài
cũng đếm cả rồi.Vậ anh em đừng sợ; anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt
10,29-31; Lc 21,18).
“Hãy xem chim trời:
chúng không gieo không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời
vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quí giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em,
nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng
thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra
bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết:
Ngay cả Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa
ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn
mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!” (Mt 6,26-30;
Lc 12,24-28).
Với một giáo huấn
mạnh mẽ như vậy, Chúa Giê-su không chỉ củng cố giáo huấn của Cựu Ước về sự quan
phòng thần linh mà thôi. Người còn cho thấy tại sao chúng ta không bao giờ được
phép nghi ngờ sự quan phòng ấy. Người bảo chúng ta đừng lo lắng, bởi vì chúng
ta có thể ung dung thanh thản trong tình yêu của Cha trên trời dành cho chúng
ta.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by
Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa nhật
XIV Thường Niên
Is 66,
10-14c; Gl 6, 14-18; Lc 10, 1-12.17-20
LỜI SUY NIỆM: “Sau
đó Người chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một
đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.” (Lc 10,1).
Chúa Giêsu thường mời gọi những ai đi theo Ngài, Ngài
để cho họ hoàn toàn được tự do chọn lựa trước khi quyết định. Khi đã đi theo
Ngài, thì được Ngài đào tạo và giao nhiệm vụ đi đến những nơi mới lạ, để chuẩn
bị ngày Ngài sẽ đến. Điều này cho chúng ta thấy được: đã là Ki-Tô hữu, chúng ta
đều là những môn đệ của Chúa Ki-Tô, cũng được Chúa trao nhiệm vụ làm ngôn sứ,
muốn làm ngôn sứ chúng ta cần học biết về Chúa Ki-Tô, về Giáo Hội Chúa Ki-Tô,
đặc biệt về Giáo Hội Công Giáo, để chúng ta không nói sai. Ước gì hết thảy
chúng ta đều dành mọi ưu tiên cho việc đến các lớp Kinh Thánh trong Giáo phận
để học hỏi.
Mạnh Phương
07 Tháng Bảy
Ðể Cho
Lòng Tha Thứ Tiếp Tục Hiện Hữu
Chuyện
"Nghìn lẻ một đêm" của Ba Tư có kể lại một phiên tòa như sau: Có hai
người anh em ruột nọ bắt chói được thủ phạm giết cha mình. Họ lôi kéo tên sát
nhân đến trước quan tòa và yêu cầu xử theo luật mắt đền mắt răng đền răng. Kẻ
sát nhân đã dùng đá để ném chết cha của họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo
như luật đã quy định... Trước mặt quan tòa, tên sát nhân đã thú nhận tất cả tội
lỗi của mình. Nhưng trước khi bị đem ra xử, hắn chỉ xin một ân huệ, đó là được
trở về nhà trong vòng ba ngày để giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến một
người cháu được ký thác cho hắn trông coi từ nhỏ. Sau thời hạn đó, hắn sẽ trở
lại để chịu xử tử... Quan tòa xem chừng như không tin ở lời cam kết của tên tử
tội. Giữa lúc quan tòa đang do dự, thì trong đám đông những người tham dự phiên
tòa, có một người giơ tay cam kết: "Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam
kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thế thay cho
hắn".
Tên tử
tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Sau đúng kỳ hạn ba
ngày, giữa lúc mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên
ngang bước ra giữa pháp trường và dõng dạc tuyên bố: "Tôi đã giải quyết
mọi việc trong gia đình. Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tội xin trở lại đây để
chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi để người ta sẽ không
nói: Chữ tín không còn trên mặt đất này nữa".
Sau lời
phát biểu dõng dạc của kẻ tử tội, người đàn ông đã đứng ra bảo lãnh cho hắn
cũng ra giữa đám đông và tuyên bố: "Phần tôi, sở dĩ tôi đứng ra bảo lãnh
cho người này, là vì tôi không muốn để cho người ta nói: Lòng quảng đại không
còn trên mặt đất này nữa".
Sau hai
lời tuyên bố trên , đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm
thấy được mời gọi để thể hiện những gì là cao quý nhất trong lòng người... Từ
giữa đám đông, hai người thanh niên bỗng tiến ra và nói với quan tòa:
"Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ
không còn nói: Lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này nữa".
Giữa sa
mạc cằn cỗi, một cụm cỏ hay một cánh hoa dại là cả một bầu trời hy vọng cho
những người lạc lõng. Giữa sa mạc nóng cháy, một tiếng suối róc rách là cả một
nguồn hy vọng tràn trề cho những ai đang đói khát... Giữa một xã hội khô cằn
tình người, giữa một xã hội mà những giá trị tinh thần và đạo đức đã bị bóp
nghẹt, chứng từ của người tín hữu Kitô cần thiết hơn bao giờ hết. Giữa biển
khơi mù mờ, có biết bao kẻ chới với đang cần một chiếc phao của chữ tín, của
lòng thành, của lòng quảng đại, của sự tha thứ...
Người
tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói; Niềm tin vào cuộc sống,
ý nghĩa của cuốc đời vẫn còn cháy sáng giữa xã hội.
Người
tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Thiên Chúa vẫn tiếp tục
yêu thương con người.
Người
tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Con người vẫn có thể yêu
thương nhau và sống cho nhau.
Người
tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Tôn giáo không là thuốc
phiện mê hoặc quần chúng, nhưng là sức mạnh để cải thiện xã hội.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét