Trang

Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2013

07-07-2013 : (phần 1) CHÚA NHẬT XIV MÙA THƯỜNG NIÊN năm C

Chúa Nhật Ngày 07/07/2013
Tuần 14 Mùa Thường Niên Năm C
(Phần I)


BÀI ĐỌC I: Is 66, 10-14c
"Đây Ta khiến sông bình an chảy vào nó".

 Trích sách Tiên tri Isaia.
Các ngươi hãy vui mừng với Giêrusalem, và hết thảy những ai yêu quý nó, hãy nhảy mừng vì nó. Hỡi các ngươi là những kẻ than khóc nó, hãy hân hoan vui mừng với nó, để các ngươi bú sữa no nê nơi vú an ủi của nó, để các ngươi sung sướng bú đầy sữa vinh quang của nó. Vì chưng Chúa phán thế này: "Ta sẽ làm cho sự bình an chảy đến nó như con sông, và vinh quang chư dân tràn tới như thác lũ. Các ngươi sẽ được bú sữa, được ẵm vào lòng và được nâng niu trên đầu gối. Ta sẽ vỗ về các ngươi như người mẹ nâng niu con, và tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi. Các ngươi sẽ xem thấy, lòng các ngươi sẽ hân hoan, và các ngươi sẽ nẩy nở như hoa cỏ, và tôi tớ Chúa sẽ nhìn biết bàn tay của Chúa". Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 65, 1-3a. 4-5. 6-7a. 16 và 20
Đáp: Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa (c. 1).

1) Toàn thể đất nước hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy ca ngợi vinh quang danh Người, hãy kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp Chúa.
2) Toàn thể đất nước thờ lạy và ca khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp của Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta!
3) Người biến bể khơi thành nơi khô cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó ta hãy hân hoan trong Chúa. Với quyền năng, Người thống trị tới muôn đời.
4) Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại biết bao! Chúc tụng Chúa là Đấng không hất hủi lời tôi nguyện, và không rút lại lòng nhân hậu đối với tôi.

BÀI ĐỌC II: Gl 6, 14-18
"Tôi mang trong mình tôi những dấu thánh của Chúa Giêsu".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, phần tôi, ước gì tôi đừng khoe mình về một điều gì khác, ngoại trừ về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ cây thập giá mà thế gian đã chịu đóng đinh cho tôi, và tôi cho thế gian. Vì chưng trong Đức Kitô, có cắt bì hay không cũng chẳng có giá trị gì, điều quan trọng là trở nên một tạo vật mới. Nguyện chúc bình an và lòng thương xót đối với những ai rập theo quy tắc đó, và cho cả Israel của Thiên Chúa nữa. Từ nay trở đi, ước gì không ai làm phiền tôi nữa; vì tôi mang trong mình tôi dấu thánh của Chúa Giêsu.
Anh em thân mến, nguyện ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng anh em! Amen. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 10, 1-9 {hoặc 1-12. 17-20}
"Sự bằng yên của các con sẽ đến trên người ấy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: 'Bình an cho nhà này'. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
"Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: 'Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi'.
{"Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: 'Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần'. Ta bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này".
Bảy mươi hai ông trở về rất vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Người bảo: "Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rít, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời". Đó là lời Chúa. 
.

SUY NIỆM : Chúa Muốn Cứu Ðộ Mọi Người

Chúa nhật trước đã cho chúng ta thấy đòi hỏi tổng quát quyết liệt của ơn gọi tông đồ nói riêng và ơn gọi Kitô hữu nói chung. Mọi người muốn theo Chúa đều phải từ bỏ bản thân, dứt khoát với nếp sống cũ kỹ của con người xác thịt và thế gian. Hôm nay bài Tin Mừng cho chúng ta thấy Chúa sai những con người từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa, và cánh đồng truyền giáo. Người sai họ đi khắp nơi, làm công việc cứu thế. Người bảo đảm thành công cho họ. Vì kế hoạch cứu thế làm cho cả nhân loại được hạnh phúc là điều Chúa đã hứa ban ngay từ thuở ban đầu, như bài sách Isaia hôm nay loan báo. Tuy nhiên các tông đồ và tín hữu của Chúa phải bắt chước Phaolô trong bài thư hôm nay, trung thành yêu mến mầu nhiệm thánh giá Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy xem Chúa dự định cứu nhân loại thế nào? Người thi hành việc ấy làm sao? Và chúng ta sẽ góp phần gì vào công việc cứu thế này?

1. Chúa Muốn Cứu Ðộ Mọi Người
Bài sách Isaia có giá trị cho mọi thời vì nói lên kế hoạch cứu độ trước sau như một của Thiên Chúa. Ðoạn sách ấy trích trong phần thứ ba, hay quyển thứ ba sách Isaia, nói về thời sau lưu đày.
Chúng ta biết dân Chúa ngày xưa phải lưu đày sang Babylon trên dưới 40 năm. Nhiều người đã chán nản, nghĩ rằng chẳng bao giờ khôi phục được Giêrusalem nữa. Nhưng một số ít người đạo đức, thuộc thành phần khó nghèo, vẫn tin tưởng vào Chúa là Ðấng trung tín sẽ giữ lời giao ước. Chính Người sẽ ra tay cứu dân và đưa họ về quê cha đất tổ mặc dầu họ không xứng đáng. Niềm tin ấy đã không phải hổ ngươi, vì quả thật khi Hoàng đế Cyrô lên ngôi, ông đã ban phép và khuyến khích những ai yêu mến Giêrusalem hãy trở về xây dựng lại đền thờ.
Ðó là niềm vui bất ngờ. Người ta kéo nhau về hân hoan như được sống lại. Công cuộc tái thiết bắt đầu rất hăng say. Nhưng chẳng bao lâu mây đen đã kéo đến chân trời. Các khó khăn liên tiếp và dồn dập xảy ra. Do các mối bất hòa đến từ tứ phía, các cánh tay đang tái thiết bỗng rã rời và chỉ muốn buông xuống. Chính lúc ấy tiếng tiên tri lại vang lên, an ủi khuyến khích và phấn chấn lòng người. Người của Chúa không đưa ra những luận lý mới mẻ. Ông không tự ý hứa hẹn những điều hão huyền. Là phát ngôn viên trung thành của Thiên Chúa, ông chỉ lặp lại, nhắc nhở kế hoạch cứu độ ngàn đời của Người. Ông hô: hỡi những ai yêu mến Giêrusalem hãy hân hoan lên vì nó; hỡi những ai đã có lần khóc lóc với nó (trong cảnh cùng quẫn), hãy với nó phấn khởi lên vì Chúa sẽ đem hòa bình đến cho Giêrusalem: nó sẽ trở nên trù phú: mọi dân sẽ tuốn đến uống sữa no nê của nó vì chính Chúa sẽ bồng bế mọi người ở Giêrusalem để hết thảy sẽ được hồi sinh và tươi mát.
Ngày nay chúng ta dễ hiểu những lời tiên tri này. Ðây không phải là những lời hy hữu, lẻ loi, nhưng chỉ diễn tả đề tài cố hữu và chính yếu của mạc khải. Ngay từ thời Abraham, Thiên Chúa đã hứa cho ông được dòng dõi đông đúc và hạnh phúc. Dòng dõi này sẽ bao trùm mọi sắc dân. Với Môsê Chúa đã tái xác nhận như vậy. Các tiên tri không làm gì hơn là giúp người Do Thái biết hiểu giao ước và lời hứa theo ánh sáng siêu nhiên và phổ quát hơn. Bài sách Isaia hôm nay nằm trong viễn tượng và cố gắng ấy. Tội nghiệp cho những ai không tin rằng: Lời Chúa sẽ được thực hiện. Nhưng cũng tội nghiệp không kém cho những kẻ chỉ hiểu Lời Chúa hứa theo ý nghĩa xác thịt và thế gian.
Giêrusalem của lời hứa không phải đô thị ở trên mảnh đất Do Thái. Thái độ này chỉ là hình ảnh và điểm tựa để Thiên Chúa nói đến Nước ân sủng của Chúa Cứu Thế, nơi Người sẽ tập họp hết mọi người được cứu độ. Chính Ðức Giêsu đã bảo: cứ phá Giêrusalem vật chất đi, Người sẽ xây lại nó trong ba ngày. Người muốn nói thân thể phục sinh của Người và mọi dân được cứu độ. Ở đó, nơi thân thể có cạnh sườn mở ra của Người sẽ có dòng nước Thánh Thần chảy theo dòng máu hy sinh của Người để làm cho mọi người được no nê, hồi sinh và tươi mát. Thiên Chúa sẽ yêu dấu chúng ta nơi Ðức Giêsu Kitô, người con chí ái của Người.
Lời sách Isaia hôm nay, cuối cùng là như vậy. Nó là sứ điệp Tin Mừng Thiên Chúa gửi đến cho mọi người ở mọi thời, tác giả sách Isaia đã nhắc lại lời hứa ấy trong một hoàn cảnh đen tối của lịch sử dân Chúa để gây tin tưởng nơi lòng mọi người. Hôm nay và hằng ngày trong cuộc sống, đặc biệt trong những lúc bi đát và nao núng niềm tin, Lời Chúa vẫn còn đó để nhắc nhở chúng ta. Người là Ðấng trung thành đã hứa thì sẽ giữ mọi điều của kế hoạch yêu thương cứu độ. Tất cả chỉ còn tùy nơi chúng ta có muốn tin hay không?
Thực ra chúng ta có điều kiện để dễ tin hơn các thế hệ ngày trước. Bởi vì từ ngày có lời tiên tri trong sách Isaia, đã có biết bao nhiêu biến cố lịch sử chứng tỏ Thiên Chúa hằng trung thành thực hiện dần dần kế hoạch cứu độ của Người.
Ðặc biệt đã có cuộc đời và sự nghiệp của Ðức Giêsu mà đoạn sách Luca hôm nay còn nhắc lại một trong rất nhiều biến cố rất ý nghĩa.

2. Chúa Muốn Các Dân Tộc Ðược Cứu Vớt
Nếu thực sự được phép nối liền hai bài Tin Mừng của Chúa nhật trước và Chúa nhật này, chúng ta thấy đoạn văn hôm nay thổi lên một luồng gió phấn khởi. Chúa nhật trước, bài sách Luca nói đến thái độ của dân Samari chặn đứng cuộc hành trình của Ðức Giêsu khiến hai môn đệ tức giận chỉ muốn xin lửa từ trời xuống đốt dân thành ấy. Hôm nay, Ðức Giêsu và các môn đệ của Người như đang đứng trước toàn những đô thị dân ngoại. Nhưng Người giơ tay trỏ cho họ thấy kìa mùa gặt rất phong phú. Nhưng sao ít thợ gặt thế! Hãy xin chủ ruộng sai thêm thợ đến gặt lúa chín của Người. Và Ðức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi giảng đạo trong mọi đô thị và xóm làng mà Người sẽ đến.
Tác giả Luca đã có nhiều ý kiến khi thuật lại câu chuyện này. Ông nói đến 72 môn đệ chứ không phải chỉ 12 tông đồ được sai đi. Ông nghĩ đến các thế hệ tông đồ sau này sẽ được gởi đến mọi nơi trên mặt đất sao? Hay ông nghĩ đến các người đi giảng đạo ở thời ông mà không phải là đoàn 12. Rất có thể là ông đã theo gương tác giả sách Khởi nguyên đoạn 10, tính tổng số các dân ngoại là 72 do 3 người con của ông Noe sinh sản ra. Dù sao ngụ ý của tác giả ở đây là muốn cho việc truyền giáo các dân ngoại được phát xuất và khởi sự ngay từ Ðức Giêsu. Chính Người đã sai môn đệ đi tới hết mọi dân tộc và mọi nơi chốn mà Người (tức là ơn cứu độ của Người) sẽ đi đến. Bởi vì với việc đi lên Giêrusalem chịu chết và sống lại của Người, cả thế giới đã trở thành như ruộng lúa chín vàng đang chờ thợ gặt.
Hình ảnh này, các sách Kinh Thánh vẫn dùng để gợi lên mùa cứu độ cũng như mùa xét xử. Ðức Giêsu đến là để nhiều người được chỗi dậy và nhiều kẻ bị hư đi, như lời Simêon tiên báo. Người mang tin mừng và Ơn cứu độ trải ra khắp địa cầu như người ta thả lưới để kéo vào và lượm ra các thứ cá. Việc rao giảng Nước Trời cũng giống như mùa gặt để thu lúa vào kho, còn rơm rạ thì đốt đi. Không dân tộc nào ngăn chặn được ảnh hưởng của công cuộc truyền giáo vì tiếng các ngôn sứ đã vang cùng thế giới. Kế hoạch đem mọi dân tộc vào hạnh phúc đã được hứa cho Abraham mà bài sách Isaia hôm nay cho thấy hằng được rao giảng qua mọi thế hệ, kế hoạch ấy đang thực hiện trước mắt các môn đệ của Chúa Giêsu.
Và họ được sai đi làm công việc ấy với những chỉ thị rõ ràng. Người bảo họ: hãy đi, này Ta sai các ngươi như chiên đi vào giữa sói. Câu nói này có thể hiểu theo nghĩa các tông đồ được sai đi làm một công việc khó khăn, nguy hiểm. Nhưng đúng hơn nên nhớ lại văn chương của Kinh Thánh thường so sánh dân ngoại như chiên với sói, để hiểu câu văn này chỉ có ý nói đến mệnh lệnh truyền giáo đi vào dân ngoại.
Chúa bảo các môn đệ đừng mang theo tiền nong, bao bị, giày dép và đừng chào hỏi những người qua đường vì Người muốn họ phải lanh lẹ, nhẹ nhõm đi lo việc Chúa. Tâm hồn họ chỉ để vào việc truyền giáo, nên vào nhà nào, họ phải nói ngay: Bình an cho nhà ấy. Ðó là lời chúc cổ điển của Kinh Thánh, lời bao gồm tất cả niềm tin ở giao ước. Muốn cho ai được bình an theo nghĩa đó, là muốn cho họ nhận được ân phúc mà Thiên Chúa đã từng hứa từ thời Abraham, để họ được ân sủng yêu thương của Người và được cứu độ, khiến họ không còn thiếu gì khác nữa. Với lời chào bình an, người tông đồ mang đến cho người ta kho tàng cứu độ và lời hứa trung tín của Thiên Chúa như bài Isaia trên kia đã cho chúng ta thấy. Việc được như vậy hay không là tùy thái độ của từng người. Còn người tông đồ cứ ở lại đó, tiếp tục rao giảng cho người ta về Nước Trời và chữa bệnh tật cho người đau yếu để làm chứng ơn cứu độ đã đến cho người ấy. Và người tông đồ luôn luôn chỉ quan tâm đến phận sự rao giảng, không chút mảy may để ý đến cách thức người ta cho mình ăn uống thế nào. Và nhất là không được nay ở nhà này mai đổi sang nhà khác để được tiếp đãi no đủ hơn.
Có thể có những tông đồ bị hắt hủi. Nhưng Chúa sẽ phán xét thái độ của người ta. Người tông đồ không nao núng, cứ rao giảng Nước Trời. Tuy nhiên, tác giả Luca không muốn chấm dứt bài tường thuật với giả thiết ít lạc quan ấy. Người nhìn thấy chung cuộc việc truyền giáo cho các dân ngoại rất kết quả. Người kể cho chúng ta ngày các tông đồ trở về hân hoan vì thấy ảnh hưởng của thần dữ đã bớt đi trên thế gian và Ðức Giêsu đã nhìn thấy Satan đã lao mình xuống khỏi trời như một tia chớp. Những tư tưởng này làm chứng rồi ra kế hoạch của Thiên Chúa sẽ toàn thắng. Mọi dân tộc sẽ được cứu vớt. Bình an và phúc lành của Thiên Chúa hứa cho loài người sẽ đánh tan ảnh hưởng xấu xa của Satan và tên các tông đồ sẽ được ghi ở trên trời.
Như vậy bài Tin Mừng hôm nay đã thực hiện lời tiên tri trong sách Isaia. Chúng ta được chỉ dẫn cho thấy kế hoạch cứu độ ngàn đời của Thiên Chúa đang thực hiện qua Giêrusalem mới là Hội Thánh với đoàn tông đồ đông đảo đang được sai đi đến các dân tộc để nhân danh Ðức Giêsu đem phúc bình an đến cho mọi người. Chúng ta để ý đến chương trình cứu độ chắc chắn đầy thành quả của Thiên Chúa; nhưng cũng không nên quên các yêu sách của chương trình này mà tác giả Luca đã một phần nào gợi lên khi đưa ra các chỉ thị truyền giáo. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay đã tóm tắt các yêu sách lại trong một quan niệm: hãy mang lấy các đau khổ của Ðức Giêsu Kitô.

3. Miễn Là Chúng Ta Sống Mầu Nhiệm Thánh Giá
Chắc chắn là không ai bằng thánh Phaolô có khả năng nói với chúng ta về kinh nghiệm truyền giáo. Người đã mở đường và đi tiên phong trong việc đem Tin Mừng đến cho dân ngoại. Kế hoạch cứu độ các dân tộc của Chúa nhờ Người đã đem lại những kết quả cụ thể. Và bài thư hôm nay là những lời tâm huyết của Người, viết ở cuối bức thư gửi người Galát. Chính tay Người thảo ra những dòng chữ "lớn lao" này để khẳng định một lần cuối cùng rằng: muốn cho các dân tộc được cứu độ, phải cư xử theo thánh giá Chúa Kitô. Người nói như vậy vì Người thấy có nhiều kẻ muốn làm tông đồ và rao giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa nhưng lại dùng đường lối không phù hợp với thánh giá. Họ sợ gặp khó khăn khi thi hành việc giảng đạo, nên tuyên bố tín hữu phải cắt bì để lấy lòng người Do Thái và để hạng người này không phá rối việc giảng đạo của họ. Nhưng như vậy còn nói đến Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô làm gì nữa? Chính Người đã đến để giải thoát người ta ra khỏi luật pháp Do Thái cũng như mọi luật tôn giáo khác để mọi người từ nay được cứu độ nhờ Niềm Tin. Thế mà bây giờ có những tông đồ còn bảo tín hữu phải chịu cắt bì! Không, họ không phải là tông đồ đâu. Họ không rao giảng ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa ban. Thế thì họ giảng đạo làm gì, nếu chẳng phải nguyên để được vinh dự và tiếng tăm!
Không, không ai được gọi là tông đồ nếu không được sai đi. Và người được sai đi phải thấy việc rao giảng Tin Mừng là một sứ mệnh đè xuống trên vai mình và bắt mình phải hy sinh chứ không phải để được tiếng tăm và vinh dự. Người tông đồ chân chính không những phải rao giảng niềm tin vào mầu nhiệm Thánh giá, mà hơn nữa còn phải nên như thập giá sống động ở trước mặt mọi người. Họ phải nói như Phaolô: Tôi không lấy gì làm vinh dự, ngoài Thánh giá Chúa Giêsu Kitô, nhờ đó thế gian đã bị đóng đinh cho tôi và tôi cho thế gian. Chỉ những ai cư xử như vậy mới được bình an và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chỉ tông đồ nào như thế mới đem lại bình an và thương xót của Chúa cho các dân tộc và cho mọi người. Tất cả chúng ta muốn sống đạo và truyền đạo phải lấy đó làm nguyên tắc hành động. Mỗi người phải suy nghĩ và diễn tả nguyên tắc mang Thánh giá Ðức Giêsu Kitô ra trong đời sống. Ai mang trong thân mình những vết hằn (tức là những dấu vết) của Thánh giá như Phaolô, mới là tín hữu và tông đồ chân chính.
Nhưng ai trong chúng ta lại đã không được ghi dấu thánh giá? Không những từ ngày chịu phép rửa tội, mà hằng ngày không biết bao lần chúng ta được ghi dấu thánh ấy? Chỉ còn phải hỏi đời sống và hành động của chúng ta có phù hợp với thánh giá hay không? Thánh lễ này đưa chúng ta vào mầu nhiệm thánh giá một cách đặc biệt. Chúng ta cố gắng tham dự thánh lễ tốt. Nhưng chúng ta còn phải quyết tâm hơn nữa đưa tinh thần mầu nhiệm thánh giá nơi bàn thờ đây vào trong đời sống. Chỉ khi nào chúng ta thi hành tinh thần ấy, ơn cứu độ mới được ban cho chúng ta và đời sống của chúng ta mới mang ơn cứu độ đến cho người khác. Chương trình và kế hoạch cứu độ từ ngàn đời của Thiên Chúa mới thực sự được thi hành cho chúng ta và nhờ chúng ta cho mọi người.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật 14 Thường Niên, Năm C


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Ba sự thật cần thiết nhất của cuộc đời.

Con người bị lẫn lộn và giằng co giữa sự thật và sự gian tà, giữa việc tôn thờ Đấng Tạo Hóa với những tạo vật do tay Ngài làm nên, giữa mục đích của cuộc đời và những phương tiện sinh sống trong cuộc đời, giữa bổn phận chính yếu với những bổn phận phụ thuộc. Ví dụ: Mục đích của cuộc đời là làm sao để đạt được Nước Trời chứ không phải xây cho được những tòa nhà lộng lẫy, nguy nga... để rồi sẽ có ngày không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào. Niềm tin để đạt được mục đích cuộc đời là xác tín vào Đức Kitô, Đấng duy nhất có thể bảo đảm cho con người được cứu độ, chứ không phải nơi uy quyền, danh vọng hay bất cứ người nào khác. Bổn phận chính con người phải làm khi sống ở đời này là rao giảng Tin Mừng sao cho mọi người nhận ra và tin vào Thiên Chúa để được hưởng ơn cứu độ, chứ không phải bất kỳ một bổn phận phụ thuộc nào khác.

Các bài đọc hôm nay cho chúng ta ba cái nhìn chính xác về mục đích của cuộc đời, niềm tin phải có để đạt được mục đích đó, và bổn phận phải làm để đạt được mục đích của cuộc đời. Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaiah nhìn thấy rõ viễn cảnh hòa bình của Jerusalem sau những ngày lưu đày cơ khổ. Đây cũng là mục đích người tín hữu hướng tới khi phải làm việc vất vả, chịu đựng bao nhiêu gian khổ trong thế gian là để đạt tới và sống trong cảnh thái bình của Jerusalem trên trời. Trong bài đọc II, thánh Phaolô xác tín Thập Giá Đức Kitô là dấu hiệu bảo đảm cho niềm tin vào hạnh phúc Thiên Đàng. Niềm xác tín này phải in sâu tâm hồn của mọi tín hữu để họ đừng bị lung lay bởi bất cứ học thuyết nào hay bất cứ những cám dỗ nào của thế gian. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng và căn dặn các ông tập trung vào một điều chính yếu là làm cho triều đại của Thiên Chúa mau tới. Bổn phận của người tín hữu phải luôn nhớ sứ vụ của mình là rao giảng Tin Mừng để đem mọi người về cho Thiên Chúa, chứ không phải cho bất kỳ một sứ vụ nào khác.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Mục đích của cuộc đời: Viễn cảnh thái bình của Jerusalem.

1.1/ Jerusalem sẽ được phục hồi: Jerusalem là trọng tâm đời sống của con cái Israel, vì đây là Đền Thờ của Thiên Chúa cư ngụ giữa họ. Sau năm 587 BC, Đền Thờ bị phá hủy tan tành, thành Sion và các thành lũy chung quanh cũng bị triệt hạ hoàn toàn, và dân chúng bị đem đi lưu đày tại Babylon. Đối với những người không có đức tin, năm đó là năm chấm dứt niềm tin của con cái Israel vào Thiên Chúa, vì còn đâu Đền Thờ cho Thiên Chúa ngự. Nhưng đối với các ngôn sứ, Jerusalem sẽ được phục hồi và sẽ trở thành trung tâm mà mọi dân mọi nước hướng về. Sau cảnh thương khóc và gian khổ là sung mãn vinh quang mà Thiên Chúa dành cho những ai tin tưởng nơi Ngài. Chương 66 của Sách Isaiah nói lên vinh quang của Jerusalem sẽ được hưởng sau thời kỳ lưu đày: “Hãy vui mừng với Jerusalem, hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ, hỡi tất cả những người yêu mến Thành Đô! Hãy cùng Jerusalem khấp khởi mừng, hỡi tất cả những người đã than khóc Thành Đô, để được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ.”

1.2/ Đức Chúa sẽ yêu quí Jerusalem: Tác giả diễn tả sự yêu quí này bằng những hình ảnh khác nhau: Thiên Chúa sẽ tuôn đổ muôn hồng ân xuống trên Jerusalem cho dân Người “tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ. Người sẽ an ủi vỗ về dân Người như người mẹ săn sóc con thơ: “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối.”

Hình ảnh Jerusalem của ngôn sứ Isaiah diễn tả ở đây không chỉ giới hạn Jerusalem sau thời lưu đày, vì Jerusalem này cũng bị quân đội Roma phá bình địa vào năm 70 AD. Người tín hữu trông cậy vào thành Jerusalem trên trời, nơi không một sức mạnh nào có thể phá nổi.

2/ Bài đọc II: Niềm xác tín của người môn đệ: “Tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô.”

2.1/ Làm sao để có bình an?

(1) Thập giá Đức Giêsu Kitô là niềm hãnh diện của người tín hữu: Đây là bốn câu cuối cùng của Thư Galat, và thánh Phaolô muốn tổng kết những gì Ngài đã nói với các tín hữu trong toàn Thư. Người tín hữu không được tìm sự hãnh diện nơi bất cứ điều gì thế gian dâng tặng như: uy quyền, danh vọng, tiền của, hưởng thụ... Niềm hãnh diện của người tín hữu là ở nơi Thập Giá của Đức Kitô, vì nhờ cây Thập Giá này mà họ được rửa sạch tội lỗi và được giao hòa với Thiên Chúa. Thánh Phaolô tuyên xưng: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.”

(2) Qui tắc để có bình an: Đối với các Kitô hữu, không phải hệ tại ở việc cắt bì, cũng chẳng phải ở việc giữ Luật, nhưng là ở chỗ trở nên một tạo vật mới: theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để hoàn toàn sống cho Đức Kitô. Thánh Phaolô dạy: “Quả thật, cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới. Chúc tất cả những ai sống theo quy tắc ấy, và chúc Israel của Thiên Chúa được hưởng bình an và lòng thương xót của Người.”

Bình an này có liên kết mật thiết với niềm tin của người tín hữu vào Đức Kitô: một khi đã biết Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, người tín hữu không còn lo lắng về tội lỗi và về sự chết nữa. Họ biết nếu họ tin và tuân giữ những gì Đức Kitô dạy bảo, họ sẽ được sống đời đời với Thiên Chúa. Chính sự xác tín này làm cho họ được bình an trong tâm hồn.

2.2/ Tôi mang trên mình tôi những dấu tích của Đức Giêsu.

Trong cuộc đời, người tín hữu phải đương đầu với biết bao nhiêu những lạc thuyết của thế gian và các tôn giáo khác nhau. Một khi đã biết rõ ràng Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, người tín hữu đừng để cho bất cứ người nào làm lung lay niềm tin của mình, đừng để cho bất cứ sự gì lôi cuốn mình khỏi Thập Giá của Đức Kitô, và đừng để cho những dấu tích của Đức Kitô in trên thân thể bị xóa nhòa. Những “dấu tích” thánh Phaolô nói ở đây có thể là “5 dấu thánh” mà thánh Phanxicô Khó Khăn hay Cha Piô được chịu; cũng có thể là những đau khổ để lại trên thân xác sau khi đã trải qua những gian khổ để làm chứng cho Đức Kitô; hay có thể hiểu một cách thiêng liêng: những chứng tích mà bí-tích Rửa Tội để lại trong linh hồn các tín hữu.

3/ Phúc Âm: Bổn phận của môn đệ là loan báo: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông."

3.1/ Khác biệt về văn bản: Theo Lucas, Chúa Giêsu không chỉ chọn 12 tông đồ, nhưng còn nhiều môn đệ khác, để huấn luyện và sai đi rao giảng Tin Mừng. Trong Lucas, có hai lần sai đi: Lần thứ nhất, Chúa Giêsu sai 12 tông đồ (Lk 9:1-6; Mt 10:1, 7-16; Mk 6:7-13). Lần thứ hai, chỉ có trong Lucas, theo trình thuật hôm nay: “Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.”

70 hay 72 môn đệ? Theo Bruce Metzger, sự khác biệt của các văn bản cổ xưa có thể nói là đồng đều. Theo bản Alexandria (A) và các bản của nhóm Tây Phương (gồm hầu hết các bản của Latin cũ và Sinaitic Syriac) cho là 72 môn đệ. Các bản Alexandrian khác (Sinaiticus, L, Delta) cùng với hai bản f 1 và f 13 cho là 70 môn đệ. Vì thế, khó mà xác định con số nào chính xác. Nhiều học giả còn đi xa hơn trong việc phiên dịch ý nghĩa của con số 70 (dựa trên Exo 24:1; Num 11:16) hay 72 (dựa trên truyền thuyết 72 người phiên dịch của Bản Bảy Mươi hay 72 quốc gia trong Gen 10). Tất cả những phiên dịch này chỉ có tính cách võ đoán. Metzger tuy chọn con số 72, nhưng để trong ngoặc cho mọi người biết là có sự tranh luận về con số này.

3.2/ Môn đệ là sứ giả mang Tin Mừng.

(1) Phải ý thức sứ vụ cuả mình: Chúa Giêsu biết những nguy hiểm người môn đệ phải đương đầu khi Ngài nói với các ông: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.” Hai điều Ngài muốn đề phòng cho các ông:

- “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”: Đây là những thứ ngăn cản việc rao giảng Tin Mừng. Lo lắng quá nhiều về phương diện sinh sống sẽ ngăn cản các ông dành mọi cố gắng cho việc rao giảng Tin Mừng.

- “Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường”: Chúa Giêsu không dạy các môn đệ bất lịch sự hay sống cách biệt. Ngài chỉ muốn các môn đệ biết tính khẩn cấp của việc rao giảng Tin Mừng để các ông đừng trò chuyện vô ích dọc đường, làm mất thời gian rao giảng (cf. 2 Kgs 4:29).

(2) Chấp nhận Tin Mừng là điều kiện để có bình an: Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này!"” Điều này chứng tỏ Tin Mừng cứu độ được trao cách nhưng không cho mọi người. Theo Lucas, sự bình an này được liên kết với ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho mọi người (cf. 1:79, 2:14-29, 7:50, 8:48, 12:51, 19:38). Chấp nhận Tin Mừng là có bình an: “Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.” Điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ ở đây là sự bình an trong các môn đệ có năng lực làm cho người khác cũng cảm thấy được bình an.

3.3/ Môn đệ là sứ giả của Nước Trời.

(1) Đừng tìm kiếm những sự thế gian: Nhiều người nói “nếu không đem theo tiền bạc và bao bị thì lấy gì mà ăn.” Nói như thế là khinh thường sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài coi các môn đệ là những người làm cho Ngài, và “thợ làm đáng được trả công đời này” (1 Tim 5:18; cf. 1 Cor 9:7-14). Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh: “người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó.” Người rao giảng không được đòi hỏi, họ phải có khả năng ăn thức ăn của địa phương dâng tặng. Họ cũng không thể sống theo luật kosher của Do-thái nữa. Người môn đệ cũng “đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia” để tìm lợi nhuận vật chất hay chỗ ăn ở sung sướng hơn.

(2) Làm cho triều đại Thiên Chúa mau đến: Chúa Giêsu nhắc lại bổn phận chính của người môn đệ: “Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông."” Triều đại của Thiên Chúa đã đến với sự xuất hiện của Đức Kitô và các môn đệ loan báo Tin Mừng này đến cho mọi người.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Mục đích của cuộc đời chúng ta là hướng tới Jerusalem trên trời, nơi Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giòng lệ, đau khổ và chết chóc sẽ không còn, và chúng ta sống hạnh phúc bên Ngài muôn đời.

- Để đạt được mục đích đó, chúng ta phải tin tưởng vào Đức Kitô. Ngài đến để xóa tội lỗi cho chúng ta và giao hòa chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta cần tuân giữ những dạy dỗ của Ngài.

- Sứ vụ của chúng ta ở đời này là lo sao cho mình và mọi người được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta đừng để mình bị lôi cuốn vào những thú vui tạm bợ đời này.


Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP




07/07/13 CHÚA NHẬT TUẦN 14 TN – C
Lc 10,1-9
SỐNG NGHÈO TRONG SỨ VỤ
“Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.” (Lc 10,4)
Suy niệm: Sau ngày đắc cử, Đức giáo hoàng Phanxicô không đến ở trong dinh thự các giáo hoàng nhưng lưu lại tại căn phòng trong Nhà Trọ Thánh Marta để ở gần các cộng sự viên của mình. Ngài quan tâm tới những người “nghèo nhất, yếu đuối nhất, ít quan trọng nhất”. Ngài luôn kêu gọi các tu sĩ đến với những người sống bên lề xã hội. Người ta nhận ra Đức Phanxicô, sau ba tháng trên ngôi vị giáo hoàng, muốn xây dựng một “Giáo hội nghèo, cho người nghèo” đúng như lý tưởng sống của vị thánh mà ngài đã chọn làm danh hiệu giáo hoàng của mình. Đó cũng là mệnh lệnh mà Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ khi sai các ông đi truyền giáo. Quả thật thay vì nhắc các ông trang bị đầy đủ các phương tiện vật chất, Chúa Giêsu muốn các ông lên đường với gói hành trang gọn nhẹ: không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Ngài muốn các ông sống nghèo như chính Ngài đã sinh ra, sống, rao giảng và chết trong khó nghèo.
Mời Bạn: Chúng ta đang muốn xây dựng Giáo hội nào: giàu cho người giàu? hay nghèo cho người nghèo? Những người nghèo và cô thế cô thân có được cộng đoàn quan tâm giúp đỡ không? Tiền giáo xứ giúp cho người nghèo là bao nhiêu so với tiền xây dựng, tiền tổ chức các cuộc lễ lạy, đình đám?
Sống Lời Chúa: Tôi sống đơn giản và khó nghèo tự nguyện, sẵn sàng bớt các chi tiêu không cần thiết để giúp người nghèo, người túng thiếu quanh tôi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa gửi đến cho thế giới đang chạy theo quyền lực và tiền của, những sứ giả Tin Mừng ham thích sống khó nghèo, biết hy sinh quên mình vì hạnh phúc của tha nhân.

ANH EM HÃY RA ĐI
 Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan, để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất này, và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.


Suy nim:
Ai được mời gọi gặt lúa?
Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ,
mà là 72 môn đệ;
không phải chỉ là 12 chi tộc Israel,
mà là mọi người thuộc mọi dân nước.
Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít.
Mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt.
Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân
đều được sai đến với cánh đồng hôm nay.
Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui:
Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em.
Một lời chào thân thiện:
Bình an cho nhà này.
Một thứ hành trang nhẹ tênh:
không túi tiền, bao bị, giày dép.
Một việc phải làm:
chữa lành những người ốm đau.
Một thái độ phải có:
khiêm tốn và siêu thoát,
đón nhận những gì người ta cung cấp cho,
không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu.
Nếu hôm nay Ðức Giêsu sai chúng ta đi,
Ngài sẽ dặn chúng ta điều gì?
Chắc Ngài sẽ dặn khác,
vì cánh đồng con người đã đổi khác.
Chúng ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng của bạn bè,
phải biết nói sao để họ hiểu được,
nhạy cảm để thấy điều họ thực sự đang cần,
và sống hài hòa với lời mình giảng.
Có thể chúng ta sẽ đi giày, và có ba, bốn áo,
sẽ có ví tiền và máy vi tính xách tay,
sẽ có văn phòng, máy fax và điện thoại.
Nhưng những thứ đó không làm chúng ta nặng nề.
Hành trang không được trở thành những cản trở
khiến ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa
và xa lạ với con người,
nhất là những người nghèo khổ.
Hôm nay Chúa sai chúng ta làm chứng giữa đời,
đôi khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói.
Chúng ta cứ phải trăn trở hoài
để Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè
thực sự đáp ứng những khát khao thầm kín của họ:
khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc,
khát khao tình huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông;
để những việc chúng ta làm cho họ
xoa dịu được nỗi đau nhức nhối,
và giải phóng họ khỏi xiềng xích của ác thần,
đang nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.
Các môn đệ hớn hở mừng vui
khi lần đầu tiên họ trừ được quỷ nhân danh Thầy.
Vương quốc của Satan bị đẩy lui
bởi những con người bình thường và yếu đuối.
Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương
chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan,
để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất này,
và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Bảy
7 THÁNG BẢY
Đừng Lo Lắng !
Nhận thức của chúng ta về sự quan phòng thần linh trong Cựu Ước được củng cố và được làm cho phong phú thêm trong Tân Ước. Trong tất cả những lời nói của Đức Giêsu về chủ đề này, những lời được ghi lại bởi hai Thánh Sử Matthêu và Luca sau đây đặc biệt cho ta nhiều ấn tượng: “Vậy, anh em đừng băn khoăn về những vấn đề như mình sẽ ăn gì uống gì hay mặc gì. Những kẻ không tin luôn luôn theo đuổi những thứ ấy. Nhưng Cha của anh em trên trời biết anh em cần gì. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, và mọi thứ khác sẽ được ban cho anh em” (Mt 6,31-33; Lc 12,29-31).
“Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Ngài cũng đếm cả rồi.Vậ anh em đừng sợ; anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10,29-31; Lc 21,18).
“Hãy xem chim trời: chúng không gieo không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quí giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!” (Mt 6,26-30; Lc 12,24-28).
Với một giáo huấn mạnh mẽ như vậy, Chúa Giê-su không chỉ củng cố giáo huấn của Cựu Ước về sự quan phòng thần linh mà thôi. Người còn cho thấy tại sao chúng ta không bao giờ được phép nghi ngờ sự quan phòng ấy. Người bảo chúng ta đừng lo lắng, bởi vì chúng ta có thể ung dung thanh thản trong tình yêu của Cha trên trời dành cho chúng ta.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II

Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa nhật XIV Thường Niên
Is 66, 10-14c; Gl 6, 14-18; Lc 10, 1-12.17-20

LỜI SUY NIỆM: “Sau đó Người chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.” (Lc 10,1).
Chúa Giêsu thường mời gọi những ai đi theo Ngài, Ngài để cho họ hoàn toàn được tự do chọn lựa trước khi quyết định. Khi đã đi theo Ngài, thì được Ngài đào tạo và giao nhiệm vụ đi đến những nơi mới lạ, để chuẩn bị ngày Ngài sẽ đến. Điều này cho chúng ta thấy được: đã là Ki-Tô hữu, chúng ta đều là những môn đệ của Chúa Ki-Tô, cũng được Chúa trao nhiệm vụ làm ngôn sứ, muốn làm ngôn sứ chúng ta cần học biết về Chúa Ki-Tô, về Giáo Hội Chúa Ki-Tô, đặc biệt về Giáo Hội Công Giáo, để chúng ta không nói sai. Ước gì hết thảy chúng ta đều dành mọi ưu tiên cho việc đến các lớp Kinh Thánh trong Giáo phận để học hỏi.
Mạnh Phương
07 Tháng Bảy
Ðể Cho Lòng Tha Thứ Tiếp Tục Hiện Hữu
Chuyện "Nghìn lẻ một đêm" của Ba Tư có kể lại một phiên tòa như sau: Có hai người anh em ruột nọ bắt chói được thủ phạm giết cha mình. Họ lôi kéo tên sát nhân đến trước quan tòa và yêu cầu xử theo luật mắt đền mắt răng đền răng. Kẻ sát nhân đã dùng đá để ném chết cha của họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật đã quy định... Trước mặt quan tòa, tên sát nhân đã thú nhận tất cả tội lỗi của mình. Nhưng trước khi bị đem ra xử, hắn chỉ xin một ân huệ, đó là được trở về nhà trong vòng ba ngày để giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến một người cháu được ký thác cho hắn trông coi từ nhỏ. Sau thời hạn đó, hắn sẽ trở lại để chịu xử tử... Quan tòa xem chừng như không tin ở lời cam kết của tên tử tội. Giữa lúc quan tòa đang do dự, thì trong đám đông những người tham dự phiên tòa, có một người giơ tay cam kết: "Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thế thay cho hắn".
Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Sau đúng kỳ hạn ba ngày, giữa lúc mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên ngang bước ra giữa pháp trường và dõng dạc tuyên bố: "Tôi đã giải quyết mọi việc trong gia đình. Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tội xin trở lại đây để chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi để người ta sẽ không nói: Chữ tín không còn trên mặt đất này nữa".
Sau lời phát biểu dõng dạc của kẻ tử tội, người đàn ông đã đứng ra bảo lãnh cho hắn cũng ra giữa đám đông và tuyên bố: "Phần tôi, sở dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này, là vì tôi không muốn để cho người ta nói: Lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa".
Sau hai lời tuyên bố trên , đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi để thể hiện những gì là cao quý nhất trong lòng người... Từ giữa đám đông, hai người thanh niên bỗng tiến ra và nói với quan tòa: "Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không còn nói: Lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này nữa".
Giữa sa mạc cằn cỗi, một cụm cỏ hay một cánh hoa dại là cả một bầu trời hy vọng cho những người lạc lõng. Giữa sa mạc nóng cháy, một tiếng suối róc rách là cả một nguồn hy vọng tràn trề cho những ai đang đói khát... Giữa một xã hội khô cằn tình người, giữa một xã hội mà những giá trị tinh thần và đạo đức đã bị bóp nghẹt, chứng từ của người tín hữu Kitô cần thiết hơn bao giờ hết. Giữa biển khơi mù mờ, có biết bao kẻ chới với đang cần một chiếc phao của chữ tín, của lòng thành, của lòng quảng đại, của sự tha thứ...
Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói; Niềm tin vào cuộc sống, ý nghĩa của cuốc đời vẫn còn cháy sáng giữa xã hội.
Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người.
Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Con người vẫn có thể yêu thương nhau và sống cho nhau.
Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Tôn giáo không là thuốc phiện mê hoặc quần chúng, nhưng là sức mạnh để cải thiện xã hội.
(Lẽ Sống)




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét