Trang

Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013

16-02-2013 : THỨ BẢY SAU LỄ TRO


Thứ Bảy Sau Lễ Tro 16/02/2013
Lc 5,27-32


BÀI ĐỌC I: Is 58, 9b-14
"Ngươi hãy ca tụng Chúa khi ngươi bỏ đường lối của ngươi".

 Trích sách Tiên tri Isaia.

Đây Chúa phán: "Nếu ngươi loại bỏ ra khỏi tâm hồn sự đàn áp, cử chỉ đe dọa và những lời nói hiểm độc; khi ngươi hết lòng quảng đại với người đói khát, làm cho tâm hồn đau khổ được thư thái, thì sự sáng của ngươi xuất hiện trong tối tăm và tối tăm sẽ trở nên như giữa ban ngày. Và Thiên Chúa sẽ luôn luôn ban cho ngươi được thảnh thơi, cho tâm hồn ngươi tràn ngập ánh sáng huy hoàng, cho xương cốt ngươi được mạnh mẽ, và ngươi sẽ như cánh vườn xinh tươi, như nguồn suối nước không bao giờ khô cạn. Nhờ ngươi, những điêu tàn ngày xưa sẽ được tái thiết, ngươi sẽ gầy dựng lại nền tảng dòng dõi ngươi. Thiên hạ sẽ gọi ngươi là 'kẻ tu bổ những chỗ sứt mẻ, kẻ tu bổ lại đường lối nơi cư ngụ'.
"Nếu ngươi không tự tiện đi đường xa trong ngày Sabbat là ngày thánh, và ngươi coi ngày Sabbat là ngày hạnh phúc, ngày thánh, ngày hiển vinh của Thiên Chúa; nếu ngươi bỏ công ăn việc làm và những cuộc bàn tính mưu lợi mà ca tụng Chúa, thì ngươi sẽ được hoan lạc nơi Thiên Chúa, và Ta sẽ đưa ngươi lên làm chủ các núi đồi, Ta cho ngươi thừa hưởng gia nghiệp của Giacóp, tổ phụ ngươi, vì chính Chúa đã phán". Đó là lời Chúa.

 ĐÁP CA: Tv 85, 1-2. 3-4. 5-6

Đáp: Lạy Chúa, xin dạy con đường lối Chúa, để con sống theo chân lý của Ngài (c. 11a).

1) Lạy Chúa, xin ghé tai, xin nhậm lời con, vì con đau khổ và cơ bần. Xin bảo toàn mạng sống con vì con hiếu thảo với Ngài, xin cứu vớt người bầy tôi đang cậy trông vào Chúa. - Đáp.
2) Ngài là Thiên Chúa của con, xin thương con, lạy Chúa, vì con ân cần kêu van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì lạy Chúa, con vươn hồn lên tới Chúa. - Đáp.
3) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài. - Đáp.

 CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Mt 4, 4b

Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

 PHÚC ÂM: Lc 5, 27-32
"Ta không đến kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu trông thấy một người quan thuế tên là Lêvi đang ngồi ở bàn thu thuế, Ngài bảo ông: "Hãy đi theo Ta". Ông liền bỏ mọi sự đứng dậy theo Người. Lêvi đã dọn một bữa tiệc linh đình thết đãi Người tại nhà ông. Có đông người thu thuế và nhiều người khác cùng ngồi ăn với các ngài. Những người biệt phái và các luật sĩ của họ lẩm bẩm với các môn đệ của Người rằng: "Sao các người lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?" Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải". Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Can Ðảm Chỗi Dậy

Có hai người hành khách ngồi chung trong một chuyến xe lửa từ Tô-ri-nô đi tới Paris.
Vào một ngày mùa đông, bầu trời xam xám không một tia nắng mặt trời. Xe lửa chạy tới biên giới nước Pháp thì tuyết bắt đầu rơi. Bên ngoài trời giá lạnh, nhưng trong xe hơi ấm của máy sưởi rất dễ chịu. Thêm vào đó là tiếng máy đều đặn như tiếng nhạc ru ngủ cho cuộc hành trình thêm thoải mái. Một trong hai người khách tỏ vẻ băn khoăn lo lắng lạ thường. Mỗi lần tới một nhà ga người ấy lại giật mình đứng phắt lên, đến gần cửa nhìn nhà ga và đọc lớn tên ga rồi ông lại trở về ghế ngồi và thở dài một cách thảm não. Sau nhiều trạm như thế, người bạn bên cạnh lên tiếng hỏi với tất cả sự quan tâm và tế nhị:
Có điều gì làm ông khó chịu hoặc ông bị đau chăng.
Ông ta thở dài một cách thảm não và nói:
Tôi không đau ốm gì cả, chỉ có điều là tôi đã lấy sai chuyến xe. Nó đang chạy ngược chiều với hướng của tôi định đi, lẽ ra tôi phải xuống xe từ những trạm trước kia rồi để đổi sang chuyến xe khác, nhưng tôi không có can đảm bước xuống giữa làn mưa tuyết trắng, ngồi trong xe với hơi ấm như thế này dễ chịu hơn.
* * *
Quý vị và các bạn thân mến,
Thái độ của người hành khách áy náy bất an ấy tượng trưng cho thái độ ù lì thường ngày cản trở chúng ta trong việc ăn năn thống hối để cải tà quy chánh. Người hành khách trong xe lửa lẽ ra phải can đảm bước xuống nhà ga để đổi sang chuyến xe lửa khác. Cũng giống như người biết mình đang đi lạc đường phải quay trở lại chính lộ. Biết mình đang tiến trên con đường tội lỗi, phải quay trở về con đường thiện, nhưng lại không có đủ can đảm cởi bỏ những thói quen cũ hoặc những tiện nghi vui sướng tạm bợ của đời sống không tốt lành. Như thế, mỗi lúc lại càng đi xa hơn đích điểm mà mình muốn nhắm tới và rồi than vắn thở dài có ích lợi gì đâu.
Thống hối cải tà quy chánh là can đảm khi biết phải trả giá rất cao. Qua miệng các ngôn sứ, chúng ta được biết Thiên Chúa nhân từ và đầy lòng thương xót luôn chờ đợi các tội nhân ăn năn thống hối trở về với Ngài.
Lạy Chúa, xin Chúa ban cho con cánh cửa tình thương để con biết can đảm trở về với tình thương Chúa.
Xin ban cho con lòng khiêm nhượng, để con biết nhìn nhận tội lỗi của con.
Xin ban cho con sức mạnh để con biết mau mắn chỗi dậy mỗi khi sa ngã.
Xin hãy thay đổi sự cứng cỏi chai đá, để con chỉ ước muốn và thi hành những gì Chúa yêu thích và muốn nơi con mà thôi. Amen.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy sau Lễ Tro

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Lòng thương xót quan trọng hơn việc giữ Luật.

Luật lệ làm ra cho lợi ích của con người. Nói cách khác, vì lợi ích của con người, nên mới có những luật lệ để bảo vệ những lợi ích này. Vì thế, sống tinh thần của luật lệ quan trọng hơn sống vụ luật. Nếu phải vi phạm luật lệ để cứu người, một người có bổn phận phải làm như thế. Trong ba năm rao giảng của Chúa Giêsu, đa số những vụ xung đột giữa Ngài và các Biệt-phái, cùng các Kinh-sư, xoay quanh nguyên lý này.
Các Bài Đọc hôm nay cũng đặt trọng tâm trên nguyên lý này. Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Isaiah nhấn mạnh đến lòng thương xót, biểu lộ qua sự giúp đỡ những người yếu kém, hơn là vụ hình thức bên ngòai. Trong Phúc Âm, các Biệt-phái và các Kinh-sư trách Chúa Giêsu và các môn đệ đã ăn uống, làm bạn với những người thu thuế tội lỗi. Chúa Giêsu sửa sai và nhắc khéo cho họ biết: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn."

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Sống mối liên hệ với con người và Thiên Chúa.
1.1/ Việc ăn chay đúng nghĩa: Lý do chính tại sao dân Do-Thái mất quê hương và phải lưu đày là không sống đúng đắn mối liên hệ với Thiên Chúa và vi phạm các bất công xã hội. Sống mối liên hệ với Thiên Chúa không phải chỉ là dâng lễ vật, giữ các Lề Luật, hay việc ăn chay hời hợt bên ngòai; nhưng là sống theo thánh ý Thiên Chúa, tôn trọng công bằng, và giúp đỡ mọi người.
(1) Sống theo thánh ý Thiên Chúa: Trước, trong, và sau thời gian lưu đày, Thiên Chúa không ngừng gởi các tiên tri tới để cho dân biết ý định của Thiên Chúa; dân chúng có bổn phận phải nghe và làm theo những gì các tiên tri dạy bảo. Trong quá khứ, nhiều lần họ đã bắt bớ, đe dọa, và ngay cả giết các tiên tri; vì thế Tiên-tri Isaiah kêu gọi: Phải loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, và phải làm thoả lòng người bị hạ nhục.
(2) Sống công bằng xã hội: Lý do chính yếu của việc nghèo đói là vì bất công xã hội, người giàu dùng sự khôn ngoan và sức mạnh của mình để bóc lột người nghèo. Vì thế, khỏang cách giữa hai giai cấp ngày càng lan rộng: người giàu mỗi ngày một giàu thêm và người nghèo càng ngày càng nghèo đi. Thời gian ăn chay không những giúp người giàu hiểu biết người nghèo và chia cơm sẻ áo cho họ; đồng thời cũng giúp người giàu nhận ra những bất công họ đã vi phạm.
(3) Giúp đỡ những người yếu kém: Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, những người được Thiên Chúa ban cho có tài năng và của cải, là để giúp những người yếu kém; chứ không phải để kiêu căng, phách lối, và bóc lột họ.
Để phục hồi quốc gia và xây dựng một xã hội lành mạnh, ba điều nói trên phải tìm thấy nơi những người lãnh đạo, trước khi họ có thể dạy dỗ cho mọi người dân trong nước.
1.2/ Mục đích của ngày Sabbath: là để con người nghỉ ngơi phần xác và củng cố mối liên hệ phần hồn với Thiên Chúa. Tiên-tri Isaiah liệt kê một số những điều nên và không nên làm trong ngày này: “Nếu ngươi giữ chân không vi phạm ngày Sabbath, và không tìm lợi lộc trong ngày thánh của Ta, nếu ngươi gọi ngày Sabbath là "niềm vui" và ngày thánh của Đức Chúa là "vinh hiển," nếu ngươi tôn trọng ngày đó mà tránh đi đường, tránh kiếm lợi, tránh nói huyên thuyên.” Nếu trong ngày Sabbath mà con người không tư tưởng gì đến Thiên Chúa, lại còn cười nói huyên thuyên và đưa điều đặt chuyện, hay tìm kiếm mánh mung để tìm lợi lộc, làm sao có thể gọi là giữ ngày Sabbath?

2/ Phúc Âm: Chúa đến để kêu gọi tất cả ăn năn trở lại.
2.1/ Chúa gọi Matthew, người thu thuế: Người Do-Thái thời đó dưới ách đô hộ của Đế quốc Rôma. Những người thu thuế được coi như những người phản bội: vào hùa với Đế quốc để bóc lột dân chúng bằng việc đóng thuế. Họ đối xử bất công với dân chúng, vì luôn thu thuế quá giới hạn mà dân phải đóng. Vì thế, những người thu thuế được xếp lọai với những người ăn trộm, ăn cướp. Họ không được bước vào Đền Thờ và hội đường để dâng lễ vật.
- Khi Chúa Giêsu gọi Matthew, Ngài biết rõ căn tính và nghề nghiệp của Matthew; nhưng Ngài đã có một kế họach khác cho Matthew: biến ông thành người rao giảng và ghi chép lại Tin Mừng. Khi nhận lời mời dự tiệc tại nhà của Matthew, Ngài biết sẽ bị vây quanh bởi bạn bè của Matthew, những người thu thuế; nhưng Ngài muốn cho họ cơ hội để nhìn thấy sự trở lại của Matthew mà ăn năn xám hối.
- Thái độ của Matthew rất can đảm và dứt khóat: ông bỏ tất cả, đứng dạy đi theo Chúa Giêsu. Ông can đảm vì dám bỏ một “nghề hái ra tiền,” và không thắc mắc “rồi làm gì mà ăn?” Ông dứt khóat với quá khứ cũ tội lỗi, để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn; tuy nghèo mà sạch, và không ai có thể nhìn ông với ánh mắt khinh dể và ngăn cấm ông đến với Thiên Chúa. Chúa Giêsu thực sự đã phóng thích ông khỏi làm nô lệ cho tội lỗi, và cho ông cơ hội làm lại cuộc đời.

2.2/ Chúa đến để kêu gọi tội nhân ăn năn trở lại: Cuộc đối thọai ngắn ngủi giữa Chúa Giêsu và các Biệt-phái cùng các kinh sư cho chúng ta thấy sự tương phản giữa con người và Thiên Chúa:
- Những người Biệt-phái và những Kinh-sư thuộc nhóm của họ lẩm bẩm trách các môn đệ Đức Giêsu rằng: "Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?" Phản ứng của họ cũng giống như phản ứng của đa số con người: “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng,” chơi với những người tội lỗi sẽ lây nhiễm các tội của họ. Một khi con người đã rơi vào vũng bùn lem luốc, họ sẽ không còn cách nào để thóat ra; dư luận con người là hàng rào che kín cuộc đời của họ.
- Đức Giêsu đáp lại họ rằng: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." Phản ứng của Chúa Giêsu giống như phản ứng của người quân tử, ví mình như cách hoa sen: “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Không những không để mình hôi tanh, mà còn như một lương y, tận tâm chữa trị, và phục hồi sức khỏe cho bệnh nhân. Nếu những Biệt-phái và các Kinh-sư chịu xét mình cẩn thận, họ cũng là những bệnh nhân đang cần chữa trị vì tính kiêu căng, khinh người, và phê bình chỉ trích. Điều nguy hiểm là họ tự cho mình là công chính, và vì thế, không cần được Chúa Giêsu chữa bệnh.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Tất cả chúng ta là tội nhân, không ai có thể vỗ ngực xưng mình là công chính trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta cần được Thiên Chúa chữa lành.
- Nếu chúng ta được Thiên Chúa cho cơ hội làm lại cuộc đời, chúng ta cũng phải cho anh chị em cơ hội và giúp họ làm hòa cùng Thiên Chúa.
- Luật Lệ làm ra cho sự tốt lành của con người. Luật lệ có thể vi phạm nếu xét thấy cần thiết để đưa con người về với Thiên Chúa.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

16/02/13 THỨ BẢY SAU LỄ TRO
Lc 5,27-32

NIỀM VUI THEO CHÚA
Chúa Giê-su bảo ông :”Anh hãy theo tôi ?. Ông bỏ tất cả đứng dậy đi theo Người. Ông Lê-vi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông.” (Lc 5,27-29)
Suy niệm: Thiên Chúa kêu gọi những người theo Ngài thật lạ lùng, ngay trong sinh hoạt thường ngày của họ. Ngài kêu gọi Lêvi khi ông đang ngồi thu thuế, kêu gọi Êlisê lúc ông đang cày ngoài đồng. Ngài kêu gọi mà không đợi nơi họ một sự chuẩn bị nào. Như Đức Thánh Cha Phaolô VI khẳng định, đối với Thiên Chúa, “mỗi một cuộc đời là một ơn gọi,” vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên mỗi con người giống “hình ảnh” Ngài và Ngài thấy họ tốt đẹp. Do đó, mọi khoảnh khắc của cuộc đời con người đều là những khoảnh khắc Chúa chọn gọi con người thuộc về Ngài. Nói cách khác, mỗi khoảnh khắc cuộc đời cũng là mỗi dịp Thiên Chúa chờ mong con người đáp trả. Lêvi vui mừng đáp trả, bằng cách rời khỏi chiếc bàn thu thuế, nơi từng làm đời ông sa lầy. Ông làm tiệc bày tỏ niềm vui được Chúa gọi và giã từ quá khứ tội lỗi. Êlisê cũng thế, bắt bò làm thịt vừa diễn đạt niềm vui theo Chúa, vừa cắt đứt với quá khứ của ông. Cả hai không muốn vừa cầm cày vừa nuối tiếc ngó lại đằng sau. Đối với họ, theo Chúa là niềm vui lớn hơn tất cả.

Mời Bạn: Trong mùa Chay, Chúa gọi bạn mọi lúc, mọi nơi, theo Chúa, từ bỏ quá khư rêu mốc của mình mà dấn thân cho Ngài. Có bao giờ bạn có được niềm vui từ bỏ và niềm vui sống lại tình mến đối với Chúa chưa? Mời bạn bắt đầu.

Sống Lời Chúa: Trong mùa Chay này tôi quyết tâm làm lại cuộc đời với niềm vui làm đẹp lòng Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con tìm được niềm vui khi dấn thân theo Chúa. Xin cho con hạnh phúc vì có Chúa đồng hành với con trong đời.


KÊU GỌI NGƯỜI TỘI LỖI SÁM HỐI
Đức Giêsu giúp chúng ta biết cách mời người khác hoán cải. Đến với họ, nhìn họ bằng cái nhìn mới, và vui vẻ làm bạn với họ. Trước khi làm cho người khác hoán cải, chính chúng ta phải hoán cải nơi cái...
Suy nim:

Việc Thầy Giêsu kêu gọi anh Lêvi làm môn đệ phải được coi là một cuộc cách mạng lớn vào thời bấy giờ. Chẳng ai gọi một người thu thuế bị xã hội khinh miệt vào nhóm của mình. Làm thế là hạ giá chính Thầy và cả nhóm môn đệ. Đức Giêsu đã vượt qua những biên giới ngăn cách rạch ròi giữa tội lỗi và công chính, giữa thanh sạch và ô nhơ. Người Do Thái thường không giao tiếp với các người thu thuế, họ bị coi là tội nhân vì làm việc cho dân ngoại, vì dễ ích kỷ tham lam. Đức Giêsu chẳng sợ mời anh Lêvi đi theo mình: “Anh hãy theo tôi.” Ngài không nhìn anh bằng ánh mắt khác với các môn đệ kia. Chỉ một lời mời của Ngài đủ lấp đi mọi hố sâu ngăn cách. Lêvi đã quảng đại đáp lại bằng hành động: bỏ tất cả, đứng dậy, đi theo.
Đối với người Do Thái, bữa ăn có tính thiêng liêng. Đó là lúc người ta thông hiệp với nhau, nên một trong tình bạn. và cùng chia sẻ với nhau một thứ đồ ăn, thức uống. Chính vì thế ăn uống với người tội lỗi là điều không được phép, vì điều ấy sẽ khiến mình bị ô nhơ. Đức Giêsu có vẻ không sợ chuyện này,  khi Ngài nhận lời ăn tiệc chia tay do anh Lêvi khoản đãi. Bữa tiệc thật là lớn, có đông đủ bạn bè đồng nghiệp của anh. Trong số khách mời có cả các môn đệ. Đức Giêsu dám đến nhà người tội lỗi và ăn với họ. Hẳn là Ngài rất vui và tự nhiên, chẳng có gì phải e dè, xa cách. Chỉ có những người Pharisêu là khó chịu và lẩm bẩm đặt câu hỏi tại sao. Đức Giêsu sẽ cho họ thấy những lý do. Vì những người thu thuế và tội nhân là những người đau yếu (c. 31). Những người đau yếu mới cần đến thầy thuốc Giêsu. Vì mục tiêu của đời Đức Giêsu là kêu gọi người tội lỗi sám hối (c. 32), nên Ngài phải đến với họ, gần gũi và chia sẻ, mời gọi và yêu thương. Đức Giêsu cho họ thấy trái tim thật sự của Thiên Chúa. Không như người Pharisêu nghĩ, trái tim ấy có chỗ cho tội nhân. Đức Giêsu cũng dành chỗ cho anh Lêvi trong nhóm môn đệ. Đức Giêsu giúp chúng ta biết cách mời người khác hoán cải. Đến với họ, nhìn họ bằng cái nhìn mới, và vui vẻ làm bạn với họ. Trước khi làm cho người khác hoán cải,  chính chúng ta phải hoán cải nơi cái nhìn của mình về người khác.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa, xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng trước mọi biến cố của cuộc sống, khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm, hay gặp sự bất trung, bất tín nơi những người con tin tưởng cậy dựa. Xin giúp con gạt mình sang một bên để nghĩ đến hạnh phúc người khác, giấu đi những nỗi phiền muộn của mình để tránh cho người khác phải đau khổ. Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời, để đau khổ làm con thêm mềm mại, chứ không cứng cỏi hay cay đắng, làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ, chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ. Ước gì không ai sút kém đi vì chịu ảnh hưởng của con, không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật, lòng cao thượng, tử tế, chỉ vì đã là bạn đồng hành của con trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu. Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối, xin cho con có lúc thì thầm với Chúa một lời yêu thương. Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên, tràn trề sức mạnh để làm việc thiện, và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)
 
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


“Ta không đến kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.

Tin mừng của lòng thương xót
Vua thánh Louis IX của Pháp nổi tiếng là khôn ngoan, ứng biến tài tình. Có một nông dân nọ được mùa củ cải. Để đánh dấu thành công, ông chọn củ cải lớn nhất trong vụ mùa và đem dâng kính Đức vua. Ông đến cung điện và xếp vào hàng những người ngày ngày đến dâng tặng vật cho đức vua. Ai cũng mang đến một lễ vật cao quí và cũng chuẩn bị xin vua một đặc ân. Người nông dân nghèo trái lại chỉ có một tâm tình duy nhất, là nói lên niềm vui được trung mùa của mình. Mọi người không ngờ rằng đây là tặng vật đã làm vua hài lòng nhất. Nhà vua sai các cận vệ đem đến một cái cân và truyền lệnh hãy cân số lượng vào bằng củ cải này và trao cho người nông dân. Hành động này của vua đã khơi dậy lòng ham muốn của các đình thần. Một tuần sau, một nịnh thần giầu có lựa con ngựa đẹp nhất đem tặng vua với hy vọng được tưởng thưởng. Thế nhưng, khi đón nhận con ngựa, nhà vua cám ơn và truyền cho các cận vệ: “Các khanh hãy mang tặng người này một củ cải, đó là phần thưởng dành cho những người suốt ngày chỉ biết nói những lời xua nịnh và chờ chực đặc ân”.
Giai đoạn trên đây có thể gợi lại cho chúng ta thái độ của Chúa Giêsu đối với những kẻ bé mọn, nghèo hèn, đĩ điếm, thu thuế, nói chung những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngài kết thân với họ, đồng bàn với họ, và tuyên bố họ là những người vào Nước Trời trước những kẻ tự xưng là công chính. Những con người nghèo khổ ấy là một thể hiện cụ thể của mối phúc đầu tiên mà Chúa Giêsu đã công bố trong Bài giảng trên núi: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”. Tin mừng được loan bao cho những người nghèo, hay đúng hơn chỉ người nghèo mới có thể mở rộng tâm hồn để đón nhận Tin mừng.
Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng thương xót: chỉ khi nào con người nhận thức được thân phận nghèo hèn tội lỗi cảu mình, con người mới thấy được tình thương bao dung hải hà của Chúa. Thánh Phaolô đã nói: “Nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó ân sủng càng dồi dào”. Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng tin tưởng phó thác: có thấy được nỗi bất toàn của mình, con người mới cảm nhận được sức mạnh nâng đỡ của Chúa. Tin mừng của Chúa là Tin mừng của an bình, hạnh phúc: có dốc cạn những ham muốn ích kỷ và những sức mạnh của danh vọng, có trở nên thực sự trống rỗng, thanh thoát, con người mới có thể được Thiên Chúa lấp đầy và tìm được hạnh phúc bình an đích thực.
Giữa những bôn ba tìm kiếm của cuộc sống, xin cho chúng ta luôn đặt Chúa vào chỗ nhất. Cho dù phải đánh mất tất cả, xin cho chúng ta luôn tin rằng chúng ta đang có tất cả và được Chúa làm gia nghiệp duy nhất.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trở về
Sau đó, Đức Giê-su đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lê-vi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người. Ông Lê-vi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông. Có đông đảo người thu thuế và những người khác cùng ăn với các Ngài. (Lc. 5, 27-29)
Đức Giê-su đến không phải để kêu gọi người công chính. Nhưng để kêu gọi những người tội lỗi. Những người đáng phải quan tâm là những người nghèo khó, khốn khổ, đói khát, tội lỗi, và tất cả những kẻ bị xã hội coi là hạng bất hảo (pas bons). Những người ấy được Chúa muốn biến đổi, muốn cứu chuộc. Đó là những kẻ Người phó dâng đời sống, niềm vui và bình an của Người cho họ. Họ được Người kêu gọi trở về.
Ước mong chúng ta được vào nhóm các người “bất hảo” ấy để được Đức Giê-su mời gọi đến với Người. Chúng ta không luôn luôn dễ dàng nhận mình vào hạng xấu đó đâu. Chỉ cần thấy chúng ta liếc nhìn những người sống chung quanh chúng ta, là chúng ta nghĩ mình chẳng hề xấu như thế, cho nên chúng ta không cần ăn chay trở lại.
Thực ra cũng đúng. Chúng ta khá can đảm, và là người tín hữu khá tốt. Chắc có nhiều kẻ xấu hơn chúng ta! Nhưng nghĩ mình không cần ăn năn trở lại thì đã tự đặt mình ra rìa, và là kẻ tự cao tự đại quá xá rồi.
Cứ nhìn ông Lê-vi đã làm, chúng ta có thể có một chút hiểu biết về thế nào là trở về, rồi ra đi bỏ hết cả tài sản. Ông đã bỏ hết như Tin mừng nói. Ông đã bỏ chức vị. Ông đổi mới cái nhìn, đổi mới phán đoán, đổi mới những tập quán thói quen của đời sống. Và ông đã bắt đầu sống trở về tận nguồn gốc theo Đức Ki-tô mời gọi.
Nếu muốn được trở về, phải sống tận nguồn gốc là Tin mừng để thấy phải từ bỏ mọi hòa hoãn, mọi nửa vời và đi đến tột đỉnh chí thiện và chí ái, lúc đó chúng ta mới thấy sáng tỏ sự cần thiết phải sám hối trở về biết chừng nào. Ai nghĩ ngược lại thì chỉ là kẻ tự phụ, lừa dối mình.
www.gplongxuyen.net
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Hai
16 THÁNG HAI
Bảo Trọng Những Hoa Quả Khôn Ngoan
Tuổi đời càng chồng chất, sức lực càng suy kiệt, hay đau ốm, vv… người già thường cảm thấy con người mình mỏng mảnh, và nhất là cảm thấy gánh nặng của cuộc sống. Đó là những vấn đề của tuổi già – và những vấn đề ấy không thể tìm ra ý nghĩa gì nếu chúng không được cảm nghiệm và được sống như một thực tại của cuộc nhân sinh. Chúng ta được mời gọi trân trọng người cao tuổi bởi vì phẩm giá của các ngài trong tư cách là con người và bởi vì ý nghĩa của chính sự sống: sự sống bao giờ cũng là một hồng ân.
Thánh Kinh thường đề cập đến người cao tuổi. Thánh Kinh coi tuổi già như một hồng ân – và hồng ân này phải được sống hằng ngày trong tấm lòng rộng mở ra với Thiên Chúa và với tha nhân.
Trên tất cả, Cựu ước coi người già như thầy dạy sống: “Sự khôn ngoan của các vị bô lão, tư tưởng và ý kiến của các bậc danh nhân thật đẹp đẽ chừng nào! Giàu kinh nghiệm là triều thiên cho hàng bô lão; lòng kính sợ Đức Chúa là niềm hãnh diện của các ngài” (Hc 25, 5 – 6). Tuy nhiên, người cao tuổi còn có một vai trò quan trọng khác nữa. Các ngài chuyển trao lời Thiên Chúa cho các thế hệ hậu sinh:
“Lạy Thiên Chúa, tai chúng con đã từng được nghe
truyện cha ông vẫn thường kể lại
về công trình Chúa đã làm nên
thời các cụ thuở xa xưa ấy” (Tv 44, 2).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Is 58, 9b-14: Lc 5, 27-32

LỜI SUY NIỆM: Sau đó, Đức Giêsu đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lêvi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo ông: “ Anh hãy theo tôi!” Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người. (Lc 5,27-28)
Chúng ta thấy Chúa Giêsu thường mời gọi những người đi theo Ngài, là lúc họ đang làm công việc của họ. Ngài không phân biệt bất cứ con người nào hay nghề nghiệp nào; miễn là họ đang có một việc làm và đang làm việc. Điều này cho chúng ta thấy Ngài chọn những con người bình thường, yếu kém. Để để họ sống với Ngài, học nơi Ngài để trở thành Thánh nhân. Thật hạnh phúc cho mọi Ki-tô hữu chúng ta. Chúng ta có thế nào đi nữa, miễn là chúng ta có việc làm và thích thú trong công việc đó. Chúng ta sẽ được Chúa mời gọi để trở nên tông đồ trong môi trường mà chúng ta đang sống. Ước gì tất cả chúng ta đều biết mở lòng lắng nghe  tiếng gọi của Ngài và quyết tâm đi theo Ngài thì chúng ta sẽ được trở thành người hữu dụng cho xã hội cũng như của Giáo Hội, và chúng ta sẽ được hạnh phúc.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
16 Tháng Hai
Ngọn Nến Cháy Sáng
Nữ sĩ người Thụy Ðiển được giải Nobel văn chương là bà Selma Lagerloeff có kể một câu chuyện như sau: Có một kỵ mã nọ, sau khi đã tham dự một trận thánh chiến thành công tại Thánh Ðịa, đã làm một lời thề. Anh muốn đốt lên một ngọn nến ngay từ trên mộ của Chúa Giêsu và mang ánh sáng ấy về quê hương của anhlà thành phố Fireheze bên Italia.
Quyết định ấy đa biến anh thành một con người mới hoàn toàn. Từ một quân nhân hung hãn chuyên cầm gươm giết người, nay người kỵ mã đã trở thành một con người hiền hòa, sẵn sàng chấp nhận mọi thứ thiệt thòi.

Trên đường trở về quê hương, cầm ngọn nến cháy sáng trong tay, người kỵ mã gặp không biết bao nhiêu kẻ cướp bóc, nhưng anh không hề động đến chiếc gươm đang mang trong người. Anh hứa trao cho họ bất cứ điều gì họ muốn, miễn là để cho anh được phép giữ lại ngọn nến đang cháy sáng trong tay. Quân cướp lột hết tất cả những gì anh có, kể cả chiến bào và con ngựa quý của anh. Họ cho anh một con ngựa già để đi từng bước cầm chừng. Sau khi trải qua không biết bao nhiêu thử thách, giờ này, người kỵ mã cảm thấy thảnh thơi hơn bao giờ hết. Anh cảm thấy thơ thới vì đã trút được bỏ những của cải không cần thiết, nhưng anh vui mừng hơn cả vì vẫn còn giữ được ngọn nến cháy sáng đã được thắp lên từ trên mồ của Chúa. Khi anh về đến giữa phố, nhiều người nhìn anh như kẻ khờ dại. Họ chế nhạo và tìm đủ cách để dập tắt ngọn nến trên tay anh. Nhưng người kỵ mã thà chết còn hơn là để cho ngọn nến tắt ngụm trên tay mình. Và cuối cùng, anh đã mang được ngọn nến cháy sáng về đến nhà thờ chính tòa của quê hương anh. Anh dúng ánh sáng từ ngọn nến ấy đốt lên tất cả những ngọn nến trên bàn thờ.
Trước anh, nhiều người cũng đã cố gắng làm một lời thề như thế. Nhưng dọc đường, vì nhiều lý do khác nhau, ngọn nến đã tắt ngụm. Ðược hỏi: Ðâu là bía quyết giúp anh thành công như thế. Người kỵ mã trả lời như sau: "Tôi đặt tất cả chú tâm vào ngọn nến. Tôi sẵn xàng bỏ hết tất cả mọi sự để bảo vệ ngọn nến ấy".
Cuộc đời của người tín hữu Kitô chúng ta vẫn thường được định nghĩa như một cuộc hành trình, một cuộc hành trình trong đó mỗi người chúng ta cầm cháy sáng trong ngọn nến của Ðức Tin. Bao lâu ngọn nến còn cháy sáng, bấy lâu chúng ta còn tiến bước. Sóng gió, tăm tối trong cuộc hành trình là chuyện không thể tránh được. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục giữcho ngọn nến cháy sáng, chúng ta vẫn có thể tiến bước.
Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Chúng con là ánh sáng thế gian". Ước mơ duy nhất của người kỵ mã trong câu chuyện trên đây là được dùng ngọn nến đốt lên từ mồ Chúa để thắp sáng lên ngọn đèn trong nhà thờ. Ðó cũng phải là ước mơ của mỗi người chúng ta. Ánháng được trao ban cho chúng ta là để được truyền sang cho những ngọn đèn khác. Có biết bao nhiêu ngọn đèn đang chờ đợi một chút ánh sáng từ ngọn nến của chúng ta để được cháy lên?
(Lẽ Sống)

Thứ Bẩy 16-2

Thánh Gilbert ở Sempringham

(1083 - 1189)


Thánh Gilbert sinh ở Sempringham, Anh Quốc, con của hiệp sĩ Jocelin người Norman nổi tiếng giầu có. Nhưng ngài lại theo đuổi một con đường khác hẳn với những gì mà gia đình ngài dành sẵn. Ðược gửi sang Pháp để tiếp tục học lên cao, nhưng ngài lại quyết định theo đuổi ơn gọi tu trì.
Ngài trở về Anh dù chưa là linh mục, và được thừa hưởng nhiều bất động sản của cha ngài để lại. Nhưng Gilbert không muốn một đời sống thoải mái như bất cứ lúc nào ngài cũng có thể. Thay vào đó, ngài sống một cuộc đời đơn giản tại một giáo xứ, và chia sẻ của cải với người nghèo bao nhiêu có thể. Sau khi được thụ phong linh mục, ngài phục vụ ở Sempringham.
Trong giáo xứ có bảy cô thanh nữ muốn sống đời tu trì và họ đã đến xin Cha Gilbert giúp đỡ. Ngài cho xây một căn nhà cạnh nhà thờ. Ở đó họ sống khắc khổ, nhưng lại thu hút nhiều người đến với họ; dần dà số nam nữ giáo dân đến giúp đỡ họ ngày càng đông. Sau khi một vài cơ sở được thành hình, Cha Gilbert đến Citaux để xin các tu sĩ ở đây tiếp tục trông coi Cộng Ðoàn. Khi các tu sĩ Xitô từ chối việc dẫn dắt nhóm phụ nữ này, với sự chấp thuận của Ðức Giáo Hoàng Eugene III, Cha Gilbert tiếp tục trông coi Cộng Ðoàn với quy luật riêng mà ngài là bề trên. Cộng đoàn được biết đến dưới tên Dòng Gilbertin, và là tu hội duy nhất được thành lập ở Anh trong thời Trung Cổ. Trước khi tu hội phải giải tán vì Vua Henri VIII ngăn cấm tất cả các tu viện Công Giáo ở Anh, Dòng Gilbertin có đến hai mươi sáu tu viện.
Quy luật của dòng rất nghiêm nhặt, nổi tiếng khắc khổ và lưu tâm đến người nghèo. Một thói quen đặc biệt dần dà xuất hiện trong các tu viện của Dòng Gilbertin được gọi là "đĩa của Chúa Giêsu." Trong đĩa đặc biệt ấy là các phần chia sẻ thức ăn của mỗi tu sĩ và sau đó họ chia sẻ thức ăn trong đĩa ấy cho người nghèo, nói lên sự lưu tâm đặc biệt của Cha Gilbert đối với những người kém may mắn.
Trong suốt cuộc đời, Cha Gilbert sống thật đơn giản, ăn rất ít và dành nhiều thời giờ ban đêm để cầu nguyện. Bất kể những khắc khổ của cuộc sống, ngài từ trần khi trên 100 tuổi. Ngài được phong thánh năm 1202.
www.nguoitinhuu.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét