Trang

Thứ Năm, 7 tháng 2, 2013

Các chiến lược tân phúc âm hóa


Các chiến lược tân phúc âm hóa

Thượng Hội Đồng về Tân Phúc Âm Hóa tuy không đưa ra được một viễn tượng mới và một chiến lược tổng thể để tân phúc âm hóa, nhưng thực sự đã đẩy mạnh một cách tiếp cận khác hẳn, rất phong phú, có tính mục vụ đối với đời sống Công Giáo ngày nay.

Cách tiếp cận trên gồm các thành tố chính sau đây: tạo bối cảnh cho hoạt động mục vụ; nhìn Thiên Chúa theo cái nhìn mạc khải của Chúa Giêsu; tiếp nhận lối nhìn của Chúa Giêsu bằng việc hồi tâm và đích thân bước chân theo Người; nối rộng tầm nhìn ấy qua các mối liên hệ gần gũi nhất hàng ngày, nhất là liên hệ gia đình; qua việc tham dự vào các cộng đoàn nhỏ (cộng đoàn căn bản); biến đổi giáo xứ qua việc hồi tâm, huấn luyện môn đệ và nối vòng tay lớn; xây dựng hợp tác qua các mối dây đại kết và các phong trào Giáo Hội; và sau cùng, một Giáo Hội đổi mới.

Có thể gọi những thành tố ấy là những ngọn nến nhỏ, mà nếu cùng đốt lên được, chúng sẽ tạo thành ngọn lửa mới của mùa gặt tân phúc âm hóa.

Bén rễ trong đức tin


Hiển nhiên, việc sút giảm trầm trọng tỷ lệ những người thường xuyên liên hệ với Giáo Hội tại các nước đang phát triển là nguyên nhân chính đem lại lời kêu gọi tân phúc âm hóa. Người ta đưa ra nhiều lý thuyết để giải thích đà sút giảm này. Tuy nhiên, nguyên nhân chính được nêu đích danh hiện nay chính là chủ nghĩa duy thế tục với rất nhiều chủ nghĩa phụ họa đi theo như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tương đối và chủ nghĩa duy vật. Những chủ nghĩa này đang lên bản sắc không những cho thế giới phát triển nói chung, mà điều khủng khiếp hơn, nó còn lên bản sắc cho cả các tín hữu nữa. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI từng công khai nói đến “sa mạc” của thế giới hiện đại, trong đó Thiên Chúa không còn được nhắc tới nữa.

Thành thử, tân phúc âm hóa mời gọi con người hiện đại tái khám phá ra Thiên Chúa qua mối liên hệ bản thân với Chúa Giêsu Kitô. Trọng tâm của tân phúc âm hóa là đích thân cảm nhận được Chúa Giêsu Kitô một cách mới mẻ trong mọi chiều kích của Người: trong Lời Chúa, trong bí tích, trong cộng đoàn và nơi người nghèo. Thượng Hội Đồng thường nói tới Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu phái tới để giúp ta đích thân tham dự vào thực tại Thiên Chúa.

Tất cả những điều trên đều là chiến lược giúp ta hồi tâm, đều là các chiến lược nhằm kêu gọi người Công Giáo hồi tâm sâu xa và giúp họ hiểu ra rằng đời họ là một đời cảm nghiệm hồi tâm. Các thừa tác vụ Lời Chúa, nhất là các thừa tác vụ phụng vụ và cầu nguyện, đem tín hữu tới việc tiếp xúc sống động với Chúa Giêsu Kitô. Các chiến lược hồi tâm này giúp người Công Giáo nhận ra ơn tha thứ, ơn chữa lành, ơn canh tân và tình yêu vô điều kiện vốn là thành phần trong cảm nghiệm sống của họ. Việc hồi tâm này diễn ra trong khi người Công Giáo cảm nghiệm Thánh Lễ, các bí tích và việc cầu nguyện hàng ngày.

Người Công Giáo tiếp nhận được tầm nhìn mới qua cảm nghiệm đời sống Công Giáo của họ. Lời Thiên Chúa mở rộng tầm nhìn này; việc cử hành bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, thâm hậu hóa tầm nhìn hồi tâm ấy trong tâm hồn người Công Giáo. Điều này mời gọi họ có thái độ thờ phượng hoàn toàn khác với thói quen tẻ nhạt “đi lễ cho xong” trong vòng 45 hay 50 phút xưa nay của họ.

Đôi khi các nghị phụ của Thượng Hội Đồng cũng nói tới nhu cầu hồi tâm nơi các vị giám mục và hàng giáo sĩ nữa. Điều này có thể khiến nhiều người ở cả bên trong lẫn ở bên ngoài Giáo Hội phải ngỡ ngàng: làm thế nào các nhà lãnh đạo Giáo Hội lại có thể không hiểu cái cốt lõi của cảm nghiệm đức tin này? Tuy nhiên, có nghị phụ đã minh nhiên nói tới việc hàng giáo sĩ quá dễ dàng trở thành các viên chức chứ không phải những nhà truyền giáo, chỉ chú tâm vào những nhu cầu tổ chức bề ngoài hơn là lo lắng xây dựng mối liên hệ với Thiên Chúa.

Nhiều nghị phụ khác nói tới việc phải tập chú vào hàng ngũ giáo dân, cả trong các vai trò chuyên nghiệp như giáo lý viên lẫn trong cuộc sống hàng ngày làm chứng nhân Chúa Kitô của họ. Tân phúc âm hóa sẽ không tài nào hiểu nổi nếu không có các giáo lý viên, những người giáo dân lo vun trồng Lời Chúa và chi tiết hóa nó trong huấn giáo của Giáo Hội, trong cuộc sống tín hữu, một cách đầy bản vị và mạnh mẽ. Các nghị phụ coi diễn trình dự tòng (Nghi Lễ Khai Tâm Kitô Giáo Cho Người Trưởng Thành) như là một trong các hồng phúc vĩ đại của Công Đồng Vatican II, một diễn trình hồi tâm và lớn lên được coi như điển hình hàng đầu của mọi diễn trình giáo lý.

Quan điểm trên phát sinh ra hàng loạt các can dự thiêng liêng trên cả hai bình diện bản thân và giáo xứ, tất cả nhằm đem người Công Giáo tới con đường hồi tâm chắc chắn hơn. Các giáo hội địa phương và các giáo xứ có thể tập chú vào các kinh nghiệm canh tân, các biến cố cầu nguyện, các buổi thờ lạy trong Chúa Thánh Thần, cùng với các buổi tĩnh tâm và “đại phúc” của giáo xứ để đẩy mạnh cảm thức hồi tâm này. Dĩ nhiên, cả các buổi cầu nguyện hàng ngày cũng phải trở thành một phần của cảm nghiệm hồi tâm liên tục để mỗi ngày một trở nên môn đệ của Chúa Giêsu. Phải cần nhiều năm người ta mới khai triển hết các hệ luận của chiều hướng hồi tâm này.

Gia đình và cộng đoàn


Không một phiên họp nào của Thượng Hội Đồng qua đi mà gia đình lại không được nhắc đến. Các nghị phụ coi cha mẹ và gia đình là các nhân tố không thể nào miễn chuẩn được đối với việc tân phúc âm hóa. Gọi gia đình là “giáo hội tại gia”, các nghị phụ nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cảm nghiệm sống đức tin và hồi tâm trong gia đình, coi nó như yếu tố chủ chốt trong việc chuyển giao đức tin. Chắc chắn lòng đạo bình dân thuộc lãnh vực này. Lòng đạo này chính là các hình thức sùng kính bộc phát và sâu sắc từng xác định ra nền văn hóa Công Giáo và cả bản sắc các gia đình trong nền văn hóa ấy nữa, trong đó, cò lòng sùng kính Đức Maria, lòng sùng kính các thánh và Kinh Mân Côi.

Dù nhiều nghị phụ gi nhận có nhiều khó khăn như các áp lực đối nghịch nhằm phá hoại cảm thức hợp nhất của gia đình, những gia đình bị tan vỡ, nhiều gia đình không có tính hạt nhân, cũng như nhiều gia đình sống trong cảnh ly dị hoặc ly thân, các ngài vẫn cho rằng đây không hẳn là lý do khiến ta không chia sẻ đức tin trong gia đình; ngược lại, các ngài còn khuyến khích ta càng nên chia sẻ đức tin với nhau hơn nữa.

Nhiều giám mục từ các nước đang phát triển nhấn mạnh rằng các cộng đoàn Kitô giáo nho nhỏ mà có nơi gọi là các cộng đoàn căn bản đã trở thành nhân tố chủ yếu trong việc phát triển và duy trì đức tin. Các ngài nói đến cung cách người Công Giáo góp tay vào việc củng cố đức tin của người khác, do đó, trở thành một phần của hệ thống trợ giúp lớn hơn nhằm đem kinh nghiệm hồi tâm đến với người khác. Các giáo xứ tại các nước đã phát triển nên học hỏi lợi ích do các cộng đoàn đức tin này tích góp được xưa nay.

Về phương diện tổ chức, các nhóm nhỏ có thể thực hiện được điều mà các giáo xứ, vì quá lớn và thường có tính ẩn danh, nên không thể thực hiện được. Các nhóm nhỏ này đem lại cho cảm nghiệm sống Công Giáo một khuôn mặt bản vị. Ngoài ra, chúng còn là điểm đầu tiên của vòng tay lớn nối liền với những người không phải là tín hữu, mời gọi được con số mỗi ngày một lớn hơn những người xưa nay chưa hề lưu tâm bước vào liên hệ đức tin với ta. Một số người có thể thấy mình khó mà bước vào một nhà thờ giáo xứ, nhưng bước vào nhà một người hàng xóm, xem ra dễ dàng hơn.

Những nhóm nhỏ này, nhờ trình bày Lời Chúa một cách nhất quán và kéo dài hơn, nên có thể giúp tín hữu cảm nghiệm được sức mạnh của Lời Chúa qua suy niệm, thảo luận, đích thân chia sẻ và cùng nhau cầu nguyện. Biến việc đọc Lời Chúa (lectio divina) thành một phần trong việc chia sẻ của nhóm có thể là cách tốt nhất để nối kết người Công Giáo với cảm nghiệm chiêm niệm và thờ lạy, vì Lời Chúa sẽ dẫn dắt họ tới việc ý thức được đầy đủ và sẵn sàng tiếp nhận hành động của Thiên Chúa trong đời họ.

Biến đổi giáo xứ


Hầu như trong phiên họp nào, THĐ cũng đều nhắc đến giáo xứ như hạt nhân của đời sống Công Giáo và việc canh tân. Các nghị phụ từ khắp mọi châu lục đều nói đến vai trò chính yếu của giáo xứ trong việc tân phúc âm hóa. Nếu Công Đồng Vatican II có nhấn mạnh tới tầm quan trọng và sức mạnh của phụng vụ đối với đời sống Công Giáo, thì nó cũng đã xác nhận tính trung tâm của giáo xứ, nơi Thánh Thể được cử hành một cách công khai và thường xuyên trước một cộng đoàn tín hữu. Các nghị phụ của THĐ khuyến khích việc cử hành đầy sốt sắng và nhiều ý nghĩa này, coi nó như gia trị chủ chốt trong cảm nghiệm Công Giáo. Các ngài nói đến việc chào mời và bao gồm mọi người, coi chúng như một phần trong cảm nghiệm giáo xứ. Nhìn đời sống Công Giáo theo chiều kích tương quan, người Công Giáo mới có thể nhìn ra giáo xứ như là cộng đoàn tụ tập chính đối với các cộng đoàn đức tin nhỏ hơn (các gia đình và các nhóm nhỏ), những cộng đoàn vốn là đối tượng của tân phúc âm hóa.

Giáo xứ cũng phải cổ vũ đức ái, coi nó như phương cách chủ yếu qua đó, tân phúc âm hóa nhận được những chứng tá thuyết phục nhất. Nếu Ba Ngôi là cảm nghiệm tình yêu bao la của Thiên Chúa, thì hẳn Ba Ngôi sẽ hướng dẫn để ta biểu lộ tình yêu ấy cho toàn thể nhân loại. Các nghị phụ đặc biệt nêu cao công trình của Mẹ Têrêxa và nhiều sáng kiến khác nhằm nuôi dưỡng người nghèo và chăm sóc người túng thiếu, coi chúng như những điển hình cho thấy thực tại đức tin đã được biểu lộ ra sao trong đức ái. Chúa Giêsu luôn thực hiện lời giảng của Người song hành với các phép lạ, những việc lạ lùng để biểu tỏ sức mạnh giải thoát và sự tha thứ của Thiên Chúa đối với mọi người, nhất là những ai không được quí trọng trong xã hội.

THĐ thường đề cập tới nhu cầu phải vươn tay ra tới những ai không có đức tin hay những ai đã trở nên “mệt mỏi” trong đức tin của họ. Phần lớn việc này là của giáo xứ và các phong trào khác có liên hệ với giáo xứ. Không văn kiện nào được chú ý bằng tông thư “Về Việc Phúc Âm Hóa Trong Thế Giới Hiện Đại” của Đức Phaolô VI. Tông thư này cho rằng phúc âm hóa là sứ mệnh chủ yếu của Giáo Hội, là lý do biện minh cho sự hiện hữu của Giáo Hội. Dù việc tân phúc âm hóa đặc biệt tập chú vào những người đã tiếp nhận đức tin rồi, chứ không phải những người chưa minh nhiên nghe nói về Tin Mừng, nhưng nó vẫn nhìn nhận rằng ta không thể chủ trương bất cứ phạm trù cứng ngắc nào trong một thế giới hết sức linh hoạt như thế giói ngày nay, một thế giới mà trong đó, con người thay đổi gắn bó như cơm bữa.

Làm thế nào các giáo xứ có thể vươn tay ra xa hơn các thành viên của mình, điều này vẫn còn là một thách đố lớn đối với họ. Một số giáo xứ bị mang tiếng là chỉ loanh quanh nghĩ tới phụng vụ và giáo lý; nhưng không hiếm các giáo xứ mang được hình ảnh biết vươn tay ra quá bên kia các thành viên của mình để nắm lấy những người đã thôi không còn thực hành đức tin của họ nữa hay những người sẵn sàng đáp lại một lời mời.

THĐ không quan niệm các giáo xứ và các giáo phận như những đơn vị làm việc riêng rẽ trong lãnh vực tân phúc âm hóa. Ý niệm nổi bật của THĐ là: quả thật “tất cả chúng ta đều cùng nhau có mặt ở đây”; ta không cần các phong trào và giáo xứ biệt lập.

Nới rộng tầm nhìn


Thêm vào đó, THĐ cũng rất cởi mở đối với các chiều kích đại kết và liên tôn của tân phúc âm hóa. Nhiều đại diện Thệ Phản đã tham dự THĐ, tất cả đều hân hoan và hỗ trợ nói đến động thái của Giáo Hội Công Giáo đối với việc tân phúc âm hóa. TGM Rowan Williams, người cầm đầu Hiệp Thông Anh Giáo lúc đó, đã đọc một trong các bài diễn văn chính tại THĐ. Ngài nói tới tầm quan trọng của việc giúp đỡ người ta tạo được mối liên hệ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu trong khi thực hành chiêm niệm.

Cuộc đối thoại liên tôn phần lớn đã tập chú vào Hồi Giáo và nhu cầu chia sẻ các niềm tin và quan tâm chung để phát huy việc hiểu biết lẫn nhau. Vì các giám mục của các nước phần đông theo Hồi Giáo thường ghi nhận: nhiều khó khăn đã và đang xẩy ra cho tín hữu Kitô Giáo, trong một xã hội mà việc trở lại Kitô Giáo bị coi là một tội ác, do đó, khuyên người ta trở lại thường đem theo án tù.

Còn các giám mục Á Châu thì suy nghĩ về vị trí độc đáo của Kitô Giáo giữa các tôn giáo từng đã phát triển từ lâu, trước khi Chúa Giêsu Kitô ra đời, và các giá trị chung mà người Công Giáo chia sẻ với các tín ngưỡng cổ xưa này cũng như tư thế đối thoại mà người Công Giáo bắt buộc phải có khi tương tác với tín hữu các tôn giáo khác.

Ý niệm cho rằng tân phúc âm hóa bắt đầu có từ thời Vatican II được nhắc tới luôn tại THĐ. Thực thế công trình nền tảng của Công Đồng trong bốn hiến chế chính về phụng vụ, Giáo Hội, mạc khải và Giáo Hội trong thế giới hiện đại quả đã cung cấp sơ đồ để Giáo Hội tự phát biểu mình một cách mới mẻ trước thế giới hiện đại, mà vẫn phù hợp với truyền thống sâu xa nhất của mình. Lời kêu gọi mạnh dạn sống đức tin trong khi đối thoại với nền văn hóa hiện đại và với mọi tôn giáo đã vang dội lại niềm tin tưởng mà Đức GH Gioan XXIII đã đem tới khi ngài yêu cầu hãy mở tung mọi cửa sổ của Giáo Hội Công Giáo để nhiều luồng khí mới hơn tràn vào.

Như thế, THĐ trông chờ một dân Công Giáo đổi mới, biết dùng cảm nghiệm của mình mời gọi người khác bước vào đức tin, chứ không phải chỉ là những người tiếp nhận đức tin qua nền văn hóa Công Giáo. Cảm nghiệm này hướng về Chúa Giêsu và cộng đoàn đức tin do Người khởi đầu. Vì sống trong thế gian, người Công Giáo đem vào thế gian sức mạnh do các mối liên hệ của đức tin đem tới, chia sẻ các mối liên hệ này một cách tự do ngay trong gia đình họ và mời gọi người khác tham dự vào niềm vui của đức tin nơi Chúa Giêsu Kitô.

Một khi các mục tiêu và đường hướng trên đây bén rễ, thì tầm nhìn chủ yếu của đức tin Công Giáo và dân Chúa, những người đã gặp được vị cứu tinh của mình nơi Chúa Giêsu, sẽ biến cải không những hàng tỉ người vốn tự nhận mình là Công Giáo, mà quan trọng hơn, còn rất nhiều người khác ở bên ngoài cộng đồng đức tin của mình.

Vũ Văn An 2/7/2013-vietcatholic.org

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét