Chuyên gia ít thế tục
nhất nhìn cơ mật viện tương lai
John L. Allen Jr. |
John
L. Allen Jr. vốn được coi là một chuyên gia về Vatican . Ông thường xuyên viết cho
tờ National Catholic Reporter (NCR), một tờ báo mà theo LifeSiteNews.com ngày
22 tháng 2 vừa qua, Đức Cha Michael Sheridan của Giáo Phận Colorado Springs cho
là không xứng đáng mang danh Công Giáo. Ngài cho rằng tờ NCR làm Giáo Hội Công
Giáo lúng túng. Cả Đức Cha Robert Finn, Giám Mục Kansas City, nơi NCR đặt trụ
sở, trong tháng Giêng vừa qua, cũng viết một bài nhắc nhở mọi người nhớ rằng tờ
báo này bị cấm không được sử dụng danh nghĩa Công Giáo từ những năm 1968, vì nó
nổi tiếng chống đối giáo huấn Công Giáo về phong chức nữ giới, về ngừa thai và
đồng tính luyến ái.
Bởi
thế, đọc những gì Allen viết, người ta hẳn phải e dè đôi chút về quan điểm
chính thống Công Giáo, mặc dù ông được truyền thông thế tục coi là chuyên gia
hàng đầu về Vatican .
Dù gì, Allen không hẳn chỉ viết cho người Công Giáo, nhất là người Công Giáo
“thuần thành”. Ông nhằm một độc giả rộng hơn thế và do đó, trong cách trình
bày, ông không muốn loại bỏ lối viết “inclusive” cố hữu. Về cơ mật viện tương
lai, ta thấy rõ lối viết này. Có thể gọi ông là chuyên gia ít thế tục nhất
chăng?
Trong
bài “A quick course in ‘Conclave 101’”, ngày 15 tháng 2, Allen nói tới nền
chính trị “hậu trường”. Theo ông, xác tín cổ truyền của người Công Giáo vẫn cho
rằng cơ mật viện diễn ra dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Năm 2005, xác
tín ấy được Đức HY Ennio Antonelli của Florence tóm tắt như sau: Thiên Chúa
biết trước ai sẽ là tân giáo hoàng, các vị hồng y chỉ có việc cố gắng nhìn ra
điều ấy mà thôi. Thành thử, đối với những người Công Giáo thuần thành, coi cơ
mật viện như chuyện chính trị là không thích đáng, thậm chí lạc đạo nữa.
Ấy
thế, nhưng theo Allen, thần học Công Giáo vẫn nhận rằng “ơn thánh xây dựng trên
bản nhiên” với nghĩa: chiều kích thiêng liêng của việc bầu giáo hoàng vẫn không
làm nó kém tính chính trị. Allen cũng trích dẫn lời một vị hồng y nói với ông
sau khi Đức Bênêđíctô XVI được bầu “Tôi không bao giờ bị Chúa Thánh Thần củng
vào đầu cả. Tôi phải thực hiện cuộc lựa chọn tốt nhất bao nhiêu có thể dựa trên
tín liệu hiện có”. Tuy nhiên, phát biểu cổ điển nhất về việc này chắc chắn là
của chính Đức HY Joseph Ratzinger trên đài truyền hình Bavaria năm 1997: “Tôi không dám nói thế,
theo nghĩa Chúa Thánh Thần chọn lựa giáo hoàng… Tôi chỉ muốn nói rằng Chúa
Thánh Thần không hẳn kiểm soát vụ việc, mà đúng hơn trong tư cách nhà giáo dục
tốt, có thể nói như thế, Người dành cho ta nhiều không gian, nhiều tự do, tuy không
hoàn toàn bỏ rơi ta. Như thế, nên hiểu vai trò của Chúa Thánh Thần một cách
linh động hơn, không theo nghĩa Người đọc tên ứng viên ra để ta bỏ phiếu. Thực
ra đã có những điển hình giáo hoàng chắc chắn không do Chúa Thánh Thần trực
tiếp chọn lựa chút nào!”.
Tuy
nhiên, mặt khác, Allen cho rằng không ít người tưởng tượng rằng: sau khi vị
chưởng nghi hô to extra omnes (mọi người ra ngoài), thì cả một bầu không khí
nặng mùi chính trị sẽ trùm phủ cơ mật viện: Các vị hồng y sẽ vội vàng rỉ tai
nhau, cố gắng vận động sự ủng hộ cho “gà nhà”, chống lại các địch thủ. Chính
Allen có lần cũng có ý nghĩ ấy, cho tới lúc phỏng vấn Đức HY Franz König ở Vienna năm 2002, hai năm
trước khi ngài qua đời. Đức HY vốn là thành viên của cơ mật viện năm 1963 và
sau đó hai cơ mật viện năm 1978. Allen hỏi ngài về không khí điện giật chắc
chắn ai cũng cảm thấy trong Nhà Nguyện Sistine, được Đức HY cười khẩy trả lời:
“thực ra, nếu anh được chứng kiến những gì xẩy ra ở bên trong, hẳn anh phải
buồn nản đến phát khóc!”.
Thực
thế, điều diễn ra ở đấy gần giống như một buổi phụng vụ chứ không phải một cuộc
tụ tập chính trị. Ở mỗi một vòng bỏ phiếu, mỗi vị hồng y cử tri (năm nay sẽ là
117 vị) phải tiến lên bàn thờ, dưới bức bích họa Ngày Phán Xét của
Michelangelo, để bỏ lá phiếu của mình vào chiếc đĩa thánh rồi sau đó cho vào
chiếc chén thánh, vừa bỏ vừa thề đã bầu ứng viên mà trước mặt Chúa mình tin là
đáng được bầu, sau đó lui về chỗ ngồi… Một vòng như thế kéo dài hơn một tiếng
đồng hồ… Mỗi ngày hai vòng.
Thì
giờ qua đi trong im lặng và cầu nguyện, không có diễn văn, không có những
“người tạo ra vua” (kingmakers) xuất hiện để vận động cử tri thay đổi ý kiến,
không có thỏa hiệp cũng không có những vòng chiến thắng.
Thành
thử, theo Allen, chính trị thực ra không lộ diện bên trong chính cơ mật viện.
Nó bắt đầu trước viện này, ngay bây giờ và sẽ lên cao độ bắt đầu từ 1 tháng Ba,
khi các hồng y tiến về Rôma và bắt đầu tham khảo nhau, cả chính thức lẫn bất
chính thức, và việc tham khảo này sẽ lên khuôn cho việc bỏ phiếu giữa các ngày
15 và 20 tháng Ba.
Bốn
địa điểm sau đây, theo Allen, sẽ trở thành quan trọng trong những ngày sắp tới:
1.
Các phiên họp toàn thể
Các
phiên họp này qui tụ mọi hồng y kể cả các vị vượt quá tuổi cử tri (80). Lần vừa
rồi, có tất cả 13 phiên họp toàn thể. Mục đích là để học hỏi luật lệ của cơ mật
viện và để thảo luận công khai các vấn đề của Giáo Hội hiện nay. Phần lớn các
vị tham gia 13 phiên họp vừa rồi cho hay: phong cách Đức HY Joseph Ratzinger
điều khiển các phiên họp này trong tư cách niên trưởng hồng y đoàn đã đóng vai
chủ yếu dọn đường cho việc bầu ngài làm giáo hoàng. Ngài biết hầu hết các hồng
y, chuyện vãn với họ bằng tiếng mẹ đẻ của họ, và coi trọng các ý kiến của họ.
Nói chung, phong cách của ngài lúc đó đã đánh tan hình ảnh “chó săn của Chúa”
mà truyền thông vốn gán cho ngài trước đó.
Lần
này, vị niên trưởng hồng y đoàn là Đức HY Angelo Sodano, đã ngoài 80, chắc chắn
không có ưu điểm ấy. Người ta hẳn phải lưu ý tới một vị khác với đặc sủng tạo
được sự nhất trí nơi các hồng y.
2.
Truyền thông
Năm
2005, các hồng y đã sử dụng một trong các phiên họp toàn thể để nhất trí với
nhau không nói với báo chí từ ngày 8 tháng Tư là ngày an táng Đức Gioan Phaolô
II cho tới ngày 18 tháng Tư là ngày khai mạc cơ mật viện. Lúc đó, có tường
trình cho rằng lệnh ngăn cấm chính thức đã được ban hành, nhưng Vatican nhấn mạnh: đó chỉ một lời kêu gọi chứ không phải
là lệnh cấm. Riêng Đức HY Ratzinger thì cho rằng các hồng y có “nhân quyền”
muốn nói với ai tùy ý.
Hiện
nay, chưa rõ liệu sẽ có một nhất trí như thế hay không. Nhưng dù sao, một nhất
trí như thế chưa có hiệu lực vào lúc này, và khá nhiều hồng y đã lên tiếng một
cách khái quát về các thách đố của Giáo Hội hiện nay và mẫu giáo hoàng họ muốn
có. Đức HY Theodore McCarrick của Hoa kỳ chẳng hạn cho hay ta cần một vị giáo
hoàng của thế giới thứ ba. Còn Đức HY Giovanni Lajolo của Ý thì cho ký giả biết
mình sẽ không bỏ phiếu cho một nhà ngoại giao như mình mà cho một “mục tử của
linh hồn”. Đức HY Joachim Meisner của Cologne ,
Đức, thì vẽ ra một giáo hoàng kết hợp cả Gioan Phaolô II (bình dân) lẫn
Bênêđíctô XVI (học thức).
Còn
truyền thông thì rất thích loan truyền những câu truyện nhằm tăng tiến hay đình
trệ cơ may của một vài ứng cử viên. Tháng Tư năm 2005 chẳng hạn, họ loan tin
đồn Đức HY Angelo Scola của Venice
bị chứng bất ổn tâm lý. Lần này chưa biết sao, vì ngài cũng được coi là một
trong các “papabile”. Đức HY Ivan Dias của Mumbai bị cho là mắc chứng tiểu
đường, hơn nữa, còn có cả một chiến dịch e-mail nói ngài “khó lui tới được, cố
chấp và ngạo mạn”. Báo chí cũng đang kháo với nhau về một cuốn sách ở Argentina
tố cáo Đức HY Jorge Mario Bergoglio quá thân thiện với các lãnh tụ quân sự
trong thập niên 1970, thậm chí đồng loã trong việc xử tử hai linh mục cấp tiến
Dòng Tên.
Không
ai có thì giờ đi truy nguyên các tin đồn này. Nên “người ta” hy vọng những
chuyện tiêu cực ấy đủ làm trật đường rầy một số ứng cử viên. Theo nghĩa này, cơ
mật viện tương tự như chuyện chính trị của Anh hơn là của Mỹ: cuộc chạy đua chỉ
kéo dài vài tuần chứ không phải cả năm. ở Mỹ, người ta đủ thì giờ để truy
nguyên tin đồn, chứ ở Anh thì hơi khó.
Theo
Allen, điều đáng lưu ý là chiến dịch bôi lọ trên luôn luôn diễn ra ở bên ngoài
hồng y đoàn. Còn giữa các vị hồng y với nhau, các cuộc thảo luận lúc nào cũng
êm thấm, lịch sự, tôn trọng nhau. Ông cho rằng qui luật ngắn gọn là nên giả
thiết chúng sai cho tới khi được chứng minh ngược lại. Người ta phát động các
tin đồn đó vì các lý do y hệt như các cố vấn chính trị thế tục khi sử dụng các
quảng cáo để tấn công đối thủ, vì dù muốn hay không, các quảng cáo này vẫn có
tác dụng.
3.
Các căn hộ, học viện, phòng chờ
Các
hồng y không hoàn toàn dựa vào các ấn tượng có được trong các phiên họp toàn
thể hay từ báo chí để lên khuôn thái độ của mình. Những cuộc gặp gỡ không chính
thức ở bên lề vẫn xẩy ra giữa các hồng y từng bằng hữu với nhau lâu đời hay
cùng có những cảm thức như nhau về hướng đi của Giáo Hội, hay cùng nói một ngôn
ngữ.
Không
giống các cơ mật viện trước, năm 2005, các cuộc gặp gỡ này hầu như hoàn toàn
diễn ra tại những địa điểm kín đáo như các căn hộ riêng của nhân viên giáo
triều, các học viện quốc gia, nơi nhiều hồng y cư ngụ trước khi dọn vào Casa
Santa Marta trong nội vi Vatican, và trong nhiều phòng chờ của các cơ sở giáo
hội trong thành phố. Tại Venerable English College trên Via Monserrato của Anh
chẳng hạn, Đức HY Cormac Murphy-O'Connor, lúc đó là TGM Westminster, trở thành
điểm qui chiếu cho các hồng y nói tiếng Anh. Không bị ai dòm ngó, các ngài tự
do thảo luận về một số ứng cử viên và biết được chiều hướng suy tư của nhiều
hồng y khác nhau.
4.
Casa Santa Marta
Trước
đây, các hồng y phải ngụ bên trong Phủ Tông Tòa suốt thời gian cơ mật viện, ngủ
trong những chiếc giường nhỏ đặt tại các nơi vốn là phòng kho hay văn phòng.
Đức HY König nhớ lại nhiều vị hồng y già nua vất vả lắm mới kiếm được đường tới
phòng vệ sinh giữa đêm tối mù mịt…
Vì
thế, Đức Gioan Phaolô II đã cho xây một khách sạn trị giá 20 triệu dollars tức
Casa Santa Marta làm nơi cư trú cho các ngài trong thời gian có cơ mật viện.
Tọa lạc gần phòng triều kiến Phaolô VI, toà nhà này gồm 108 dẫy phòng (suites)
với đủ phòng khách và phòng ngủ, và 23 phòng đơn, tất cả đều có phòng tắm… đủ
cho số hồng y cử tri hiện nay.
Từ
đây, các hồng y có thể đi bộ tới lui Nhà Nguyện Sistine, hay dùng minivans,
dưới sự canh chừng của nhân viên an ninh để không ai bên ngoài có thể đến gần
các vị hầu ảnh hưởng tới quyết định của các ngài. Dù Casa Santa Marta có Wi-Fi
và mọi phương tiện tân tiến khác, các hồng y không được sử dụng bất cứ phương
tiện truyền thông nào với thế giới bên ngoài.
Năm
2005, các hồng y quyết định nhập Casa sớm. Các ngài họp nhau vào đêm Chúa Nhật
trước buổi khai mạc cơ mật viện vào hôm thứ Hai. Nhiều hồng y cho rằng họ cảm
thấy nhu cầu muốn được “khởi động” (jump start) ngay vì những cuộc chuyện trò
hậu trường cho tới lúc đó chỉ có tính tản mạn, chưa được mọi người can dự vào.
Nhiều hồng y cho hay thì giờ ngắn ngủi ở Casa trước buổi khai mạc đã đóng một
vai trò quan trọng trong việc giúp liên minh phò Ratzinger thiết lập được tiếng
nói của mình trước khi cơ mật viện khai mạc.
Dù
sao, Đức HY Christoph Schönborn của Vienna
cũng là một trong những vị “tạo ra vua” (kingmakers). Một vị HY cho hay: “Khi
bạn nói chuyện với các vị hồng y khác về Ratzinger, phần lớn các ngài chỉ nói:
vâng, ngài là một ứng viên tốt, nhưng cũng có vị này vị nọ nữa. Nhưng Đức HY
Schönborn thì không thế. Đối với ngài, Chúa muốn Ratzinger làm giáo hoàng, chỉ
có thế”.
Hiện
nay, trong tư riêng, một số hồng y đã lên tiếng cho rằng các ngài nên vào Nhà
Santa Marta sớm hơn dự liệu để có cơ hội sắp xếp sự việc. Điều này có cái lợi
vì hiện có nhiều vị vẫn còn nhớ như in các kỷ niệm của 2005. Lần đó, chỉ có hai
hồng y có kinh nghiệm cơ mật viện là Ratzinger và William Baum của Mỹ. Lần này,
50 trong số 117 vị HY cử tri đã quen thuộc với cơ mật viện.
Khi
cơ mật viện bắt đầu, Nhà Santa Marta càng trở nên quan trọng hơn vì đó là nơi
duy nhất họ có những cuộc chuyện vãn kéo dài bên ngoài nhịp điệu gần như có
tính phụng vụ của Nhà Nguyện Sistine. Các ngài gặp nhau trong các bữa điểm tâm,
bữa trưa và bữa tối trong suốt thời gian cơ mật viện khiến Nhà này trở thành
địa điểm quan yếu để những dây nhợ tiềm ẩn có thể được tháo gỡ trước khi một
đồng thuận được đạt tới.
Mười
lý do cơ mật viện lần này có khác
Ngày
22 tháng Hai vừa qua, John L. Allen Jr có bài trên NCR về Mười Lý Do khiến cơ
mật viện lần này khác với các lần trước.
Nếu
bắt đầu tính từ năm 1295 lúc Đức GH Boniface VIII lần đầu tiên đòi các hồng y
phải bầu tân giáo hoàng trong một căn phòng khóa kín, thì cơ mật viện 2013 sắp
tới sẽ là cơ mật viện thứ 75 trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo. Về một bình diện
nào đó, ta vẫn có thể cho rằng nó không khác các cơ mật viện trước, nhất là cơ
mật viện cách nay 8 năm: cũng diễn hành vào Nhà Nguyện Sistine, cũng khói đen
và khói trắng, cũng "Habemus Papam" (chúng ta đã có giáo hoàng) lần
này sẽ do Đức HY Jean-Louis Tauran, người Pháp, hiện là hồng y thâm niên nhất
của hàng hồng y phó tế, ngoại trừ chính ngài được bầu làm giáo hoàng.
Tuy
nhiên, có một số đặc điểm độc đáo của cơ mật viện lần này khiến làm thay đổi cả
nền chính trị và có lẽ cho thấy một diễn trình dài hơn và khó khăn hơn. Sau đây
là 10 dị biệt của Cơ Mật Viện 2013:
1.
Từ nhiệm, chứ không qua đời
Điểm
dị biệt hiển nhiên nhất là lần đầu tiên trong 600 năm nay, các hồng y sẽ bầu
một giáo hoàng tiếp theo một vụ từ nhiệm chứ không phải qua đời. Về phương diện
thủ tục, việc này chẳng thay đổi chi; vẫn là tiếp theo sự kiện sede vacante, luật
lệ vẫn vậy cho mỗi vòng bỏ phiếu (được gọi là "scrutiny", xem sét tỉ
mỉ) v.v… Tuy nhiên, về phương diện tâm lý, sự tương phản rất lớn. Khi một nhà
lãnh đạo chính của thế giới qua đời, huống chi là một vị giáo hoàng, bầu không
khí thường đầy những lời ai điếu đầy thành kính, bày tỏ lòng sầu buồn và cảm
mến sâu xa. Sự lịch thiệp tối thiểu của con người không cho phép ai được nói
xấu người qua đời, nhất là khi sự mất mát vẫn còn quá mới mẻ. Thành thử, khó
hơn cho các vị hồng y nếu muốn chỉ trích triều đại giáo hoàng vừa mới chấm dứt,
ít nhất cũng là công khai, và ít nhất cũng là giữa các ngài với nhau.
Khi
tách biệt khoảng cuối triều đại và khoảng cuối đời mình ra, Đức Bênêđíctô XVI
đã tránh cho các hồng y gánh nặng nói trên, giúp các ngài lên tiếng nhận định
cả điểm mạnh lẫn điểm yếu của mình. Điều ấy giúp các ngài đạt được một đánh giá
quân bình hơn, nhưng cũng vì thế phức tạp hóa diễn trình thảo luận và làm cho
việc nhận dạng các ứng viên khó khăn hơn.
Một
hậu quả nữa là sẽ không có Thánh Lễ an táng nghĩa là không có diễn đàn để một
trong các hồng y có dịp làm mình nổi bật bằng cách giảng một bài giảng nhớ đời
để ca ngợi vị giáo hoàng quá cố. Lần trước đây, nhiều hồng y cho rằng chính
thành tích của Đức HY Ratzinger trong buổi phụng vụ an táng Đức Gioan Phaolô II
và nói chung tác phong của ngài trong suốt lúc trống ngôi đã là yếu tố dứt
khoát trong việc củng cố sự ủng hộ đối với ngài trong hồng y đoàn.
2.
Không có người dẫn đầu
Bất
kể những gì bạn có thể đã đọc, đã nghe phần lớn các vị hồng y nói, việc bầu Đức
HY Ratzinger vào năm 2005 không phải là một chuyện đã được sắp xếp sẵn (a done
deal) khi các ngài bước vào Nhà Nguyện Sistine để bỏ phiếu. Các hồng y nhấn
mạnh rằng các ngài vẫn còn xem xét nhiều tên tuổi khác. Sau này, một số hồng y
cho Allen hay các ngài thực sự chưa có quyết định dứt khoát khi việc đầu phiếu
bắt đầu.
Nhưng
mặt khác, tất cả các ngài đều cho hay ai cũng biết Đức HY Ratzinger là một ứng
viên sáng giá, và như thế, những thảo luận của các ngài trước khi có cơ mật
viện hẳn đã có tập chú riêng của nó. Các ngài biết rõ mình phải quyết định có
nên ủng hộ chuyên gia lý thuyết hàng đầu của Đức Gioan Phaolô II hay không, vì
không ai có mắt mà lại bỏ qua được các dấu hiệu ủng hộ mạnh đối với ngài.
Nhưng
lần này thì khác, hiện chưa có điểm qui chiếu rõ ràng ấy, chưa có người chạy
dẫn đầu rõ rệt. Tuy có một số vị được người ta coi là có triển vọng, nhưng
không vị nào trổi vượt hơn các vị khác. Thành thử, các cuộc thảo luận trước cơ
mật viện có lẽ sẽ không có được sự tập chú như trước, và vì thế, sẽ cần nhiều
thì giờ hơn mới đạt được đồng thuận.
3.
Nhân tố bất ngờ
Với
việc từ nhiệm này, Đức Bênêđíctô đã tạo một cú sốc rất lớn cho Giáo Hội, phá bỏ
điều trước đây vẫn được coi một thứ xác tín gần như tín điều ở một số giới rằng
dù về phương diện kỹ thuật, giáo hoàng có thể từ nhiệm, nhưng thực sự ngài
không nên làm như vậy. Như có câu thường nói “Bạn không thể từ bỏ thiên chức
làm cha”. Allen từng nói chuyện với một vị hồng y gần đây là người có mặt tại
mật viện ngày 11 tháng Hai khi Đức Bênêđíctô đưa ra lời tuyên bố lịch sử, và dù
ngài rất hiểu tiếng La Tinh, nhưng ngài cho hay: phản ứng đầu tiên của ngài là
“chuyện này không thể xẩy ra được”.
Sau
khi tiếp nhận một bất ngờ lớn như thế, rất có thể các hồng y sẽ có khuynh hướng
tạo một bất ngờ tương tự như chọn một ứng viên ở bên ngoài hồng y đoàn chẳng
hạn, một việc từng xẩy ra năm 1378 khi các hồng y bầu TGM Bartolomeo Prignano
của Bari làm giáo hoàng lấy hiệu là Urbano VI, chỉ 50 năm trước khi vị giáo
hoàng áp chót từ nhiệm. Trong bầu không khí này, mọi việc vẫn có thể xẩy ra.
4.
Các vị kỳ cựu
Năm
2005, chỉ có hai hồng y từng tham dự một cơ mật viện trước đó là các Đức HY
Ratzinger và William Baum của Mỹ, trong khi lần này sẽ có 50 vị kỳ cựu.
Sự
tương phản trên có thể có hai hiệu quả: một là các hồng y có thể được tổ chức
tốt hơn và hữu hiệu hơn vì có nhiều vị biết rõ vụ việc, hai là những cuộc tranh
luận sẽ phải kéo dài hơn vì số hồng y sẵn sàng nghe theo người dẫn đầu sẽ ít
hơn.
5.
Thời gian giữa chừng
Năm
2005, 16 ngày qua đi giữa ngày Đức Gioan Phaolô II qua đời và ngày khai mạc cơ
mật viện vào hôm 18 tháng 4. Dĩ nhiên, ai cũng biết Đức Gioan Phaolô suy giảm
sức khỏe từ lâu trước, nhưng vì ngài đã trải qua nhiều báo động giả về sức
khỏe, đến độ vẫn còn tiếp tục “chiến đấu” được, nên nhiều hồng y không dám nghĩ
đến thời gian chuyển tiếp trước khi ngài thực sự qua đời. Do đó, đa số các hồng
y không hiện diện ở Rôma khi Đức Giáo Hoàng lâm chung.
Lần
này có khác, Đức Bênêđíctô XVI tuyên bố từ nhiệm ngày 11 tháng Hai, như thế,
các hồng y có thể xem sét sự việc tương lai ngay từ hôm đó rồi. Gần như mọi
hồng y đều có ý định sẽ có mặt tại Rôma để dự buổi triều kiến cuối cùng của Đức
Thánh Cha vào ngày 27 tháng Hai và buổi từ biệt ngài vào ngày 28 tháng Hai. Có
thể nói, ngay sau đó, toàn bộ hồng y đoàn đã có cơ hội bước vào diễn trình bầu
giáo hoàng mới rồi, tuy chưa chính thức.
Với
tự sắc mới đây, cơ mật viện bầu giáo hoàng không cần phải bắt đầu 15 ngày sau
khi Tòa Thánh Trống Ngôi. Nên, theo thông báo của cha Lombardi, phát ngôn viên
Tòa Thánh, thì các phiên họp toàn thể của hồng y đoàn sẽ diễn ra vào tuần tới.
Như thế, dù gì, các hồng y cũng có nhiều thời gian hơn năm 2005 để chuẩn bị,
cân nhắc các ứng viên và tham khảo lẫn nhau để biết ứng viên nào được nhiều
người ủng hộ hơn. Một lần nữa, việc này cũng có hai mặt: nó có thể mang lại một
diễn trình nhẹ nhàng hơn vì điều cốt chính dường như đã được giải quyết trước
đó; tuy nhiên, nó cũng có thể tạo ra một cơ mật viện lâu dài hơn, vì nhiều nhóm
“cử tri” cần thì giờ hơn để tổ chức.
6.
Hậu quả của tai tiếng
Cuộc
khủng hoảng xách nhiễu tình dục trẻ em đã trở thành vấn đề dứt khoát đối với
người Mỹ vào năm 2005, nhưng nó chỉ thực sự nổ ra tại Âu Châu vào năm 2010.
Trong khi đó, Vatican còn bị vướng vào một số tình tiết gây bối rối khác nữa
như Vatileaks (Rì Rỏ Vatican )
và các tố cáo liên quan tới bê bối tài chánh.
Trong
bối cảnh ấy, đại đa số hồng y chắc chắn sẽ quan tâm tới việc tân giáo hoàng
phải được coi là người trong sạch. Trên thực tế, điều này làm gia trọng niềm
nghi ngờ đối với bất cứ ứng viên nào bị công luận nối kết với một tai tiếng.
Trong bầu khí nóng bỏng của giai đoạn tiền cơ mật viện, một số hồng y dám cảm
thấy mình không đủ thì giờ để tách chân ra khỏi giả, nên để cho chắc ăn, đã
loại bỏ bất cứ ứng viên nào có nguy cơ bị tai tiếng.
Như
một hồng y từng tâm sự với Allen liên quan tới một hồng y nổi tiếng bị báo chí
Ý tố giác có liên quan tới những vụ làm ăn tài chánh mờ ám: “Tôi không biết
thực hư thế nào, nhưng ngay bây giờ, xem ra đây là một nguy cơ quá lớn”.
7.
Các vị tai to mặt lớn không có lợi gì
Hai
khuôn mặt quan trọng nhất trong thời gian trống tòa thường là niên trưởng hồng
y đoàn, người chủ tọa các phiên họp và hướng dẫn mọi chức năng công cộng của
đoàn hồng y, và “camerlengo” (thị tùng viên), người chịu trách nhiệm các công
việc thường nhật của Giáo Hội vốn không thể chờ tân giáo hoàng giải quyết. Khi
các chức vụ này do các vị hồng y có thế giá đảm nhiệm thì các vị này hiển nhiên
có vị thế thuận lợi nhất để trở thành ứng viên. Như từng nói, sự nổi bật của
Đức HY Ratzinger trong tư cách niên trưởng hồng y đoàn kỳ bầu cử giáo hoàng
trước thường được trưng dẫn như nhân tố chính khiến ngài được bầu làm giáo
hoàng.
Tuy
nhiên, lần này, cả hai vị “tai to mặt lớn” trên đều không được coi là các ứng
viên sáng giá. Đức HY Angelo Sodano, tuy là niên trưởng hồng y đoàn, nhưng đã
85 tuổi, và có lẽ bị tai tiếng trong vụ cực lực bênh vực cựu linh mục người Mễ
Tây Cơ, Cha Marcial Maciel Degollado, sáng lập viên của Đạo Binh Chúa Kitô và
sau này bị khám phá phạm nhiều lỗi lầm về tình dục và thiếu tác phong. Còn vị
thị tùng viên là Đức HY Tarcisio Bertone, thì vốn bị nhiều hồng y qui cho việc
phạm nhiều sai lầm trong việc quản trị suốt trong triều đại Đức Bênêđíctô XVI.
Thành
thử, lần này, hai vai trò trên không đem lại lợi khí chính trị nào. Một lần
nữa, điều này vừa cho thấy một cơ mật viện rộng mở hơn, nhưng cũng vì thế mà
phức tạp hơn.
8.
Đa số hai phần ba
Khi
Đức Gioan Phaolô II công bố các điều lệ của ngài liên quan tới cơ mật viện vào
năm 1996 trong văn kiện Universi dominici gregis, ngài có đưa ra điều khoản cho
phép các hồng y được bầu một giáo hoàng bằng đa số phiếu tương đối chứ không
cần phải là hai phần ba số phiếu, nếu các ngài bị bế tắc sau 30 lần bỏ phiếu.
Về
phương diện thủ tục, cơ mật viện năm 2005 không cần tới điều khoản ấy, vì các
hồng y chỉ cần 4 lần bỏ phiếu đã bầu được Đức Bênêđíctô XVI rồi. Tuy nhiên, về
phương diện tâm lý, một số hồng y sau đó có cho biết khoản bổ sung ấy đã được
lưu ý, đến nỗi khi số phiếu bầu cho Đức HY Ratzinger vượt quá 50%, thì kết quả
của cuộc bầu lần đó kể như đã không thể thay đổi được nữa.
Năm
2007, Đức Bênêđíctô XVI đã tu chính văn kiện của Đức Gioan Phaolô II để loại bỏ
khả thể bầu giáo hoàng với đa số tương đối phiếu. Lần này, các hồng y biết rõ:
bất cứ trong trường hợp nào, ai được bầu cũng phải lôi kéo được sự ủng hộ của
hai phần ba số phiếu. Điều này có nghĩa các hồng y sẽ phải thay đổi quan điểm
của mình, bằng cách ủng hộ vị nào xem ra đã đạt được quá bán số phiếu.
9.
Linh thao
Khi
quyết định từ nhiệm vào lúc bắt đầu Mùa Chay, hình như Đức Bênêđíctô XVI muốn
gợi lên cung điệu thống hối cho cơ mật viện sắp tới, bằng cách mời gọi các hồng
y bước vào khung trời tỉnh táo thiêng liêng và xét mình thấu đáo. Tuy nhiên,
trên thực tế, đây cũng là thời điểm đem lại một diễn đàn vĩ đại cho một trong
những vị có thể kế nhiệm ngài: Đức HY Gianfranco Ravasi, chủ tịch Hội Đồng Giáo
Hoàng về Văn Hóa, người giảng cấm phòng Mùa Chay hằng năm cho Đức Giáo Hoàng và
giáo triều. Viễn cảnh này chỉ có thể có được với một vị giáo hoàng từ nhiệm.
Các buổi linh thao Mùa Chay này dành cho giáo hoàng và giáo triều; nhưng nếu
qua đời, ngài đâu có thể tham dự, và hầu hết các chức sắc cao cấp của giáo
triều cũng thế vì đã hết nhiệm vụ khi Vatican
trống toà. Các buổi linh thao vì thế chỉ có thể tiến hành với đức giáo hoàng
còn tại chức, và các vị bộ trưởng hay chủ tịch vẫn còn tại chức. Theo hầu hết
các phúc trình, Đức HY Ravasi đã trình bày các bài giảng của ngài một cách hết
sức xuất sắc. Mỗi ngày, ngài trình bày ba buổi suy niệm, dựa trên tài chuyên
môn của ngài trong tư cách học giả Thánh Kinh và một người có kiến thức uyên
bác. Một hồng y tham dự các buổi linh thao này cho Allen hay: ngài thấy Đức
Hồng Y Ravasi “cực kỳ gây ấn tượng”.
Tuy
nhiên, vị hồng y kỳ cựu của giáo triều này nói thêm: ngoài việc ấy ra, ngài
không biết nhiều về Đức HY Ravasi. Điều này hơi lạ, vì Đức HY Ravasi vốn đã làm
việc tại Vatican từ năm 2007. Tuy nhiên, nó
phản ảnh khuôn mặt độc đáo của Đức HY Ravasi, một người tuy ở Vatican nhưng
không thực sự thuộc Vatican, mà tập chú nhiều vào việc nối kết với thế giới
nghệ thuật, khoa học và văn hóa hơn là xây dựng thế giá trong hàng giáo phẩm.
Khuôn
mặt trên có thể có lợi cho Đức HY Ravasi theo nghĩa ngài là gì thì là nhưng
nhất định không phải là người có mưu kế (schemer) và chắc chắn không tham dự
vào bất cứ tai tiếng nào gần đây của Vatican . Nhưng cũng có người quan
ngại rằng ngài sẽ là một giáo hoàng nữa chỉ biết quan tâm tới sinh hoạt trí
thức hơn là chăm lo công việc của Giáo Hội.
10.
Truyền thông xã hội
Đây
sẽ là cơ mật viện đầu tiên thực sự và hoàn toàn diễn ra trong thời truyền thông
xã hội, giữa Twitter, Facebook và mọi phương tiện truyền thông hiện đại khác.
Tin tức và bình luận sẽ được chuyền đi nhanh chóng hơn và sâu rộng hơn, ngay cả
so với năm 2005.
Đương
nhiên, không phải hồng y nào cũng dùng giờ rảnh để cập nhật hóa Facebook của
mình cũng như gửi các “tweets” đi, nhưng các ngài và những người chung quanh
các ngài chắc chắn sẽ lắng nghe những điều đang được nói tới liên quan đến đức
giáo hoàng và các ứng viên giáo hoàng trong lúc này. Nếu có thời các hồng y
quen ta thán rằng mình không có thì giờ tìm hiểu nhau đầy đủ, thì lần này, hẳn
các ngài phải than thở trước cái núi cao ngất gồm đủ mọi loại tin tức.
Ngoài
ra, truyền thông xã hội cũng đang tạo nên rất nhiều cơ hội mới mẻ để nhiều người
khác can thiệp vào diễn trình, không hẳn chính diễn trình bỏ phiếu mà diễn
trình trước đó. Các nhà tranh đấu, các học giả, những nhà chuyên môn về ềthần
học, chính trị học và cả phụng vụ học nữa đều đang hàng loạt lên tiếng trên các
làn sóng âm thanh hay trên các vĩ cầu “blog”, nhằm lên cung điệu và lên hình
dạng cho nội dung những cuộc thảo luận công cộng.
Dù
cố gắng bao nhiêu để nói rằng mình không chịu ảnh hưởng của tất cả những điều
trên, phần lớn các hồng y, trong những lúc chân thực nhất, đều nhìn nhận rằng
khó mà làm ngơ được chúng, ít nhiều, tâm trí các ngài cũng ưu tư về chúng, nhất
là lần này.
Nhân
dịp này, Allen cho rằng việc ông trình bày một số hồng y như tương lai giáo
hoàng (Scola, Turkson, Ouellet, Sandri và Tagle) không nằm trong bất cứ âm mưu
nào, mà chỉ trình bày theo cảm quan phần đông của công luận. Ông cho rằng mỗi
khi có cơ mật viện, thì dường như cả thế giới biến thành người Ý, nhìn đâu cũng
thấy như có âm mưu kiểu Machiavel.
2/26/2013-vietcatholic.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét