Chúa
Nhật II Mùa Chay Năm C
(Phần II)
Lectio: Chúa Nhật II Mùa Chay (C)
Chúa Nhật, 24 Tháng 2, 2013Chúa Giêsu Hiển Dung
Phương cách mới làm viên mãn những lời tiên tri
Lc 9:28-36
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con
đọc Kinh Thánh với tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường
Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa,
được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện
diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc
của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn gốc của sự sống và sự sống lại.Xin hãy tạo sự thinh lặng trong chúng con để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn gốc của tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Một vài ngày trước đó, Đức Giêsu đã nói rằng chính Người, Con Một Thiên Chúa, phải chịu xét xử và bị đóng đinh bởi những kẻ có thẩm quyền (Lc 9:22; Mc 8:31). Dựa theo các dữ kiện trong các sách Tin Mừng Máccô và Mátthêu, các môn đệ, đặc biệt là Phêrô, đã không hiểu được những điều Chúa Giêsu nói và đã cảm thấy bất an bởi lời ấy (Mt 16:22; Mc 8:32). Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ và quay sang Phêrô gọi ông là Satan (Mt 16:23; Mc 8:33). Lý do là bởi vì những lời của Chúa Giêsu đã không tương ứng với ý tưởng một Đấng Cứu Thế vinh quang mà họ đã mường tượng. Luca không đề cập đến phản ứng của Phêrô và câu trả lời mạnh mẽ của Chúa Giêsu, nhưng ông có mô tả, như những Thánh Sử khác, cảnh Chúa Biến Hình. Luca xem việc Chúa Biến Hình như là một sự hỗ trợ cho các môn đệ để cho các ông có thể vượt thắng được sự bất an và thay đổi ý tưởng của họ về Đấng Cứu Thế (Lc 9:28-36). Đem ba môn đệ cùng đi với Người, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện và, trong khi Người đang cầu nguyện, Người biến hình. Khi đọc văn bản, tốt hơn chúng ta nên lưu ý đến những điểm sau đây: “Ai xuất hiện cùng với Chúa Giêsu trên núi để đàm đạo cùng Người? Chủ đề của cuộc đàm đạo là gì? Thái độ của các môn đệ ra sao?”
b) Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Lc 9:28: Giây phút khủng hoảng
Lc 9:29: Sự thay đổi diễn ra trong lúc cầu nguyện
Lc 9:30-31: Sự xuất hiện của hai người và cuộc đàm đạo của họ với Chúa Giêsu
Lc 9:32-34: Phản ứng của các môn đệ
Lc 9:35-36: Tiếng nói của Chúa Cha
c) Tin Mừng:
28 Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. 29 Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. 30 Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, 31 hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. 32 Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người. 33 Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì. 34 Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. 35 Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". 36 Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý:
Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.
a) Điểm nào trong câu chuyện Chúa Biến Hình đã làm bạn hài lòng nhất? Tại sao?
b) Những ai cùng đi lên núi với Chúa Giêsu? Tại sao họ lại đi?
c) Ông Môisen và tiên tri Êlia xuất hiện trên núi bên cạnh Chúa Giêsu. Tầm quan trọng của hai vị này trong Cựu Ước đối với Chúa Giêsu, đối với các môn đệ, đối với các giáo đoàn trong thập niên 80 là gì? Và đối với chúng ta ngày nay là gì?
d) Lời tiên tri nào trong Cựu Ước được viên mãn trong lời của Chúa Cha nói về Chúa Giêsu?
e) Thái độ của các môn đệ trong câu chuyện này là gì?
f) Đã có hiện tượng biến hình trong cuộc sống của bạn chưa? Kinh nghiệm về hiện tượng biến hình đã giúp bạn hoàn thành sứ vụ của mình tốt đẹp hơn như thế nào?
g) Hãy so sánh lời mô tả của Luca về việc Biến Hình của Chúa Giêsu (Lc 9:28-36) với lời mô tả về nỗi lo buồn của Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu (Lc 22:39-46). Hãy cố gắng tìm xem có bất kỳ điểm tương đồng nào không. Ý nghĩa của những điểm tương đồng này là gì?
5. Ý chính của bài đọc
Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề
a) Bối cảnh về bài giảng của Chúa Giêsu:
Trong hai chương trước của Tin Mừng Luca, sự đổi mới được đem đến bởi Chúa Giêsu thì nổi bật và mối căng thẳng giữa Mới và Cũ ngày càng tăng. Cuối cùng, Chúa Giêsu nhận ra rằng không có ai hiểu được ý của Người và lại càng không hiểu về chính con người của Chúa. Người ta đã nghĩ rằng Người giống như Gioan Tiền Hô, Êlia hay một tiên tri thuở xưa (Lc 9:18-19). Các môn đệ chấp nhận Người như Đấng Cứu Thế, nhưng là Đấng Cứu Thế vinh quang, theo như lời tuyên truyền bởi nhà cầm quyền và những chức sắc tôn giáo của Đền Thờ (Lc 9:20-21). Đức Giêsu đã cố gắng giải thích với các môn đệ của Người rằng cuộc hành trình được dự kiến bởi các tiên tri là cuộc hành trình đau thương bởi vì sự ràng buộc của nó với những người bị loại trừ trong xã hội và người môn đệ chỉ có thể là môn đệ nếu người ấy tự vác lấy thập giá của mình (Lc 9:22-26). Tuy nhiên, Người đã không thành công cho lắm. Trong một bối cảnh khủng hoảng như thế, việc Chúa Hiển Dung xảy ra.
Trong những năm của thập niên 30, kinh nghiệm Chúa Biến Hình đã có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống của Chúa Giêsu và cũng như của các môn đệ. Nó đã giúp họ vượt qua cuộc khủng hoảng đức tin và thay đổi ý tưởng của họ về Đấng Cứu Thế. Vào những năm của thập niên 80, khi Luca đang viết sách cho các giáo đoàn Kitô hữu ở Hy Lạp, ý nghĩa của cuộc Biến Hình đã được đào sâu và mở rộng. Trong ánh sáng sự Phục Sinh của Chúa Giêsu và của việc truyền bá Tin Mừng giữa dân ngoại trong hầu hết các quốc gia, từ miền Paléstine đến nước Ý, kinh nghiệm của việc Chúa Biến Hình đã bắt đầu được xem như là một lời xác tín của các cộng đoàn Kitô hữu vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Hai ý nghĩa được hiện diện trong lời mô tả và diễn giải của việc Chúa Biến Hình trong Tin Mừng theo thánh Luca.
b) Lời bình luận về văn bản:
Lc 9:28: Thời khắc khủng hoảng
Có vài lần, Chúa Giêsu gặp phải rắc rối với dân chúng, với các giới chức tôn giáo và các nhà thẩm quyền thời ấy (Lc 4:28-29; 5:20-21; 6:2-11; 7:30,39; 8:37; 9:9). Người biết họ sẽ không để yên cho Người làm những việc Người đã làm. Chẳng chóng thì chầy họ sẽ bắt Người. Ngoài ra, trong xã hội thời ấy, việc công bố về Vương Quốc Nước Trời, như Chúa Giêsu đã làm, là việc không thể nào được dung thứ. Người hoặc giả phải rút lui hay là sẽ phải chết! Không có sự chọn lựa nào khác. Chúa Giêsu đã không rút lui. Do đó, cây thập giá đã thấp thoáng xuất hiện, không chỉ là chuyện có thể xảy ra mà là một điều chắc chắn (Lc 9:22). Cùng với cây thập giá, cũng có xuất hiện sự cám dỗ với ý nghĩ về một Đấng Cứu Thế Vinh Quang, thay vì Đấng Cứu Thế Chịu Đóng Đinh, người tôi tớ chịu đau khổ, được công bố bởi ngôn sứ Isaia (Mc 8:32-33). Vào lúc khó khăn này, Chúa Giêsu đi lên núi để cầu nguyện, đi theo cùng với Người có các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Qua lời cầu nguyện của mình, Chúa Giêsu tìm kiếm sức mạnh để khỏi bị mất khả năng định hướng trong sứ vụ của mình (xem Mc 1:35).
Lc 9:29: Sự biến đổi xảy ra trong lúc cầu nguyện
Ngay khi Chúa Giêsu bắt đầu cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi và Người xuất hiện vinh quang. Dung mạo Người thay đổi và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Đó là sự vinh quang mà các môn đệ mường tượng về Đấng Mêssia. Việc biến hình này cho các ông biết rõ ràng rằng Đức Giêsu đích thực là Đấng Thiên Sai được tất cả mọi người mong đợi. Nhưng những gì xảy ra tiếp theo sau việc Chúa Biến Hình sẽ chỉ ra rằng con đường đi đến vinh quang thì khá khác với những gì họ đã tưởng tượng. Việc biến hình sẽ là lời mời gọi để hoán cải.
Lc 9:30-31: Hai người xuất hiện đàm đạo với Chúa Giêsu
Cùng với Chúa Giêsu và trong cùng một trạng thái vinh quang có sự xuất hiện của các ông Môisen và Êlia, hai nhân vật lớn của Cựu Ước, đại diện cho Lề Luật và các Ngôn Sứ. Họ đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc Xuất Hành đem lại sự viên mãn tại Giêrusalem”. Như vậy, trước mặt các môn đệ, Lề Luật và các Ngôn Sứ xác nhận rằng Đức Giêsu chính là Đấng Mêssia vinh quang, được hứa hẹn trong Cựu Ước và được chờ đợi bởi toàn dân. Các ông cũng còn xác nhận rằng con đường dẫn đến sự Vinh Quang là con đường đau khổ của sự xuất hành. Cuộc Xuất Hành của Chúa Giêsu là cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại của Người. Qua “cuộc xuất hành” của mình, Chúa Giêsu đánh đổ sự thống trị của tư tưởng sai lầm về Đấng Mêssia được tuyên truyền bởi nhà cầm quyền và bởi các viên chức tôn giáo và gài bẫy mọi người trong điều mơ ước về một vị Mêssia anh hùng dân tộc và vinh quang. Kinh nghiệm Chúa Biến Hình đã xác nhận rằng Đức Giêsu là Đấng Mêssia Tôi Tớ được chỉ định như một sự trợ giúp để giải thoát họ khỏi những ý tưởng sai lầm về Đấng Thiên Sai và để khám phá ra ý nghĩa thực sự của Vương Quốc Nước Trời.
Lc 9:32-34: Phản ứng của các môn đệ
Các môn đệ đã ngủ say. Khi các ông thức dậy, nhìn thấy Chúa Giêsu trong vinh quang và có hai người đàn ông cùng với Người. Nhưng phản ứng của Phêrô cho thấy rằng các ông đã không nhận thức được ý nghĩa thực sự của vinh quang mà Chúa Giêsu đã hiện ra cho các ông. Như thường cũng xảy ra với chúng ta, các ông chỉ nhận thức được những gì liên quan đến họ. Ngoài những điều ấy thì họ không chú ý đến. “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm!” Và các ông không còn muốn đi xuống núi nữa! Khi vấn đề là cây thập giá, cho dù trên Núi Biến Hình hay là Núi Cây Dầu (Lc 22:45), các ông ngủ say! Các ông ưa chuộng sự Vinh Quang hơn là Thập Giá! Các ông không muốn nói đến hoặc nghe về cây thập giá. Các ông muốn nắm chắc giây phút vinh quang trên núi, và các ông đề nghị xin dựng ba lều. Phêrô không biết mình đang nói gì.
Trong khi Phêrô còn đang nói, có một đám mây hạ xuống từ trên cao và bao phủ các Ngài. Thánh Luca nói rằng các môn đệ đã kinh hoảng khi đám mây bao phủ họ. Đám mây là biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Đám mây đi theo đám đông dân chúng trên cuộc hành trình của họ qua sa mạc (Xh 40:34-38; Ds 10:11-12). Khi Chúa Giêsu lên trời, Người đã được bao phủ bởi một đám mây và họ không còn nhìn thấy Người (Cv 1:9). Đây là dấu hiệu cho thấy rằng Đức Giêsu đã mãi mãi bước vào thế giới của Thiên Chúa.
Lc 9:35-36: Tiếng nói của Chúa Cha
Một giọng nói từ trong đám mây phán rằng: “Đây là Con Ta Yêu Dấu, Đấng Được Tuyển Chọn, các ngươi hãy nghe lời Người”. Với cùng một câu mà ngôn sứ Isaia đã công bố Đấng Mêssia-Tôi Tớ (Is 42:1). Đầu tiên là các ông Môisen và Êlia, bây giờ đến chính Thiên Chúa trình diện Đức Giêsu như là Đấng Cứu Thế-Tôi Tớ, Đấng bước tới vinh quang qua cây thập giá. Tiếng nói kết thúc với một lời khuyên cuối cùng: “Các ngươi hãy nghe lời Người!” Đang lúc tiếng nói từ trời phát ra, các ông Môisen và Êlia biến mất, và chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Điều này có nghĩa rằng từ giờ trở đi sẽ chỉ có Người giải thích Kinh Thánh và ý muốn của Thiên Chúa. Người là Lời Thiên Chúa cho các môn đệ: “Các ngươi hãy nghe lời Người!”
Lời tuyên bố “Đây là Con Ta Yêu Dấu, Đấng Được Chọn, các ngươi hãy nghe lời Người” rất quan trọng cho các giáo đoàn vào những năm cuối thập niên 80. Qua sự khẳng định này, Thiên Chúa Cha đã xác nhận niềm tin của các Kitô hữu vào Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa. Vào thời Chúa Giêsu, đó là những năm 30, từ ngữ Con Thiên Chúa được dành riêng cho một người có phẩm giá và sứ vụ rất cao. Chính Đức Giêsu đã đưa ra ý nghĩa liên quan đến từ ngữ này bằng cách nói rằng tất cả đều là con cái Thiên Chúa (xem Ga 10:33-35). Tuy nhiên đối với một số người thì danh hiệu Con Thiên Chúa đã trở thành bản tóm gọn tất cả mọi danh hiệu, hơn một trăm danh hiệu mà các Kitô hữu tiên khởi đã đặt cho Chúa Giêsu vào hậu bán thế kỷ thứ nhất. Trong những thế kỷ sau đó, danh hiệu Con Thiên Chúa đã được Giáo Hội tập trung tất cả niềm tin vào con người của Đức Giêsu.
c) Phần phụ chú:
i) Việc Chúa Biến Hình đã được ghi lại trong ba sách Tin Mừng: Mátthêu (Mt 17:1-9), Máccô (Mc 9:2-8) và Luca (Lc 9:28-36). Điều này cho thấy rằng cảnh này chứa một sứ điệp rất quan trọng. Như đã nói, đó là điều trợ giúp rất nhiều cho Chúa Giêsu, cho các môn đệ và cho các cộng đoàn tiên khởi. Nó xác nhận rằng Đức Giêsu trong sứ vụ của Người là Đấng Cứu Thế-Tôi Tớ. Nó đã giúp cho các môn đệ vượt qua cuộc khủng hoảng mà cây thập giá và sự đau khổ đã gây ra cho họ. Nó hướng dẫn các cộng đoàn để đào sâu thêm đức tin của họ vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đã được mặc khải bởi Chúa Cha và Đấng đã trở nên chìa khóa mới để giải thích Lề Luật và lời các Ngôn Sứ. Sự kiện Chúa Biến Hình tiếp tục là sự trợ giúp trong việc khắc phục sự khủng hoảng mà cây thập giá và sự đau khổ đem đến vào ngày nay. Ba môn đệ say ngủ là sự phản ảnh của tất cả chúng ta. Tiếng nói của Chúa Cha được nói với chúng ta như đã nói với các ông: “Đây là Con Ta Yêu Dấu, Đấng Được Chọn; các ngươi hãy nghe lời Người!”
ii) Trong Tin Mừng của Luca, có một sự tương đồng giữa cảnh Chúa Biến Hình (Lc 9:28-36) và cảnh Chúa Giêsu buồn sầu trong Vườn Cây Dầu (Lc 22:39-46). Chúng ta có thể lưu ý những điều sau đây: trong cả hai cảnh, Chúa Giêsu đi lên núi cầu nguyện và đem theo ba môn đệ, Phêrô, Giacôbê và Gioan. Trong cả hai trường hợp, diện mạo của Chúa Giêsu được biến đổi và Người biến hình trước mặt các ông; vinh quang tại lúc Chúa Biến Hình, đổ mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu. Cả hai lần những nhân vật trên trời xuất hiện để an ủi Người, các ông Môisen và Êlia và thiên thần từ trời. Trong cả hai lần Chúa Biến Hình và Chúa Lo Buồn, các môn đệ say ngủ, dường như các ông đứng ngoài sự kiện và dường như họ không hiểu được gì. Tại phần cuối của cả hai câu chuyện, Chúa Giêsu tái hợp với các môn đệ. Không còn nghi ngờ gì, Luca muốn nhấn mạnh đến sự tương đồng giữa hai cảnh này. Đó là điều gì? Đó là trong sự suy gẫm và cầu nguyện, chúng ta sẽ thành công trong việc hiểu được ý nghĩa mà nó vượt khỏi phạm vi từ ngữ, và để cảm nhận được chủ đích của tác giả. Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng ta.
iii) Thánh Luca mô tả việc Chúa Biến Hình. Có những lần trong đời chúng ta khi đau khổ đến nỗi mà chúng ta có thể nghĩ rằng: “Thiên Chúa đã bỏ tôi! Người không còn ở với tôi nữa!” Và sau đó đột nhiên chúng ta nhận ra rằng Người chẳng bao giờ bỏ rơi chúng ta, mà là mắt của chúng ta đã bị bịt kín và đã không nhận thức được sự hiện diện của Thiên Chúa. Rồi thì mọi việc được thay đổi và biến dạng. Đó là sự biến hình! Điều này xảy ra hàng ngày trong đời sống chúng ta.
6. Thánh Vịnh 42 (41)
“Linh hồn tôi khao khát Thiên Chúa hằng sống!”
Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong,
hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa.
Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống.
Bao giờ con được đến vào bệ kiến Tôn Nhan?
Châu lệ là cơm bánh đêm ngày,
khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi:
"Này Thiên Chúa ngươi đâu? "
Tôi thả hồn miên man tưởng nhớ
thuở tiến về lều thánh cao sang
đến tận nhà Thiên Chúa,
cùng muôn tiếng reo mừng tán tạ,
giữa sóng người trẩy hội tưng bừng.
Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn,
xót xa phận mình mãi làm chi?
Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người,
Người là Đấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi.
Lạy Chúa, con chìm sâu trong phiền muộn,
nên chi từ giải đất Giođan,
cũng như rặng Khéc-môn cao ngất, và núi nhỏ Mi-xa,
con tưởng nhớ đến Ngài.
Kìa vực thẳm kêu gào vực thẳm,
khi tiếng thác của Ngài tuôn đổ ầm vang.
Sóng cồn theo nước cuốn,
Ngài để cho tràn ngập thân này.
Ban ngày CHÚA gửi tình thương xuống,
con ngâm nga bài thánh nhạc thâu đêm
thành kinh nguyện dâng Chúa Trời nguồn sống.
Con thưa cùng Thiên Chúa,
là núi đá bảo vệ đời con: "Chúa quên con sao đành?
Sao con phải lang thang tiều tuỵ,
bị quân thù áp bức mãi không thôi? "
Xương cốt con gãy rời từng khúc,
bởi đối phương lăng nhục thân này,
khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi:
"Này Thiên Chúa ngươi đâu? "
Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn,
xót xa phận mình mãi làm chi?
Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người,
Người là Đấng cứu độ, là Thiên Chúa của tôi.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện xin chúng con, trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
www.dongcatminh.org
Giáo Lý Phúc Âm - CHÚA NHẬT II MÙA CHAY NĂM C
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY NĂM C
Sách Sáng Thế Ký 15,5-12,17-28; Thư Thánh Phaolô gửi
Philipphê 3,17-4,1
và Phúc Âm Luca 9, 28b-36
I. Giáo Huấn
P.Â.:
Cuộc đời Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, giống như cuộc đời các nhà lãnh đạo và
các Tiên Tri trong Cựu Ước, có cả đau khổ và vinh quang.
Hôm nay,
Chúa cho tông đồ thấy Chúa biến hình tức thấy Chúa lúc vinh quang.
Sau nầy,
khi các ông chứng kiến Chúa chết nhục nhả trần truồng trên thánh giá tức lúc
Chúa đau khổ. Hy vọng các ông vẫn giữ vững niềm tin vào Chúa.
Đấng Cứu
Thế là Con Thiên Chúa, là người được tuyển chọn để cứu độ nhân loại qua đường
thập giá. Chương trình cứu độ và Đấng Cứu Thế được sai đến trần gian
không là chuyện tùy hứng hay xốc nỗi, nhưng đã “được tuyển chọn” và đã được
định trước.
II. Vấn nạn
P.Â.
Mô-sê là ai? Êlia như thế nào? Làm sao Ông Phêrô có thề
biết được danh tánh hai người đang đàm đạo với Chúa là Môisê và Êlia?
Môsê có nghĩa là được cứu khỏi nước. Tên được những Công Chúa
của vua Pharaô đặt cho khi cứu sống cậu bé Do Thái bị bỏ trong thúng và thả
trôi sông. Ông được cứu sống khỏi nước để rồi sau nầy chính Ông thành người cứu
Dân Tộc mình khỏi chết chìm giữa lòng biển Đỏ. Ông là thế hệ thứ hai người Do
Thái sinh trưởng ở Ai Cập, khoảng 12 thế kỷ trước Chúa Giêsu.
Môsê được Chúa chọn làm lãnh tụ đưa dân ra
khỏi ách nô lệ Ai Cập, khi Ông chăn chiên cho nhạc phụ
Giêtrô ở vùng Midian, chân núi Horeb (Sách Xuất Hành chương 3) Ông
quay trở lại diện kiến Pharaô và xin cho dân đi. Vua không
đồng ý. Ông xin Chúa giáng 10 tai họa trên dân. Sau cùng Ông đã dẫn Dân Do Thái
qua Hồng Hải khô chân.
Ông lên núi Sinai lãnh hai bia đá khắc mười giới răn Chúa
truyền. Ông là người đồng hành với dân suốt bốn mươi năm dài trong sa mạc. Ông
chịu nhiều đau khổ, vì dân phản bội Chúa thờ tà thần, vì dân cứng cổ chống đối
ông. Ông đã nghe lới Chúa treo cao con rắn đồng trong Sa Mạc để thành dấu cứu
dân khỏi rằn độc (Dân Số 21,9 và Gioan 3,14) Ông cũng là người yếu tin, đập gậy
vào đá tời hai lần, để làm nước vọt ra cho dân uống thỏa thuê, nhưng ngược lại
lệnh Chúa truyền (Dân Số 20,11) Nên Ông đã chết trước khi vào đất Chúa
hứa.
Ông chính là tác giả của ngũ kinh, tức năm quyển sách đầu
trong bộ Cựu Ước: Sáng Thế, Xuất hành, Lê Vi, Dân Số và Đệ Nhị Luật. Môsê, một
lãnh tụ, một cứu tinh đưa dân mình khỏi Ai Cập. Môsê, một nhà làm luât và là
một tiên tri, người trung gian giữa Chúa và dân. Ông là người đã thấy Chúa và
vinh quang Thiên Chúa. Nhưng Ông cũng là người đau khổ vì chu toàn sứ mạng Chúa
trao phó.
Elia sống dưới thời vua Ahab, Ahaziah và Giêhôram,
tức tiền bán thế kỷ 9 trước Công Nguyên. Elia có nghĩa “Yahvê là
Chúa” Tên gọi nầy nhằm diễn tả sứ mệnh của Elia: Bênh vực Thiên Chúa, chống lại
thần Baal. Ông chủ trương độc thần: Yahvê là Chúa duy nhất của Israel. Ông chống
lại nền phượng tự ngoại nhập, đa thần đang bành trướng thời bấy giờ do các
hoàng hậu ngoại giáo, cụ thể là hoàng hậu Giê-zi-ben của vua Ahab. Elia
thi tài và chiến thắng 400 tư tế của Hoàng hậu Giêziben. Dân chúng nổi dậy,
giết hết tư tế ngoại giáo. Hoàng hậu Giêziben ra lệnh lùng bắt Elia. Ông trốn
chạy lên núi thánh Chúa là Horeb mất 40 ngày (Sách các vua quyển I, chương 18
và 19)
Tiên Tri Êlia là người được thấy Chúa và vinh
quang Thiên Chúa trên núi Horeb. Nhưng Ông cũng là người bị săn đuổi và bị
bách hại vị bảo vệ niềm tin độc thần của Do Thái. Ông đã đói lã nằm hôn mê trên
đường lên núi Chúa. Sứ thần Chúa đã hiện ra cho Ông bánh và nước để tiếp tục
hành trình lên núi thánh (Sách Các Vua quyển I chương 19)
Thời đó không có một phương tiện ghi nhận hình ảnh gỉ cả.
Thêm vào đó, Phúc Âm Luca còn nói “Ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt!” Vậy
thì làm sao Phêrô có thể nhận ra hai người đang đàm đạo với Chúa Giêsu là Môsê
và Êlia?
Có người cắt nghĩa rằng: Từ thời nầy sang thời
khác, người ta kể cho nhau nghe chuyện Môsê và Êlia. Phêrô nhận ra người xuất
hiện đàm đạo với Chúa Giêsu ám hạp với lời kể đã từng nghe. Đồng thời nội dung
cuộc đàm thoại giúp Ông nhận ra và xác định danh tánh các nhân vật.
Cách giải thích khác xem chừng hợp lý hơn. Thánh sử Luca
là môn đệ của Phaolô. Cả thầy trò, đều không thuộc nhóm mười hai, tức không
biết gì về chuyện biến hình. Phúc Âm Luca thành hình trễ sau hai Phúc Âm
Matthêô và Matcô. Nên Luca có cơ hội để thu thập những tường thuật từ các Phúc
Âm khác như Ông xác nhận “Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thật tra cứu đầu đuôi
mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra…” (Luca 1,1-4). Luca không cần
chứng kiến cảnh Chúa biến hình và cũng không cần mô tả chính xác. Không thấy
thì làm sao biềt thế nào là chính xác. Ông chỉ cần viết lại theo những tường
thuật của những người đi trước và đặt vào đó quan điểm thần học của mình. Nên
danh tánh của những nhân vật trong biến cố biến hình đã có sẵn từ trước. Không
ai đặt vấn đề: có thật là Môsê và Êlia không? Và cũng không ai thắc mắc
làm sao Phêrô nhận ra hai bậc tiền bối sống trước Ông hơn một ngàn năm? Đó
không là mấu chốt Giáo lý Phúc Âm dạy. Nhưng là vấn đề Đức Kitô, con Thiên
Chúa, mang cả hai bản tính: Thiên Tính và nhân tính. Ngài đau khổ như con người
chúng ta. Nhưng Ngài là Thiên Chúa đầy vinh quang sáng láng.
Chúa chọn 12 tông đồ và họ kế cận bên
Chúa. Nhưng có những trường hợp “xé lẻ” như việc Chúa
biến hình trên núi Tabor hôm nay. Sao Chúa chỉ mang theo có ba Ông
Phêrô, Gioan và Giacôbê, các tông đồ còn lại bị bỏ lại dưới chân
núi?
Trong
số 12 tông đố có hai Giacôbê:
Giacôbê tiền (James the Greater), tức Giacôbê anh em ruột với Gioan
tông đồ, cả hai là con Ông Giêbêđê và bà Salomê,
là một trong bốn tông đồ được Chúa chọn đầu tiên chung với hai
anh em Phêrô và Anrê. (Matcô 1, 16-20 và Matt.4,21-22).
Giacôbê hậu (James the less), con của Ông
Alphê, truyền thống Giáo Hội thời bấy giờ cũng gọi là James người
công chính (James the Just). Giacôbê hậu, con Ông Alphê được Kinh Thánh
Tân Ước nhắc đến bốn lần trong Matt.
10,3; Matcô 3,18; Luca 6,15 và Tông Đồ Công Vụ 1,13
Trong Phúc Âm, ba lần Chúa Giêsu cho ba ông Phêrô,
Gioan và Giacôbê theo Chúa: Khi Chúa Giêsu đến cứu sống con gái Ông
trưởng hội đường tên Giairô ( Luca 8,51 và Matcô 5,37); Rồi tám ngày sau Chúa
đưa Phêrô, Gioan và Giacôbê lên núi cầu nguyện và biến hình như trong Phúc Âm
Luca hôm nay. Tìm thấy tường thuật tương tự ở Matcô 9,2 cũng như trong Matt.
17,1 và qua tường thuật của Matthêô chúng ta biết đây là Giacôbê, con Ông
Giêbêđê, anh em với Gioan tông đồ; Lần thứ ba, Chúa dẫn ba Ông Phêrô, Gioan và
Giacôbê vào vườn cây đầu cầu nguyện. (Matcô 14,23)
Chúng ta không rõ trong lần thứ nhất
và thứ ba Giacôbê nào theo Chúa? Phêrô và Gioan tông đồ được đề
cập rõ ràng, còn tên Giacôbê không được minh định rõ ràng. Tuy nhiên vấn
nạn của chúng ta là tại sao lại có vấn đề xé lẻ và riêng tư nầy? Tại sao
chỉ có ba mà không tất cả mưới hai tông đồ?
Có vài ý kiến:
Đây là những môn đệ đầu tiên. Đầu tiên thì dễ được ưu tiên. Tuy
nhiên, Anrê anh của Phêrô cũng là một trong bốn môn đệ đầu tiên, nhưng Ông
không bao giờ có tên trong chuyện ưu tiên nầy.
Đây là
những môn đệ trong tương lai được tín nhiệm trao phó nnhững trọng trách như
Phêrô là thủ lãnh, Gioan trẻ trung, độc thân và được Chúa yêu, còn Giacôbê
truyền giáo xa tận Tây Ban Nha… Điều nầy đúng với Phêrô và Gioan, nhưng không
đúng với Giacôbê. Có những tông đồ trỗi vượt hơn Giacôbê con Ông Giêbêđê nầy
như Tôma, truyền giáo mãi tận Ấn Độ hay Matthêô, vừa tông đồ và vừa thánh
sử.
Tôi xin trả lời bằng cách đặt vấn nạn? Tại sao Chúa chọn
Phêrô, người chối Chúa, nóng tính và có lần bị mắng là quỉ lên hàng thủ lãnh
các tông đồ? Tại sao Chúa chọn người tầm thường nầy lên làm linh mục, còn những
người xuất sắc khác đáng làm linh mục hơn lại cũng chỉ là giáo dân? Đó là vấn đề
của Chúa và Chúa có lý do riêng không cần giải thích với bất cứ ai là tại sao?
Chính đương sự cũng không hiều lý do? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời nầy
trong dụ ngôn thợ làm vườn nho Chúa, mỗi người lãnh chỉ một đồng bằng nhau vào
cuối ngày, dù làm ít giờ hay nhiều giờ. Đó “là quyên của tôi!” (Matt.20,1-16).
Trong cuộc sống thường nhật, chúng ta có nhiều bạn
bè. Trong số nầy, có những bạn bè gần. Trong số những bạn bè
gần, có những người mà chúng ta gọi là rất thân, sống chết có nhau và sẵn sàng
chia sẻ mọi chuyện thầm kín. Tại sao? Vì họ là bạn thân? Nhưng tại sao thân?
Tại vì gần gũi, thông cảm…vài lý do loanh quanh khác… để rồi sau cùng chính
đương sự cũng không biết sao mình lại chọn người nầy làm bạn rất thân mà không
là người khác.
Cả Ba Phúc Âm nhất Lãm đều tường thuật: có tiếng từ trong
đám mây phán … tức tiếng Thiên Chúa Cha phán, nhưng cả ba lời phán lại khác
nhau, dù từ Thiên Chúa Cha. Ý nghĩa của những lời phán khác nhau nầy theo các
Thánh Sử?
Matthêô tường thuật Chúa biến hình trên núi Tabor trong
chương 17, 1-9 với lời phán của Thiên Chúa Cha từ đám mây “ Đây là con Ta yêu
đấu, luôn làm đẹp lòng Ta, hãy nghe lời Ngài”. Lời phán nầy chúng ta đã nghe
thấy trong Matt.3, 17 khi Chúa Giêsu chịu phép rửa.
Matcô tường thuật Chúa biến hình trên núi Tabor
trong chương 9, 2-8 với lời phán của Thiên Chúa Cha từ đám mây “Nầy là Con Ta
yêu dấu, hãy nghe lời Ngài” Lời phán nầy cũng đã nghe thấy trong Matcô 1:11 khi
Chúa Giêsu chịu phép rửa “Con là con Ta yếu dấu, Ta rất hài lòng với con!”
Luca
tường thuật Chúa biến hình trên núi Tabor trong chương 9, 28-36 như chúng ta
thấy hôm nay với lời phán của Thiên Chúa Cha từ đám mây “Đây là Con Ta, người
được tuyển chọn, hãy nghe lời Ngài!” Lời phán nầy xem chừng khác so với Luca
chương 3,21-22 khi tường thuật Chúa chịu phép rửa “Con là con Ta yếu dấu, Ta
rất hài lòng với con!”
Cả ba Phúc Âm Nhất Lãm khi tường
thuật việc Chúa chịu phép rửa đều đặt vào thời gian Chúa Giêsu bằt đầu cuộc
đời truyền đạo. Cả ba Phúc Âm Nhất Lãm khi tường thuật việc Chúa biến hình trên
núi Tabor đều đặt vào thời điểm cuối năm thứ hai cuộc đời truyền đạo. Tất cả
đều xác nhận rằng: Việc cứu độ trần gian là chương trình của Thiên Chúa Ba
Ngôi. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, sinh xuống làm người để thực hiện chương
trình cứu độ. Từ đầu cho đến cuối, dù đau khổ hay bị ngược đãi, Chúa Giêsu luôn
trung thành, luôn là con yêu dấu của Thiên Chúa Cha.
Riêng
Phúc Âm Thánh Luca, câu nói của Thiên Chúa Cha ở núi Tabor, khi Chúa Giêsu
biến hình có phần khác so với khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Hòa Giang.
Thánh Luca thêm “Đây là Con Ta, người được tuyển chọn…” Thánh Luca, môn đệ của
Phaolô, chịu ảnh hưởng sâu đậm về học thuyết “chương trình của Thiên Chúa”
(God’s Plan hay God’s will). Abraham được chọn làm tổ phụ dân Chúa. Môsê được
chọn làm lãnh tụ đưa dân ra khỏi Ai Câp… Phaolô được chọn làm tông đồ dân ngoại
(Tông Đồ Công Vụ 22, 15 và 26,18) Không có việc gì nằm ngoài chương trình của
Chúa cả. Tất cả đều được tuyển chọn.
Giáo lý của Luca là: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa
xuống trần, sống giữa con người để thực hiện chương trình cứu độ đã có từ ngàn
đời. Chúa Giêsu phải chịu đau khổ để đi vào vinh quang Phục Sinh. Đó là chương
trình của Thiên Chúa Cha. Từ đó, Chúa Giêsu, trong vườn cây dầu, dù sợ chết mà
van xin “Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén nầy xa con… nhưng rồi phải nói thêm…
xinh đừng theo ý con, nhưng cho ý Cha được tròn” (Luca 22, 42) Lạy Chúa, này
con xin đến để thực thi ý Chúa.
III. Thực hành P.Â.:
Chúa cầu nguyện thường xuyên
Phúc Âm tường thuật 15 lần Chúa cầu nguyện. Trong đó, Phúc Âm Thánh Luca
kể được 11 lần. Nên Phúc Âm Thánh Luca thường được gọi là Phúc Âm của lòng
thương xót Chúa và thỉnh thoảng cũng có người gọi là Phúc Âm cầu nguyện.
Tại sao
phải cầu nguyện? Vì khi cầu nguyện, con người được biến hình trở nên
sáng láng. Sáng láng ở đây không có ý nói đến diện mạo bên
ngoài như quần áo nên trắng tinh, hay mặt mày tỏa chiếu hào quang như khi
Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor trong Phúc Âm hôm nay. Nhưng người cầu
nguyện được biến đổi. Vì tâm hồn được nâng lên cao như lên núi Chúa. Con người
được tiếp xúc và được bộc lộ tâm tư nguyện vọng của mình cho Chúa. Nên tu đức
gọi là: kết hợp với Chúa khi cầu nguyện.
Muốn làm
cho mình biến đổi tốt hơn, tỏa chiếu dung mạo của Chúa trong đời sống hàng
ngày, chúng ta phải cầu nguyện. Thánh Phanxicô Xaviê đã
bỏ cả địa vị cao trong xã hội để đi truyền giáo
là nhờ Ngài cầu nguyện. Mẹ Têrêsa thành Calcutta luôn cầu
nguyện để thực thi thánh ý Chúa. Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận
khuyên là: “Nếu con sa ngã phạm tội hay gặp muôn vàn khốn khó thì hãy tự hỏi
xem mình đã bỏ cầu nguyện bao lâu rồi?”. Cầu nguyện là biến hình, là thay đổi,
là bộc lộ vinh quang của Thiên Chúa trong đời sống mình.
Chúng ta cầu nguyện cho mình và cầu nguyện cho người khác. Chỉ có
Chúa mới có khả năng hoán cải con người. Luôn vững tin rằng không việc gì mà
Chúa không làm được. Khi xem Video “Le Saint Curé D’Ars” tôi thấy vừa khi đến
giáo xứ là Cha Gioan Maria Vianney vào ngay trong nhà thờ cầu nguyện, rổi Ngài
dọn dẹp bàn thờ, giật chuông và kêu gọi giáo dân đến dâng lễ cầu nguyện. Một bà
cụ già đến, vài người đến xem coi chuyện gì xảy ra… nhưng rồi sau đó tất cả đã
được hoán cải. Người ta được hoán cải vì lời cầu nguyện, vì đời sống cầu nguyện
và vì con người cầu nguyện của Cha Gioan Maria Vianney.
Tôi luôn nhớ lời Cha Thánh: Linh Mục phải thánh thiện thì mới gọi là
Prêtres pour le salut du monde. Tôi không thể có đời sống thánh thiện, nếu tôi
không cầu nguyện, không tiếp xúc với Chúa là Đấng Thánh. Những giáo dân quen
biết cũng hay tâm sự: Chúng con không cần linh mục làm ăn giỏi hay có biệt tài
về đàn hát… nhưng chúng con rất cần linh mục Thánh Thiện..
Hành
trình về Canvê.
Ông Phêrô thấy
Chúa biến hình, được chứng kiến vinh quang Thiên Chúa thì muốn dựng lều ở đó,
muốn đóng đô dài hạn trên núi Tabor. Không thấy Chúa quan tâm chút nào đến đề
nghị thực tiễn nầy. Thầy trò kéo nhau xuống núi, tiếp tục hành trình.
Hành trình cứu độ không dừng ở Tabor, nhưng ở đồi Canvê. Phêrô có mặt ở
Tabor, lúc Chúa biến hình vinh quang. Nhưng Phêrô không có mặt ở chân Thánh Giá
trên đồi Canvê khi Chúa bị chết treo trần truồng nhục nhã.
Đời người ai cũng có lúc lên hương, nhất là vào tuổi “tam thập nhị
lập” tức độ tuổi 30. Sức khỏe thật sung mãn. Có người nghĩ “mình klhỏe như thế
nầy làm sao chết được!” Đây cũng là tuổi thành công, thành tài làm nên sự
nghiệp. Đậy cũng là lúc mà chúng ta muốn dựng lều, đóng đô dài hạn trên đỉnh
núi của đời người đang lên. Đây cũng là lúc mà nhiều người bị chúng ta thu hút,
muốn đến cắm lều và định cư lâu dài để an hưởng hạnh phúc đời sống với chúng
ta.
Nhưng rồi
thực tế của đời người là: xuống núi hay xuống dốc hay hết thời và
nhiều khi bị thất bại thảm thương, trơ trọi trên đồi Canvê. Không nhìn thấy
những người đã từng ở trên núi Tabor với mình. Họ như Phêrô, bỏ trốn hết. Chúng
ta, một mình với nhiều thử thách và cái chết kết thúc đời người.
Chúa Cứu Thế phải chịu đau khổ mới vào vinh quang. Không cách gì trốn
thoát khỏi ngọn đồi Canvê. Đây là điểm đến của đời người. Ở đó có thánh giá, có
ngọn dáo nhọn, có nấm mồ, nhưng rồi cũng có Phục Sinh. Hãy cám ơn Chúa vì những
lúc lên hương, những khi thành công. Xin Chúa dồng hành và thêm sức với chúng
ta trên đường về Canvê. Cũng xin một nâng đỡ, một ánh mắt cảm thông và một ít
phút tâm sự với những người già yếu bệnh họan. Đặc biệt, với những linh mục già
nua, bệnh hoạn và cô đơn. Họ đang trên đồi Canvê.
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét