Trang

Thứ Bảy, 2 tháng 2, 2013

02-02-2013 : DÂNG CHÚA VÀO ĐỀN THÁNH (Lễ Kính)


Thứ Bảy 02/02/2013
Thứ Bảy Mùa Thường Niên Năm C

Dâng Chúa vào Đền Thánh


BÀI ĐỌC I: Ml 3, 1-4
"Đấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, đến trong đền thánh Người".

 Trích sách Tiên tri Malakhi.

Này đây Chúa là Thiên Chúa phán: "Đây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt Ta!" Lập tức Đấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, và thiên thần giao ước mà các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người. Chúa các đạo binh phán: "Này đây Người đến". Ai có thể suy tưởng đến ngày Người đến, và có thể đứng vững để trông nhìn Người? Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt, như thuốc giặt của thợ giặt. Người sẽ ngồi như thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi, và làm cho chúng nên sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa và như những năm trước. Đó là lời Chúa toàn năng phán. Đó là lời Chúa.

 ĐÁP CA: Tv 23, 7. 8. 9. 10

Đáp: Vua hiển vinh là ai vậy? (c. 8a)

1) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu! để Vua hiển vinh Người ngự qua. - Đáp.
2) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Đó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của chiến chinh. - Đáp.
3) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự qua. - Đáp.
4) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Đó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Đế hiển vinh. - Đáp.

 BÀI ĐỌC II: Dt 2, 14-18
"Người phải nên giống anh em Mình mọi đàng".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Vì các con trẻ cùng chung thân phận máu thịt, chính Chúa Giêsu cũng giống như chúng, cũng thông phần điều đó, để nhờ cái chết của Người mà Người huỷ diệt kẻ thống trị sự chết là ma quỷ, và để giải thoát tất cả những kẻ sợ chết mà làm nô lệ suốt đời. Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham. Bởi thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân. Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể cứu giúp những ai sống trong thử thách. Đó là lời Chúa.

 ALLELUIA: Lc 2,32

Alleluia, alleluia! - Ánh sang đã chiếu soi muôn dân, và là vinh quang của Israel dân Chúa. - Alleluia.

 PHÚC ÂM: Lc 2, 22-32 {hoặc 22-40}
"Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.

Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Đấng Kitô của Chúa. Được Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

"Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".

{Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"

Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.

Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.}
Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Ðức Mẹ Dâng Chúa Giêsu Vào Ðền Thánh

Theo luật Do Thái thì tất cả các con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa, vì vậy cha mẹ con trẻ phải chuộc các em bằng một con chiên hay đôi chim bồ câu. Những lễ vật này sẽ được dâng hiến Thiên Chúa thay cho các em.
Ðức Maria đã tự khép mình vâng theo luật. Nhưng khi dâng Chúa Giêsu trong đền thánh, Mẹ biết rằng đây không phải là chuộc lại nhưng chính là khởi đầu cho lễ hy sinh mà Con Mẹ sẽ hoàn tất trên núi Sọ để cứu chuộc chúng ta. Trong thánh lễ hôm nay, Giáo Hội muốn trình bày cho chúng ta hai ý nghĩa, thứ nhất là kỷ niệm cuộc gặp gỡ đầu tiên của Ðấng Cứu Thế với dân riêng Ngài qua ông già Simêon là đại diện; thứ hai Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu soi cho mọi dân tộc trên mặt đất.
(Veritas Asia)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Dâng Con Trong Đền Thờ (Ngày 2 tháng 2)


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Chúa Giêsu vào Đền Thờ để gặp gỡ dân Người.

Đền Thờ là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người: bắt đầu với Lều Hội Ngộ khi con cái Israel vẫn còn lang thang suốt 40 năm trường trong sa mạc; sau khi ổn định trong Đất Hứa, vua Solomon đã xây dựng một Đền Thờ và di chuyển Hòm Bia vào nơi Cực Thánh, để con người đến cầu nguyện và dâng lễ hy sinh đền tội; khi Đền Thờ Jerusalem bị phá hủy toàn bộ vào năm 70 AD, sự hiện diện của Thiên Chúa không chỉ còn giới hạn tại Jerusalem, nhưng lan tràn mọi nơi, bất cứ nơi nào có nhà thờ, nơi đó có Chúa Giêsu hiện diện với con người cho đến Ngày Tận Thế.

Các bài đọc hôm nay muốn nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đền Thờ để gặp gỡ dân Ngài. Trong bài đọc I, tiên-tri được coi như cuối cùng của Cựu Ước, Malachi, nhìn thấy trước ngày Thiên Chúa thân hành hiện đến thăm viếng dân Người để thanh tẩy họ khỏi mọi tội lỗi; một sứ giả sẽ đi trước chuẩn bị đường cho Ngài. Trong bài đọc II, tác giả Thư Do-thái mô tả cách thức hiện diện của Thiên Chúa: Ngài sẽ mặc lấy xác phàm của con người để ở với con người, để con người có thể trông thấy Ngài bằng xương thịt. Ngài sẽ trải qua tất cả những đau khổ của kiếp người để cảm thông, để trợ giúp, và để xóa sạch tất cả tội lỗi của con người. Trong Phúc Âm Lucas, cụ già Simeon là người đầu tiên được xem thấy Chúa khi cha mẹ mang Ngài đến để gặp gỡ dân Người. Simeon sẵn sàng nhắm mắt ra đi, vì ông đã được nhìn thấy ơn cứu độ bằng xương thịt như lời các tiên tri loan báo.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến.

Sách tiên-tri Malachi được viết sau Thời Lưu Đày, khoảng 515 BC. Cũng như nhiều các tiên-tri khác, tiên-tri Malachi tin triều đại của Đấng Thiên Sai đã gần đến: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, Đức Chúa các đạo binh phán.” Theo lời tiên-tri Malachi, một Sứ-giả sẽ đến trước để dọn đường trước khi Đấng Thiên Sai tới; và khi đã dọn đường xong, Đấng Thiên Sai sẽ đến bất cứ lúc nào.

1.1/ Vai trò của Sứ-giả: Truyền thống Do-thái tin Ngày Đấng Thiên Sai tới sẽ là ngày kinh hoàng của kẻ dữ, nhưng sẽ mang hy vọng cho những người Israel còn sót. Tiên-tri Malachi nói về Ngày này như sau: “Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt. Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc.”

Hai nhiệm vụ chính của Sứ-giả dọn đường cho Đấng Thiên Sai là thanh tẩy và tinh luyện tâm hồn dân chúng để họ sẵn sàng cho Ngày của Thiên Chúa. Hai chất liệu được dùng là lửa của người luyện kim và thuốc tẩy của người thợ giặt. Lửa được dùng để thử cho biết vàng nào là vàng thực và tinh luyện nó khỏi mọi vết dơ bẩn. Thuốc tẩy được dùng để tẩy sạch những vết dơ bám vào trong quần áo. Điều Sứ-giả cần thanh tẩy và tinh luyện chính là tâm hồn con người, sao cho xứng đáng để có thể đứng vững trong Ngày của Đức Chúa.

Tiên-tri Malachi lên án những lỗi lầm của hàng tư tế vì họ lười biếng và khinh thường Thiên Chúa trong việc thờ phượng. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa không nhận lễ vật của họ, Ngài sẽ chọn lễ vật trong sạch hơn (Mal 1:1-2:17). Vì thế, đối tượng chính mà tác giả nhắm tới là hàng tư tế Levi và tâm hồn của họ: “Bấy giờ, đối với Đức Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công chính. Lễ vật của Judah và của Jerusalem sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa như những ngày xa xưa, như những năm thuở trước.”

1.2/ Tiên-tri Elijah là Sứ-giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế: “Này Ta sai ngôn-sứ Elijah đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, Ngày trọng đại và kinh hoàng. Nó sẽ đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông, kẻo khi Ta đến, Ta sẽ đánh phạt xứ sở đã bị án tru diệt.”

Song song bổn phận của con người đối với Thiên Chúa là bổn phận của con người đối với tha nhân; nhất là những người trong gia đình. Một khi mối liên hệ chiều dọc với Thiên Chúa bị lơ là thì mối liên hệ chiều ngang với tha nhân cũng bị thiệt hại. Sứ-giả dọn đường cho Thiên Chúa cũng phải chú trọng đến sứ vụ hòa giải giữa con người với con người, trong gia đình cũng như ngòai xã hội.

2/ Bài đọc II: Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện.

Khi Kitô Giáo lan tràn vào thế giới La-Hy, hai vấn nạn khó khăn Giáo Hội phải đương đầu với là phải giải thích cho người Hy-lạp biết:

(1) Tại sao Thiên Chúa phải nhập thể: Đối với người Hy-lạp, Thiên Chúa hòan tòan là Thần Khí, nơi Ngài không có một chút vật chất nào cả. Để được giải thóat và kết hợp với Thiên Chúa, con người phải cố gắng làm sao để thóat khỏi ngục tù thân xác đang giam hãm linh hồn con người, để chỉ còn thần khí mà thôi. Kitô Giáo đi ngược lại, Con Thiên Chúa phải nhập thể để cứu chuộc con người!

(2) Tại sao Thiên Chúa phải chịu đau khổ: Người Hy-lạp và người Do-thái không tin Thiên Chúa phải chịu đau khổ; chỉ có con người mới phải chịu đau khổ mà thôi. Một Thiên Chúa phải chịu đau khổ không còn là Thiên Chúa nữa. Họ lý luận: Nếu Thiên Chúa không có uy quyền để vượt thóat đau khổ, làm sao Ngài có thể giúp người khác vượt qua đau khổ được? Kitô Giáo cũng đi ngược lại, không thể có Ơn Cứu Độ nếu con Thiên Chúa không chịu chết trên Thập Giá!

Tác giả Thư Do-thái cố gắng trả lời hai vấn nạn này như sau:

2.1/ Chúa Giêsu phải nhập thể để mang lấy thân phận con người: Để có thể tiêu diệt tội lỗi và sự chết, Chúa Giêsu phải mang lấy thân xác con người để có thể chịu chết và đền tội cho con người. Nếu không có thân xác, làm sao chết? “Vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng mang lấy huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ. Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu Abraham.” Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không chết muôn đời; Ngài đã sống lại vinh quang, và trở nên hoa quả đầu tiên của những người từ trong cõi chết sống lại. Ngài là “người tiên phong” đi mở đường, để tất cả các anh em của Ngài cũng được đi con đường đó.

2.2/ Chúa Giêsu phải trở nên con người về mọi phương diện: Tác giả Thư Do-thái nhận ra sự cần thiết của việc Chúa Giêsu phải trở nên con người về mọi phương diện, ngọai trừ tội lỗi: “Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân.” Mục đích của việc “hòan toàn trở nên con người” là để:

(1) Ngài có thể thực sự được coi là một con người: Đã là con người, ai cũng phải chịu đựng đau khổ và ngang qua cái chết.

(2) Ngài có thể thông cảm và đồng cảm với thân phận con người: Nếu một người không ngang qua những kinh nghiệm đau khổ và sự chết, người đó sẽ không thể hòan tòan hiểu và thông cảm những ai bị ở trong hòan cảnh đó.

(3) Ngòai ra, Ngài có thể giúp đỡ một cách hiệu quả cho những ai ở trong hòan cảnh đó: “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách.”

Nói tóm, Thiên Chúa có uy quyền trên cả sự sống và sự chết. Ngài có thể cho Con của Ngài nhập thể, chịu đau khổ, ngang qua sự chết, và phục sinh vinh hiển. Chẳng có gì là không thể đối với Thiên Chúa; chúng ta đừng áp dụng cách thức suy nghĩ của con người cho Thiên Chúa.

 3/ Phúc Âm: Các mẫu gương của những người sống theo đường lối của Thiên Chúa.

3.1/ Gia Đình Thánh tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Moses, bà Maria và ông Giuse đem con lên Jerusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa," và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.

3.2/ Ông Simeon tin vào Lời Thiên Chúa hứa và sự thúc đẩy của Thánh Thần.

(1) Ông Simeon là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông lên Đền Thờ.

(2) Lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới, ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài."

3.3/ Ông Simeon nói tiên tri:

(1) Về con trẻ: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng dậy. Cháu còn là mục tiêu cho người đời chống đối; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.” Nhiều người bị ngã xuống hay được đứng dậy là hòan tòan tùy thuộc vào phản ứng của họ đối với Đức Kitô. Trong cuộc đời của Chúa, người bị ngã xuống là phần đông là các Kinh-sư và Biệt-phái, vì họ từ chối không tin và luôn tìm cách bắt bẻ và tiêu diệt Ngài. Những người được đứng dậy là các người thu thuế, gái điếm, và dân ngọai; tuy bị coi là tội lỗi, nhưng khi được Chúa tỏ lòng thương xót, họ đã ăn năn và tin vào Ngài.

(2) Về Mẹ Maria: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà." Cuộc đời của Chúa Giêsu là cuộc đời của Mẹ; đau khổ của Con là của Mẹ. Mẹ Maria đã đồng hành với con từ lúc sinh ra trong máng cỏ cho tới lúc sinh thì tên Thập Giá.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Nhà thờ là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa để bàn chuyện, để được hướng dẫn, và để lãnh nhận những ơn thánh cần thiết cho cuộc sống con người.

- Chúng ta cần phải chuẩn bị tâm hồn mỗi khi đến nhà thờ để gặp gỡ Thiên Chúa. Nếu chúng ta đến nhà thờ với một tâm hồn khô khan, vội vã và bất kính, chúng ta sẽ không thể gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận những hồng ân của Ngài.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh (02-2)
Sứ điệp: Lễ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh còn được gọi là lễ NẾN, vì ông Simêon đã gọi Chúa Giêsu là ánh sáng các lương dân, và là vinh quang của It-ra-en, DânChúa. Người tín hữu có sứ mạng chiếu tỏa ánh sáng Chúa Kitô bằng đời sống thánh thiện.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, như bất cứ gia đình Do Thái nào, sau khi sinh 40 ngày, Đức Mẹ và thánh Giuse đã đem Chúa lên đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa, như luật Mô-sê dạy: mỗi con trai đầu lòng phải được hiến dâng cho Thiên Chúa, để ghi nhớ kỳ công Chúa đã thực hiện cho dân Do Thái, mỗi đứa con trai đầu lòng đều được Thiên Chúa cứu thoát trong biến cố xuất hành, nên phải dâng cho Chúa vì nó thuộc về Chúa.
Lạy Chúa, bản thân con cũng không khác gì đứa con trai đầu lòng của người Do Thái, nghĩa là hoàn toàn do ơn Chúa mà có. Vì thế, cuộc đời con hoàn toàn thuộc về Chúa. Con chỉ thuộc về Chúa khi đời sống con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Nhờ đó, con trở thành ngọn đèn cháy sáng giữa lòng thế giới hôm nay.
Lạy Chúa, xin cho con trở thành ánh sáng khi dám ra khỏi chính mình, dám ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan, để can đảm sống những đòi hỏi của Tin Mừng.
Xin cho con trở thành ánh sáng khi dám chấp nhận bóng tối cuộc đời, chấp nhận những thử thách của cuộc sống, chấp nhận những bước đường gồ ghề phải đi qua. Lạy Chúa, xin giúp con. Amen.
Ghi nhớ :"Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ".
www.phatdiem.org
THỨ BẢY TUẦN III MÙA THƯỜNG NIÊN 
Dâng Chúa Giêsu Trong Đền Thánh

Lc 2, 22 - 40
1. Ghi nhớ: "Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các Ngài theo luật Mô-sê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa". (Lc 2, 22)
2. Suy niệm: Trẻ Giêsu được cha và mẹ đem lên đền thánh theo luật Môi-sê đòi buộc. Và hai Ngài thật là mẫu gương tuân giữ lề luật. Các Ngài xem đó như là một bổn phận trong tình yêu. Nhưng ngày nay thật nhiều người trong chúng ta không chịu tuân giữ lề luật mà chỉ thích sống theo ý riêng mình, không sống theo ý Chúa, không chịu sống theo tinh thần Giáo Hội và nhiều khi còn phá bỏ chống đối người khác khi thấy họ tuân giữ. Điều đó làm cho chúng ta không thể lớn lên vì chúng ta không sống theo ý Chúa muốn. Muốn được Thiên Chúa yêu, mỗi ngày chúng ta cũng phải cặn kẽ chu toàn mọi lề luật theo bổn phận của mình để nhờ đó Chúa có thể sử dụng chúng ta theo chương trình của Ngài.
3.Sống Lời Chúa: Hãy sống theo ý Chúa và tuân phục những giáo huấn của Người.
4. Cầu nguyện : Xin cho con biết sống trung thực với phẩm giá của mình, và biết chu toàn lề luật trong tình yêu. Amen
www.giaophanvinhlong.net

02/02/13 THỨ BẢY ĐẦU THÁNG TUẦN 3 TN
Đức Mẹ Dâng Chúa Vào Đền Thánh
Lc 2,22-40

SỨ ĐIỆP CỦA CỤ GIÀ
Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giê-ru-sa-lem để tiến dâng cho Chúa. ( Lc 2,22)
Suy niệm: Người đời thường nói “lão lai, tài tận.” Câu nói đó hẳn không thể áp dụng cho cụ ông Simêon và cụ bà Anna là những người “lão lai, tài bất tận”. Quả thật, hai cụ là tấm gương sáng cho hậu thế về sự trung kiên bền bỉ trong việc mong đợi Đấng Cứu Thế. Điều đó đối với các cụ thật quan trọng, bởi vì các cụ đã dành cả cuộc đời dài để được nhìn ngắm Ngài tận mắt dù chỉ một khoảnh khắc, bồng ẵm Ngài tận tay dù chỉ một lần trong đời. Hơn nữa sứ điệp của hai cụ vẫn còn nguyên tính thời sự đối với chúng ta. Với cuộc sống công chính, tâm hồn tràn đầy Thánh Thần và cặp mắt đức tin sắc sảo, các cụ đã nhận ra Đấng Cứu Thế dưới dáng vẻ tầm thường của một hài nhi. Và một khi đã nhận ra Ngài, các cụ mau mắn làm ngôn sứ cho Ngài: “nói về Hài Nhi cho hết thảy những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc” (c. 38).
Mời Bạn: Tuổi già là chỗ dựa tinh thần cho tuổi trẻ bởi vì không các cụ chỉ có những kinh nghiệm quá khứ mà còn có cái nhìn thấu thị thấy được những gì là giá trị trường cửu vượt thời gian. Lời nói và đời sống đức tin của các cụ là chứng tá sống động và giá trị mà con cháu không thể khinh suất bỏ qua.
Chia sẻ: Ông bà, cha mẹ là mẫu mực sống đức tin cho con cháu, con cháu hiếu thảo và vâng nghe lời giáo huấn của ông bà cha mẹ, đó là niềm vui và hạnh phúc của đời sống gia đình
Sống Lời Chúa: Tổ chức và duy trì giờ kinh nguyện trong gia đình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin dâng gia đình con cho Chúa, xin gìn giữ và chúc phúc lành cho gia đình con.
www.5phutloichua.net

ÁNH SÁNG VÀ VINH QUANG
Để gặp được Chúa trong đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng, cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Suy nim:
            “Thứ bốn thì ngắm, Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh, ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.”
            Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa một cách nghiêm chỉnh. Luật trong sách Lêvi (12, 2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai  phải lên đền thờ để được thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa. Nếu không đủ khả năng dâng một con chiên và một bồ câu non  thì phải dâng một cặp bồ câu non hay một đôi chim gáy. Ngày nay chúng ta không thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội và phải được thanh tẩy sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Tại sao việc sinh nở lại bị coi là ô uế? Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã vâng theo Luật dạy. Hơn nữa, cùng với thánh Giuse, Mẹ đã dâng Con cho Chúa trong đền thờ. Điều này Luật không buộc, nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng. Thật ra để chuộc lại con trai đầu lòng, chỉ cần trả cho tư tế gần 60 gam bạc (Ds 18, 15-16).

            Mẹ sung sướng đem Con lên đền thờ dâng cho Thiên Chúa vì hơn ai hết Mẹ biết rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình. Dâng Con là nhìn nhận Con mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa, ở với Chúa và làm việc cho Chúa suốt đời, dù mình đã chuộc Con về bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy.
            Bài Tin Mừng hôm nay có 4 lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39). Về việc giữ Luật, Đức Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào. Hãy nhìn ngắm Thánh Gia lên đền thờ. Một đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ. Ai có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân? Đó là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa. Hơn nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25), người được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27). Chính Thánh Thần làm cụ nhận ra điều mắt thường không thấy, Và cụ sung sướng, mãn nguyện bồng Hài Nhi trên tay. Cụ bà ngôn sứ Anna cũng nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình. Cụ là người đạo đức, ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa. Cụ bà Anna đã công khai giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.
            Để gặp được Chúa trong đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng, cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa,xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,và trọn cả ý muốn của con,cùng hết thảy những gì con có,và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con, lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa, xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa. Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng. Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)
  Lm An-tôn Nguyễn Cao Siêu,SJ.
"Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ".
Dâng con trẻ

Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta mừng kính hai biến cố đó là việc thanh tẩy của Đức Maria và việc dâng Chúa Giêsu nơi đền thờ.
Trước hết là việc thanh tẩy của Đức Maria.
Theo luật Maisen, người đàn bà sau khi sinh nở, thì bị coi là uế tạp... Suốt 40 ngày, người ấy không được lên đền thờ tham dự vào những nghi lễ đạo đức. Sau đó người ấy phải đến trình diện trước thầy cả để được thanh tẩy.
Trên nguyên tắc Mẹ Maria không cần phải giữ luật Maisen vì Mẹ là Đấng trong sạch tuyệt vời. Nhưng cũng như Đức Kitô, Mẹ muốn hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nên hôm nay Mẹ đã chịu thanh tẩy theo như đã quy định.
Tiếp đến là việc dâng Chúa nơi đền thờ.
Kể từ khi thiên thần đã giết các con đầu lòng của người Ai cập, còn dân Do Thái lên đường, ra khỏi đất nước này với kiêp sống nô lệ lầm than, thì những con đầu lòng của người Do Thái được coi như là thuộc về Thiên Chúa và có bổn phận lo việc phụng tự Ngài. Thế nhưng sau đó, công việc phụng tự này được trao lại cho chi họ Lêvi. Vì vậy, những người con trai đầu lòng phải được cha mẹ chuộc lại bằng một số tiền nhỏ.
Ngày hôm nay Mẹ Maria cũng tuân giữ điều luật này khi dâng hài nhi Giêsu nơi đền thờ.
Hiện giờ tại nhiều xứ đạo, người ta tổ chức nghi lễ dâng những người mẹ và những đứa con cho Đức Maria. Đây không phải là một nghi lễ thanh tẩy của người Do Thái, vì bí tích Hôn nhân là một cái gì thánh thiện, và khi sinh sản con cái, cha mẹ tham dự vào công việc sáng tạo của Thiên Chúa, nhưng nghi lễ này có mục đích tôn vinh người mẹ.
Cũng như Mẹ Maria không tới đền thờ một mình, nhưng tới với hài nhi Giêsu. Người mẹ hôm nay đến nhà thờ với những đứa con nhỏ của mình. Vị linh mục mặc áo các phép, tiến đến cửa nhà thờ để chào đón các bà. Ngài cầm cây nến, tượng trưng cho tình trạng ơn sủng mà mỗi người chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép Rửa tội. Rồi sau đó những người mẹ và những đứa con tiến vào nhà thờ trong tiếng hát tạ ơn của lời kinh Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa và thần trí tôi hoan hỉ trong Đấng cứu độ tôi”.
Vị linh mục dâng lên Thiên Chúa và Mẹ Maria lời cầu nguyện:
- Lạy Chúa, nhờ lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, xin cho những người mẹ và những đứa con này, sau cuộc sống trần gian, được đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Sau đó, ngài cầu xin Chúa Giêsu, Đấng đặt biệt yêu thương các trẻ nhỏ, chúc lành và gìn giữ những em nhỏ này khỏi mọi sự dữ, để các em được lớn lên trong sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa, hầu ngày sau cùng được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Linh mục rảy nước thánh và ban phép lành:
- Xin Thiên Chúa là Cha, và Con và Thánh Thần ban phúc lành cho anh chị em.
Nghi thức và những lời kinh thập đẹp. Ước chi mỗi bà mẹ cũng hãy cảm tạ Thiên Chúa vì thiên chức cao cả mà Ngài đã dành cho chúng ta. Đồng thời hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria dâng con mình cho Chúa để Chúa nâng đỡ và phù trợ chúng luôn mãi, hôm nay và sau này, trên vạn nẻo đường đời.
www.gplongxuyen.net
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Hai
2 THÁNG HAI
Uy Quyền Ẩn Giấu Trong Cái Đơn Sơ
Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành của muôn loài, Đấng toàn năng của trời và đất, Đấng là Vua Vinh Hiển, đã đến trong hình hài một đứa bé nhỏ nhoi. Biến cố Thiên Chúa vào đền thờ của dân Ngài được bao phủ trong mầu nhiệm của sự yếu đuối và bất lực. Tuy nhiên, uy quyền của Ngài ẩn giấu trong vẻ đơn sơ và yếu đuối ấy của một em bé.
Tất cả biến cố này là một mầu nhiệm. Rất tình cờ, ngay chính giữa mầu nhiệm này, một tiếng nói đã cất lên. Đó là ông già Si-mê-on. Thánh sử Luca cho biết Thánh Thần hằng ngự trên ông già này (cf. Lc 2, 25).
Nghĩa là, Si-mê-on đã lên tiếng trong tư cách một nhà tiên tri. Lời ông nói khiến người ta sửng sốt. Ông chúc tụng Thiên Chúa: “Muôn lạy Chúa, giờ đây, theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ mà Chúa đđành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của It-ra-en dân Ngài” (Lc 2, 29 – 32).
Kỳ lạ biết bao khi đó là những lời nói về một em bé. Nhưng sấm ngôn của Si-mê-on hoàn toàn chân thực. Và lời thánh vịnh xưa đã được ứng nghiệm. Đấng vào đền thờ Giê-ru-sa-lem hôm nay đây chính là ánh sáng và là ơn cứu độ của toàn thế giới. Ngài đã mang ánh sáng và ơn cứu độ đến trong cung cách như thế đấy. Ngài chính là Vua Vinh Hiển.

Nhưng, vị vua vinh hiển này sẽ thiết lập triều đại vinh quang của Ngài trên trái đất bằng cách nào đây? Bằng cách nào đây, em bé Giê-su sinh hạ ở Bê-lem ấy sẽ trở thành ánh sáng và ơn cứu độ của trần gian? Ông già Si-mê-on đã trả lời cho những vấn nạn trên khi ông tiên báo: “Cháu bé này sẽ là dấu hiệu cho người đời chống báng” (Lc 2, 34).
Những lời ấy bộc lộ toàn bộ con đường cứu độ của Đức Kitô từ khi chào đời cho đến lúc chết trên thập giá. Người là ánh sáng của các dân tộc; nhưng Người cũng là một dấu chống đối của mọi thời đại, một dấu khơi lên sự thù địch, sự mâu thuẫn.
Các ngôn sứ của It-ra-en ngày xưa, trước Người, cũng đã từng như thế. Đó là số phận của Gio-an Tẩy Giả, và cũng sẽ là số phận của bất cứ ai nối gót theo Người. Giê-su đã thực hiện biết bao dấu lạ lớn lao. Người chữa lành các bệnh nhân, Người hóa bánh và cá ra nhiều để phân phối cho đám đông dân chúng, Người truyền cho giông tố im lặng, và thậm chí Người cho kẻ chết được sống lại.
Đám đông tuôn đến với Đức Giêsu từ khắp mọi nơi, họ lắng nghe Người vì Người giảng dạy với uy quyền. Thế nhưng, Người gặp phải sự chống đối kịch liệt của những kẻ không chịu mở lòng trí ra để đón nhận Người.
Rốt cục, sự chống đối của người ta leo lên đến tột đỉnh trong cuộc khổ nạn và cái chết thập giá của Đức Giêsu. Sấm ngôn ngày ấy của ông già Si-mê-on hoàn toàn ứng nghiệm.
Sấm ngôn ấy ứng nghiệm cho cuộc đời của Đức Giêsu – và ứng nghiệm cho cuộc đời của các môn đệ Người mọi nơi và mọi thời.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 02-2
Dâng Chúa Giêsu Trong Đền Thánh (lễ nến)
Ml 3, 1-4; Lc 2, 22-40

LỜI SUY NIỆM: “Khi đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa.” (Lc 2,22).
Gia Đình Thánh đã tuân giữ ba nghi lễ cổ mà người Do-thái phải giữ; đó là: Cắt bì, chuộc con đầu lòng và lễ thánh tẩy sau khi sinh nở. Điều này giúp cho chúng ta phải biết sống khiêm nhường khi nhìn vào sự khiêm nhường của Thánh Gia Thất. Điều thứ hai dạy cho chúng ta biết con cái của chúng ta đang có là ân ban của Chúa. Cần biết dâng lại cho Thiên Chúa. Điều thứ ba mỗi người đều đã được cha mẹ dâng cho Chúa trong ngày chịu phép Rửa Tội. cần phải ý thức chúng ta là dân Thánh, là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái của Thiên Chúa, đã được Chúa Giêsu cứu nên phải sống đúng với phẩm vị của mình.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
02 Tháng Hai
Người Mẹ Bồng Con
Một buổi trưa hè nóng bức. Những người hành khách trên chuyến xe đò lặng lẽ nhìn con đường độc điệu. Cái nắng chói chang và cuộc sống buồn tẻ như giam hãm mọi người trong một thứ thinh lặng nặng nề.
Nhưng ở một trạm dừng nào đó, mọi người bỗng ra khỏi sự thinh lặng của mình để đưa mắt nhìn về một người thiếu phụ trẻ vừa mới bước lên xe. Chuyến xe từ từ chuyển bánh trở lại. Người thiếu phụ bắt đầu cười và đùa giỡn với đứa con thơ dại chị đang bế trên tay. Cử chỉ của người thiếu phụ, tiếng cười hồn nhiên của đứa bé đã thu hút sự chú ý của mọi hành khách. Trong phút chốc một ngọn gió mát của hiếu kỳ của liên đới, của tham dự và của chính sức sống đã đem lại một bầu khí tươi mát cho mọi người. Mọi người như bừng tỉnh từ nỗi thinh lặng của oi bức, của ngái ngủ. Nơi đây, người ta nghe có tiếng người bắt đầu nói chuyện. Nơi kia có tiếng người cười. Sự đối thoại như một dòng điện chạy xuyên qua mọi người. Giờ thì chuyến đi không còn là một cuộc độc hành buồn tẻ nữa.
Trên chiếc xe già cỗi và buông tẻ của thế giới, một người đàn bà đã bước lên: Tình Yêu và Sự Sống đã bừng dậy. Người đàn bà đó chính là mẹ Maria. Thế giới bắt đầu đi vào một gia đoạn lịch sử mới kể từ giây phút ấy. Mẹ đã bước lên chiếc xe cằn cỗi của thế giới cùng với Chúa Giêsu để biến nó trở thành một cuộc hành trình vui tươi và đầy ý nghĩa.
Thiên Chúa đã không ngừng tạo dựng Mẹ Maria như biểu tượng cao vời nhất của người đàn bà, của người vợ, của người mẹ, Ngài còn muốn cho chúng ta nhìn thấy nơi Mẹ con đường lý tưởng, mẫu gương lý tưởng mà môic người phải noi theo để đạt đến cứu cánh vĩnh cửu.
Mẹ đã sinh ra như mọi người, Mẹ đã lớn lên như mọi người, Mẹ đã sống cuộc sống con người như mọi người, nghĩa là Mẹ cũng đã trải qua những tháng năm của buồn vui, của thử thách, của mất mát, cuộc hành trình đó là bởi vì lúc nào Mẹ cũng sống kết hiệp với Chúa và tin tưởng ở quyền năng Yêu thương của Ngài. Mang Chúa Giêsu đến cho trần thế, Mẹ đã biến cuộc hành trình buồn tẻ của thế giới thành một Ðại Lễ của gặp gỡ, của chia sẻ, của hân hoan và tin tưởng. Từ nay, tuyến đường mà nhân loại đang đi kết thúc bằng một điểm đến rõ rệt là chính Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét